Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân

Discussion in 'Văn Học' started by Phan Kim Tiên, Nov 4, 2021.

  1. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    QUÂN BỢM ĐÃI TRỞ MẶT VÔ TÌNH

    GÁI ĐĨ GIÀ DẠY ĐIỀU HOA NGUYỆT

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thúy Kiều lần trước bị nhục, liền liều chết một cách điềm nhiên. Lần này chịu bao nỗi đọa đầy, mà lại không chết, là tại làm sao? Là vì trước kia, Mã Quy tuy không phải hạng người xứng đáng, song mình đã nhận tiền mà lấy người ta thì không phải là nhục. Không phải là nhục mà lại bị nhục, nên chết còn có danh nghĩa. Lần này thì mình riêng bị sở Khanh lừa gạt, vì riêng nhục mà chịu nhục, thì không còn có danh nghĩa gì để mà chết.

    Chết không có danh nghĩa gì mà chết bừa đi sao được. Vả chăng, riêng bị nhục thì lòng đã thẹn rồi, khí đã kém rồi. Lòng thẹn, khí kém mà bảo cầm dao làm việc dữ thì không thể được nữa, cho nên mới đành nhẫn nhục cầu sống để mong tính kế sau này.

    Trong sách "Lý Lăng" có câu: "Giết mình vô ích, chỉ càng thêm thẹn, giơ tay chịu nhục, đành phải sông thừa", chính giống với trường hợp này đây. Đã giơ tay chịu nhục thì hiệp liệt là vô dụng; hiệp liệt đã vô dụng thì không thể không chịu sự dạy bảo trăng hoa được.

    Còn như gã Sở Khanh giở mặt vô tình, là hạng người không bằng loài cầm thú, chính là để trách cái lỗi nhận lầm của Thúy Kiều vậy..

    Lại nói, Thúy Kiều chịu đau không nổi, đành phải van lơn:

    Mẹ ơi! Đó là lỗi ở con. Từ rầy trở đi con không dám như thế nhất nhất nghe theo lời dạy bảo của mẹ, chỉ mong mẹ nghĩ lại sinh phúc cho con. Tha cho con cái lỗi nhất thời u mê, chót nghe những lời hứa phỉnh của Sở Khanh, đã bỏ mẹ trốn chạy, ngày nay rơi vào tay mẹ, thì quyền sống chết là mẹ, chỉ xin mẹ thương con lìa làng bỏ nước, trôi dạt đến đây. Ngày nay lên trời hết lối, xuống đất không đường, đau đớn ê chề, thật không sao chịu đựng được đòn nữa. Dù mẹ đánh chết thì con cũng chẳng đáng là bao, nhưng chẳng nhẽ mẹ chịu mất số tiền bốn năm trăm lạng của mẹ hay sao? Mẹ không coi mặt người là trọng thì cũng nên coi trọng mặt tiền kia. Xin tha cho con lần này! Từ rầy về sau, nếu con không nghe lời mẹ dạy, sẽ đánh con nữa cũng không muộn mà.

    Tú bà nói:

    - Đã vậy tao còn đánh mày trăm roi nữa, để làm gương rồi sẽ xử lí mày sau.

    Nói đoạn lại giơ roi lên, toan đánh nữa. Thúy Kiều khiếp sợ, không còn hồn vía, la lên:

    - Thôi! Chịu không nổi nữa, chết mất thôi!

    Đầu nàng xoay mấy vòng, chân tay dẫy dụa. Tiếp đó mười đầu ngón chân chảy máu ròng ròng, tóc rối bời, miệng sùi bọt trắng, hai mắt ứa máu. Các chị em làng chơi thấy quang cảnh ấy liền quỳ xuống xin hộ cho Thúy Kiều.

    Tú bà thấy như thế cũng sợ nàng chết mất, liền trả lời:

    - Ta cũng nể lời chị em tha cho mày, nhưng mày phải hứa, từ rầy còn trái lệnh ta thì sẽ bị đánh bao nhiêu roi?

    Thúy Kiều rên rỉ, nói:

    - Nếu còn trái lệnh mẹ, xin chịu tội một trăm roi.

    Tú bà nói:

    Từ rầy hễ gặp ai cũng phải chào hỏi. Khách đến phải rót trà, dâng rượu, gợi tình đưa đón hầu hạ, không được trái lời. Trái lời cũng phải đánh trăm roi.. Nghe chưa?

    Thúy Kiều nói:

    - Vâng, vâng! Con xin làm như thế!

    Tú bà nói:

    Có chị nào đảm bảo cho mày không xảy ra việc gì thì tao mới tha! Thúy Kiều lại rên rỉ, nói với các chị em:

    Các chị ơi! Có chị nào bảo đảm cho em với nào?

    Trong bọn họ có một chị tên gọi Mã Kiều nói:

    Chị Vương ạ! Em xin bảo đảm cho chị, nhưng chỉ sợ khi chị được thả ra rồi, lại tìm cách chết, thì mạng em cũng chết vì tay chị mất.

    Thúy Kiều nói:

    Chị ơi! Em biết mình nặng nợ, khó bề giải thoát, xin yên lòng tùy theo số mệnh, quyết không để liên luỵ đến chị đâu!

    Mã Kiều nói:

    - Được vậy thì em xin bảo đảm cho chị..

    Liền quay sang quỳ xuống trước mặt Tú bà nói:

    Thưa mẹ! Con xin bảo đảm cho chị Vương, nếu chị ấy còn có chuyện gì, con đều xin chịu tội!

    Tú bà nói:

    Con bảo đảm thì phải bảo đảm cho hoàn toàn, nếu có xảy ra lầm lỡ một tí gì, đều trách cứ ở con cả đấy!

    Mã Kiều nói:

    - Con xin nhất thiết bảo đảm cho chị ấy đến cùng!

    Tú bà nói:

    - Như vậy, hãy hạ nó xuống.

    Mã Kiều chừng ấy mới bảo Oa-biên-tú nhè nhẹ thả xuống, nhưng Thúy Kiều làm gì đứng vững được. Mã Kiều lại mặc hộ quần áo, đi giầy vào cho Thúy Kiều, vén lại mái tóc và nói:

    - Để con cùng chị Kiều vào rửa mày rửa mặt, rồi sẽ ra tạ tội!

    Mã Kiều dìu Thúy Kiều vào phòng an ủi một hồi, lại hâm một bồ rượu, đưa cho uống và khẽ bảo:

    Chị Vương là người lanh lợi mà sao cũng vướng phải kế đà đao của họ? Sở Khanh là thằng bạc tình có tiếng ở vùng này đã lừa gạt không biết bao nhiêu chị em, làm hại bao nhiêu vợ con nhà lương thiện. Việc này do lão bố dầu mượn nó, hứa cho nó ba mươi lạng bạc, xúi nó bày mưa lừa chị đó mà! Bây giờ đã chót mắc vào cạm bẫy của chúng, chị nên dằn lòng nén ý, đợi thời mà hành động. Lúc nãy, đáng lí chị không nên nói ra cái chuyện Sở Khanh đưa chị đi trốn. Nó mà biết thì nó lại còn đến phân biện trắng đen. Chị chối đi thì còn đỡ, chớ mà cứ nhất quyết giữ lời lấy được, thì nó là thằng rất dễ trở mặt đấy, chị cũng đừng có đối chọi với nó.

    Thúy Kiều nói:

    - Lời nó thề với em còn văng vẳng bên tai, e có lẽ không đến nỗi phụ lòng như vậy.

    Mã Kiều cười:

    Em nói không sai đâu, rồi chị sẽ thấy! Thôi chị uống ngụm rượu rồi ra mà tạ tội đi.

    Thúy Kiều suốt đêm hôm trước đã không ngủ, lại bị đánh hàng trăm roi, tinh thần và sức lực mỏi mệt, bụng đói miệng khát, nhờ được mấy chén rượu mới tỉnh táo dần, bèn cố gượng đi ra, đến trước Tú bà khấu đầu tạ tội.

    Chợt thấy Sở Khanh từ ngoài tiến vào. Tú bà đứng đậy đón chào:

    - Kìa bác Sở! Trận gió nào đưa bác đến đây thế?

    Thúy Kiều thấy Sở Khanh vào, còn ngây thơ tưởng hắn đến để phân trần phải trái cho mình, nén cứ cúi đầu lẳng lặng ngồi yên, liền nghe Sở

    Khanh nói với Tú bà:

    - Tôi nhân nghe được một câu chuyện vu oan, nên định đến hỏi cho ra lẽ. Nghe nói có ả nào nhà chị đi theo thằng hầu lại nói là tôi đưa nó đi trốn? Vậy chị gọi nó ra đây, để tôi hỏi tận mặt nó, coi nó biết tôi là hạng người nào mà dám vu vạ.

    Tú bà nói:

    Không mà! Bác Sở! Không có câu chuyện như thế đâu, chớ nghe người ta nói nhảm!

    Sở Khanh nói:

    Người nhà tôi đến đây xem đánh đòn, nghe thấy chính miệng con ấy chỉ tên tôi mà nói, nên tôi cần gặp mặt nó để hỏi cho nó câm miệng không nói được, thì tôi mới thôi.

    Tú bà bị nói kèo lèo quá, đành phải gọi Thúy Kiều:

    - Kiều con! Mau ra xin lỗi bác Sở đi nào!

    Lúc này Thúy Kiều tức giận đầy lòng, nhưng không biết tính sao, đành phải bước ra chào. Sở Khanh nói:

    À! Té ra là con này ăn nói quàng xiên. Mày gặp tao bao giờ? Tao đi với mày lúc nào? Mày phải trả lời cho tao nghe, thì tao sẽ thôi bằng không thì tao không chịu đâu.

    Thúy Kiều nói:

    Anh nói không thì là không chớ sao!..

    Sở Khanh nổi giận hằm hằm nói:

    À ra con dâm phụ này vẫn nhất định đổ riệt cho tao! Tao hẹn mày trốn bao giờ thế? Con đĩ không biết hạng Sở này! Không đánh mày, sao cho hả giận..

    Vừa nói, vừa sấn đến, nhè vào mặt Thúy Kiều đánh ngay một tát.

    Thúy Kiều liền lăn ra giẫy giụa, kêu ầm lên:

    Thằng họ Sở vong ơn bội nghĩa kia! Mày nói không hẹn tao trốn đi, thế thì hai chữ "Tích việt" tay mày viết ra, ngầm hẹn tao đêm hôm hai mươi mốt vượt cửa sổ gặp nhau, không lẽ cũng là giả à? Mày ép tao đi theo, tao cố từ không chịu. Chính miệng mày hứa, nếu việc thất bại, một mình mày sẽ cáng đáng. Trời cao chứng giám, mày có dám thể không? Mày ép tao ăn nằm với mày, hứa với tao bạc đầu giai lão, thề thốt với trời! Người tha mày! Chớ trời nào tha cho mày! Mày đẩy tao xuống vực sâu, không nghĩ rằng nên nói đỡ cho ta một đôi lời, trái lại, lại còn đến biện bạch à! Tao nghĩ có mẹ ngồi đây, tao không hề nói với mày một câu nào là để giữ thể diện cho mày cũng đã được rồi, mày lại còn đánh tao, mày tưởng đánh tao là có thể gỡ được mối ngờ của mọi người. Có biết đâu, dối người được chớ dối sao được trời. Mày nói không đưa tao đi trốn, thì mày vào đây, tao thề cho mày xem.

    Nói đoạn, túm ngay lấy vạt áo Sở Khanh, nhất định không buông.

    Sở Khanh bị Thúy Kiều cứ khăng khăng một mực trước sau nói rõ sự thật, thành ra ý muốn che đậy những tội ác, bây giờ trái lại càng lộ rõ thêm những xấu xa hồi trước. Mọi người nghe rõ câu chuyện, đều nhao nhao lên:

    Cứ như những lời chị Vương vừa kể, rõ ràng là thằng cha họ Sở đã làm hại chị, lại còn dậm dọa làm bộ, chúng ta phải giúp đỡ chị Vương báo thù câu chuyện bất bình này.

    Rồi mọi người la ầm lên: "Cái thằng lừa đảo đã làm hại chị Kiều chính là thằng chó săn chim mồi này đây". Họ nói như thế, làm cho Sở Khanh chẳng còn mặt mũi nào, đành phải rút lui.

    Sau đó Tú bà thấy Thúy Kiểu vừa bị đòn đau, không nên để cho đứng lâu, liền bảo Mã Kiều đưa về phòng nghỉ.

    Sáng hôm sau, Thúy Kiều không thể ngồi dậy, khắp mình đau đớn như dần và sốt tấy lên. Mã Kiều nói cho Tú bà biết. Tú bà thân hành vào thăm và nói:

    Kiều con ạ! Sở Khanh vốn là một tên quang côn vô lại, sao con lại dại để nó đánh lừa? Nó mà đem được con đi thoát rồi cũng đến bán con cho kẻ khác để kiếm tiền, chớ đâu cầu con làm vợ! Nay mẹ bảo thật, nếu con chịu theo mẹ làm ăn thì mẹ sẽ biệt đãi con. Bằng con không muốn thì mẹ sẽ tìm chủ nào có tiền lại bán con đi tiếp khách. Tuỳ con định lấy.

    Thúy Kiều nói:

    - Bình đã vỡ rồi, đi với người mới chi bằng ở với người cũ. Từ nay con xin theo mẹ làm ăn.

    Tú bà rất mừng, và nói:

    Con đã bằng lòng theo mẹ thì hãy nghỉ ngơi dăm ba ngày nữa, mẹ sẽ nói những mánh khoé nhà nghề và những công phu chăn gối con nghe, rồi mới biết cách làm ăn được.

    Liền bảo tên Oa-biên-tú tìm thứ rượu ngon và những vị thuốc hành thuyết như hồng hoa, tô mộc, đào nhân, nga truật và tam lăng, sắc lên cho Thúy Kiều uống. Thúy Kiều uống thuốc, thân thể mỗi ngày một mạnh, dần dần lại được bình phục như cũ.

    Một hôm, Tú bà nói với Thúy Kiều:

    Con ạ. Tên con là Vương Thúy Kiều, nay phải đổi là Mã Kiều. Nếu có khách đến mà con chẳng biết gì cả thì làm thế nào mà giữ được khách lại? Phỏng có lưu được, chỉ tổ để họ cười cho mà thôi.

    Thúy Kiều nói:

    - Ăn nằm thì cũng đến ăn nằm như thế, chẳng lẽ lại còn kiểu cách gì

    Nữa?

    Tú bà cười nói:

    - Con ngốc này! Nếu nhà gái đĩ cũng như những nhà lương dân thì còn ma nào đến đây chơi nữa? Trong đó còn có nhiều cái thú để mẹ thong thả giảng cho con nghe, con cần phải nhớ vào lòng cho kĩ! Này nhé! Nếu khách chè chén xong, sắp lên giường, mình phải nhường khách nằm trước vào phía trong, mình nằm ngoài, mặt phải quay vào phía khách, giang tay ra cho khách gối đầu. Sau đó khách nhất định sờ mó khắp người con, thì con cũng đưa tay sờ bộ hạ của họ. Nếu bé, ngắn thì mình dùng phép "Đánh trống giục hoa"; nếu to, dài thì mình dùng phép "Sen ròng khóa xiết". Nếu người cấp tính thì dùng phép "Mở cờ đánh trống"; người tính hoãn thì dùng phép "Đánh chậm gõ sẽ"; người không dai sức, dùng phép "Đỡ dần buộc chặt"; người dai sức, dùng phép "Gắn bó truy hồn"; người mê sắc thì dùng phép "Dềnh dàng cướp vía". Thế là tám nghề, kể ra cũng còn nhiều phép nữa, nhưng đại khái cũng không ra ngoài tám phép này. Sau khi luyện xong công phu về chăn gối rồi thì phải học đến những mánh khoé thường dùng hàng ngày. Mánh khoé ấy gồm có bẩy chữ: Thứ nhất là Khóc. Tiếp được khách có tiền ở lại ít lâu, lúc họ định ra về, thì mình phải khóc: "Tình lang ơi! Sao chàng nỡ bỏ thiếp mà đi cho đành". Giả cách nũng nịu ngây thơ quyến luyến không rời xa, thì khách dù có gan dạ cứng rắn như thế nào cũng phải lại. Hoặc có khi gặp tay lõi đời, họ tất nói: "Nàng ở đây, khách đến khách đi luôn luôn thì làm sao mà lưu tình cho hết được. Ta với nàng chẳng qua là gặp thú thì chơi mà thôi, nàng coi thế nào như thật được". Thế thì mình phải nghẹn ngào khóc rằng: "Thế mới biết đàn ông cay độc thật. Đừng nói đôi ra tương đắc, quyến luyến không rời, dù cho một cục đá, ôm lâu thì cũng nóng nữa. Thiếp khách tuy nhiều, nhưng chung tình có một, thiếp thật là quyến luyến không nỡ rời chàng". Thế rồi hai hàng nước mắt tầm tã chứa chan thì dù người sắt tất cũng phải mềm, mà không thể dứt lòng ra đi được!..

    Thúy Kiều hỏi:

    - Nếu không có nước mắt thì làm thế nào?

