Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Phan Kim Tiên, 4 Tháng mười một 2021.

  1. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    KIM THIÊN LÍ ĐAU BUỒN LÀM LỄ CHIÊU HỒN

    VƯƠNG THÚY KIỀU VUI VẺ NGUYỀN ƯỚC CŨ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mối tình bẩm sinh của con người vốn có nông có sâu. Người tình nông không thể sâu, cũng như người tình sâu không thể nông vậy. Thúc sinh thấy Thúy Kiều sông bị đọa đầy không phải là không khóc khóc mếu mếu, nhưng khóc chết đấy mà không vì nhau bày mưu tính kế. Cũng không phải không yêu thương mà không bày kế tính mưu, mà chính là vì gốc tình vốn trồng nông cạn, cho nên chỉ có biết khóc, tức là nước đầm đào hoa sâu nghìn thước đó thôi. Ngoài ra không biết có đường nào lén trời xuống đất, đành chỉ ngồi mà nhìn theo số mệnh, phó thắc mặc trời.

    Còn Kim Trọng, khi từ Liêu Dương trở lại thì Thúy Kiều đã gương vỡ bình rơi, nhà vàng vắng bóng, khóc lớn một trận, hai trận; đau thương nửa năm, một năm; rồi đến cũng phải tạm nguôi nguôi dần, huống chi còn có Thúy Vân nối cuộc thề bồi. Thế là Thúy Kiều tuy vắng nhưng người thay thế Thúy Kiều còn đây, gần thì thân, xa thì nhạt, phải chăng đó là thường tình. Thế mà Kim sinh trước thì Lâm Thanh, sau thì Lâm Tri, hỏi rồi lại hỏi, tìm rồi lại tìm, như không biết có tan rồi có hợp. Đến khi tin loạn vừa yên, liền không từ khó nhọc lặn lội mà đi thăm dò tin tức ở Tiền Đường. Bỗng nghe tin chết mà bày tế chiêu hển, như không biết có tử sinh cách trở. Đó là một mối tình vô cổ vô kim, há phải đâu như cái tình nươc đầm đào hoa có thể so sánh được muôn một! Ấy vì thế mà tôi bỉ báng chàng Thúc vậy!

    Rốt cuộc là chết rồi lại sống, tan rồi lại hợp, bất ngờ mà được đoàn viên, khiến kẻ tình thâm cuối cùng không bị rơi vào vòng khuyết hãm, vui sướng biết chừng nào!

    Có người cho rằng, đất đã nghiêng về phía tây bắc mà cứ bảo là sống chết như nhau, một mực hoang đường, thì tội của tác giả còn trên Trang Tử; còn tôi lại cho rằng, trời đất đầy đặn ở phía đông nam, mỗi chữ là một viên đá ngũ sắc, thì cồng của tác giả cũng không đến nỗi kém Nữ Oa vậy!..

    Đây không nói việc Thúy Kiều theo Giác Duyên ở am Vân Thuỷ nữa.

    Lại nói, Kim Trọng theo cha đến Liêu Dương, thu xếp việc tang cho ông chú và tiền vốn trong cửa hàng, quanh quẩn hết bốn tháng trời mới trở về Kinh. Kim Trọng về đến nhà tức khắc đến hiên Lãm Thúy để tìm Thúy Kiều.

    Lúc này Thúy Kiều đã đi được bốn tháng rồi. Mà nhà họ Vương cũng đã dọn đi ở nơi khác.

    Kim Trọng tìm tới, nhòm ngó tuyệt nhiên không thấy bóng dáng người nào qua lại, bèn hỏi người láng giềng gần đó. Người ấy đem việc họ Vương bị tai vạ và Thúy Kiểu bán mình, thuật lại kĩ càng một lượt cho Kim Trọng nghe. Kim Trọng cả sợ, thất sắc, liền tìm đến nhà họ Vương, thấy tường thấp nhà nhỏ, không còn bộ dạng ngày xưa. Kim Trọng không nén được nữa bèn lên tiếng gọi:

    - Vương huynh có nhà không?

    Vương Quan chạy ra, thấy Kim Trọng liền hỏi:

    - Anh Kim về từ bao giờ? Xin mời anh vào chơi trong nhà!

    Kim Trọng theo Vương Quan vào phòng khách. Thi lễ xong, Vương Quan ngó vào phía trong gọi:

    - Anh Kim từ Liêu Dương về đây rồi! Mau đun nước pha trà nhé!

    Những người trong nhà nghe câu nói ấy, tự nhiên bỗng khóc ầm cả lên. Kim sinh vội lại gần, hỏi vì sao, thì Vương Viên ngoại, Vương bà đều nói:

    - Cậu Kim ơi! Con gái chúng tôi bạc mệnh, gặp cơn gia biến đã bán mình cứu cha, không thể giữ vẹn được hôn ước. Lúc sắp bước chân ra đi, có ân cần dặn lại chúng tôi đưa con em nó thay lời thề ước và nói rằng, kiếp này không được cùng cậu nên duyên chồng vợ, thì nguyện kiếp sau sẽ nối lại thề xưa.