    Tú bà cười nói:

    Có khó gì đâu! Giã gừng sống vắt lấy nước, tẩm vào khăn tay đem lau mắt thì nước mắt sẽ chảy ra như suối tràn.. Thứ hai là Xén. Khách ở lâu có ý mê mình thì mình phải tính kế để lấy lòng khách. Sợ khi bạn bè khách có kẻ thấy hai người yêu nhau muốn phá đám thì mình với khách phải bảo nhau cùng xén một ít tóc, trộn lại làm một mớ, rồi chia làm đôi, mỗi người buộc một nửa vào cánh tay để tỏ ra ý muốn kết tóc, tất nhiên khách cho mình là có lòng thật mà không nỡ rời. Thứ ba là Thích. Hai bên đã tương đắc, tất phải dùng đến ngón mạnh hơn để buộc lấy lòng khách. Mình phải hoặc ở cánh tay, hoặc ở bắp chân, dung kim thích mấy chữ "Chồng tên là

    Mỗ.. Mỗ", rồi lấy mực xoa vào, khiến rửa không sạch ngấn, để khách trông thấy, sẽ cho là mình riêng chung tình với khách, tất khách phải mắc mưu chết mê chết mệt với mình. Nếu khách ấy đi rồi, có khách khác đến sau thấy vậy, tất phải nghĩ ràng: "Không biết người ấy người nọ đối đãi với cô ta thế nào mà cô phải quyến luyến như thế". Khách tất lại phải càng xử hậu với mình để hòng tránh lấy cái yêu của mình đối với người trước. Thế thì mình phải nhân đó dùng mẹo, nhăn nhó khóc nói: "Chàng nọ đã vì thiếp tiêu tốn bao nhiêu tiền, dụng tình thế nào, chiều chuộng thế nào mà thiếp chưa hề có gì báo đáp được chàng". Nói xong giả chảy nước mắt, tất khách phải cảm động mà phải vung tiền ra nữa với mình. Thứ tư là Đốt: Đốt là kế khổ nhục. Hiện nay chị em quỷ quyệt mà khách làng chơi cũng nhiều tay khôn khéo. Muốn được khách vui lòng để mình bòn tiền của nó, nếu không có cách gì khua động lòng khách một cách mạnh mẽ, thì lung lạc thế nào được khách sa vào tay mình, đành phải dùng đến kế khổ nhục này. Mình với khách phải cùng phát thệ: Trai không đổi lòng, gái không hai dạ, nếu sau phản phúc, thần người đểu giết v. V. Rồi hai người cùng chích, huyệt thứ nhất chích với người yêu thứ nhất, ân tình nhiều nhất, gọi là "nguyện đồng tâm". Hai người mở áo, bụng kề bụng, da kề da, dùng hương mà chích; thứ hai, gục đầu vào nhau mà chích, gọi là "nguyện kết tóc"; thứ ba, tay tả mình khít với tay tả khách cùng chích, gọi là "hứa nguyện liên tình" bên tả; thứ tư, tay hữu mình khít với tay hữu của khách cùng chích, gọi là "hứa nguyện liên tình" bên hữu; thứ năm, đùi tả mình khít với đùi hữu khách cùng chích, gọi là "hứa nguyện giao đùi" bên tả: Thứ sáu, đùi hữu mình khít với đùi tả khách cùng chích, gọi là "hứa nguyện giao đùi" bên hữu. Ngày xưa Tào Tháo đem tám mươi ba vạn quân xuống đánh Giang Nam mà còn bị kế khổ nhục của Hoàng Cái đánh diệt hết nữa là? Huống chi mấy thằng con trai ngu xuẩn trên đời này, nếu mình chịu khổ, đốt hương cùng chích với chúng thì chúng dù có tan cửa nát nhà cũng không phàn nàn. Thứ năm là Giá. Khách làng chơi không nói lấy nhau thì còn gì thú vi. Mà chị em không nói "gá" với nhau, thì còn có gì là ôn tồn nữa. Nhưng tiếng gá của gái đĩ không thể so sánh với tiếng lấy của các cô gái con nhà nề nếp được. Tiếng gá ở đây là khéo léo, đo người cắt áo gặp cảnh sinh tình. Khách là con nhà giàu hỏi thân giá mình chừng bao nhiêu, mình nên nói: "Nguyên nhân giá em bán cho chủ là ngần ấy tiền, tiếp khách cho chủ mấy năm được bao nhiêu tiền, cũng đã được vốn được lời rồi, ngày nay bất quá chỉ trả cho chủ chừng hơn trăm lạng nữa là được thôi. Thế rồi, suốt ngày mình thề bồi, bàn cách lấy nhau, làm cho khách mê mẩn tâm thần, tự nhiên có đồng nào bỏ ra hết.

    Chừng khi chi tiêu hết tiền rồi, không có gì mà cưới mình nữa thì mình không phải đuổi, khách cũng tự ngoan ngoãn rút lui thôi. Thứ sáu là Chạy. Đây là cách khéo nhân kế dùng kế. Khi khách đã chơi hết tiền, muốn cưới thì không có của, muốn chơi thì không có tiền, muốn tống khách ra khỏi cửa thì chỉ có một cách giả chạy trốn là lừa được nó. Mình giả hẹn khách thuê thuyền ở chỗ nào, lừa cho khách thật tin, không chút ngờ vực. Rồi đến ngày thu xếp ra đi, mình bí mật máy người đến phá đám, dậm dạo định bắt trình quan, như vậy khách tất nhiên mắc cỡ, phải lảng rút lui. Ấy là mẹo giả binh đó. Khách cứ tưởng là duyên hôi phận bạc, việc vui mừng bị phá vỡ, chớ có ngờ đâu là đã mắc mưu kế" đà đao "của mình! Thứ bẩy là Chết. Chết đây là chết giả, chớ không phải chết thật đâu. Hai người thân nhau, coi chừng lòng khách đã dao động thì mình bảo khách:" Thiếp sống là vợ của chàng, chết là ma nhà chàng. Thiếp quyết lấy chàng, nếu chàng không lấy thiếp thì dù chết cũng chết ở bên mình chàng ". Nếu khách đã có thê có thiếp, mình biết rõ là khách không thể lấy mình, thì bảo: 'Thiếp không thể làm vợ chàng, thật là uổng cả mối tình thân mật đối với chàng. Thiếp tuy tiếp khách đã nhiều, song không được mấy ai ôn tồn như chàng. Nếu chàng không thể lấy thiếp thì đôi ta song song cùng chết, còn hơn là sống ở đời mà phải xa nhau." Giải đồng không kết kiếp này- Thì xin kiếp khác làm cây liền cành". Như thế không lo gì khách không giốc một lòng với mình, dù phải khánh kiệt gia tài cũng là cam chịu. Đó, con mà nắm vững được cái bí quyết của bẩy chữ ấy, thì có thể nhẩy lên sân khấu mà làm nhiều trò tiểu xảo nữa.. Đứng trước cửa thấy khách nhìn mình thì mình phải tươi cười đưa đón. Nếu có hàm răng đẹp đẽ, thì cười để lộ răng, cốt khoe cái đẹp gọi là Dùng răng bạc. Nếu chân nhỏ nhắn thẳng thiu, thì dẫm lên bậc cửa, cúi đầu ngắm nghía, gọi là Phượng gật đầu. Nếu vóc người đẹp thì ra ngoài bước đi, gọi là Hiện thân thuyết pháp. Nếu tay đẹp thì để lộ nửa ngón tay búp măng; nếu tóc mây thì nghiêng nghiêng khẽ vén hoặc khoé mắt đưa tình, hoặc ngâm nga gợi ý. Nghĩa là phải làm sao để khơi động lòng xuân, khêu gợi lòng dục của khách làng chơi. Thạo những ngón kể trên, thì có thể làm đĩ vậy.

    Thúy Kiều nói:

    - Té ra như thế! Con xin lĩnh hội cẩn thận.

    Không biết Thúy Kiều tiếp khách ra sao? Xin xem hồi sau phân giải.

    [​IMG]

    Nguồn poster: Hẻm Radio (làm kịch truyền thanh tác phẩm này) được Book Online edit poster lại.

    Ủng hộ càng nhiều thì sẽ đổi lịch up nhiều hơn

    Nhấn theo dõi và yêu thích book online để theo dõi truyện nhanh nhất.

    - Các [số] trong truyện sẽ nằm ở chương chú thích. Mọi người vào đó để xem nghĩa.
     
  2. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    KHÓC HOÀNG THIÊN,

    BÌNH KHANG ĐÀNH GỬI HẬN

    SAY PHONG NGUYỆT,

    NHÀ VÀNG MƯU LẤY KIỀU

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thúy Kiều nghĩ mình tấm thân trong ngọc trắng ngà mị phải lưu lạc chốn yên hoa, thì không khóc sao được. Đã khóc mà lại xa cha mẹ anh em, thì không khóc trời sao được? Đã khóc kêu trời, ta ngỡ rằng trời nghe tiếng, tất đau lòng lệ rơi mà mở chomột con đường sống nên đã khiến Thúc sinh muốn cưới, muốn lấy trọn đời. Ai ngờ trời cũng không tốt, cái nợ giăng hoa ấy không cho một lần trả xong, lại bầy ra việc gặp Thúc sinh đề làm tấn trò quá độ, sao mà nhẫn tâm lắm thay!

    Thúy Kiều là con chim đã bị thương, tất nhiên phải lo trước như thế, lo sau như thế và căn dặn đinh ninh đến như thế. Ngày nay xem ra, chê là quá nhỏ nhặt. Nhưng đến sau này mà bàn, thì lại trách là quá sơ sài.

    Con gái một thân không nơi nương tựa, sướng khổ tuỳ người, thật là đáng thương, đáng than thở..

    Lại nói, Thúy Kiều mình rơi vào chốn lầu xanh, tài nghệ và dung nhan đều vào hàng nhất, cái tiếng thạo hổ cầm và thi phú bay khắp gần xa. Ai ai cũng biết Mã Kiều là tay giỏi tân thanh, thạo hổ cầm, rung động tâm tình người ta, hấp dẫn hổn phách người ta, thật là một tiếng cười đáng giá ngàn vàng.

    Thúy Kiểu thường thường nghĩ mình xuất thần là hạng người thế nào, bình sinh hứa hẹn những gì, mà ngày nay rơi vào nơi bể khổ biết bao giờ có ngày mở mày mở mặt, vì thế mà mối sầu chan chứa mới viết ra bài "Khóc trời" (Khốc hoàng thiên) để ghi nỗi bất bình.

    Số mệnh bạc, vận nhà nghiêng ngửa,

    Vì cứu cha, hố lửa vướng chân,

    Nhát dao đã tính liều thân,

    Giữ cho trong giá trắng ngần như ai.

    Không may gặp hạng người bợm bãi,

    Miệng đặt điều khó cãi cho ra.

    Trói mình treo ngược xà nhà,

    Đánh cho toé máu toạc da tơi bời.

    Đau gần chết, ngất thôi mấy lượt,

    Kêu van hoài chẳng được dung tha.

    Nằn nì trăm bận xin qua,

    Ép mình đưa đón kiếm ra tiền tài.

    Nghĩ mình vốn thân đài các ấy,

    Biết làm sao đưa đẩy làm tiền.

    Những nghe dạy bảo mà phiền,

    Vô liêm vô sỉ, giận điên cả người.

    Khoa chăn gối, học đòi nghề nghiệp,

    Để đêm đêm mặc đẹp ấp người.

    Người vui thức, cũng thức hoài,

    Người say ngủ kĩ, mình thời nằm yên.

    Đã để ý, sợ mang quở trách,

    Lại lưu tâm, phòng khách lén đi.

    Khách ham dâm dục những gì..

    Âm thầm cứ chịu, nhu mì đón đưa.

    Khách quen thuộc, chào thưa còn khá,

    Khách lạ lùng, hầu hạ khổ sao.

    Mặc cho tính khách thô hào,

    Riêng mình cố chịu ngọt ngào cho qua.

    Mụ ưa thích, chỉ là nhiều bạc,

    Đẹp xấu coi chẳng khác gì nhau.

    Hoa thơm dâng bọn lái trâu,

    Nỡ đem người ngọc để ngâu nó vầy.

    Dù hôi hám mặc thây cứ chịu,

    Dù ốm đau, bẩn thỉu dám hờn.

    Nếu hơi tỏ chút than phiền,

    Tức thì đánh mắng liền liền không tha.

    Sống thờ khắp người ta làm vợ,

    Chết không chồng nấm mộ tha ma.

    Kiếp người khổ nhất đàn bà,

    Đàn bà khổ nhất ấy là gái chơi.

    Làm tì thiếp còn nơi vấn vít,

    Thân gái chơi sống chết biết đâu?

    Vái trời khóc lạy kêu cầu,

    Mỗi câu là vạn mối sầu kết tinh.

    Nhắn các bạn lầu xanh kiều diễm,

    Hố lửa này mau liệu thoát ra.

    Chớ chờ khi đuổi khỏi nhà,

    Gió tây nhỏ lệ thân ta còn gì!

    Bài ca này truyền tụng ra ngoài, người nghe thương tâm, người thấy lệ rơi. Thúy Kiểu lại đem bài ca phổ vào hồ cầm, gáy nên những tiếng não nuột bi ai. Không nói chi là bọn chị em son phấn nghe phải than khóc, ngay đến độc ác như Tú bà nghe cũng phải chảy nước mắt.

    Lại nói, hồi này ở đây có một gả thư sinh họ Thúc, tên Thủ, tự là Kỳ Tâm, quê ở huyện Vô Tích, Thường Châu, có cha mở cửa hàng buôn bán ở Lâm Tri nên theo cha đến đây. Thúc sinh tuổi kém đôi mươi, gia tư giàu có, lấy vợ Hoạn thị, con gái viên Thượng thư Bộ Lại. Nàng này đã đẹp lại thông minh, chỉ có tính hay ghen, mà ghen có bề thế, lại việc gì cũng làm theo ý của mình. Đã không chịu chia sẻ ái tình với ai mà cũng không để cho ai chia sẻ ái tình với mình. Tài trí Thúc Thủ không bằng vợ mà công việc trong nhà thì Hoạn thị xếp đặt đâu vào đó đểu có nề nếp thứ tự cả. Thúc Thủ tuy có bụng dạ ngoại tình song chỉ mắt nhìn thèm thuồng mà thôi.

    Thúc sinh nhân lúc theo cha đến Lâm Tri du học nghe tiếng Mã Kiều bèn giấu cha, rủ một bạn chơi tên là Bộ Tân sửa soạn mấy tấm hàng dắt nhau đến thăm Mã Kiều, đưa danh thiếp và lễ vật làm lễ giáp mặt. Thúy Kiều nói:

    - Đội ơn các ngài hạ cố đã là vinh hạnh cho thiếp, vội cho lễ hậu thế này, thiếp sao cho đáng!

    Thúc sinh nói:

    - Đã lâu vẫn mộ tiếng thơm, bữa nay đến thăm gọi là có chút quà mọn, dám đâu nói sự thành kính, bất quá mới chỉ tò chút lòng ngưỡng vọng đó thôi!

    Thúc sinh lại đưa ba lạng bạc làm tiệc rượu. Tú bà sửa soạn tiệc rượu to thết đãi.

    Chiếu hôm ấy, mọi người chén tạc chén thù, bài bạc vui chơi. Thúy Kiểu hình dung yểu điệu, thật là ít có trên đời, lại sau khi uống vài chén rượu, mặt tựa hoa đào, tình tú ôn nhu, nói năng phong nhã, càng thêm vẻ phong lưu đáng yêu. Thúc sinh ngắm nghía, lòng vui thích, liền nói:

    - Tiểu sinh này tuy không thạo thơ từ, nhưng gặp bậc giai nhân tuyệt sắc, há không có gì lưu tặng. Vậy chẳng ngại quê mùa xin góp nhặt mấy câu thô lậu để ghi lại cuộc gặp gỡ này! Thơ rằng:

    Nuồn nuột dung nhan coi tựa ngọc,

    Nõn nà cốt cách ngỡ rằng tiên.

    Phù dung xưa vốn chưa từng biết,

    Yến tiệc may sao lại gặp duyên.

    Tay ngọc chén nâng vừng huyệt sáng,

    Ảo là gương rọi bóng đèn xuyên.

    Vui thú khuê môn từng đã lắm,

    Nhưng chỉ vui này đệ nhất thiên.

    Thúc sinh đề thơ xong, tiệc tàn người vắng, hai người dắt nhau về phòng, ái ân đằm thắm.

    Sau đó Thúc sinh nhân dịp cha về nam thăm nhà không ai câu thúc nên càng tự do say đắm về tình.

    Hai người uống rượu tuý luý, ca hát cuồng nhiệt, đàn sáo vang lừng, rồi cùng nhau ngâm vịnh, thưởng ngoạn dưới trăng.

    Từ đó luôn ba tháng liền, Thúc sinh cứ lưu luyến ở nhà họ Mã. Anh ta vung tiển như đất nên hết thảy mọi ngưòi trong nhà họ Mã đều ưa thích.

    Một buổi chiểu, Thúy Kiều tắm xong càng đẹp lộng lẫy, Thúc sinh nói:

    - Coi dung mạo nàng mơn mởn như hoa, ngắm thân hình nàng nõn nà tựa ngọc. Không ngờ nơi gió bụi lại có phẩm lạ như vậy, thật khiến lòng tôi say đắm. Nay thấy cái thế thái ăn vận của nàng sau khi tắm xong cũng là hiếm có, ngẫu nhiên vịnh vài lời để ghi cảnh tắm.

    Thơ rằng:

    Trăng chiếu lầu xanh, giốc ngọc hồ,

    Băng tinh người đẹp dáng say mơ.

    Da ngà, cung quế đua tươi sáng,

    Vóc tuyết, muôn hoa cũng ngẩn ngơ.

    Thoạt đứng sượng sùng nhờ kẻ đỡ,

    Khi đi bẽn lẽn cậy người đưa.

    Nõn nà, lánh vội vào màn gấm,

    Bên gối âm thầm khúc hát xưa.

    Thúy Kiều nói:

    - Đội ơn chàng quá yêu, thiếp cũng muốn họa theo một bài, song lòng đang băn khoăn nhớ nhà, xin đợi lúc khác.

    Thúc sinh sửng sốt hỏi:

    - Thế ra không phải là con gái bà Tú ở đây à?

    Thúy Kiều nói:

    - Chàng đừng hỏi cái việc đoạn trường ấy nữa, nói ra càng thêm đau lòng.

    Thúc sinh nghe xong càng kinh ngạc cố gạn hỏi cho biết tò tường ngành ngọn. Thúy Kiều nói:

    - Thiếp như bông hoa cắm lọ, chàng như cái bướm lượn chơi, chúa xuân đã có chủ trương rồi, hà tất hỏi cặn kẽ làm chi?

    Thúc sinh nói:

    - Tôi muốn cưới nàng nên hỏi như thế.

    Thúy Kiều nói:

    - Cưới vợ lẽ khó, mà việc tòng lương cũng không phải là dễ đâu. Lúc này chàng vào chốn lầu xanh, thấy thiếp tô son điểm phấn thì lầm lẫn quá yêu. Một mai về nhà chàng theo lề lối làm ăn lương thiện, nhạt phấn phai son thì lòng yêu của chàng vị tất đã được như thế. Vả lại thiếp đã yêu chàng, theo chàng về nhà chỉ trơ trọi nương tựa vào một mình chàng. Thiếp lại nghĩ vợ cả chàng là vị tiểu thư con nhà quý phái, vợ chồng đang hòa hiệp yên vui, nếu nay thêm một thiếp vào rồi sẽ có điều rắc rối. Vợ chồng đương hòa hảo, vì một thiếp mà thành ra Sâm Thương lủng củng, tội ấy đều do thiếp cả. Sau nữa nếu chàng có để thế lực che chở cho thiếp, thì thiếp tuy mang tội làm rấc rối cuộc ái ân của vợ chồng chàng nhưng còn được yên thân. Còn như hoàn toàn thuộc quyền vợ cả thì dù nhẹ cũng phải roi vọt, mà nặng thì có khi đến phải bỏ đời. Thành ra thiếp cầu mong thoát khỏi chốn lầu xanh lại rơi vào hoạn nạn, chi bằng cử nấn ná ở đây, đợi khi nạn hết tai qua, thê nào cũng có lúc thu trường kết cục. Thiếp nghĩ việc lấy chàng thật là rất đỗi khó khãn, không phải dễ dàng đâu.

    Thúc sinh nói:

    - Nàng lo tính công việc rất có lí, song tôi đã quyết ý lấy nàng. Nếu nàng không lấy tôi thì tôi xin chết ở bên mình nàng đây!

    Thúy Kiều nói:

    - Lấy nhau thì chẳng có gì khó song chỉ sợ lấy nhau rồi lại không được như ngày nay thôi!

    Thúc sinh liền phát thệ:

    - Nếu Thúc Thủ này sau khi lấy Mã Kiểu mà đổi lòng đổi dạ, không như ngày nay thì xin trời tru đất diệt!

    Thúy Kiểu nói:

    - Chàng muốn thiếp lấy chàng thì phải ưng cho thiếp một việc!

    Thúc sinh nói:

    Đừng nói một việc, dù mười việc cũng xin ưng! Thúy Kiều nói:

    Thiếp từng bị lao lung, rất là khiếp sợ. Nếu thiếp lấy chàng thì thiếp không về Vô Tích đâu, mà chỉ muốn sống trong cửa hàng của chàng ở đây thôi.

    Thúc sinh nói:

    Tôi vẫn định không đưa nàng về Vô Tích, vẫn định chia ở đôi nơi, mà lấy nàng cũng là ý ấy. Giờ đây cũng không đưa nàng về cửa hàng ngay mà hãy thuê một nơi cho nàng ở tạm, đợi khi cha tôi về, thưa rõ câu chuyện rồi mới để nàng về ở hẳn cửa hàng.

    Thúy Kiều nói:

    Việc này chàng đừng nên coi thường, vì một khi thiếp lấy chàng, ra khỏi cửa nhà họ Mã này rồi thì có chết cũng sẽ chết ở trong nhà chàng chứ nhất định không chịu cái nước cóc chết ba năm quay đầu về núi đâu! Đừng có mà khi cha chàng vê, không cho lấy thiếp nữa lại đuổi thiếp về nhà họ Mã để cho thiếp chịu bêu chịu diếu..

    Thúc sinh nói:

    - Nàng bất tất quá lo xa, quyết không đến nỗi thế đâu!

    Thúy Kiều nói:

    - Thiếp chỉ sợ chàng lấy thiếp rồi sẽ xảy ra nhiều chuyện..

    Thúc sinh nói:

    - Chỉ cốt nàng ưng thì mọi việc tôi có thể cáng đáng được hết!

    Thúy Kiều nói:

    - Được như thế thiếp sẽ xin nâng khăn sửa túi.

    Thúc sinh mừng lắm, liền dắt tay Thúy Kiều về phòng cùng ngủ.

    Chẳng biết rồi ra thế nào, xin xem hồi sau phân giải.
     
  3. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    VỆ HOA DƯƠNG DÙNG TRÍ LỪA HỌ MÃ

    THÚC KỲ TÂM VUI MỪNG CƯỚI NÀNG VƯƠNG

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Dùng mẹo khôn để "hạ" Tú bà, tất phải cần đến hạng người như Vệ Hoa Dương. Còn như Thúc ông kiện con về tội ngỗ nghịch để hòng đuổi Thúy Kiều trở về Lầu Xanh thì lúc ấy dùng Vệ Hoa Dương lại không được nữa, tất phải nhờ vể cái kiến thứ: Xin chịu gông và cái thi tài vịnh gông của Thúy Kiều đã làm rung chuyển quan tri phủ, thì mới có thể bảo toàn được.

    Tuyệt vời thay tài sắc đã làm cho người trên phải kính yêu vậy. Nhưng đáng tiếc cho Thúy Kiều có tài thức như thế mà không không được sự báo đáp của tài thức. Ày củng là do số mệnh làm chủ, biết làm sao được!..

    Truyện rằng, hôm sau Thúc sinh dậy, đưa Thúy Kiểu về hiệu buôn, đoạn dẫn đến ở một nhà riêng rồi hai người nói cho Tú bà biết là muốn chuộc mình cho Thúy Kiểu. Tú bà được tin vội đến ngay cửa hàng nhà họ Thúc. Bọn người nhà đều nói:

    Cậu chúng tôi không có ở nhà, nghe đâu sang vườn hoa họ Dương nghỉ mát!

    Tú bà vội đến vườn hoa họ Dương thì người ở đó cũng nói là không có. Tìm luôn hơn mười ngày chẳng thấy tăm hơi đâu cả.

    Hôm ấy chợt thấy Bộ Tân, Tú bà liền níu lấy hỏi:

    Ông Bộ này! Con gái tôi hiện ở đâu? Xin ông bảo dùm!

    Bộ Tân nói:

    Té ra bà không biết con gái ở đâu? Nghe nói chị ta đã tòng lương rồi mà! Bữa trước, tôi bỗng nhiên qua trước cổng huyện, nghe người ta đồn đại xôn xao rằng, "Sớm nay có một kĩ nữ tuổi còn non, đến huyện xin tòng lương được quan huyện phê chuẩn, không biết tên cô ả là gì..". Một người nói: "Ấy chính là cô Mã Kiểu nổi tiếng nhất về thi phú và thạo hồ cầm đó!" Tôi nghe câu chuyện biết là con gái bà liền hỏi người ấy: "Mã Kiểu xin tòng lương thì lấy ai?". Người ấy nói: "Lấy cậu tú Thúc người Vô Tích..".

    Tôi nói: "Cậu Tú thì không đối chọi được với bà Tú đâu". Người ấy nói: "Ông chỉ biết cậu Thúc là người trung hậu, biết đâu rằng người giúp việc cho cậu ta lại là tay cứng lắm..". Người giúp việc cho cậu ta là Vệ Hoa Dương, cả tỉnh này ai cũng biết tiếng. Nay bà muốn biết chỗ con gái ở, tôi tưởng Vệ Hoa Dương đã là người giúp viêc cho cậu Thúc, thì thế nào hắn cũng ở nhà ông ấy.

    Tú bà nghe ba tiếng Vệ Hoa Dương thì đâm lún ngay, liền nói:

    - Thôi hỏng! Họ tìm ra tay đối thủ rồi, biết tính sao đây? Ông Bộ! Tôi nhờ ông đi tìm cậu Thúc và nói giúp cho rằng nếu cậu ấy muốn lấy con gái tôi thì cứ bảo thẳng ngay tôi, việc gì mà phải kiện cáo cho tốn tiền?

    Bộ Tân nói:

    - Tôi đang định tìm gặp anh ta, đến cửa hiệu hỏi họ nói là anh ta đang ở bên nhà Vệ Hoa Dương. Bây giờ tôi đang tính qua bên ấy để tìm.

    Tú bà nói:

    Cậu Thúc mà ở bên nhà họ Vệ, tất nhiên là họ định gây chuyện đấy. Vậy xin phiền ông Bộ thăm dò tin tức giúp tôi. Nếu quà cậu Thúc ở bên nhà họ Vệ thì muôn vàn nhờ ông nói giúp với cậu ấy rằng nếu cậu muôn lấy con gái tôi, thì tôi chỉ xin số tiền mua trước, chớ không có ý gì khác. Nhờ ông thế nào cũng xin cho tôi biết tin đích xác.

    Bộ Tân nhận lời, rồi hai ngưòi chia tay nhau.

    Lại nói đến gã Bộ Tân này, thì chính y đến để thi hành mưu kế của Vệ Hoa Dương và Thúc sinh. Vừa hay gặp Tú bà, nói như thế rồi liển vội vã trở về báo tin cho Thúc sinh và Vệ Hoa Dương. Hoa Dương nói:

    Nếu thế thì nhuệ khí của con mụ này đã nhụt rổi đấy. Ngay đêm nay anh đến bảo cho mụ ấy biết, rằng đã gặp và nói lại những lời của mụ ấy cho Thúc sinh và Vệ Hoa Dương nghe rồi, nhưng họ bảo rằng Mã Bất Tiến mua con nhà lương thiện về làm việc đê hèn và mụ Tú thì ép liệt nữ làm gái lầu xanh. Cứ như thế, nếu mụ biết lỗi thì ta sẽ tha thứ, bằng mụ không biết điều thì ta sẽ cáo phát cả hai tội luôn thể!

    Bộ Tân y lời, liển đem câu chuyện ấy nói lại với Tú bà.

    Tú bà nói:

    Giong lưỡi của họ đến như thế, tôi còn biết nói làm sao?

    Bộ Tân nói:

    Họ là người không sợ việc gì đâu! Một khi công việc đưa đến quan thì sẽ lộ ra câu chuyện nguồn gốc năm xưa. Dù không thế nữa thì bà cũng phải tiêu tốn không biết bao nhiêu tiền bạc. Chi bằng đã chót gặp ma thì phải luỵ ma. Bà phải thân đến nhà cầu cạnh Hoa Dương đi, vì hắn là tay quang côn sừng sỏ, thua mềm chứ không chịu thua cứng đâu. Nếu bà đến cầu hắn, tự nhiên hắn sẽ bỏ qua những thù oán trước, chớ mà bà định kiện nhau với hắn, thi hắn là tay có tiền, lại quen biết nhiều trong đám sai nha. Việc lỡ ra thì không biết ai thắng ai bại? Việc này tôi không dám dính dáng đến đâu!

    Tú bà nói:

    Tất nhiên là tôi phải cầu hòa, chớ lấy gì mà đối chọi được với các ông ấy. Nhưng mà cầu hòa thì tôi phải phiền ông dàn xếp giúp cho!

    Bộ Tân cười nói:

    Điều đó bất tất phải nói! Bây giờ tôi hãy xin về, sáng sớm mai sẽ đến!

    Tú bà nói:

    - Trời tối rồi! Ông nằm nghỉ lại đây để sớm mai tiện việc bàn bạc mà làm việc.

    Bộ Tân cũng vui lòng ở lại.

    Bên kia, Thúc sinh đợi lâu không thấy Bộ Tân trở lại, Hoa Dương liền nói:

    - Lão Bộ không về thì việc tất xong. Ngày mai mụ Tú tất đến cầu hòa. Vậy ta phải làm như thế.. như thế..

    Thúc sinh nói:

    - Xin y lời.

    Sống hôm sau, Tú bà sai Bảo nhi sửa soạn bốn hộp đồ ăn cùng Bộ Tân đến nhà họ Vệ nhờ người vào thông báo thấy Vệ Hoa Dương ra nói:

    Không biết bà hạ cố nên chưa kịp đón tiếp! Tú bà nói:

    Tôi đã làm kinh động đến ngài.

    Kế đó mọi ngưòi chào nhau rồi ngồi xuống. Hoa Dương nói:

    Dám hỏi Tú bà đến đây có chuyện gì thế? Tú bà nói:

    Nghe tin con gái tôi định kết duyên với cậu Thúc, nên tôi đến nhờ ông làm mối nên nghĩa giao hảo của hai nhà!

    Hoa Dương nói:

    Nghe đâu cậu tú định sửa soạn cùng bà Ngô, Việt giao binh, ngờ đâu bà lại muốn kết nghĩa Tấn, Tần.

    Tú bà nói:

    Gái đĩ tòng lương là việc rất tốt, tôi không hề làm khó khăn gì. Sao cậu Thúc lại định kiện tôi, hay là ngò tôi có bụng dạ nào muốn sinh sự đó chăng? Mấy bữa trước tôi tìm hỏi mãi không được tin gì. Hôm qua gặp ông Bộ mới biết là con tôi hiện ở nhà ông Vệ, vì thế tôi đến nhờ ông giúp cho thành việc vui mừng của hai nhà!

    Vệ Hoa Dương nói:

    Bà vốn chưa hiểu rõ câu chuyện trong đó. Thoạt đầu con gái bà cáo trạng tòng lương thì cậu Thúc định xin niêm yết ngay. Song tôi khuyên cậu hãy thong thả, chờ coi bên bà hành động thế nào rồi sẽ gây chuyện cũng chưa muộn. Nay bà lại đến nhờ tôi giúp đỡ, thế là đúng quẻ cầu tài rồi. Vậy tôi mời cậu Thúc ra đây để ba mặt một lời cho dễ nói chuyện.

    Nói đoạn, đứng dậy vào nhà trong, hồi lâu dắt Thúc sinh cùng ra. Thúc sinh thấy Tú bà, liền hỏi:

    Thế nào? Bà mẹ đến đây là định giảng hòa hay định giao tranh đấy? Tú bà nói:

    Định giao tranh thì đã chẳng đến đây! Tôi nghĩ Kiều nhi là con nhà lương thiện, nay lấy cậu khác nào vật đã gặp được chủ. Tôi dù mến nó đến đâu cũng đành phải nén lòng lìa dứt, vì thế mới đến nhờ ông Vệ đây làm mối để gả cho cậu!

    Vệ Hoa Dương nói:

    Thôi, cậu Thúc ạ. Nay bà Tú không nói năng gì, lại đến nhờ tôi thì cũng đáng kể là mặt nữ trượng phu thức thời lắm đấy. Như thế cậu cũng nên gác bỏ ý đã định để mà bàn việc chuộc mình cho cô Kiều! Còn về phần bà Tú, bà đã đến giảng hòa thì tờ giây viết bán mình cho Mã Quy làm thiếp, bà trả lại cho cô Kiểu, rồi viết một tờ khác cho cô ấy đi lấy chồng. Một bên giao tiền, một bên giao văn khế, thế là xong chuyện!

    Tú bà nói:

    Thế thì ngoài số tiền bán mình ra, cậu Thúc trả thêm cho tôi một số như thế nữa thôi.

    Thúc sinh nói:

    Cô ta tiếp khách ba năm, số tiền đã hơn gấp mười rồi. Ý tôi lúc đầu là định kiện nhau với bà và chẳng cho bà một lạng nào hết nhưng nay bà đã biết nghĩ lại thì tôi cũng thôi và chuộc khế bán bằng một nửa số tiền trước đây.

    Vệ Hoa Dương cười nói:

    - Một bên đòi nhiều, một bên muốn ít, đều không đúng cả. Cứ nguyên giá mà chuộc đi và hẹn bữa mai, hai bên giao giả cho xong là được.

    Nói xong, hổi gia đinh đem rượu ra uống. Tú bà cũng gọi Bảo nhi mở hộp, hâm rượu lên. Mọi người cùng ngồi ăn uống, trò chuyện vui vẻ, rồi mới giải tán.

    Hôm sau, Tú bà cùng Mã Bất Tiến đến nhà họ Vệ. Vệ Hoa Dương đặt tiệc rượu linh đình, mời thêm mươi anh em đến dự, rồi ba mặt một lời thuật lại câu chuyện hôm qua. Thúc sinh cân bốn trăm năm mươi lạng bạc giao cho Tú bà. Tú bà nài thêm. Thúc sinh lại phải thêm năm mươi lạng. Tú bà coi chừng không thể nài hơn nữa, đành phải đưa hôn thư trước ra, lại viết một giấy nhận tiền, giao cả cho Thúc sinh. Thúc sinh nói:

    Chẳng biết giấy này có phải do chính tay em Kiều viết hay không?

    Vệ Hoa Dương nói:

    Hôm nay, thế nào cũng phải mời cô Kiều ra tạ ơn bà Tú. Vậy cậu đem giấy vào cho cô ta xem, rồi nhân tiện bảo cổ ấy ra đây.

    Thúc sinh nói:

    Phải đấy!

    Liền cầm giấy vào nhà trong, hồi lâu cùng Thúy Kiều ra. Thúy Kiểu nhất nhất thi lễ với mọi ngưòi. Tú bà nói:

    Kiều con! Mừng cho con lấy được ông chồng phong lưu.

    Thúy Kiều nói:

    Đa tạ mẹ! Đó là nhờ phúc của me!

    Mã Bất Tiến cũng ngỏ lời chúc mừng. Thúy Kiều gật đầu không nói gì. Kế đó, mọi người nhất tề đứng dậy vái và nói:

    - Chúc mừng cô từ nay ra khỏi nơi hố lửa.

    Thúy Kiều nói:

    Xin đa tạ tất cả chư vị.

    Nói đoạn, cúi đầu chào mọi người, rồi khép nép lui vào. Hôm đó mọi người vì còn có việc riêng nên thẩy đểu ăn uống qua loa rồi giải tán. Tú bà ra khỏi nhà họ Vệ nghĩ đến Thúy Kiều kiếm ra biết bao nhiêu là tiển, nay biết tìm đâu ra cho được một người như thế nữa, bất giác ứa hai hàng lệ, cụt hứng trở về.

    Lại nói, Thúc sinh tiễn Tú bà và mọi người ra khỏi, liền đưa một trăm lạng bạc tạ ơn Vệ Hoa Dương, rồi bảo người nhà thắp đèn đốt đuốc, đón Thúy Kiều về một biệt thự làm lễ cưới. Bạn bè kéo đến chúc mừng. Thúc sinh đã mãn nguyện, trong lòng sung sướng vô ngần.

    Từ đó hai người tình nghĩa càng nồng, kính nhau như khách. Một hôm, có tin cha từ quê đã đến, Thúc sinh nói với Thúy Kiều:

    Cha tôi đã tới, thế nào người ngoài cũng có lời bàn tán. Vậy tôi về chào trước, rồi sẽ đưa nàng về bái kiến sau!

    Thúy Kiều dặn:

    Mọi việc chàng đều phải cẩn thận đấy! Dù có bị trách mắng cũng phải cố nhịn chiểu ý!

    Thúc sinh gật đầu khen phải, rồi về chào cha.

    Thúc Chính mắng:

    Thằng ngu xuẩn này! Mày đã bao nhiêu tuổi mà vội cưới vợ lẽ? Lấy vợ lẽ là không nên, mà lại còn đi rước đĩ về nhà! Mày phải biết bố vợ mày là hạng người như thế nào? Vợ mày là tiểu thư con nhà quý phái, biết mày lấy vợ lẽ, giận đến núi cao đầy nước thì mày bảo chịu sao nổi điểu tức giận đó. Mày phải đuổi ngay con ấy về nhà họ Mã đi thì muôn việc đều êm. Chứ mà còn say mê không tỉnh thì dù có phải đi kiện tao cũng đi kiện để đuổi nó đi.

    Thúc sinh nói:

    - Lạy cha! Cha mắng con, đánh con, con xin cam chịu, chớ bảo con đuổi cô ấy trở về làm đĩ thì thể diện con ra thế nào? Con chết thì thôi, chớ việc này khó bề nghe lời cha được.

    Thúc Chính cả giận nói:

    - Mày cưỡng lời tao thì tao nhất định phải đi kiện để đuổi nó đi.

    Thúc sinh nói:

    - Quan thì phải chiếu luật, chỉ có luật cho gái đi tòng lương, có luật nào bắt con gái nhà lương đi làm đĩ..

    Thúc Chính quát:

    - Mày cứng lí sự thì tao nhất định phải đuổi nó đi.

    Nói xong chạy thẳng ra ngoài. Vừa may gặp quan phủ đi qua, Thúc Chính liền la lớn kêu oan, nói là con ngỗ nghịch với cha.

    Quan phủ nghe nói, bảo dẫn về nhà môn và hỏi xem việc gì. Thúc Chính nói:

    - Bẩm quan! Con tôi lấy một gái đĩ. Tôi bắt nó đuổi con kia về lầu xanh, nó ngỗ nghịch không chịu đuổi đi.