    Ông bà Viên ngoại nói đến đây lại nức nở khóc ầm lên. Ban đầu Kim Trọng còn e ngại vợ chồng Vương Viên ngoại không biết việc kín của mình, nay thấy nói rõ ra rồi, chàng liền bấm bụng dậm chân, va đầu, đập trán, khóc ầm lên, kêu một tiếng "vợ", lại oán một tiếng "trời". Càng nghĩ càng khóc, càng khóc càng thương, khóc cho đến khi miệng ứa máu tươi, ngất đi rồi lại tỉnh, tỉnh rồi lại khóc. Ban đầu Vương Viên ngoại cũng khóc thảm thiết, sau thấy Kim Trọng khóc đến như thế, đành phải cố nhịn, quay sang khuyên Kim Trọng rằng:

    - Ván đã đóng thuyền, khóc cũng vô ích, chỉ thêm khổ não cho lòng mình thôi!

    Kim Trọng nghiến răng mà nói:

    - Không lẽ vợ con lưu lạc phương xa, con lại chịu thôi đi à? Mai đây con sẽ sai người sang Lâm Thanh dò hỏi, nêu biết vợ con ở đâu, dù cho tan nhà tốn của thế nào cũng phải làm cho trăng khuyết lại tròn mới thôi. Còn như tấm lòng cao nghĩa của cô Hai, không phải con không nhất mực ưng thuận, song không nỡ phụ tấm nhiệt tình của cô cả!

    Vương bà bèn lấy ra những kỉ niệm và thư từ lưu biệt của Thúy Kiều để lại, trao cả cho Kim Trọng. Kim Trọng đọc mỗi câu thì lại nghẹn ngào khóc lên một tiếng. Mọi người thấy vậy, không ai không chảy nước mắt.

    Hôm sau Kim Trọng dọn một tòa nhà riêng, đón cả gia quyến họ Vương sang ở và nhờ Vương Viên ngoại viết một phong thư, rồi sai gia nhân đi sang Lâm Thanh dò la tin tức Thúy Kiều. Gia nhân đi hơn một tháng trở vể nói rằng ở đó không hề có Mã giám sinh nào cả. Kim Trọng lại càng gào khóc không ngớt.

    Kim ông sợ con quá thương thành bệnh, bèn đưa sính lề hỏi Thúy Vân, rồi chọn ngày lành làm lễ thành hôn. Tuy trai tài gái sắc rất là tương đắc, song mỗi khi nhắc đến Thúy Kiểu thì Kim Trọng lại đầm đìa châu lệ. Năm ấy Kim Trọng và Vương Quan cùng đi dự kì khảo hạch thí sinh, đều được đậu cả. Vương Quan nhớ ơn Chung Sự bèn đến bái tạ. Chung Sự tình nguyện gả con gái cho Vương Quan, từ đó hai nhà thành thông gia.

    Cũng năm ấy, Kim Trọng và Vương Quan đều trúng hương bảng. Hai người lại rủ nhau thân thành đến Lâm Thanh dò la nhưng cũng không có tin tức gì cả.

    Qua ba khoa, Kim Trọng đỗ Tiến sĩ, liền phải ở nhà chịu tang cha, đến khi mãn phục thì được truyển đi nhậm chức huyện lệnh Lâm Tri, bèn đưa cả gia quyến phó nhậm.

    Một hôm Thúy Vân nói với Kim Trọng:

    - Đêm qua thiếp nằm mơ thấy chị, hay là ở đây ta tìm được tin tức gì chăng?

    Kim Trọng chợt nghĩ ra, nói:

    - Phu nhân không nói thì tôi cơ hồ lầm lạc mất. Lâm Tri, Lâm Thanh chỉ khác nhau có một chữ, biết đâu không phải là nhớ lầm? Vậy để mai tôi đến công đường sẽ hỏi bọn nha dịch xem ra làm sao?

    Thúy Vân khen phải. Hôm sau Kim Trọng lên công đường gọi hết thẩy nha dịch lên hỏi:

    - Mười ba năm trước, ở đây có một viên giám sinh họ Mã cưới thiếp là Vương Thúy Kiểu từ Bắc Kinh đưa về, chẳng hay hiện giờ tình hình ra sao?

    Bọn nha dịch nghe hỏi không biết đáp lại ra sao cả. Trong bọn có một người nói:

    - Bẩm quan lớn, việc mười ba năm trước thì chúng con đều là người sinh sau, không sao biết được. Quan lớn muốn hỏi những việc cũ ấy, trừ phi hỏi bác Đô Lai Đắc thì mới biết rõ!

    Kim Trọng hỏi:

    - Đô Lai Đắc là ai?

    Nha dịch bẩm:

    - Bác ấy là trưởng nha dịch ở huyện ta, làm việc ở cửa quan đây đã lâu năm, nay già yếu, về nghỉ ở nhà.

    Kim Trọng nghe xong liền cho người đi gọi Đô Lai Đắc. Đô Lai Đắc thấy quan đòi, không biết có việc gì, liền đến ngay huyên đường bái kiến. Kim Trong hỏi:

    Đô Lai Đắc, ta muốn tra hỏi về việc mười ba năm trước đây, có viên giám sinh họ Mã cưới thiếp là Vương Thúy Kiều từ Bắc Kinh đưa về. Việc ấy bác có biết rõ không?

    Đô Lai Đắc nói:

    "Bẩm quan lớn! Quan lớn muốn hỏi việc đó thì con đây biết rất rõ. Mã giám sinh tên chính là Mã Bất Tiến, bình sinh là một tay nghiện rượu hám sắc, tiêu sài mất hết gia nghiệp, sau gặp một mụ dầu tên gọi Tú bà.

    Đôi bên tằng tịu, bèn theo mụ Tú làm kẻ giúp trông nom việc nhà cho mụ ta, chuyên đi lừa dối con nhà lương thiện, giả danh cưới thiếp rồi đưa về bắt làm đĩ, không phải chỉ có một lần mà thôi. Mười ba năm trước, hắn đóng giả phú ông đến Bắc Kinh cưới được người con gái tên là Vương Thúy Kiều. Nàng này nhan sắc xinh đẹp, thông minh, thành thạo hồ cầm, giỏi tân thanh.