    Tri phủ hỏi:

    Lấy nhau đã bao lâu? Thúc Chính nói:

    Bẩm, đã gần một năm rồi!

    Tri phủ hỏi:

    Con ấy ở nhà ông, có làm nhơ nhớp đến môn phong nhà ông không?

    Thúc Chính nói:

    Bẩm! Cái đó thì không có!

    Tri phủ lại hỏi:

    - Con ông là hạng người thế nào?

    Thúc Chính nói:

    - Bẩm quan! Nó là nho sinh huyện Vô Tích!

    Tri phủ hỏi:

    Nếu đã là nho sinh lấy vợ lẽ về nhà rồi lại cho trở về tiếp khách thì còn ra gì nữa. Ông vì cớ gì mà bắt chúng phải bỏ nhau?

    Thúc Chính nói:

    Bẩm! Đó là chỗ quan lớn chưa thấu rõ cho! Là vì cha vợ nó là Lại bộ thiên quan, vợ nó đương trạc trẻ trung, sợ rồi không thể dung nhau được, cho nên phải bắt nó đuổi con kia đi.

    Tri phủ nói:

    - Té ra như thế! Vậy gọi nó đến để bản chức hỏi xem ra thế nào.

    Liền thảo tờ trát màu hồng, giục một công sai đem đi đòi Thúc sinh đưa cả người thiếp đến hầu. Thúc sinh vốn đứng sẵn ngoài cổng phủ, khi thấy có trát hồng đòi, liền bước vào công đường bái kiến.

    Tri phủ nói:

    Cha anh thưa anh vể tội ngỗ nghịch. Anh nói thế nào? Thúc sinh nói;

    Bẩm quan lớn! Tôi học hành, biết lễ nghĩa, đâu dám làm điều ngỗ nghịch. Chỉ vì từ ngày năm ngoái, tôi có lấy kĩ nữ Mã Kiều làm vợ lẽ. Đã gần một năm, nay cha tôi bắt phải đuổi người ấy về làm đĩ, như thế thì thể diện nho sinh này sẽ ra sao? Vả lại người đàn bà ấy không hể phạm phải một trong số bảy tội nặng phải li dị. Đã là vợ nhà lương thiện rồi mà phải bắt sa vào nhà đĩ thì lòng sao nỡ. Cho nên tôi kiên quyết không tuân lời, vì thế cha tôi nói là ngỗ nghịch.

    Tri phủ nói:

    - Điều đó quả nhiên là không nên làm, hãy cứ về đi, ta sẽ có cách phân xử.

    Giữa lúc này, bỗng thấy Thúy Kiều đến. Tri phủ nói:

    Mã Kiều! Ông Thúc Chính đến thưa, xin bắt chị trở về lầu xanh, chị nói thế nào?

    Thúy Kiều nói:

    - Bẩm quan lớn! Chỉ có gái đi tòng lương chớ không có lí bắt đàn bà nhà lương thiện đi làm đĩ. Việc này thực khó có thể tuân lệnh!

    Tri phủ nói có ý thử thách:

    - Nhà họ Thúc không cần đến chị, tất nhiên trả chị về nhà đĩ. Nếu chị không tuân, bản chức tất nhiên phải dùng hết pháp trừng trị!

    Thúy Kiều nói:

    Bẩm quan! Tôi xin quyết chịu chết dưới hình pháp, chớ không muốn trở lại làm đĩ.

    Tri phủ hối người đem ra một chiếc gông và nói:

    Đánh đòn thì ta hãy tha cho, nhưng phải mang gông đi rao một tháng, sau đó mới quyết định cho chị khỏi phải trở về nhà đĩ.

    Thúy Kiều nối:

    - Xin tuân lệnh của quan lớn.

    Lập tức đóng gông vào cổ. Thúc sinh chạy vào công đường ôm lấy Thúy Kiều khóc lớn:

    - Tôi làm lụy nàng rồi! Tôi làm luỵ nàng rồi!

    Tri phủ hỏi:

    Anh làm luỵ nó như thế nào? Thúc sinh nói:

    Bẩm! Ngay lúc nho sinh này muốn cưới nàng, nàng đã đoán trước đến việc này. Không ngờ ngày nay quả đúng như lời!

    Trí phủ nói:

    Nếu quả như vậy thì chị này cũng là người hiểu biết đấy.

    Thúc sinh nói:

    Bẩm! Nàng không chỉ hiểu biết nhiều mà còn rất thông chữ nghĩa. Xin quan lớn mở đường tha cho!

    Trí phủ nói:

    Mã Kiều đã thông chữ nghĩa, sao không lấy "chiếc gông làm đầu đề vịnh thử một bài. Ta biết một tài nữ hồi xưa cũng lấy đầu đề ấy vịnh thành khúc" Hoàng oanh nhi ", nghe rất phong nhã. Vậy chị cũng vịnh ngay một bài tức sự, nếu nghe được ta sẽ tha cho.

    Thúy Kiểu vâng lời, liền cầm bút viết ngay khúc" Hoàng oanh nhi. "

    Từ rằng:

    Với gỗ tuy thù sâu,

    Mừng trong vòng được ló đầu.

    Ôi! Khung vuông tròn khoe thân ô nhục!

    Nhưng hình hài khúm núm, thẹn lòng nhau.

    Ngồi đáy giếng, lo âu,

    Đáng thương thay mắt cạn khô lệ sầu!

    Ơn hiền hầu!

    Day cho cứng cổ,

    Lại chẳng bắt làm ca lâu.

    Tri phủ xem xong, vui vẻ nói:

    Bài này so với bài trước, lại càng hay hơn! Thật là giai nhân sánh với tài tử. Thôi! Ta tha cho về đoàn tụ với nhau!

    Liền hối tả hữu mở gông tha cho Thúy Kiều, đoạn gọi Thúc Chính lên khuyên nhủ:

    Người ta kiếm được người vợ như thế, thật là khó lắm. Ông sợ nhà thông gia quở trách thì đừng đưa chị này về quê nhà là yên chuyện. Cha con nhà ông đã đến đây cũng phải lượng tình, còn như bố vợ không có lí gì cấm đoán được việc này!

    Thúc Chính nghe nói ngậm miệng, không biết đáp lại thế nào. Quan phủ hối tả hữu sửa soạn cờ quạt, cỗ nhạc, kiệu hoa có chữ" Hỷ"đỏ, đưa hai người song song về nhà.

    Hai người lạy tạ Tri phủ, cảm ơn tác thành rồi lên kiệu trở về, rất là vui sướng.

    Không biết hai người về sau thế nào, xin xem hồi sau phân giải.
     
  4. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    BIỆT LÝ ĐAU KHỔ, SAO NỠ CHIA PHÔI

    GHEN TUÔNG SÂU CAY, KHÔNG HỀ NÓI HỘ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Vợ chồng ân ái, bỗng chốc chia phôi, cố nhiên khó bề chia dứt. Song cứ một mực khóc lóc thảm thương thì cũng không phải là điềm tốt. Thúc sinh chia tay với Thúy Kiều, chẳng qua tạm biệt để về thăm quê, ít là sáu tháng, nhiều chỉ một năm, hà tất phải lệ nhòa máu chảy, đòi đoạn can trường, chừng như vĩnh quyết, thảo nào chuyến đi này thành ra sinh li tử biệt.

    Hoạn tiểu thư ghen tuông sâu độc, song sở dĩ không nói ra ngay cũng chỉ là cứ lẳng lặng thử coi Thúc sinh thú thật hay không thú thât, che giấu hay không che giấu đó thôi. Nếu thú thật nói ngay, thì tuy lấy vợ lễ, chia sẻ yêu thương, mà cái tình vợ chồng vẫn còn. Đằng này Thúc sinh lại giấu biệt không nói, thành ra chỉ biết yêu vợ lẽ mà không biết yêu vợ cả. Yêu và thương đều mất cả, thế thì ai mà không giận? Đã giận rồi thì không thẳng tay làm khổ sao được? Làm khổ Thúy Kiều tức là làm khổ Thúc sinh này.

    Nếu Thúc sinh nghe lời Thúy Kiều, về đến nhà liền thú thật và xin lỗi thì Hoạn tiểu thư dù có ghen tuông đến đâu cũng quyết không nỡ quá khắc nghiệt đến như vậy. Thế mà anh chàng lại không nghe lời khuyên bảo của Thúy Kiều, giấu đầu hở đuôi, để gây tai vạ cho Thúy Kiều đến như thế. Vả chăng, Thúc sinh và Hoạn tiểu thư kết duyên với nhau đã lâu mà lại không biết vợ là người thế nào, thật cũng tầm thường lắm thay!..

    Lại nói, Thúc Chính thấy tri phủ phán truyền cho Thúc sinh và Mã Kiều được nên duyên vợ chồng lâu dài, đã đến bước này chẳng biết làm sao, dành phải nghe lời dặn của tri phủ, che dấu kín đáo không để cho người nhà biết chuyện.

    Hôm sau, Thúc sinh cùng Thúy Kiểu tới lạy tạ ơn cha. Thúc Chính nói:

    Con ạ! Không phải cha không thể dung được con đâu! Chỉ sợ con dâu lớn ở nhà không dung được con thôi!

    Thúy Kiều nói:

    Thưa cha! Con sẽ hết sức làm tròn bổn phận của kẻ lẽ mọn. Mặc dù chị con có làm điểu gì ngang trái, con cũng xin hết sức cam chịu.

    Thúc Chính nói:

    Ừ! Con nói cũng phải, nhưng con không về Vô Tích thì nó cũng không làm gì được con.

    Thúy Kiều lạy tạ lui ra. Thúc Chính dặn Thúc sinh xếp một căn nhà mới cho Thúy Kiều ở riêng, kẻo người bên nhà đến trông thấy sinh chuyện thêm phiền.

    Trên dưới cứ một mực bưng bít như vậy. Chẳng ngờ có người biết, đem chuyện ấy chuyển đến tai Hoạn tiểu thư. Hoạn tiểu thư cười nói;

    Ta chỉ muốn chàng cứ giấu ta. Nếu chàng nói rõ cho ta biết lấy vợ lẽ thì một là ta phải chiều chồng, hai là phải giữ thể diện của mình nữa. Nay chàng đã giấu ta thì ta phải nhân đó tính kế làm cho chúng câm miệng không thể nói gì được nữa, thử xem chúng có cách nào thoát được tay ta hay không?

    Bỗng có một tên người ở muốn lấy lòng chủ, ton hót:

    Bẩm bà! Ông con ra ngoài, nghe nói mới cưới một cô vợ lẽ tài sắc hơn người.

    Hoạn tiểu thư nghe, không đợi người kia nói hết, liến quát mắng om sòm:

    Tên này muốn chết! Ông lấy vợ lẽ, có khi nào lại không nói với ta? Chắc là ông đánh mày, bây giờ mày đến trước mặt ta, đặt điều gây vạ, để li gián vợ chồng ta chứ gì? Thật là đáng giận!

    Liền phạt người ấy phải tự vả vào mồm ba chục cái, đoạn còn hầm hè nói:

    - Tên này láo thật! Gây vạ cho người khác đã đành, sao lại dám gây vạ cho cả ông chủ nữa? Từ nay về sau, đứa nào còn tầm bậy tầm bạ nữa thì bà sẽ bẻ bốn cái răng cửa.

    Bọn người ở thấy vậy không ai còn dám hé môi nữa.

    Bỗng một hôm, có người vú em, gọi là mụ Lí, nói với Hoạn tiểu thư:

    - Dễ chừng việc cậu lấy vợ lẽ là có thật, mợ ạ!

    Hoạn tiểu thư nói:

    - Tôi vẫn tin nhà tôi lắm. Nếu nhà tôi lấy vợ lẽ, tất không giấu tôi đâu! Vú vừa nói câu chuyện ấy là nghe ở miệng ai nói ra?

    Mụ Lí nói:

    Đó là nghe anh Thúc Sô từ Lâm Tri về nói đấy. Tiểu thư nói:

    Đặt điều gây sự, té ra là thằng này. Hồi trước nó đánh vỡ chiếc chén ngọc là vật ưa thích của nhà tôi, nên nhà tôi đã đánh nó một trận đòn. Nó vẫn để bụng, nay mới thêu dệt ra câu chuyện, cốt gây tức để làm tôi mang tiếng là người vợ bất hiền và làm nhà tôi mang tiếng là người chồng bạc hạnh, thật là đáng giận!

    Liền bảo Thúc Năng ra gọi Thúc Sô vào. Giây lát Thúc Sô đến. Hoạn tiểu thư quát bảo cả bốn gia đinh:

    Thằng Thúc Sô này hỗn xược, dám phỉ báng chủ nhà, vậy bay nhổ hộ tao bốn cái răng cửa của nó.

    Bọn gia đinh nghe xong liền trói Thúc Sô lại, rồi kẻ kìm người búa nhất tề ra tay. Thúc Sô kêu thét lên một tiếng, nằm chết ngất dưới đất, hồi lâu mới tỉnh, thì đã bị nhổ mất bốn chiếc răng cửa rồi.

    Từ đó vê sau, không còn một ai dám nói đến việc chủ nhà lấy vợ lẽ nữa. Qua hơn một năm, im lìm như không ai nghe biết có chuyện gì cả.

    Trong thời gian ấy, Thúc sinh đã từng sai một gia dinh thân tín về nhà dò xét chuyện này nhưng cũng tuyệt không hề nghe ngóng thấy gì cả bèn trở về báo lại. Thúc sinh mừng lắm nói với Thúy Kiểu:

    Tôi cưới nàng đã hơn một năm và sai người về nhà nghe ngóng thì chị cả không hề hay biết gì. Nàng tính giấu giếm như thế có khéo hay không?

    Thúy Kiều nói:

    Người đi động cỏ, chim bay rụng lông. Ở Lâm Tri này kinh động đến quan nha như thế, chẳng lẽ bên nhà lại không chút tăm hơi gì cả. Có lẽ là có mưu gian gì đây?

    Thúc sinh nói:

    Nàng đoán cũng phải! Song những thư từ qua lại, không có một chút gì tỏ ra là biết có việc này. Không lẽ lại không đáng tin sao?

    Thúy Kiều nói;

    Việc tuy thế song thiếp vẫn ngờ. Chàng ở Lâm Tri lâu, nhân lúc chị chưa biết gì, tưởng nên trở về nhà thăm một chuyến dò xem. Nếu có chuyện gì cũng tiện việc điều đình, bằng không có gì nữa cũng để cho chị an tâm. Chàng thường nói chị ấy là người ít nói ít cười, mừng nhiều giận lắm cũng không lộ ra sắc mặt. Hạng người ấy cơ trí sâu xa, thiếp rất sợ. Còn thật thà trung hậu như chàng, e không phải là địch thủ của Trí đa tình [23 chú thích] đâu?

    Thúc sinh nói:

    - Thật thế! Chị ấy với tôi, đôi bên ân ái rất là ý hiệp tâm đầu. Từ khi lấy nhau đến nay chưa có điểu gì ngang trái. Nhưng quả thật tôi sợ chị ấy như cọp, vì chị ấy cử chỉ trang nghiêm, làm việc không cẩu thả. Gần chị ấy như gần thần ninh, không hể dám phóng túng. Đã lâu rồi cùng muốn về để xem chị ấy có biết hay không, chỉ vì mới cưới nàng nên không nỡ vội xa cách đấy thôi!

    Thúy Kiều nói:

    - Chị ấy có yên thì ta mới được yên. Làm cho chị yên, tức là để ta yên. Không nhân lúc chuyện này chưa vỡ lở mà tự điều chỉnh đi, một mai việc lộ, biết làm thế nào? Thiếp đã lấy chàng, là người của chàng, chỉ mong một nhà hòa thuận, trên dưới yên vui, còn từ đây về sau, ngày xuân còn dài, lo gì?

    Thúc sinh nói:

    - Nếu thế thì tôi cũng yên lòng về thăm nhà vậy!

    Bỗng có người đưa tin cha gọi, Thúc sinh liền theo sang cửa hiệu hầu cha. Thúc Chính thấy con đến, liền bảo:

    - Vương thị đã là vợ lẽ con rồi, cố nhiên là ở lâu dài cùng trời đất. Nhưng con ở ngoài đã lâu cũng nên về nhà cho ổn định lòng vợ cả. Chớ để người ngoài chê là đắm đuối bên này, phụ tình bên kia làm cho ông bà bên ấy tức giận thì cha lại thêm mang luỵ vào thân.

    Thúc sinh nói:

    Vợ lẻ con cũng đã khuyên con về thăm nhà một chuyến, nay cha lại nói như thế thì để bữa mai, còn sẽ về Nam.

    Thúc Chính mừng lắm, liền thu xếp tiền bạc để đưa Thúc sinh lên đường. Thúc sinh về, nói lại ý cha cho Thúy Kiểu nghe. Đêm hôm ấy Thúy Kiều sửa soạn tiệc rượu để tiễn đưa Thúc sinh và nói:

    - Chàng đi chuyến này cần phải khéo an ủi. Ngày này sang năm, thiếp chờ mong chàng trở lại!

    Thúc sinh nói:

    - Tôi đi nhiều là nửa năm, ít chỉ ba tháng, thế nào cũng xong. Không để nàng phải nhọc lòng mong đợi lâu!

    Thúy Kiều nói:

    Chàng ở đây đã hơn một năm mới tính việc trở về. Nếu ba tháng nửa năm lại muốn đi ngay, há chẳng làm cho chị cả sinh lòng ngờ vực? Đã ngờ vực thì tất sinh chuyện. Nên chi, dù chàng có nhớ thiếp đến mấy đi nữa, không được một năm là nhất quyết không nên quay lại đây.

    Thúc sinh nghẹn ngào nói:

    Phong ba vô hạn, vừa mới được yên. Nhân duyên hữu hạn, lại vội xa cách, thì dù sắt đá cũng tan tác lòng!

    Thúy Kiểu gạt nước mắt, nói:

    Thiếp há không muốn cùng chàng đoàn tụ luôn luôn hay sao? Chỉ vì thời cùng thế bách, không thể hoãn được, nên mới phải đang tâm giục chàng lên đường, chớ thật lòng thiếp cũng tơi bời đau đớn lắm!

    Kế đó, hai người trông nhau mà khóc. Thúc sinh nói:

    Nàng vốn thạo thơ từ, bữa nay biệt nhau, sao mỗi người không làm một thiên để ghi lại cuộc li biệt này!

    Thúy Kiêu nói:

    Xin chàng ngâm trước!

    Thúc sinh đặt chén, rồi làm một bài thơ rằng:

    Dùng dẳng đau li biệt,

    Rượu tiễn lệ chan hòa.

    Làng cũ nay trở lại,

    Quê người ngày dần xa.

    *

    Thuyền trôi buồm mở rộng,

    Vó ngựa mù bến sông.

    Hai miến xa vạn dặm,

    Sầu đau mắt ngóng trông.