    Họ Mã đưa nàng về nhà bắt ra tiếp khách, không dè nàng tính khí cương liệt, liền thủ dao đâm cổ tự vẫn, phải chạy chữa suốt một ngày đêm mới cứu được nàng tỉnh lại. Sau hắn dùng mưu" nhử hổ lìa rừng ", câu kêt với tên vô lại là Sở Khanh, lừa nàng chạy trốn rồi giữa đường bắt nàng điệu về, lột hết xiêm áo, treo lên dầm nhà, đánh mấy trăm roi. Nàng đau đớn quá đành phải làm đĩ. Ba năm sau lấy cậu Tú tài họ Thúc, lại bị vợ cả là Hoạn thư bắt cóc về Vô Tích, chịu trăm điều cực khổ. Nàng chịu không nổi, đành bỏ trốn đi nơi khác.

    Rồi không rõ thế nào, kết duyên với một ông tướng giặc. Hai năm trước đây, ông tướng kéo quân về đất Lâm Tri này, theo lệnh nàng, đã băm vằm tên Mã Bất Tiến, lột da tên Sở Khanh, đốt sông mụ Tú bà, đánh đòn Hoạn thị, chém Hoạn ưng, Hoạn Khuyển và băm xả Bạc Bà, Bạc Hạnh. Còn cha con họ Thúc thì được tha. Một nhà sư và một bà già thì được hậu tạ. Nàng thật là một người đàn bà có nghĩa, có ân. Còn tình hình về sau ra sao nữa thì con không được rõ!"

    Kim Trọng hỏi:

    Ông tướng ây họ tên là gì? Đô Lai Đắc nói:

    - Bẩm quan lớn! Việc này nên hỏi ông Tú họ Thúc. Hiện ông ấy mở cửa hàng bán gấm vóc tại đây. Gọi ông ta đến hỏi tự khắc biết rõ.

    Kim Trọng nghe xong liền lấy lá danh thiếp, sai người đem đến cửa hàng gấm vóc mời Thúc Tú tài đến hỏi chuyện. Thúc sinh thấy việc quan mời liền thay mặc lễ phục đến huyện đường bái kiến. Kim Trọng mời Thúc sinh vào nhà trong, cùng nhau thi lễ xong, mời ngồi rồi hỏi:

    - Vương Thúy Kiều và tôi là chỗ con cô con cậu, vì cha mắc nạn, bị kẻ gian lừa dối, hiện nay có một nha dịch đã thuật lại việc nàng rất là rõ ràng. Nhưng còn viên tướng mà nàng theo về đây thì không biết tên họ là gì, nghe nói tôn huynh biết rõ nguồn gốc việc ấy, nên mời đến để hỏi.

    Thúc Thủ nói:

    "Bẩm quan lớn! Môn sinh vì liên luỵ đến việc người vợ cả nên phải ở trong quân doanh của ông tướng lâu hơn, thừa dịp hỏi thăm một tên quân, mới biết ông tướng họ Từ tên Hải, tự Minh Sơn, quê đất Việt, tài kiêm văn võ, khoẻ trùm ba quân, cùng lệnh biểu muội tình cờ gặp gỡ, liền bỏ tiền chuộc mình cho, đón ở một nơi.

    Rồi ông ta ra đi, trong ba năm trở thành một đám giặc lớn, mới đưa mười vạn quân về đón lệnh biểu muội làm phu nhân. Quân giặc đến đâu thắng đó, hiện đương đóng quân ở vùng Mân, Triết. Nghe đồn Đôc phủ đã mấy lần chiêu hàng, nhưng họ Từ không nghe. Nhờ được lời khuyên của phu nhân nên ông ta mới ước thúc ba quân, cấm không được giam dâm phụ nữ, không được giết càn, không được đốt nhà, không được đào mồ cuốc mả.. Vì thế nhân dân nửa miền đông nam đã được đội ơn Vương phu nhân nhiều lắm. Ngoài ra thế nào nữa thì chưa rõ!"

    Kim Trọng nghe xong, rơm rớm nước mắt, tiễn Thúc Tú tài ra về, rời trở vào thuật lại kĩ lưỡng cho vợ và cả nhà họ Vương nghe. Mọi người đều đau lòng xót ruột, khóc thương thê thảm. Vì ở nơi nhậm sở, nên không dám lên tiếng khóc to, đành phải âm thầm sùi sụt mà thôi.

    Kim Trọng nghĩ ngợi đã toan từ chức để đi tìm, song nghĩ lại đã mấy năm binh đao loạn lạc, việc giết người như rác, quân doanh nghiêm mật, làm sao mà chen mình vào được! Chẳng biết làm thế nào, đành chỉ bồi hồi tưởng nhớ. Tưởng nhớ không nguôi lại cùng Thúy Vân, lúc thì ngâm những bài thơ lưu biệt của Thúy Kiều, khi thì đem cây hồ cầm của Thúy Kiều ra đàn một khúc, cũng có lúc lại đốt chút hương thừa của Thúy Kiều.

    Khi ngâm xong thơ, đàn xong khúc và hơi hương đưa ngào ngạt thơm bay bỗng cảm thấy như Thúy Kiểu lảng vảng đâu đây và đang nói năng thỏ thẻ. Đó chính là cái tinh thần ngưng kết trong thơ lưu biệt nên đã hiện ra ngoài như vậy.