    Thúy Kiều xem rồi nói:

    - Tình buồn ý xa, không kém gì bài phú li biệt của Giang Yêm. Vậy thiếp xin họa lại bằng mười bài "Đêm nay đêm gì?" để rộng thêm ý:

    l. Đêm nay đêm gì?

    Chàng làm bài thơ đi xa,

    Thiếp ở thâm khuê lòng ghi nhớ,

    Hỏi chàng bao giờ trở lại nhà?

    2. Đêm nay đêm gì?

    Thương tình cảnh biệt li,

    Một khúc li ca hai ngấn lệ,

    Dương quan, mai sớm tiễn chàng đi.

    3. Đêm nay đêm gì?

    Li biệt đau lòng thay,

    Canh thâu trằn trọc không an giấc,

    Bỗng đâu vó ngựa ruổi đường mây.

    4. Đêm nay đêm gì?

    Mai sớm mỗi người đi một nơi,

    Mong ngóng đường về khắp phương trời

    Yêu mà chẳng thấy lệ đầy vơi!

    5. Đêm nay đêm gỉ?

    Trăng tròn người chia li,

    Muôn dặm non sông, đường cách trơ,

    Ngày về chẳng biết đến bao giờ?

    6. Đêm nay đêm gì?

    Giáp mặt lòng nghẹn ngào,

    Chợt nghe tiếng nhạn khóc trên trời,

    Như oán tình li chửa hết lời.

    7. Đêm nay đêm gì?

    Rượu say lòng héo sầu,

    Nghe nói giải buồn thường mượn rượu, Mà sao càng rượu lại càng sầu?

    8. Đêm nay đêm gì?

    Trông trăng mà ngại ngùng,

    Trăng tròn trăng khuyết một tuần trăng, Chàng đi chàng về không biết chừng.

    Đêm nay đêm gì? Gượng vui tiễn người đi, Sợ chàng ủ rủ thêm sầu bi,

    An ủi cho chàng buổi biệt li.

    10. Đêm nay đêm gì?

    Sinh li tử biệt ngậm ngùi than,

    Sinh li, đành khổ chia hai ngả,

    Tử biệt, cùng nhau gặp suối vàng.

    Thúc sinh xem thấy lời thơ bi thương, bất giác chảy nước mắt, cơ hồ muốn khóc rống lên. Thúy Kiều cũng nghẹn ngào hồi lâu mới nói nên lời:

    Chàng đừng có làm như thái độ nữ nhi. Người ngoài trông vào sẽ cho chàng là không có chí khí trượng phu. Người đời nói: "Đi xa phải kiêng kị sự đau thương". Thiếp xin chàng hãy nguôi đau thương, há không nghe câu Trượng "phu tuy có lệ - Không gạt lúc chia li" hay sao?

    Thúc sinh nói:

    - Tôi không phải là không biết, song tình thương đến thế thì sự khắc tình nhi nữ phải dài mà khí anh hùng phải giảm! Huống đôi ta là hàng giai nhân tài tử, sự chung tình thường ở bọn ta dù đến bậc cha mẹ và mọi người trong nước chê trách thì cũng có can chi?

    Thúy Kiều nói:

    - Chàng dạy thế tức là yêu thiếp quá lắm rồi. Há phải đâu thiếp lại muốn chia cắt ái ân, nhưng ngày mai chàng đi xa, đường trường sương gió, mà đem cái thân thể quá đau đớn xông phi vào đó, thì không phải là tự biết quý sức khoẻ của mình!

    Liền rót chén rượu đầy đưa mời Thúc sinh và nói:

    Mời chàng cạn chén này. Thiếp xin ngâm một bài thơ để tăng thêm hăng hái cho chàng lúc lên đường!

    Thúc sinh đỡ lấy chén rượu và nói:

    Lúc này trong cổ nghẹn ngào, thật không sao uống trôi được nữa!

    Thúy Kiểu nói:

    Rượu biệt li cần phải cố nuốt để giải lòng phiền!

    Bèn đọc mấy vần thơ cổ rằng:

    Ngàn dặm có bao xa?

    Mười năm về muộn gì!

    Cùng trong trời đất cả,

    Hà tất giận chia li?

    Thúy Kiểu ngâm xong, Thúc sinh nói:

    - Bài thơ ấy giải sao được mối sầu cho tôi, chỉ làm tăng thêm nỗi u uất của tôi mà thôi! Lúc này tôi buồn ngủ lắm rồi.

    Thúy Kiều nói:

    Nhưng chỉ sợ xuân sắc trêu người, ngủ chẳng được mà thôi. Thúc sinh nói:

    Đây chính là lúc đêm xuân một khắc đáng ngàn vàng, không nên hờ hững bỏ trôi qua!

    Đã vậy, xin để thiếp sửa soạn lại chăn gối, mời chàng đi nằm. Thúc sinh ngâm:

    Màn phù dung đêm nay cùng ngủ,

    Mai lên đường lạnh lẽo tính sao?

    Kiều vội đáp luôn:

    Nước chảy chưa khô người vẫn trẻ

    Năm sau ta lại bắc Ngân hà.

    Rồi đó hai người lên giường, chính là lúc đào thơm mận chín, ái ân mặn nồng không dứt. Mây mưa lai láng, tình cảm tràn trề mãi tới canh năm mới tàn cuộc. Trời sáng rõ, Thúc sinh dậy chải đầu rửa mặt xong thì ngựa xe đã giục giã lên đường.

    Lúc này Thúc sinh không thể lưu luyến được nữa, đành chỉ nói hai chữ: "Giữ mình", rồi rưng rưng nước mắt mà đi. Thúy Kiều muốn tiễn ra ngoài cửa, chợt thấy Thúc Chính và các bạn ờ cửa hiệu cùng kéo nhau đến tiễn hành. Vì thế Thúy Kiều không theo tiễn được xa, chỉ đứng sau bình phong gạt lệ mà thôi. Thúc sinh đưa hành lí ra, xong lại quay vào nói với Thúy Kiều:

    Tôi đi đây! Nàng cố nén buồn phiền nhé!

    Vừa nói, vừa vái dài một cái, nước mắt chảy ròng ròng khắp mặt. Thúy Kiểu không thể đáp lại được một lời nào, cũng chỉ châu lệ chứa chan đầy mặt và gật đầu mà thôi.

    Thúc sinh ra bái từ cha và chào các bạn rồi lên ngựa đi về phía nam, đến doanh Vương gia, qua Hoàng Hà, giong thuyền đi Vô Tích, chừng sáu bảy ngày nữa thì cập bến về đến nhà. Thúc sinh sợ Hoạn tiểu thư đã nghe phong phanh được ít nhiểu nên trong lòng có phần thấp thỏm. Song đã đến nơi, đành cứ phải bước vào.

    Thị nữ thoáng thấy vội báo tin cho chủ biết. Tiểu thư lật đật chạy ra chào:

    - Ô kìa, cậu đã về!

    Thúc sinh nói:

    - Chà! Xa nhau lâu quá! Lâu quá!

    Tiểu thư hỏi:

    - Cửa hiệu vẫn khá chứ? Cha có mạnh khoẻ không?

    Thúc sinh nói:

    - Tinh thân cha hồi này khá hơn trước. Việc buôn bán trong cửa hiệu vẫn được phát đạt. Còn bên này, ông bà nhạc vẫn được khỏe mạnh như thường chứ?

    Tiều thư nói:

    - Cha mẹ thiếp đều được như thường. Mới đây, mẹ thiếp có hứa sẽ tìm một thị nữ kháu khỉnh cho sang hầu thiếp, song không biết bao giờ mới chọn được người vừa ý..

    Nói xong, liền hối nhà biếp sửa soạn tiệc rượu tẩy trần để nghênh đón ông chủ. Kế đó, hết thảy gia đinh và phụ nữ trong nhà đều ra lạy chào.

    Đêm ấy, vợ chồng cùng nhau ăn uống vui vẻ hết mức cho đến tận lúc tan tiệc. Đúng như lời thường nói: "Mới cưới không bằng xa về", việc ái ân như thế nào không cần phải nói nữa.

    Ban đầu Thúc sinh còn e là vợ đã biết chuyện nên vẫn nhẩm sẵn nhiều câu để hòng đối đáp. Nào ngờ Hoạn tiểu thư không hề đả động gì đến chuyện ấy cả. Do đó Thúc sinh cũng không dám thổ lộ, chỉ bụng bảo dạ: "Nàng đã không biết thì cứ giấu thẳng cho rồi". Nhưng lại nghĩ: "Thúy Kiều dặn ta khi về đến nhà thì thú thật ngay, lời ấy cũng phải. Nếu để chậm một ngày thì không tiện nói nữa". Chợt lại nghĩ: "Bữa nay ta mới về, vợ chồng dương mừng rỡ hoan hỉ, nếu ta đem ngay chuyện này ra nói, vạn nhất nó trở mặt làm om sòm lên thì còn thể diện nào nữa? Chi bằng hãy cứ yên ngủ, ngày mai dò la trong bọn gia đinh, nếu trong đó đã biết chút tăm hơi thì ta sẽ nói rõ cũng chưa muộn gì".

    Thúc sinh suy tính đắn đo hồi lâu, rồi cố lờ đi, không nói gì cả.

    Độc giả hãy nghĩ xem, thế là nhiều việc xảy ra sau này, chỉ vì thiếu mấy lời thú thật mà ra. Cho nên việc đời đến lúc cần thì phải nói ngay, nếu

    Để lỡ dịp không nói, ấy là bỏ qua mất rồi, sau này dù muốn nói nữa không thể được.

    Hôm sau, Thúc sinh lưu ý dò la hết thẩy mọi ngưòi trong nhà, nhưng không thấy một ai biết chút tăm hơi gì cả. Sau cùng có một lão bộc nói:

    Nửa năm trước đây cũng có tin đồn về việc này, nhưng bà không tin. Sau đó anh Thúc Sô từ Lâm Tri về, nói hết sự thật. Bà nghe nói nổi giận, mắng anh ta là hạng tôi tớ đặt chuyện để li gián vợ chồng nhà chủ, tình lí đểu không thể dung tha, bèn sai bẻ lấy bốn cái răng cửa của anh ta. Từ đó không còn một ai dám nhắc đến chuyện ấy nữa. Còn bà thì vẫn cười nói như thường, giồng như là không biết gì cả. Ông thường ngày vẫn qua lại thư từ với bà, sao không nói gì đến chuyện ấy. Bây giờ đây, việc chứa chất đã lâu rồi, nếu ông nói ra e chỉ mua lấy những chuyện tức giận mà thôi!

    Thúc sinh nói:

    Nếu thật bà không biết thì ta cứ giấu quách hẳn cho rồi! Lão bộc nói:

    Hiện nay những chuyện nói ra nói vào không có nữa, không anh nào còn dám hé răng và đôi nơi cách nhau hàng nghìn dặm, muốn giấu thì cũng dễ dàng thôi!

    Thúc sinh nghe lời lão bộc bèn quyết ý không nhắc đến việc ấy nữa. Cách mấy ngày sau, Thúc sinh sang thăm bố mẹ vợ. Ông nhạc đã đi vào Kinh, chỉ còn bà nhạc ở nhà. Thấy con rể đến, bà rất vui mừng, bầy tiệc khoản đãi, nói một ít chuyện phiếm, không hể có nửa lời đả động đến việc con rể lấy vợ lẽ.

    Thúc sinh bái từ trở về, trong bụng mừng thầm: "Việc làm ấy kể ra cũng kín đáo thật. Cả hai nhà đều không ai hay biết gì hết".

    Một buổi chiều, Hoạn tiểu thư nói với Thúc sinh:

    - Nếu thiếp không phải là người hiểu biết, thì suýt nữa đã bị những kẻ không tốt làm li gián đôi ta! Hồi trước Thúc Sô từ Lâm Tri về, có lẽ thấy cậu đón kĩ nữ hầu rượu, về đây có đồn đại cưới vợ lẽ. Thiếp nói: "Lấy vợ lẽ cũng là việc hay, chớ không phải là việc phạm pháp. Nếu quả thế, tất ông đã nói cho ta biết rồi. Tình vợ chồng bấy nay chúng ta vẫn tin nhau, chớ có đâu lại làm cái viêc giấu đầu hở đuôi ấy". Thế rồi, thiếp sai nhổ luôn bốn cái răng của nó, từ đó câu chuyện mới im. Rồi sau thiếp hỏi lại nó kĩ lưỡng, thì nó thưa rằng quả thật nó thấy cậu đặt tiệc đãi khách, gọi kĩ nữ về hầu rượu chơi. Đó cậu xem, tên khốn ấy có đáng giận không?

    Thúc sinh bất giác sắc mặt đỏ bừng, lúng túng không yên, bèn gắng ngượng nói:

    Nhân đặt tiệc đãi khách ở xa tới, gọi kĩ nữ hầu rượu thì có, chớ nếu lấy vợ lẽ sao không bàn trước với nàng?

    Hoạn tiểu thư nói:

    - Thiếp cũng tin là như thế. Cậu hà tất phải lúng túng không yên!

    Thúc sinh bị vợ đánh cho một đòn chặn họng, từ đó không còn có lối để tự thú nữa.

    Rồi sau đó vợ chồng ân ái rất là nồng đượm. Duy Thúc sinh không thể nào quên được Thúy Kiều.

    Thời giờ thấm thoắt, ngày tháng thoi đưa, Thúc sinh về thăm nhà xem chừng gần đầy năm. Một hôm thong thả nói với vợ:

    - Tôi xa cha đã một nâm, muốn đi viếng thăm, sau đó trở về làm lễ đại tường cho mẹ rồi còn đi thi!

    Hoạn tiểu thư nói:

    Cậu chẳng nói thì thiếp cũng đương tính giục cậu lên đường. Vì cha đã nhiều tuổi, lại một mình trú ngụ ở ngoài. Câu đang trong thời kì cư tang, cũng nên gánh đỡ khó nhọc cho cha mà chăm sóc đến công việc trong cửa hiệu mới phải. Vậy cậu định bữa nào khởi hành?

    Thúc sinh nói:

    - Hôm sau là ngày tốt, tôi định khởi hành!

    Hoạn tiểu thư liền hối gia đinh đi thuê thuyền nói là hôm sau ông định đi lên miền bắc.

    Hôm sau, Thúc sinh từ biệt vợ trở về, tiểu thư bày rượu tiễn hành. Vợ chồng ăn uống, trò chuyện rất vui vẻ.

    Qua ngày thứ ba, Thúc sinh từ biệt vợ, rồi thầy trò xuống thuyền nhổ neo khởi hành.

    Hoạn tiểu thư tiễn chồng đi khỏi, liền đáp kiệu sang thẳng nhà mẹ, nói với phu nhân:

    Lúc chồng con chưa đi, con đã toan sai bắt con khốn ấy về cho nó một mẻ hả giận, song con lại sợ mang tiếng ác là ghen tuồng và làm thương tổn đến hòa khí vợ chồng, vì thế con cứ làm lơ như không hề nghe biết. Nay chồng con đi rồi, con muốn tính một mẹo, bắt nó về dùng làm thị nữ, cứ nói là thị nữ do cha con mua cho. Khi nào chồng con về đây ở trong một nhà, khiến cho hai người muốn nhận không nhận được nhau, mà nói ra thì cũng không được. Thế là phần con thì nhổ được cái đinh trong mắt mà không mang tiếng ác ghen tuông.

    Về phần nó thì chịu tiếng ngu và phải cam chịu lòng tủi nhục. Như vậy thì con mới thỏa lòng.

    Phu nhân nói:

    Chồng con chưa đi thì có thể dùng mưu kế. Nay nó đi rồi thì con làm sao được?

    Hoạn tiểu thư cười nói:

    Con tính đã kĩ lắm. Lâm Tri là đất miền biển, nếu men đường biển mà đi thì chỉ không đầy mười ngày có thể đi về được một chuyến. Chồng con chưa đi đến nửa đường thì công việc của con đã được xong xuôi. Nhà ta có hai anh Hoạn Ưng và Hoạn Khuyển vốn là dân miền biển, thông thạo đường đi lối lại, con sẽ bầy mưu kế cho họ làm thì thế nào cũng bắt được con ấy.

    Chưa biết Hoạn tiểu thư thi hành mưu kế như thế nào, xin xem hồi sau phân giải.
     
  5. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    LŨ ƯNG, KHUYỂN THAY HOA CHẮP CÁNH

    GÁI HỒNG NHAN TRĂM TỦI NGÀN SẦU

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Anh hùng gặp nạn mất mạng là thường, huống chi Thúy Kiều là thân gái bị bọn hào nô bắt cóc đem về mà chịu tai ương thì có lấy gì làm lạ.

    Duy có điều, đường đường một vị đại thần vì nước vì dân, nếu có một vật chưa được yên nơi đúng cho thì còn lo lắng, huống lại còn dung túng vợ con ở nhà chỉ huy bọn gia nô làm việc bất công phi pháp đến như thế, hỏi rằng tâm địa ấy ra sao?

    Không biết mà làm thì không thể tể gia được. Và cũng không thể trị quốc được. Biết mà cố ý dung túng thì lại càng không nên! Than ôi! Đại để đều vì quyền thế địa vị gây nên mà không biết, không xét đấy thôi. Do đó xem ra thì trong thiên hạ những kẻ oan khuất không nơi bầy tỏ và những kẻ đau khổ không biết kêu đâu chẳng phải riêng chỉ một mình Thúy Kiều. Đọc qua đoạn này, ai mà chẳng bùi ngùi than thở đây? Thật không chỉ than thở cho Thúy Kiều, mà là than thở cho thế đạo nhân tâm..

    Lại nói Hoạn ưng, Hoạn Khuyển vốn là dân miền biển, thường cướp bóc ở ngoài khơi, sau vào Kinh tìm việc làm ăn, nghe biết uy thế của nhà họ Hoạn, bèn đến xin làm gia nô. Hoạn Lại bộ thấy hai người làm việc giỏi giang, sức mạnh hơn người bèn ghép cho mỗi người một chị vợ. Hai người cảm ơn chủ hậu đãi nên hết lòng báo đáp, bất kì việc gì cũng hăng hái hết sức.

    Hôm ấy, Hoạn tiểu thư sai gọi Ưng, Khuyển đến để bàn về việc đi bắt Thúy Kiều. Hai người cùng nói:

    - Cảm ơn tiểu thư giao phó việc nhỏ bé ấy, làm có khó gì. Chúng con sẽ từ Thái Thương ra biển, không đầy năm ngày thì đến Lâm Tri. Chỉ cần dò la đích xác chị ta ở đâu, chúng con sẽ bắt xuống thuyền rồi theo biển mà về, không quá nửa tháng sẽ có thể đưa nộp cho tiểu thư.

    Hoạn tiểu thư cả mừng, đưa một trăm lạng bạc trao cho hai người để chi dùng. Hai người vâng lệnh đi liền.