    Kim Trọng từ đó lúc nào cũng như si như dại, như mộng như say. Qua ba năm, được lệnh đổi đi nhậm chức huyện lệnh Nam Bình, tỉnh Phúc Kiến. Năm ấy Vương Quan thi đậu Giáp bảng, được truyển đi nhậm chức tri phủ Dương Châu. Hai người bàn tính với nhau: Hạn kì còn sớm, nghe tin thế giặc ở vùng Tiền Đường đã yên. Vậy chúng ta hãy qua miền Chiết Giang dò hỏi tin tức Thúy Kiều đã, rồi sau sẽ đi nhậm chức cũng chưa muộn.

    Anh em bàn tính với nhau xong, trình qua cha mẹ biết. Vương Viên ngoại, Vương bà thảy đều vui mừng, kế đó cùng nhau nhất tề khởi hành sang vùng Chiết Giang.  

    Đến Hàng Châu thuê một ngôi nhà trọ ở lại. Hỏi dò cặn kẽ mới biết rằng, Minh Sơn đã chết, Thúy Kiều có công to, nhưng không được khen thưởng, lại bị gán cho viên tù trưởng Vĩnh Thuận. Canh ba đêm nọ, nàng đã nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Kim Trọng nghe được tin này buông tiếng khóc lớn. Mọi người cũng đều gào khóc thảm thương, bèn sửa soạn lễ vật đến bờ sông Tiền Đường, thiếp lập bàn thờ bài vị, tế viếng Thúy Kiều.

    Kim Trọng rót ba chén rượu, ý muốn có bài văn tế, xong vì quá đỗi xót thương, không thể làm được, bèn ca bài chiêu hồn của Tống Ngọc để viếng.

    Hồn ơi trở lại hồn ơi!

    Phương đông há phải là nơi ấn hình?

    Người cao ngàn thước đáng kinh!

    Nó đương nghễu nghện đứng rình hồn kia.

    Mặt trời mười cái nóng ghê!

    Vàng tôi ra nước, đá thì ra than!

    Chúng quen chịu đựng khỏi bàn,

    Hồn mà tới đó tiêu tan tức thì.

    Về thôi, thôi hãy về đi,

    Đừng nên ở đó làm chi nữa mà.

    Hồn ơi trở lại với ta,

    Phương nam hồ dễ ở mà được lâu.

    Răng đen mình vẽ đủ màu,

    Bắt người giết thịt cùng nhau tế thần.

    Xương thì làm mắm ăn dần!

    Hồ tình ngàn dặm, rết trăn đầy đường.

    Chín đầu giống mãng xà vương,

    Bất thần gặp nó, nó thường nuốt tươi!

    Dùng dằng chi nữa hồn ơi?

    Thôi đừng luyến tiếc cái nơi ấy mà.

    Hồn ơi trở lại cùng ta,

    Phương tây ngàn dặm cát sa mù trời.

    Đầm sâu sấm dậy vang tai,

    Chẳng tan cũng chẳng thảnh thơi được nào.

    Mong gì thoát đến nơi nào,

    Đồng không mông quạnh xiết bao hãi hùng.

    Kiến to gấp tượng mấy vòng!

    Hồ to sánh với sâu bồng thấm chi.

    Lúa ngô ngũ cốc có gì,

    Thấy bờ cỏ dại chúng thì tranh ăn.

    Tìm ra giọt nước khó khăn,

    Mênh mông bát ngát nương thân chốn nào?

    Về đi nao, về đi nao,

    Kẻo nơi ổ giặc bước vào nguy thay.

    Hồn ơi mau trở lại đây,

    Bắc phương nào phải chốn hay mà hồn?

    Núi băng từng dãy chon von,

    Tuyết bay ngàn dặm vẫn còn mông lung.

    Ở sao được chốn lạnh lùng,

    Lên trời hết lối, hồn không liệu mà.

    Hùm beo chín cửa rình mò!

    Giơ nanh múa vuốt chực vồ người nhai.

    Chín đầu thêm giống quái thai!

    Muôn cây cổ thụ một ngày bẻ trơn.

    Sói lang trố mắt căm hờn,

    Chạy đi chạy lại nhơn nhơn bắt người!

    Treo rồi đẩy xuống giếng khơi,

    Lại đem giết thịt tế trời cầu yên.

    Hồn ơi hãy trở lại miền,

    Sợ nơi nguy hiểm khó yên được mà.

    Hổn ơi trở lại cùng ta.

    Kìa nơi âm phủ xuống mà làm chi.

    Thổ công, thổ bá cùng kì.

    Mình dài chín khúc, lê thê đôi sừng!

    Hai tay đẫm máu gồ lưng,

    Đuổi người rầm rập chưa từng nghỉ chân.

    Giống này như thể trâu lăn,

    Đầu hùm ba mắt thèm ăn thịt người.

    Về đi thôi, về đi thôi,

    Lâu lâu sợ nữa mang tai họa liền.

    Hồn ơi trở lại mau lên,

    Nhằm nơi cửa Sính băng miền lối xưa .

    Ông đồng bà cốt đương chờ,

    Ao xiêm gấm vóc lượt là sáng choang.

    Chiêu hồn lễ đã săn sàng,

    Tiệc vui bày đó, canh trường đợi ai?

    Dầu lan, đèn sáp sáng ngời,

    Tương tư kết mối hồn thời có hay?

    Đồng tâm hương bén những ngày,

    Mong cùng cố cựu tỉnh say đôi lời.