    Nhắc lại Thúy Kiểu sau khi Thúc sinh đi khỏi, trong lòng rất là lo lắng chỉ e nhà chồng xảy ra việc xô xát. Kịp khi được thư báo tin ở nhà không ai hay biết gì cả, thì lại rất lấy làm ngờ, bụng nghĩ: "Việc này xảy ra như thế mà sao không một tin đồn tới nơi, tất nhiên trong đó có duyên cớ gì?". Nhưng tiếp luôn mấy phong thư nữa, thấy đều báo tin như trước, chừng ấy mới được yên tâm. Song nhớ tình Thúc sinh, trằn trọc không thể nào nguôi, bèn làm thành sáu bài thơ, nhan đề là "Từ chàng ra đi." Thơ rằng:

    1. Từ chàng ra đi

    Ngày ngày trông chim xanh.

    Chim xanh nào có thấy,

    Chỉ thấy mây trắng tinh.

    2. Từ chàng ra đi,

    Thiếp không dám lên lầu.

    Ngoài lầu có hàng liễu,

    Tha thướt gợi thêm sầu.

    3. Từ chàng ra đi,

    Không nói cũng không khóc.

    Nói, nào sai tri âm?

    Khóc, sợ chàng trằn trọc.

    4. Từ chàng ra đi,

    Dưới đài riêng ngắm sóng.

    Ngắm sóng lòng bâng khuâng.

    Võ vàng vì trông ngóng.

    5. Từ chàng ra đi,

    Trăng soi chếch đầu giường.

    Chăn đơn khôn nhắm mắt

    Gối chiếc lạnh hơi sương.

    6. Từ chàng ra đi,

    Hàng ngày nhớ phương nam.

    Nhớ chàng, chàng chẳng thấy,

    Quần thoa lệ chứa chan.

    Đề xong thơ, Thúy Kiều lại nghĩ ngợi mãi việc Thúc sinh chưa về. Đêm ấy, Thúy Kiều ra khu vườn phía sau nhà đốt hương khấn khứa, miệng đọc mấy câu chú cầu trời:

    Tương tư muốn gạt lại càng sầu

    Suốt ngày lòng âu sầu

    Xa nhau mấy tháng đau thương

    Biết đến bao giờ mới gặp nhau

    Lầm rầm khấn vái thiên đình

    Xin run rủi cho chàng mau chóng hồi trình Nối lời nguyện ước ba sinh.

    Thúy Kiều khấn xong, vừa toan quay về, bỗng có một vài người lực lưỡng từ bụi cây xông ra, bộ dạng rất hung ác, áp đến bắt trói nàng rồi đẩy đi. Thúy Kiểu ngỡ là bọn cướp, liền nói:

    - Có vật gì đây. Xin các ông cứ lấy, còn xin tha chết cho tôi!

    Bọn vũ dũng kia chẳng nói gì cả, một tên đưa ngay dúm thuốc mê nhét vào miệng Thúy Kiều, làm cho nàng mê man không thể nói năng gì được nữa. Rồi bọn chúng kéo ùa vào trong nhà, nhặt nhạnh ít tiền bạc, đội lên đầu cho Thúy Kiều một chiếc mũ, khoác cho một chiếc áo vải xanh và dỡ lên ngựa, đoạn mở cửa giữa đi ra. Liền đó chúng lại phóng lửa đốt nhà, lửa cháy sáng rực một góc trời. Gia đình họ Thúc và những người hàng xóm thấy cháy, vội vàng chạy đến dập cứu. Nhân lúc hỗn loạn ấy, bọn kia liền kéo nhau chuồn thẳng. Bấy giờ có hai ả thị nữ chạy ra hốt hoảng nói:

    - Cô chúng tôi ra vưòn đốt hương, chúng tôi ở trong nhà pha trà, chợt thấy một bọn như hung thần ác quỷ, lôi cô vào nhà, lục soát khắp phòng, kế thấy lửa cháy. Bọn chúng kéo nhau ra, mà không thấy cô đâu, chỉ thấy một người mặc áo xanh cưỡi ngựa đi với chúng. Vậy không biết cô nấp ở đâu?

    Mọi người thoạt nghe, cả kinh nói:

    Vây thì có lẽ bị lửa thiêu rồi! Thúc Chính khóc, nói:

    - Thế thì con dâu tôi chết cháy mất rồi!

    Liền thúc giục bọn hầu trai sục tìm trong đám khói lửa, quả thấy một xác người cháy chưa nát hết. Thúc Chính thoạt thấy, yên chí là Thúy Kiều đã bị chết cháy liền khóc:

    - Thảm thương thay! Thảm thương thay! Không ngờ con dâu tôi lại đến nông nỗi này. Thôi thì thiêu quách cho xong đi, để dang giở như thế, trông càng thêm thương.

    Bèn nói người chất thêm củi vào, thiêu cho cháy hoàn loàn. Qua ngày hôm sau, mới mua một chiếc áo quan, nhặt nhạnh lấy di hài đem đi mai táng và đặt bàn thờ tại một gian phòng bên cạnh, đề bài vị "Thần vị con dâu thứ quá cố họ Vương".

    Chừng hơn mười ngày sau, Thúc sinh mới tới. Thoạt nghe tin dữ, vội vàng chạy đến trước bàn thờ, khóc ầm lên và nói:

    - Nàng Kiều ơi! Nàng đi đâu rồi? Lúc tôi cùng nàng chia tay li biệt, có hẹn ngày về. Nay tôi về đây, sao chẳng thấy nàng, khiến tôi can trường đòi đoạn, gan ruột tan tành. Ôi! Chỉ tại tôi về muộn, nếu sớm hơn mười ngày hẳn đôi ta đã được gặp nhau. Và như thế thì ngày nay dù nàng có chết đi, lòng tôi cũng còn đỡ héo hon được đôi phần. Nàng trước đây chỉ ngại về nỗi chị cả ghen tuông không chứa nổi nàng thường lấy làm lo. Biết đâu là chị cả không hề nói năng gì, mà ai biết thần lửa lại ghen ghét cùng nàng! Nàng ơi, nàng chết khổ sở như vậy, làm tôi đau đớn chết đi được!

    Thúc sinh nói đến đó bất giác ngất xỉu, ngã lăn ra.

    Thúc Chính lật đật chạy tới ôm chầm lấy con và nói:

    - Con ơi! Nào con có phụ gì vợ con đâu, chẳng qua chỉ là cái số vợ con không được hưởng thụ lộc trời đó thôi! Con cần phải giữ gìn thân thể mới được chớ!

    Rồi ông ta gọi to mấy tiếng, Thúc sinh mới dần dần tỉnh lại. Mọi người xúm vào, hết sức khuyên giải, chừng ấy Thúc sinh mới chịu ăn uống ít nhiều.

    Cách mấy ngày sau, Thúc sinh nghĩ tới, lại càng xót xa thảm thiết. Nghe đồn gần vùng có một đạo sĩ tên là Động Huyền có phép phi phù triệu tướng, thăm hỏi vong hồn, bèn sửa soạn lễ vật sai người đi mời đạo sĩ về để nhờ thăm hỏi. Rồi đó lập tràng để cầu hồn. Đạo sĩ phù phép hồi lâu, đoạn nói với Thúc sinh:

    - Người đàn bà này ma chướng thâm trọng, chưa thể chết được. Hiện đương mắc vào cái nạn bột tinh, chừng một năm sau, vợ chồng lại được gặp mặt. Song về đường nhân duyên thì không thể tiếp tục được nữa đâu!

    Thúc sinh nói:

    - Người đã chết rồi, há còn ngày sống lại được ư?

    Đạo sĩ nói:

    - Ngài bất tất nghi, chừng một năm sau sẽ lại gặp mặt, song không hề trò chuyện với nhau được một lời nào. Lúc ấy ông sẽ biết lời tôi không lầm!

    Thúc sinh nửa tin nửa ngờ, đưa lễ tạ rồi tiễn đạo sĩ ra về. Từ đó cứ âm thầm thương nhớ.

    Lại nói bọn người bắt Thúy Kiều chính là bọn Hoạn Ưng, Hoạn Quyển. Xác chết kia là thây vô chủ trên bờ biển, chúng đem buộc sẵn trên lưng ngựa đưa đến, đợi khi cửa mở thì ném vào trong nhà. Lại lột quần áo người chết, mặc vào cho Thúy Kiều làm con trai để ngưòi ta khỏi nghi ngờ. Mấy tên nhẩy trước nấp vào sau vườn rồi thực hiện kế hoạch trong ứng ngoài hợp, lại đem dầu thông tưới khắp xác chết, nên chạm lửa liền bùng ngay, mà đã cháy thì không thể cứu được nữa. Còn việc đem xác người chết đổi lấy người sống là để cho chức sự địa phương và họ nhà Thúc không truy cứu, lùng tìm gì nữa.

    Bọn chúng bắt được Thúy Kiều rồi, suốt đêm đi chừng một trăm năm mươi dặm, sáng ra đến bến, đưa vào trong thuyền, Thúy Kiều trúng độc, mắt tuy mở mà không thể nói năng mà trí cũng mơ hồ mê sảng. Bọn chúng biết Thúy Kiều tính khí cương liệt nên không cho thuốc giải độc, cứ để cho nàng mê man như vậy. Thuyền bể đi luôn mấy ngày, đến bến Thái Dương đổi thuyền thẳng về Vô Tích, rồi vực đưa đến phủ họ Hoạn. Hoan phu nhân sai người đi đón con gái về, rồi hỏi:

    - Nay đã bắt được con ấy về đây thì con định xử trí thế nào?

    Hoạn tiểu thư nói:

    - Việc này nhờ ở uy phúc của mẹ. Bây giờ thì xin mẹ cứu cho có tỉnh lại bảo cho nó biết rằng nó đã bị bán vào phủ làm thị nữ, thử xem nó có nói gì. Chừng ấy xin mẹ hãy đánh ngay cho nó một trận phủ đầu, khiến nó phải chịu phục, rồi sẽ chuyển sang cho hầu hạ con. Bấy giờ con sẽ có cách xử trí!

    Phu nhân nói:

    - Được rồi!

    Tiểu thư nói xong kiếu từ ra về. Phu nhân liến sai người dùng thuốc giải độc cho Thúy Kiểu. Hồi lâu, trong lòng Thúy Kiều bỗng tình táo, như ngủ mê thức giấc, nghĩ thầm: "Sao ta lại ở dây? Đây là đâu nhỉ?" Một mụ già ngồi cạnh thấy Thúy Kiểu tỉnh lại, liền bảo:

    - Chị đã được bán vào phủ này làm con hầu đấy!

    Thúy Kiều ngậm miệng chẳng nói sao, nhìn kĩ thì thấy nhà cao cửa rộng, đường đưòng bề thế, không phải là nhà tầm thường, nghĩ thầm: "Dễ thường là ta chiêm bao chăng? Rõ ràng là ta đang đốt hương trong vườn, bỗng thấy bọn cướp xông vào bắt trói ta.. Không biết thế nào, ta lại hôn mê đi. Bây giờ tỉnh giấc thì nhà cửa người vật đều biến đổi hết, thế thì là mộng hay bằng tỉnh đây?". Nghĩ ngợi vẩn vơ, còn đương hồ nghi thắc mắc, bỗng thấy một thị nữ đến gọi bảo rằng:

    Chị mới đến kia! Cụ lớn ngồi nhà trong cần hỏi chị đấy! Chị mau vào bái kiến cụ lớn đi!

    Lúc này Thúy Kiểu chẳng biết nói sao, đành phải theo thị nữ đi đến một nơi sảnh đường lớn, trên treo tấm biển đề bốn chữ "Thiên quan trủng tể", giữa nhà có một phu nhân ngồi, trạc chừng năm mươi tuổi, hai bên có độ ba bốn mươi thị nữ đứng hầu.

    Thúy Kiểu thấy vậy, không biết hay dở thế nào, dành phải bước tới gặp mặt.

    Phu nhân thây Thúy Kiều phong lưu chỉnh tể, bụng nghĩ thầm: "Hạng người đẹp thế này, thảo nào con rể yêu nó. Bữa nay nếu ta không ra oai thì uốn nắn sao được tính cách nó!".

    Bọn thị nữ đứng hai bên đểu hô lớn:

    - Con hầu mới đến kia! Sao không lạy chào cụ lớn đi? Muốn đánh đòn đó à?

    Thúy Kiểu giật mình, vội khấu đầu. Hoạn phu nhân hỏi:

    - Mày là người ở đâu? Họ tên gì? Vì sao chồng mày lại bán mày đến đây?

    Thúy Kiều thoạt nghe không hiểu đầu đuôi câu chuyện thế nào, chỉ rơm rớm nước mắt nói:

    Bẩm cụ lớn! Con họ Vương, nhà ở Lâm tri, là vợ người lương thiện. Ngẫu nhiên đốt hương lễ bái trong vườn, bị cướp vào bắt đi, đem đến chốn này.

    Phu nhân hỏi:

    - Mày bị bắt đi từ bao giờ?

    Thúy Kiều nói:

    - Bẩm! Đêm ấy con đốt hương là mùng năm tháng ba.

    Phu nhân làm bộ cả giận nói:

    - Con này nói láo. Lâm Tri cách đây hơn hai nghìn dặm, phải đi hàng tháng mới tới. Bữa nay mới là ngày hai mươi, sao mới nửa tháng đã đến được đây? Tao xét ra con này nói năng luẩn quẩn, cử chỉ lố lăng, không phải là quân chốn chúa lộn chồng, bị người lừa gạt đem bán tới đây, thì cũng đã làm việc chi bậy bạ, nên chồng mới phải đem bán đi phương khác. Vậy nói thật đi, đừng để phải đòn!

    Thúy Kiều khóc nói:

    Bẩm cụ lớn! Con thật là vợ người lương thiện ở Lâm Trí, bị kẻ cướp bắt đến đây. Ban đầu con vẫn tỉnh táo, chẳng biết chúng nhét vật gì vào miệng con, làm con mê man li bì, mãi đến lúc này con mới thấy tỉnh táo như cũ.

    Phu nhân nói:

    - À! Con ở này đáng ghét thật! Sao không thú thật mà lại nói câu chuyện ỡm ờ ma quỷ như vậy? Nếu không đánh mày thì mày có chịu nói thật đâu!

    Rồi mụ ta bảo bọn con hầu kéo Thúy Kiều xuống đánh đòn.

    Thị nữ hai bên dạ ran, tức thời vật Thúy Kiểu xuống đất. Rồi người giữ tay, người giữ chân, kẻ đè đầu, một người quát đánh, một người quỳ xuống ghi số. Một gậy vụt xuống Thúy Kiều kêu lên một tiếng, mông đít như lửa đốt, hồn xiêu phách tán. Cái gậy tre vô tình kia cứ dồn vào một chỗ, chỉ dăm ba gậy thì Thúy Kiểu đã nứt da bật máu. Đáng thương cho một áng giai nhân như hoa như ngọc, chịu sao nổi sự chà đạp, huỷ hoại như vậy!

    Thúy Kiều trước còn kêu râm trời, sau bị đánh đến chừng hai mươi roi thì đau chết ngất đi. Một thị nữ nói:

    - Bẩm! Chị hẩu mới chết ngất rồi!

    Phu nhân nói:

    - Bay dựng nó lên, phun nước vào mặt cho nó tỉnh lại.

    Bọn thị nữ cùng dạ ran. Đoạn túm lấy tóc Thúy Kiều, đứng về phía mé lưng lôi dậy và một người khác thì lấy nước phun vào mặt Thúy Kiều. Giây lát, Thúy Kiều dần dần tỉnh lại rên rỉ kêu:

    - Đau chết mất thôi!

    Lại hồi lâu nữa mới tỉnh hẳn, vừa khóc vừa nói:

    - Xin cụ lớn tha cho!

    Phu nhân nói:

    - Mày muốn ta tha thì từ rầy phải bỏ hết cái lối hợm hĩnh, tao sẽ đãi bằng cách khác. Bằng còn cứ làm bộ kiểu cách thì ta sẽ đánh cho kì chết.

    Liền gọi một mụ già ra bảo:

    - Ta giao con này cho mụ trông nom và dạy cho nó thêu thùa. Mụ hãy dẫn nó đi.

    Mụ già bước tới nói với Thúy Kiểu:

    - Chị lạy cụ lớn đi, rồi qua bên buồng tôi mà nghỉ!

    Thúy Kiều nghe xong, nghĩ thầm: "Chết ở đáy, thật không đúng giá trị gì hết. Thì cứ đi theo mụ già xem sao. Sống không thể báo được oán cừu, thì chết cũng sẽ làm quỷ dữ để báo oán". Nghĩ rồi, liến sụp xuống khấu đẩu lạy tạ. Phu nhân dặn:

    - Từ rẩy mày phải giữ gìn khuôn phép, chỉ cần hơi phạm tội cùng sẽ phải phạt nặng rồi đấy!

    Phu nhân nói xong, đứng dậy lui vào phía trong. Bọn thị nữ cũng giải tán. Mụ già liên dìu Thúy Kiều về buồng mình, hối nhà bếp hâm một chén rượu pha đường và bảo Thúy Kiều uống. Thúy Kiều nói:

    Trong bụng tôi đương nôn nao không thể uống được! Mụ già nói:

    Đó là huyết công tâm đấy. Nếu chị không uống chén rượu cho tản huyết thì chị chết mất! Chị mà chết ở trong phủ này thì khác gì con sâu con kiến. Tôi coi tường mạo chị khác thường, tất có ngày mở mày mở mặt. Chẳng biết kiếp trước chị có oan nghiệt gì mà kiếp này đến đây để chịu giày vò khổ sở thế này. Chị cứ yên tâm điểu dưỡng cho thân thể khỏe mạnh, còn duyên do cái chuyện này sẽ có lúc thấy được minh bạch!

    Thúy Kiểu nghe mụ dặn bảo cũng có lẽ phải, bèn gắng gượng uống hết chén rượu, rồi ngủ thiếp đi. An dưỡng tới hai tháng, những vết thương bị đòn mới thật khỏi hẳn. Từ đó đổi mặc áo xanh, ghép vào hàng thị nữ thêu thùa may vá.

    Cứ gặp ngày mùng năm mùng mười, phu nhân lại đến tra xét một lần, thấy Thúy Kiểu thêu rất khéo, nên cũng không hành hạ bắt bẻ gì được.

    Một hôm, Hoạn tiểu thư về thăm mẹ. Phu nhân liền gọi Hoa nô ra lạy chào.

    Tiểu thư hỏi:

    - Con này đến đây từ bao giờ!

    Phu nhân nói:

    Nó đến đây đã năm tháng nay, cha con kén nó để cho về hầu hạ con đó. Mẹ sợ không dùng được, nên hãy giữ nó ở trong phủ, dạy cho nó một thời gian rồi mới cho sang hầu hạ con. Bây giời thì nó đã khá, có thể dùng được rồi.

    Tiểu thư nói:

    - Xin đa tạ mẹ!

    - Hoa nô! Cho mày sang hầu hạ tiểu thư, mày phải ngoan ngoãn như ở với tao bên này. Đối với nương tử nhất thiết không được làm viêc gì vô liêm sỉ. Nếu có chút tiếng tăm gì không tốt tao sẽ bắt về, đánh chết.

    Hôm sau Hoạn tiểu thư ra về. Thúy Kiểu bái từ phu nhân rồi lại vào từ biệt mụ già. Mụ già chảy nưóc mắt, không nỡ rời Thúy Kiều và dặn dò khe khẽ:

    Giữ gìn tính mạng là cần đấy. Chị phải ghi nhớ là hễ gặp người quen thuộc chớ có nhận mà khốn.. Phải nhớ kĩ đấy nhé!

    Thúy Kiểu không hiểu ra sao cả, chỉ đáp rằng:

    Được bà dạy bảo, lúc nào tôi cũng không quên. Rồi gạt nưóc mắt chia tay nhau.

    Thúy Kiểu theo Hoạn tiểu thư về nhà, cố nhiên phải theo bọn thị nữ sớm hôm hầu hạ. Tiểu thư hỏi:

    - Hoa nô, có biết tài nghệ gì không?

    Thúy Kiều trong khi sầu oán, đương muốn mượn tiếng đàn để ghi mối giận hờn, liền đáp:

    - Thưa bà! Con biết gảy hồ cầm!

    Tiểu thư liến bảo người lấy hồ cầm ra, đưa cho Thúy Kiểu dạo thử. Thúy Kiều đương khi thương mình phận bạc nên âm điệu gảy lại càng buồn thảm.

    Tiểu thư nghe xong, cả mừng nói:

    Ngươi thạo nghề này thì từ rầy chỉ việc theo luôn gần ta, để giúp vui cho ta khi buồn và khi uống rượu. Bất tất phải vào hàng ngũ của bọn con hầu kia. Thúy Kiểu nói:

    - Xin đa tạ tiểu thư cất nhắc cho con!

    Từ đó, Thúy Kiểu được suốt ngày hầu gần Hoạn tiểu thư. Lúc đàn, lúc ca, được phát tiết đôi chút những nỗi bất bình của mình.

    Chừng quá nửa năm, chợt có tin báo ông đã về. Hoạn tiểu thư vội ra đón tiếp. Vợ chồng chào hỏi nhau xong liền bảo con hầu đứa ở đều ra chào lạy. Lúc đó Thúy Kiều đương ở trong phòng bận thu xếp đồ trang sức của tiểu thư, chợt nghe tiếng tiểu thư gọi:

    - Hoa nô ra đây.

    Thúy Kiều nghe gọi, dạ một tiếng, vội bỏ hộp trang sức xuống, rồi chạy ra sảnh đường. Liếc mắt nhìn trộm một cái, bụng bảo dạ. "Chao ôi! Sao chàng Thúc sinh lại đến đây?". Bỗng nghe tiểu thư gọi:

    - Hoa nô đâu! Ra đây lạy chào ông nhà đi!

    Thúy Kiểu lúc ấy đã ở dưới mái nhà thấp của người ta, sao dám không cúi đầu?

    Chưa biết cảnh tình Thúy Kiều khi đó như thế nào? Xin xem hồi sau phân giải.

    Bạn đang đọc truyện trên: TruyenFun.net

    TrướcSau

    TÌM KIẾM GẦN ĐÂY

    JiminjohnnysuhYaoi 18+Loạn luânsanitymikeyalllesbianthôtụcRimuru x narutoanya x damianhavukhethunderstormNp cao hCái chết của rimurutptkPháo Hôi Xinh Đẹp Được Nam Chính Coi TrọngKinn porscheyoimiyakađn conabnmixx

    Copyright © 2017 - TruyenFun.net
     
  6. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN, NHỊN HƠI NUỐT TIẾNG

    TỪ BI GIẢ BỘ, VIẾT KINH TẠ THÂN

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trước kia Thúc sinh sở dĩ giấu không nói là khờ khạo, mong rằng vợ không hề biết. Đến bây giờ thì người cùng tang chứng biện ra rành rành như vậy, phỏng người ta có thể biết được hay là không biết được? Thế mà còn giả vờ như đui, không chịu thú nhận mình là kẻ vụng trộm, lại giả bộ thật thà mong người ta tin mình không phải là kẻ vụng trộm, sao mà ngu đến thế nhỉ?

    Vợ chồng hai lòng như một, trao gửi cho nhau. Việc đã rõ ràng, anh biết, tôi biết, nó biết mà vẫn không nhận cứ như người qua đường một mực dối trá, vậy đáng giận chăng, hay không đáng giận chăng?

    May mà Hoạn tiểu thư nghĩ đến thể diện vợ chồng, không mười phần làm dữ, chỉ bắt Thúy Kiều quỳ lạy, chỉ bắt Thúy Kiều đàn ca, để xem cách cư xử của Thúc sinh mà thôi. Giả sử Hoạn tiểu thư dằn lòng không nổi, nhất thời dụng tâm như La Sát [24], thì Thúy Kiều chẳng đã bị lăng nhục đến chết hay sao? Thúy Kiều bị lăng nhục đến chết mà Thúc sinh vẫn còn ngồi nhìn hòng cố giữ trọn sự dối trá và lại cho rằng không phương giải cứu nên không cứu nữa. Sao lại nhẫn tâm đến như vậy?

    Thúc sinh còn nhớ lúc lấy Thúy Kiểu đã từng lấy cái chết để thề: "Sau này nếu tôi thay lòng đổi dạ thì trời diệt đất tru.." Nếu quả là giống tình, thì khi thấy Thúy Kiểu chịu nhục, tất phải nhớ lại lời thề trước kia mà ôm nhau khóc lớn, liều chết cùng nhau mới phải, chớ sao lại chỉ dấm dấm dúi dúi, than vụng thầm mà thôi vậy?

    Hạng người như thế, chẳng qua chỉ là có mấy đồng tiền chuộc thân cho Thúy Kiêu mà thôi, há phải đâu là tay hào kiệt dám nói và dám làm. Thúy Kiều đã biết trước là không thề có được kết quả vuông tròn. Tuy nhiên, Thúy Kiều vẫn cầu mong trong sự không may là nhờ ở bộ tịch sợ hãi, khoanh tay bó cẳng của Thúc sinh, khiến Hoạn tiểu thư thấy rõ ràng rằng quyền vợ vẫn còn mà anh chàng thì cũng không dám đả động đến chuyện yêu vợ lẽ nên mới mượn cớ viết kinh để nhẹ nhàng phát lạc. Lại nới tay thả lỏng, mặc cho trốn đi, cốt nhổ được cái đinh trong mắt để khôi phục toàn vẹn tình nghĩa vợ chồng. Lúc đáng giữ thì giữ, khi đáng buông thì buông, ngọn bút tả cách hành động của Hoạn tiểu thư thật là ngọn bút thẩn kì.

    Còn như anh chàng Thúc sinh, hễ vợ cho khóc thì khóc, cho mừng thì mừng, cho thương thì thương, hoàn toàn không biết khóc cười, mừng, thương ấy từ đâu mà đến, lại từ đâ mà đi. Vì thế mà Thúc sinh thật là đúng một nho sinh vậy. Chẳng những chàng không đáng lấy Thúy Kiều làm vợ lẽ mà cũng không đáng lấy Hoạn tiểu thư làm vợ chính. Ngọn bút cùn mà tả được đoạn văn hay. Khéo lắm, khéo lắm!..

    Lại nói. Thúy Kiều khi trông thây Thúc sinh vừa toan bước lên nhận nhau, chợt nghe mấy tiếng tiểu thư xưng hô như thế, lại nhớ đến lời dặn của mụ già khi lâm biệt thì vội ngậm miệng, nghĩ thầm: 'Ta nghĩ mãi không biết tại sao lại rơi vào chốn này. Té ra là mưu kế của con đố phụ. Bèn rưng rưng nước mắt bước lại gần, hướng về Thúc sinh mà nói:

    - Xin chào công tử!

    Thúc sinh hỏi Hoạn tiểu thư:

    - Người con gái này ở đâu đến thế?

    Tiểu thư nói:

    - Cha mua nó ở Bắc Kinh cho về hầu hạ thiếp đấy. Ả này cũng khá, hiểu âm luật, lại thạo hồ cầm!

    Thúc sinh thoạt nghe hai câu ấy như khơi lại trong ý nghĩ cái chết thảm thương của Thúy Kiểu, bất giác trong lòng chua xót, cố giữ nước mắt, hỏi:

    - Tên cô là gì?

    Tiểu như nói:

    - Gọi là Hoa nô!

    Thúc sinh nói:

    - Hoa nô, chị đứng dậy đi thôi!

    Thúy Kiều dạ, đứng dậy, rồi lại đứng bên tiểu thư. Thúc sinh liếc mắt nhìn, bất giác thất kinh, hồn bay phách tán, bụng ngẩn, mắt đờ, bụng bảo dạ: "Hoa nô này chẳng phải là Thúy Kiều ư? Thôi chết rồi! Mắc mưu con đố phụ này rồi! Thảo nào hồi trước về, mụ cứ lơ đi làm như không hề biết ta lấy vợ lẽ, chính là dụng ý thế này đây! Bây giờ bảo ta chống đỡ làm sao, giải cứu thế nào? Thật là khổ cho nàng Kiều, ta làm hại nàng rồi!". Nghĩ đến đó, Thúc sinh không nhịn được nữa, nước mắt rơi xuống giòng giòng. Tiểu thư hỏi:

    - Có việc gì mà cậu chảy nước mắt?

    Thúc sinh nói:

    - Ngày trừ phục sắp đến, nghỉ đến mẹ xưa, bất giác chảy nước mắt..

    Tiểu thư nói:

    - Cậu nhớ mẹ mà khóc, thật là người con có hiếu.

    Thúy Kiều thấy Thúc sinh giăng mắc vì tình như vậy cũng không sao cầm được nước mắt. Vì sợ tiểu thư trông thấy chuyện, liền tìm cớ lảng đi nơi khác.

    Tiểu thư biết rõ tình cảnh hai người đang ở vào cái thế không thể chịu nổi thì vui và nghĩ thẩm: "Lần này mình" hành "cho chúng thật thú, chẳng khác nào cầm dao mà giết con dâm phụ ấy. Để ta còn tiếp tục xử trí bọn chúng". Bèn hối gia đinh mau mau sửa soạn tiệc rượu tẩy trần cho ông chủ.

    Thúc sinh nói:

    - Đi xa mệt nhọc không thể uống rượu được đâu, nên miễn đi thôi.

    Tiểu thư nói:

    Thiếp xin cậu hãy gượng xơi lấy một chén, để thỏa lòng cách biệt đã lâu, cậu đừng ngăn trở lòng kính trọng của thiếp.

    Thúc sinh không biêt nói lại làm sao, đành ưng thuận.

    Giây lát tiệc rượu được bày xong, vợ chồng cùng ngồi. Tiểu thư gọi Hoa nô ra rót rượu.

    Thúy Kiều ra. Tiểu thư dặn:

    Bữa nay, ông chủ mới về, ta muốn người cố mời cho ông uống lấy mấy chén rượu!

    Thúy Kiều vâng lời, cầm hồ rót rượu. Lúc này Thúc sinh như ngồi trên bàn chông, mấy lần những toan đạp nhào bàn tiệc, tóm lấy Thúy Kiều để khóc lớn, gào to cho hả. Trong khi ấy tiểu thư cố thản nhiên cười nói ngọt ngào, rót luôn mời mãi. Thúc sinh nhất định chối từ không uống. Tiểu thư nói với Thúy Kiều:

    - Mi mà không mời được ông uống cạn cốc rượu đầy này thì ta sẽ thi hành quân lệnh. Mau nâng cốc quì mời ông đi!

    Thúy Kiều không dám trái ý, phải cúi xuống trước mặt Thúc sinh.

    Thúc sinh rời rã tay chân, gắng gượng uống hết cốc rượu. Tiểu thư lại nói:

    - Hoa nô! Ngươi thạo hồ cầm, hãy dạo một khúc rồi sau sẽ lại khuyên ông uống.

    Thúy Kiều không dám trái ý, liền lấy cây hồ cẩm ra, đoạn rót hai cốc rượu đặt lên trước mặt Thúc sinh và tiểu thư, nói:

    - Mời ông bà xơi rượu! Hoa nô xin dạo khúc đàn giúp vui!

    Tiểu thư nói:

    Được rồi! Phải chọn bài nào thật hay mà dạo cho vui. Nếu đàn dạo không hay thì ta đánh đòn đấy.

    Thúc sinh nghe xong, ruột như dao cắt, cố nuốt nưóc mắt vào trong lòng.

    Thúy Kiều cầm đàn, sửa phím lựa dây, gióng đầu âm vận, nghĩ thầm: "Chàng Thúc trước kia là bạn cùng giường, nay ngồi làm khách trên tiệc, trông thấy nhau mà không dám nhận nhau", bất giác cảm khái sự hưng suy, đau đớn nỗi sau trước, bèn dạo lên một khúc. Lời rằng:

    Thiếp mệnh bạc, vướng vòng ca xướng,

    Gặp lương nhân thật đấng hào hoa,

    Rộn ràng trong áng sênh ca,

    Đường tơ tiếng sáo, lân là dập dìu.

    Cuộc thay đổi, phiêu lưu gió bụi,

    Chôn cửa hầu, lại gửi tấm thân.

    Khóc cười đâu dám lần khân,

    Giận mừng nhờ lượng khoan nhân dám nài.

    Tin ông chủ, cõi ngoài trở lại,

    Gặp nhau cùng tình ngãi đôi ta.

    Bên thì khách quý tiệc hoa,

    Bên thì tôi tớ phận ta sá gì!

    Bốn mắt liếc còn chi sinh khí,

    Hai lòng soi, càng nghĩ càng ghê.

    Tiếng đàn đau đớn tỉ tê,

    Buồn này mới thật làm mê mẩn tình.

    Thay thứ bậc nghĩ mình thêm tủi,

    Nhớ việc xưa, than thở đầy vơi.

    Đau lòng gặp mặt, nín lời,

    Ngày nào chắp cánh ngang trời cùng bay?

    Khúc đàn chưa dạo xong mà hình như gió thoảng mưa sầu, nỉ non thổn thức ở trước bàn tiệc, làm cho Hoạn tiểu thư tiu nghỉu không vui, Thúc sinh nước mắt dầm dể mà Thúy Kiểu khóc lóc đứt ruột. Thúc sinh sợ lộ chân tướng liền tựa ghế ngủ. Tiểu thư gắt:

    - Hoa nô! Ta bảo ngươi khuyên mời ông rượu, sao lại gảy khúc đàn như thế, làm cho ông ngủ mất. Nếu không làm cho ông tỉnh lại thì ta tất phải đánh đòn đó!

    Thúc sinh vội vã cất đầu dậy, nói:

    Tôi có ngủ đâu? Nghe tiếng đàn, tựa ghế ngẫm nghĩ sự lí đấy thôi. Tiểu thư nói:

    Khúc này buồn quá, không phải là món "đưa cay". Ngươi phải gảy một khúc hay hơn, ta mới tha tội cho.

    Thúy Kiều rưng rưng nước mắt, đưa nghiêng ngón tay búp măng nắn nót, lại gẩy một khúc đàn nữa. Lời rằng:

    Vượt qua cõi mung lung chừ, đến Doành Châu,

    Muốn Liệt tử chừ, cùng sánh đôi.

    Ăn rau cỏ chừ, đội ráng sớm,

    Bay bổng phiêu diêu chừ, sát chân trời.

    Muôn loài như nhau chừ, tự đắc ngoài cõi đời,

    Phó mặc số mệnh chừ, nhắm mắt đưa chân.

    Khúc đàn dạo xong, người nghe tâm hồn thanh sảng. Thúc sinh nói:

    - Vời vợi như non cao, mênh mông nhường nước chảy, tiếng đàn hay quá! Ngón hồ cầm thạo đến thế kia à?

    Tiểu thư nói:

    - Ngón tay thon nắn nót đường tơ, tiếng đàn nghe du dương uyển chuyển, quả là nghề tuyệt diệu! Xin mời cậu uống chén rượu này để thưởng thức.

    Thúc sinh chẳng biết làm sao, lại phải gắng uống một chén, mắt nhìn Thúy Kiều bị giày vò như thế, cứu đã không cứu được, nói cũng không biết nói ra sao, chỉ âm ỉ đau ngầm, còn lòng nào thiết đến uống rượu, song sợ sẽ làm khổ lây đến Thúy Kiểu, nên phải cố gượng gạo uống cạn chén rượu.

    Về phần Hoạn tiểu thư đã làm cho hai người giáp mặt mà không thể nhận nhau, một là ông chủ ngồi trên, một là con hầu dưới tiệc, liếc nhìn thấy hai người hết sức bối rối, mặt mày hồi hộp, một lời không dám hở, nửa tiếng chẳng dám ho he, thì lấy làm vui lòng thỏa chí, ngẫm nghĩ cười thầm: "Tiệc rượu bữa nay đủ làm cho ta hả hết nỗi lòng bấy lâu căm giận".

    Còn về phần Thúy Kiều thì ở vào cái thế tiến lùi đều khó, nên hậm hực oán thầm. "Hoạn tiểu thư! Sao nỡ diễu cợt đôi ta đến thế này. Thật là nhẫn tâm! Thật là tàn ác! Cái ghen của người khác chẳng qua là đánh mắng, cãi cọ mà danh phận vẫn là vợ kế. Kẻ làm vợ lẽ còn có thể được phân giải đôi lời, người chồng còn có thể bênh vực được mấy tiếng. Đằng ngươi ngươi dùng kế độc này, mượn cớ bên ngoài bỗng không bắt điệu ta về, đẩy vào hàng thị nữ, khiến cho vợ chồng gặp nhau, rõ ràng giáp mặt mà không dám nhìn nhận. Rõ ràng có tình mà không có được cùng nhau, không biết đôi ta tình nồng như lửa mà đem con mắt lạnh lùng đối đãi, cứ một mực giễu cợt giận mắng, không hể đả động chuyện gì khác, làm uất chết người ta đi được! Ta sống không báo được cái thù thâm độc này, thì chết cũng làm con quỷ dữ để thu hồn ngươi". Mãi đến lúc canh khuya, người vắng, Hoạn tiểu thư coi chừng hai người sống dở, chết dở, nghi thầm: "Như thế cùng đủ cho đôi này nếm phần cay đáng rồi đây". Bèn nói:

    - Coi bộ cậu mệt nhọc thẫn thờ, chắc là đường xa vất vả, dễ thường muốn nghỉ rồi chăng?

    Thúc sinh nghe nói, tưởng như tội nhân được lệnh thiên tử ân xá, vội vàng đáp:

    - Chính thế! Luôn mấy ngày vất vả, mệt nhọc lắm, nên không thể thỏa mãn cái nhã ý của hiền thê được. Bây giờ biết tính sao đây?