    Về đi thôi, về đi thôi,

    Nhà xưa chốn cũ hồn ơi quay về [28]

    Đọc xong bài chiêu hồn, mọi người đều kêu gào, khóc than rấm trời. Bỗng một vị sư ni đi qua, trông lên bài vị thấy đề tên Thúy Kiều, liền phì cười nói:

    Vương Thúy Kiểu là bà con thế nào với các vị mà các vị lại khóc thương đến như vậy? Khóc nhầm rồi đó!

    Mọi người nghe nói thay đều kinh ngạc. Kim Trọng nói:

    - Nàng là vợ tôi!

    Vương Quan nói:

    Thúy Kiều là chị tôi! Vương Viên ngoại nói:

    - Thúy Kiều là con gái tôi! Nay nó gieo mình xuống sông chết rồi, chúng tôi là chỗ ruột thịt thì khóc nó. Sao mà lại nói khóc nhầm?

    Ni cô lại cười, nói:

    - Thúy Kiều tuy đã gieo mình xuống sông, nhưng lại có người cứu được, thế mà các vị còn khóc cô ta. Vậy chẳng là khóc nhầm hay sao?

    Mọi người thoạt nghe vừa kinh, vừa mừng, vội vàng hỏi:

    - Câu chuyện sư phụ vừa dạy, có thật đúng thế không?

    Ni cô nói:

    - Người xuất gia đâu dám nói chuyện không thực!

    Kim Trọng vội hỏi luôn:

    - Nếu quả cô ta còn sống thì hiện giờ ở đâu?

    Ni cô nói:

    - Hiện ở trong am phía trước kia!

    Mọi người nghe xong mừng rỡ khôn xiết, đều xúm vào thi lễ ni cô và nói:

    - Muôn vàn lần mong sư phụ đưa chúng nó đến gặp, ơn to này không bao giờ dám quên!

    Ni cô nói:

    Không những các vị muốn gặp nàng, mà nàng cũng đương mong được gặp các vị. Vậy xin mời các vị cùng đi với tôi!

    Mọi người vui mừng, cũng không ngồi kiệu cưỡi ngựa gì nữa, liền theo ni cô đi bộ men theo bờ sông, vòng qua một vùng lau sậy thì đến trước am. Mọi người nhất tề ùa vào trong am, thấy Giác Duyên ngó vào phía trong, gọi:

    - Em Trạc Tuyển! Gia quyến em đều đến cả đây. Em mau ra gặp mặt.

    Ni cô gọi chưa dứt lời thì Thúy Kiểu đã chạy ngay ra, thấy cha mẹ, em gái, em trai và cả Kim Trọng đều đứng cả ở trong am, bèn vội vã bước tới lăn vào lòng Vương Viên ngoại và Vương bà khóc ầm lên, nói rằng:

    Con mẹ khổ lắm! Cứ tưởng kiếp này không còn gặp nhau, ai ngờ lại có ngày nay.

    Viên Vương ngoại và Vương bà ôm chặt lấy con, nói:

    Con ơi! Cứ tưởng con vì cha đã chịu đầy đọa chết rồi, ngò đâu con hãy còn sông. Khổ con quá!

    Vương Quan, Thúy Vân cúng sấn cả đến. Người nắm cánh, kẻ lôi tay gọi chị líu tíu. Kim Trọng không tiện đến gần, chỉ đứng một bên, vẻ mặt tươi cười hớn hở.

    Hồi lâu, Thúy Kiều mới đứng dậy, lại lạy chào cha mẹ, lạy tạ Kim Trọng rồi cùng Thúy Vân, Vương Quan và Chung thị nhất nhất chào hỏi nhau. Khi mọi người ngồi xuống, Thúy Kiều mới đem việc mình từ trước, kể lại kĩ càng cho mọi người nghe. Nói đến lúc khổ, ai nấy đều đau buồn; nói đến việc báo thù, ai nấy đều sảng khoái.

    Viên Vương ngoại hỏi:

    Những việc con kể đó, cha đều nghe rõ cả rồi. Duy còn việc con gieo mình xuống sông tự vẫn thì ai cứu con?

    Thúy Kiều nói:

    - Thưa cha, chính là Giác Duyên đạo huynh đây đã mua thuyền và kết lưới, ngày đêm ở mặt sông, mới cứu được con thoát chết!

    Viên Vương ngoại nói:

    - Nếu thế thì người là cha mẹ tái sinh của con rồi..

    Liền quay lại phía Giác Duyên sụp lạy. Vương bà, Kim Vọng, Vương Quan, Thúy Vân cũng đều sụp xuống lạy cả. Giác Duyên vội vàng đáp lễ. Lạv xong, mọi ngưòi đứng dậy. Vương riên ngoại liền bảo gọi người mang kiệu đến đề đưa Thúy Kiều về nhà trọ. Vương bà nói:

    - Hãy khoan! Con có mặc toàn đồ nhà chùa, sợ làm cho người ta ngờ vực.

    Liền bảo Thúy Vân đưa quần áo mang theo cho Thúy Kiều thay.

    Thúy Kiều vội từ chối nói:

    - Thưa cha mẹ! Con trải nhiều cảnh khổ, ngày nay được gặp cha mẹ đã là may mắn muôn phần. Nhưng thân này bây giờ đã ngoài vòng thế tục. Chỉ nên hầu sư huynh ở đây tu hành là đủ.

    Giác Duyên nói:

    - Em nói thế là sai mất rồi. Em mang đạo phục chỉ là tòng quyền mà thôi, làm gì ở đây với chị được.

    Vương bà nói:

    Con đừng nói nhiều nữa. Dù cho con tức thời thành Phật ngay, mẹ cũng không thả con ra đâu.

    Thúy Kiểu nói:

    - Theo cha mẹ về, cố nhiên là phải. Song nghĩ đến ân sâu nghĩa nặng của sư huynh đây thì bỏ vế sao nỡ?

    Kim Trọng nói:

    Điều ấy có khó gì? Chỉ cần ta đón cả sư huynh cùng về, rồi dựng riêng một am cung phụng người thì việc gì chả được?

    Thúy Kiều nói:

    - Được như thế thì mới phải.

    Bèn mời Giác Duyên cùng về. Giác Duyên nói:

    - Xin đa tạ tấm lòng quý hóa ấy, nhưng mà cùng đi ngay bữa nay thì chưa thể được. Để bần tăng thu xếp đồ đạc trong am cho xong, rồi bữa mai sẽ đến nơi ở của quý vị.

    Thúy Kiểu nghe xong, chừng ấy mới vui vẻ thay đổi y phục, theo cha mẹ vế thành, vể đến nhà trọ, Kim Trọng giục người nhà sửa soạn tiệc rượu ăn mừng. Thúy Vân nói vói cha mẹ:

    Con có việc muôn thưa cùng cha mẹ! Viên Vương ngoại hỏi:

    - Con có việc gì? Thúy Vân nói:

    - Chàng Kim và em con đều đi làm quan, mỗi người ở một nơi, không thể cùng đi với nhau được. Vậy việc này cần phải liệu lí cho sớm, không thể để chậm.

    Viên Vương ngoại hỏi:

    - Liệu lí việc gì chớ!

    Thúy Vân nói:

    - Con sánh duyên với chàng Kim là vì chị con bán mình làm việc hiếu, không thể giữ vẹn lời thề mới bảo con nối cuộc nhân duyên ấy. Nay may rằng chị con lại được sống trở về, lời thề trước còn đây, ngày nay nếu không sớm cho đôi bên hoàn thành ước cũ, thì còn đợi đến bao giờ?

    Viên Vương ngoại nói:

    Con bàn phải lắm. Vậy nên chọn ngày tốt làm lễ thành thân! Vương Quan nói:

    - Đang lúc đi đường, bất tất chọn ngày. Hôm nay gặp nhau tức là ngày tốt. Vậy xin lấy ngay tiệc rượu này làm lễ hợp cẩn cho vợ chồng anh chị con. Cha mẹ tính thế nào?

    Viên Vương ngoại nói:

    - Phải đấy!

    Kim Trọng nghe xong rất là vui mừng. Thúy Kiều vội vàng nói:

    - Việc thề xưa tuy có, nhưng vật đổi sao dời, chuyện cũ phó cho dòng nước chảy, nói tới làm chi nữa?

    Kim Trọng nói:

    - Hiền thê nói vậy sai rồi! Lời thề đã đem sự sống chểt ra để đảm bảo, nay tuy thế thời thay đổi nhưng tình này đâu đổi thay. Nay hiền thê bảo cho trôi theo dòng nước là có ý gì?

    Thúy Kiều nói:

    - Thiếp dám đâu nói vậy. Ân ái vợ chồng, ai chẳng muốn. Nhưng người con gái theo chồng tất phải lấy sự trinh tiết làm đầu, ví như trăng lúc tròn đầy, hoa khi phong nhị. Nay thiếp bất hạnh, gặp phải cảnh bách chiết thiên ma khiến cho hoa đã tàn rồi, trăng đã khuyết rồi! Thế mà lại định muối mặt, vấn mớ tóc tàn để làm tân thân sánh cùng quân tử. Thế thì, thiếp chẳng thẹn với lòng mình sao? Kế sách ngày nay là, chỉ có ăn chay trường, thêu tượng Phật để an ủi nỗi thương tâm của cha mẹ. Chàng nếu có chí tình thì cho thiếp được làm người bạn đứng ngoài thế tục, thế là được rồị. Còn việc kia thật khó vâng lời.

    Kim Trọng nói:

    - Hiền thê nói lời đó, lại càng lầm to. Đại phàm, trinh tiết của người con gái, cũng có khi không thất thân mà trinh tiết, cũng có khi thêm bị nhục mà vẫn trinh tiết. Bởi thế, có khi thường, có khi biến. Hiền thê mà thân bị nhục, là bởi gặp biến cố phải làm theo điều biến, tuy thân ở chốn bùn nhơ mà không nhiễm bẩn. Nay gặp lại nhau, có thể nói là hoa tàn lại nở, trăng khuyết lại tròn. Hiền thê sao lại hồ nghi như vậy mà nỡ nhìn Tiêu lang hững hờ qua đưòng?

    Vợ chồng Viên Vương ngoại đều nói:

    - Con rể nói phải lắm, con khước từ sao được?

    Vương Quan và Thúy Vân cũng ra sức khuyên nhủ. Thúy Kiếu trầm ngâm hồi lâu rồi nói:

    - Chàng Kim chí thành như vậy, cha mẹ và các em cũng một lòng quyết như vậy, thiếp có cố từ không tránh khỏi mang tiếng õng ẹo. Nhưng nghĩ kĩ lại, việc đuốc hoa không dám trái lời và phận gối chăn cũng xin tuân lệnh. Song riêng việc mây mưa non Vu đỉnh Giáp thì thân này đã như vật tàn tạ, nếu còn coi như đóa hải đường mơn mởn để ướm thử thì việc ấy đã làm thẹn thiếp, làm nhục thiếp. Thiếp quyết không sao tuân lệnh được.

    Kim Trọng vui mừng, nói:

    - Được vui lễ đuốc hoa, chung bể chăn gối, thì tôi đã mãn nguyện lắm rồi, còn dám cầu mong gì hơn nữa!

    Viên Vương ngoại, Vương bà nghe con gái nói chỉ coi là câu chuyện thể diện bên ngoài, nên cũng không hề lưu ý, liền bảo sửa soạn đuốc hoa, trải chiếc nệm hồng, để hai vợ chồng cùng vào hành lễ. Kim Trọng thấy thế liền đứng lên trên chiếc nệm hồng, Thúy Vân đỡ Thúy Kiều bước tới. Thúy Kiểu không chối từ nữa cũng bước vào chiếc nệm cùng Kim Trọng làm lễ tế trời đất.

    Lễ xong, mọi người dìu hai vợ chồng vào phòng ngủ. Chờ cho hai vợ chồng uống rượu hợp cẩn xong, rồi mới lui ra ngoài.

    Kim Trọng thấy mọi người lui ra hết, mới khêu tỏ ngọn đèn bạc, lại ngắm kĩ Thúy Kiều, thấy đôi mắt mơ màng, má hây hây đỏ như bông thược dược sương nồng, đóa hoa đào mưa đượm, sẽ sàng nới dây lưng và cởi chiếc áo cánh lụa cho nàng, rồi cùng vào màn loan. Kim Trọng định bụng vỗ về âu yếm, đến lúc tình nồng rồi sẽ đi đến một tham vọng khác. Không dè Thúy Kiều đối với sự ân tình thì như keo sơn, nhưng hễ nghe tới chuyện giao hoan thì lại cự tuyệt. Kịp khi thấy Kim Trọng vật nài mãi không thôi, bèn nói thẳng ra rằng:

    Nghĩ tấm thân tàn của thiếp đây, đáng nhẽ nên chết từ lâu mới phải! Vì thấy chàng có lòng đặc biệt yêu thiếp, nên thiếp đành liều trơ trẽn để chiều lòng chàng. Nếu không đi đến chỗ bướm ong lơi lả, để cho thiếp được quên tình thì còn hơi có thể mở mặt mở mày đối với người quân tử. Chớ mà đem việc thiếp chịu nhục để làm nhục thiếp thì ấy không phải là chàng yêu thiếp, mà là thù thiếp đấy, thiếp còn cảm gì lòng chàng? Nếu cho rằng thú vui không thể thiếu, đường con cái còn phải cầu, thì đã có em thiếp thay thế, hà tất cứ phải coi cái thân bạc mệnh của thiếp này là có hay không. Vả, cái trinh của thiếp sau khi chịu nhục chỉ còn lại một chút xíu này, nếu chàng cứ cố tình làm ô nhục nốt chỗ chút xíu ấy thì thiếp đành phải tan xương nát thịt, chứ không còn dám dự vào việc nâng khăn sửa túi nữa! Kim Trọng nghe xong, bất giác kinh ngạc nói:

    Té ra hiển thê không phải là con gái đàn bà, mà chính là một bậc hào kiệt. Nay nàng đã tự đặt mình vào hàng liệt phụ nghìn xưa thì Kim Trọng này không còn dám đòi hỏi xằng xiên gì nữa.

    Thúy Kiều thoạt nghe, vội vã ngồi dậy, mặc lại xiêm áo chỉnh tề, rồi hướng vào Kim Trọng vừa sụp xuống lạy, vừa nói:

    - Thiếp xin đa tạ tấm lòng tri kỉ của chàng!

    Kim Trọng cũng vội vã khoác áo nhảy xuống, vừa ôm lấy Thúy Kiểu, vừa nói:

    - Sao nàng lại làm ra bộ trịnh trọng đến như thê?

    Hai người trò chuyện rất là ăn ý, lại gọi thị nữ bầy tiệc rượu, ngồi đối diện cùng nhau uống. Kim Trọng nói:

    Nhớ lại hồi mới gặp nàng, được nghe đàn khúc hồ cầm, cho tới nay những tiếng du dương vẫn còn như văng vẳng ở bên tai. Nay may lại được gặp nhau, xin lại cho tôi nghe một khúc nên chăng?

    Liền bảo thị nữ đem hồ cầm ra, rồi đưa cho Thúy Kiều. Thúy Kiều đón lấy, thở than nói:

    - Hồi trước thiếp ham thích vật này, không biết vì nó đã làm khổ mình. Ngày nay lại gặp chàng mới rõ tiếng đàn này là tiếng đàn cấu, nhưng hối thì đã muộn rồi. Cuộc tái ngộ hôm nay tức là người xưa gặp lại bạn xưa. Xin vì chàng mà gẩy một khúc này.

    Bèn khua động dây đàn, lại theo lòng nảy khúc. Ban đầu dồn dập hối hả, dần dần êm ái hiền hòa, bỗng uyển chuyển dịu dàng như hơi xuân ấm, thơm tựa hoa nở, đẹp như én liệng, trong tựa trăng sáng. Càng nghe tai càng lọt, càng ngẫm lòng càng say, hồn phách bay bổng, tâm thần phiêu diêu.

    Kim Trọng lắng nghe tới chỗ thích thú, bất giác tấm tắc khen rằng:

    - Xưa nghe tiếng đàn âu sầu ủ dột, nay nghe tiếng đàn hớn hở vui tươi. Có lẽ nàng đã tới ngày khổ tận cam lai rồi đây!

    Thúy Kiều đàn xong, nói:

    - Chàng có chức trách việc quan, thiếp có khuôn phép đàn bà. Từ nay về sau không thể nghe được nữa đâu.

    Kim Trọng nói:

    - Nghệ thuật cao diệu đến như vậy, bảo quên sao được!

    Thúy Kiều nói:

    - Chàng không quên thiếp thì thiếp xin trình bày một nghệ thuật khác để đổi vị cho chàng!

    Bèn bảo thị nữ đem bút nghiên ra, rồi đề luôn mười bài thơ. Thơ rằng:

    1. Nhớ xưa gặp quân tử,

    Không biết là có sống.

    Mới biết nhi nữ tình,

    Tức là nhi nữ tính.

    2. Chiều chàng tràm việc thuận,

    Chỉ tránh sự lần khân.

    Sợ đem tình yêu dấu,

    Lạc vào đường tà dâm.

    3. Đem thân hứa với chàng,

    Mà sao lại đôi điệu?

    Khôn nỗi vạ bất thường,

    Vội vàng phải theo hiếu.

    4. Bán mình vì cứu cha,

    Thân hèn nào đếm xỉa.

    Nếu để chết thân này,

    Biết tiết, không biết nghĩa.

    5. Trôi dạt bấy nhiêu năm,

    Lưu li khôn xiết kê?

    Chết không có tiếng tăm,

    Chết có gì cao quý.

    6. Phong trần đã trải nhiều,

    Nào phải thích cường bạo.

    Nếu không tạm theo chiều,

    Thù sâu sao thể báo?

    7. Khuyên hàng là chính đạo,

    Giết hàng là bất nhân.

    Thiếp làm, ấy chính đạo,

    Ngờ đâu ra lẫn lầm?

    8. Lòng người nào ai biết?

    Người chết, thật vì thiếp.

    Vì thế, sông Tiền Đường,

    Một chết cho vẹn tiết.

    9. Bạc mệnh tự cam tâm,

    Đoạn trường nợ trả hết.

    Đa tạ Phật từ bi,

    Thân này chưa phải chết.

    10. Ngày nay gặp lại chàng,

    Không biết là có chết.

    Xin chàng sớm định tình,

    Trước sau cho giống hệt.

    Thúy Kiều viết xong trao cho Kim Trọng nói:

    - Đây là tình của thiếp, xin chuyển mối tình của chàng cho sát với tình của thiếp.

    Kim Trọng xem xong, nói:

    - Tình của nàng đây là chân tình, là chí tình và là tình trinh liệt, tôi đâu dám còn nẩy ra cái tình lả lơi nữa. Xin hiền thê hãy cứ quên mình đi cũng được. Thúy Kiều cả mừng. Hai người lại cùng vào màn nằm, chuyện trò vui vẻ trăm chiểu, tuyệt nhiên không hể nhắc đến chuyện mây mưa nữa.

    Sáng hôm sau, vợ chồng dậy, cùng ra bái kiến mẹ cha. Kim Trọng đem việc hôm trước nói cho Thúy Vân nghe. Thúy Vân kể lại cho cha mẹ biết. Mọi người thấy thế đểu tấm tắc khen ngợi.

    Thúy Kiều nhớ tới Giác Duyên, nói với Kim Trọng sai người đi đón.

    Hồi lâu có người trở về thưa:

    Cửa am mở rộng, không thấy bóng dáng sư phụ Giác Duyên đâu cả, chỉ thấy trước ban thờ Phật, dưới lư hương có để tờ thiếp này, con xin đem để trình quan biết!

    Kim Trọng đón lấy tờ thiếp, đưa mọi người cùng xem. Trong thiếp có đề mấy câu rằng:

    Pháp môn chung thuỷ vẹn đôi đàng,

    Chúc vợ chồng em sống thọ khang.

    Muốn hỏi thân này đâu đó tá?

    Thường theo chiếc hạc chốn mây ngàn.

    Mọi ngưòi nghe xong, đều than thở, nói:

    - Té ra Giác Duyên là vị tiên cô. Chỉ ân hận là hôm trước vội vàng, chưa thù tạ được ơn Người.

    Mọi người phàn nàn mãi không thôi!

    Sau đó Kim Trọng, Vương Quan còn lưu lại vài ngày để du ngoạn phong cảnh Tây Hồ, rồi vì hạn kì gấp rút, không dám ở lại lâu nữa. Kim Trọng cùng Thúy Kiểu, Thúy Vân đi Nam Bình, Phúc Kiến phó nhậm. Còn Vương Quan thì cùng Chung thị đi Dương Châu. Vương Viên ngoại và Vương bà vì mới gặp Thúy Kiều, không nỡ xa nhau, nên đều tiễn đến nhậm sở, ở lại chơi một năm, rồi trở về nhậm sở Vương Quan.

    Qua ba năm, hai người làm quan thanh liêm chính trực, Kim Trọng thăng chức Ngự sử, Vương Quan thăng chức Phó sứ Hồ Quảng.

    Vương Quan vì cha mẹ già, không nỡ lìa xa, bèn xin từ chức để ở nhà phụng dưỡng. Sau này Thúy Vân, Chung thị đều sinh con trai nối dõi thư hương. Kim Trọng một chồng hai vợ không phân lớn bé, khi chăn gối, lúc cầm thi, gia đình rất là vui vẻ, mãi cho tới nay câu chuyện vẫn còn truyền tụng.

    * * *HẾT---
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...