    Tiểu thư cười:

    - Vợ chồng với nhau, sao cậu lại nói thế? Hoa nô mau xách đèn đưa chúng ta về phòng!

    Thúy Kiều liền xách đèn đi trước soi đường cho Thúc sinh và tiểu thư vào tới trong phòng. Thúc sinh nói với vợ:

    - Thôi, cho Hoa nô đi nghỉ chớ!

    Tiểu thư nói:

    - Ấy hãy để nó hầu hạ cho hai ta ngủ đã, rồi nó hãy đi ngủ cũng chưa muộn mà! Hoa nô, mau tháo giầy tất cho ông nào!

    Thúy Kiều không dám trái lời. Còn Thúc sinh chỉ muốn cho chóng xong việc để Thúy Kiều được đi ngủ, nên vội vã tự cởi quần áo, lên giường nằm trước. Thúy Kiêu lại hầu hạ tiều thư xong xuôi mọi việc, chừng ấy tiểu thư mới nói:

    - Ngươi đi ngủ đi thôi!

    Thúy Kiều về đến phòng mình thì đã vào khoảng canh tư, nghĩ thầm: "Cái địa ngục trần gian này, biết đến bao giờ cho thoát. Chẳng thà chết quách cho rồi". Lại nghĩ: "Chết được ích gì? Ta còn bao nỗi thương tâm không được cùng chàng than thở. Chết ở đây không bằng loài gà, loài chó, chẳng thà hãy cố nín chịu ít ngày, thế nào chàng cũng tìm cách cứu giúp ta. Nhưng dù sao thì cái chuyện nối lại duyên xưa cũng không còn trông mong gì được nữa rồi". Càngnghĩ nước mắt càng chảy ròng ròng, thâu đêm không sao nhắm mắt được.

    Lại nói, Thúc sinh lên giường, mình tuy nằm cạnh Hoạn thư nhưng trong lòng thì lo lắng cho Thúy Kiểu, âm thầm tức giận, nghĩ: "Con mụ khiêu khích này sao nỡ dùng đến cái kế thâm độc như vậy. Hiện đã mắc vào trong vòng của nó thì cái chuyện tình duyên cũng chẳng còn hòng gì được. Nhưng cần làm cách nào để giải cứu Thúy Kiều thì không biết, trằn trọc mãi không sao ngủ được.

    Sáng sớm hôm sau, Thúc sinh dậy liền sửa soạn lễ vât đi chào thăm mẹ vợ. Hoạn phu nhân vui vẻ tiếp đãi con rể và hỏi:

    Cậu mới về bao giờ thế? Thúc sinh nói:

    - Con mới về hôm qua. Phu nhân nói:

    - Ông nhà tôi thương con gái, nhà nhiều công việc vất vả nên kén một thị nữ ở Kinh đưa về hầu hạ nó. Cậu xem có dùng được không?

    Thúc sinh nói:

    - Tốt lắm ạ.

    Phu nhân nói:

    - Con ấy đã ở bên này rồi, tôi đã sai bảo hàng nửa năm, hơi biết khuôn phép. Cậu cần phải giữ vẻ tôn nghiêm, đừng để cho hạng ấy nó nhờn.

    Thúc sinh không biết đáp lại làm sao, chỉ vâng vâng dạ dạ, rồi cáo từ trở về.

    Thúc sinh trở về thấy Hoạn tiểu thư đương ngồi giữa nhà mà Hoa nô thì quỳ ở dưới đất, bất giác hoảng vía kinh hổn. Muốn cứu mà không biết làm sao, đành phải làm bộ tươi cười, bước vào hỏi:

    - Hiền thê có việc gì mà nổi giận thế?

    Tiểu thư cười đon đả, nói:

    - Thiếp đương đợi cậu về để tra hỏi con khốn này. Bữa nay không hiểu sao nó đứng hầu thiếp trang điểm, mắt đỏ ngẩu thưa gửi lỗ mỗ. Thiếp hỏi nó tại sao mà thế thì nó đáp vì nhớ chuyện xưa, ngẫu nhiên như vậy. Thiếp nghĩ nhà ta là hạng nhà thế nào, dung sao được những quân khốn nạn sinh yêu tác quái này!.. Muốn sống muốn tốt, có chuyện gì phải nói cho thật, nếu có lí, ta sẽ lượng tình mà khoan dung cho. Nếu còn loanh quanh giấu giếm nữa, ta sẽ cho ngay một trận đòn ở đây đã, rồi tống cổ trả về bên cụ lớn đánh cho kì chết.. Đây, xin nhờ tay cậu hãy tra vấn giúp thiếp trước đã.

    Thúc sinh, Thúy Kiểu nghe xong, bốn mắt trông nhau, không còn hồn vía. Thúc sinh nghĩ thầm:" Nếu minh không nhận việc tra vấn, nàng tất sai người khác đánh đòn, Thúy Kiều nhất định phải chịu khổ. Còn như mình tra vấn, thì ra tay sao đang.. ". Toan tính đắn đo, chợt nghĩ ra nói:

    Tôi vừa về, để tôi hỏi đã, rồi hãy đánh cũng chưa muộn. Rồi quay sang hỏi Thúy Kiểu:

    Hoa nô, có tâm sự gì, cứ nói thật ra để tiểu thư khỏi nổi giận. Thúy Kiều nước mắt dàn dụa, nói:

    - Xin phép cho Hoa nô tự cung ạ!

    Tiểu thư liền hối thị nữ đưa giấy bút cho Thúy Kiểu. Thúy Kiểu nước mắt như mưa, đoán chừng Thúc sinh rất không dám cứu, liền cầm bút viết tờ cung rằng:

    Người" làm tờ cung là Hoa nô, cung vì nỗi đoạn trường như sau: Tì thiếp sinh ra ở Bắc Kinh, vì cha bị vu oan mới lạc bước vào đường ca xướng. Sau tòng lương lấy chồng à Lâm Tri, không may trong lúc vắng chồng bị bắt cóc, hãm mình vào nơi quyền quý. Cho nên nỗi mặt dày mày dạn, tấm thân đày đọa mấy xuân thu. Tóc rối đầu bù, hộp gương dãi dầu bao tuế nguyệt Mình buồn bạc mệnh, muốn đưa kéo sắt cắt tơ xanh; lệ rửa hồng nhan, mong dứt thoa vàng tàu đuốc bạc. Đất cũ đường xa, điểm điểm canh canh sầu chất chứa. Trông chồng chẳng thấy, ngày ngày tháng tháng lệ tuôn rơi. Những mong ngoài phép thi ân, cho tôi được quy pháp, quy kinh và quy Phật. Đầy lòng đội đức, chúc bà hưởng nhiều phúc, nhiều thọ và nhiều con trai. Giải tỏ can trường, lời cung là thật. "

    Thúy Kiều viết xong tờ cung, đưa trình Hoạn thư. Tiểu thư xem xong, nói:

    Té ra chị đã có chồng, nhưng thế sự không cùng mà tinh cảnh cũng mỗi nơi một khác. Đã ở đây thì phải theo công việc lề lối ở đây, chớ cứ cảu nhảu càu nhàu, còn ra thói phép gì nữa. Nay chị muốn xuất gia, ta sẽ mở lượng từ bi cho chị. Xem qua tờ cung, ta còn thấy thương, huống nữa là bậc tài tử!

    Vừa nói, vừa trao tờ cung cho Thúc sinh xem và nói:

    - Người con gái này, tình thâm, chí khổ, ý buồn, thương tài tao nhã và sâu sắc. Giá có số mệnh như A Kiều thì chứa ở nhà vàng cũng là xứng đáng! Tiếc rằng có tài mà không có mệnh mới đến nỗi luân lạc tới đây!

    Thúc sinh nói:

    - Đúng như lời bình phẩm của hiền thê. Xưa thường có câu:" Hồng nhan bạc mệnh, ngàn thuở giống nhau ", thật là đúng lắm! Hiền thê cũng nên nghĩ lại mà mở lượng từ bi cho cô ta!

    Hoạn thư nói:

    - Đã vậy, ngay bữa nay thiếp xin mở ra một con đường sống cho cô ấy.

    Liền quay ra nói với Thúy Kiều:

    - Ta bấy nay đã phát nguyện sẽ chính tay chép bộ kinh Hoa Nghiêm. Bây giờ chị đã muốn quy y cửa Phật thì ta miễn cho ở đây. Vậy chị nên mau mau tắm gội, thay đổi quần áo, vào gác Quan Âm, thay ta viết kinh. Ta sẽ cử người đến phục dịch cho chị sai bảo!

    Thúy Kiều khấu đầu lạy tạ. Tiểu thư vội gạt đi:

    Chị nay coi giữ kinh điển, trở thành người tu hành, bất tất phải làm lễ ấy nữa!

    Liền gọi hai thị nữ là Xuân Hoa và Thu Nguyệt ra dặn:

    Hai con theo chị Hoa nô vào gác Quan Âm phục dịch cho chị viết kinh. Phải cung cấp cho chị mọi vật, ăn mặc cho được sạch sẽ. Sáng mai, vợ chồng ta sẽ thân đưa chị sang bên lầu.

    Thúy Kiểu lui ra tắm gội, nghĩ thầm:" Nhờ có tờ cung, được nó mở ra cho một lối thoát. Tuy không thể vợ chồng đoàn tụ, song cũng tránh được cái trò dơ dáng dạng hình. Vả chăng, lòng đầy oán hận, không chốn kêu ca, ta cũng đang cần kêu van sự đau khổ với đức Quan Âm. Giả sử xuất gia hẳn ngay từ ngày nọ thì cũng tránh khỏi bao nhiêu là điều xấu hổ".

    Rốt cuộc, Thúy Kiều chép kinh như thế nào, xin xem hồi sau phân giải.
     
  7. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    GÁC QUAN ÂM, MẠO HIỂM GẶP NHAU

    AM VĂN THÙ, HỨNG TÌNH ĐỀ VỊNH

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Quá lắm thôi, Thúc sinh thật không đáng làm chồng! Hãm Thúy Kiều vào nỗi chín phần chết một phần sống mà không chút mưu kế gì để cứu, đã không phải là bậc tu mi, lại còn nói không dám nhận là vì không biết làm thế nào. Nay may mắn người yêu đã được vào gác viết kinh, trong lòng đã nghĩ được cái mưu "chạy trốn", tưởng nên tìm nơi khác, xây dựng nhà vàng và tính kế sai Côn Lôn nô lập cách đưa trộm Hồng Tiêu[25] đi mới phải. Nhưng sao Thúc sinh được dịp gặp lại chỉ một mực khóc lóc, nào kể khổ, nào than sầu, đến khi nói hết, đến chỗ không thể nói nữa, mới nói ra con đường chạy trốn. Lại mặc cho người yêu môt thân mạo hiểm, tự đóng vai Hồng Phất nữ [26] há rằng cái giống đa tình lại nỡ làm như thế?

    Quá lắm thôi! Thúc sinh thật không đáng làm chồng! May mà Hoạn Thư đã có sẵn ý bí mật mở lồng, nếu thật muốn trừ đến tận gốc thì hàng nghìn dặm Lâm Tri xa cách còn bắt được đem về huống hồ am mây gần gang tấc, lại có thê tung cánh bay được hay sao? Chỉ có Thúc sinh ngu mới không biết rằng, cái mánh khoé trẻ con ấy, Hoạn tiểu thư đã ngầm cười đến vỡ bụng.

    Quá lắm thôi! Thúc sinh thật không đáng làm chồng! Am Chiêu Ẩn đề thơ, chẳng qua là tạo vật thu xếp xui nên để Thúy Kiều được dịp nghỉ ngơi, thở phào đôi chút đó mà thói, không thể nói tới sức người hay mưu khôn. Ngọn bút tài tính thật đã tả đúng cái tình trạng khiếp sợ của anh chàng..

    Lại nói, Hoạn tiểu thư nhân xem tờ cung của Thúy Kiều liền hứa cho chị ta vào gác Quan Âm để viết kinh. Thúc sinh nghe nói, mừng thầm: "Thôi, để nàng sang gác Quan Âm viết kinh, bất quá thì phải hiu quạnh, còn hơn ở đây chịu sự lăng nhục như thế, mà ta cũng được yên thân".

    Hôm sau, vợ chồng Thúc sinh trai giới, tắm gội thay áo rồi đưa Thúy Kiểu sang gác Quan Âm. Thúy Kiều đổi hết áo vải, ăn bận mũ vàng áo lông, yết kiến tiểu thư. Vừa toan thi lễ thì tiểu thư vội vàng gạt đi, nói:

    Chị nay là người tu hành, giúp ta viết kinh hoàn nguyện, tức là đệ tử nhà Phật rồi, bất tất phải thi lễ như thế nữa!

    Liền hối thị nữ sắp đủ hương hoa, đèn nến đưa sang gác Quan Âm, rồi mở cửa vườn ra. Thúy Kiều trông ngắm bốn bề, thấy đây là một khu vườn đẹp, có hoa bốn mùa, cảnh vật như xuân, kế theo bên trên lầu thấy thờ một pho tượng Quan Âm đại sĩ. Thúc sinh và Hoạn thư cùng làm lễ Phật xong, Thúy Kiều cũng vào lễ bốn lễ. Hoạn thư khấn:

    Đệ tử Hoạn thư nhà họ Thúc, trước đây có nguyện xin chép đủ bộ kinh Hoa Nghiêm, ngày nay..

    Bỗng dừng lại nói với Thúc sinh:

    - Trước đức Bồ tát nói là nhờ Hoa nô viết thay, thì sao cho tiện, há chẳng khinh mạn đối với kinh quyển lắm ư?

    Thúc sinh nói:

    Kể vể danh phận thì quả là không nên, mà kể về việc viết kinh, chỉ nên nói là cúng dàng! Hoạn thư nói:

    Chính phải thế! Nhưng còn hai chữ Hoa nô, không tiện nói ra trước Phật, vậy cậu đặt giúp cho chị ấy một đạo hiệu!

    Thúc sinh nhân thấy trên biển có đề hai chữ "Trạc Tuyền" thì liển chỉ lên biển và nói:

    Thôi, đặt luôn cho người ta đạo hiệu là Trạc Tuyền cũng được. Hoạn thư lại tiếp tục khấn:

    - Đệ tử phát nguyện chép kinh Hoa Nghiêm, nay xin cúng dàng đạo cô Trạc Tuyền thay viết kinh quyển. Tới ngày công việc trọn vẹn, xin làm lễ tạ công đức.

    Khấn xong, quay ra dặn hai thị nữ Xuân Hoa và Thu Nguyệt:

    Viết kinh không phải là việc tầm thưòng, các con phải ân cần phục dịch. Nếu có chút gì không chu đáo, ta hỏi được, nhất đinh sẽ phạt nặng.

    Xuân Hoa, Thu Nguyệt thẩy đều vâng vâng dạ dạ xin tuân theo. Thúc sinh và Hoạn thư xuống lầu, Thúy Kiều toan theo tiễn. Hoạn thư ngăn lại nói:

    Thôi, cứ việc chép kinh. Còn như lễ ứng thù qua lại, bất tất câu nệ làm gì.

    Nói xong rồi cùng Thúc sinh xuống lầu trở về. Thúy Kiều thở dài nói một mình: "Từ nay thế là bị giam lỏng rồi đây. Ngưòi xưa lấy chỗ nhà giam làm nơi ở tốt, biết đâu trong bể ghen tuông lại không mở được một cửa Phật rộng lớn? Hay là kiếp trước tội nghiệp sâu nặng nên nhiều tầng oan trái cứ theo mãi không thôi? Giờ đây chính là lúc ta phải một dạ kiên thành, chép kinh lễ Phật để làm tiêu tan nợ cũ".

    Từ đó Thúy Kiều an tâm sao chép kinh quyển ở trên lẩu. Chuyện ấy không nói đến nữa.

    Lại nói, Thúc sinh thây Thúy Kiểu bị giam lỏng ở đó chép kinh, bề ngoài gọi là cúng dàng, nhưng kì thực là thi hành mưu kế lao lung, suy đi tính lại, muốn giải cứu mà không nghĩ được cách nào. Hàng tháng, cứ đến ngày rằm và mồng một, Thúc sinh và Hoạn thư cùng lên lầu lễ Phật, gặp mặt người yêu, không thể trò chuyện với nhau được nửa lời, càng thêm rầu rĩ, ở nhà cũng đứng ngồi không yên, bèn thu thập sách vở từ biệt Hoạn thư sang Huệ Sơn ôn tập kinh sử. Hoạn thư vì có Thúc sinh ở nhà, chỉ sợ hai người lại vụng trộm trò chuyện với nhau, nên vẫn phải lưu ý để phòng. Nay thấy chồng muốn qua Huệ Sơn đọc sách bèn thuận nước đẩy thuyền, bảo anh ta đi mau.

    Thúc sinh đi rồi, chừng hơn nửa thảng, một hôm Hoạn tiểu thư chợt nhớ đến mẹ, liền đáp kiệu trở về Hoạn phủ hầu thăm. Vừa khéo cũng ngày ấy, Thúc sinh trở về thành dự cuộc hội văn nhân tiện tạt qua nhà, không thấy vợ, liền hỏi thị nữ:

    Bà đi đâu? Thị nữ nói:

    - Bà con qua bên phủ thăm cụ lớn ạ!

    Thúc sinh thoạt nghe, tưởng như nắng hạn lâu ngày gặp trận mưa rào, cũng không kịp hỏi xem vợ đi lúc nào và bao giờ về, xăm xăm bước ngay vào vườn hoa, lên gác Quan Àm gặp mặt Thúy Kiều. Thúy Kiều sợ có tiểu thư đến cùng, nên vẫn không dám đón chào.

    Thúc sinh sấn đến ôm chầm lấy Thúy Kiều, khóc lớn:

    Tôi hại nàng rồi, thật là tôi hại nàng rồi! Tôi cứ tưởng nàng đã bị chết nạn ở Lâm Tri, có ngờ đâu nàng sống để chịu tội ở đây. Mụ ta bức bách nàng đến nỗi lên trời không lối, xuống đất hết đường.. Gặp mặt nhau mà không thể nói với nhau nửa lời.. Nàng bị giam đây, biết ngày nào là ngày tan trò kết cục. Đau đớn cho tôi, tan nát cả ruột gan, khô cạn hết nước mắt, nhận không tiện nhận, nói không tiện nói. Mắt trơ trơ nhìn nàng chịu tội sống này, đã có lúc tôi toan liều chết cùng nàng để cho xong cái nợ kiếp này. Nhưng vì tôi chưa có con nối dõi, mội giòng họ Thúc chỉ trông cậy vào một mình tôi, cho nên muốn chết mà không thể chết. Nhẫn tâm nhìn nàng chịu nhục trước mặt, chỉ giận rằng không thể chịu khổ thay được cho nàng!.. Nàng ơi! Sao không đáp lại tôi lấy một lời? Nàng giận tôi chăng? Nàng oán tôi chăng? Tôi đã làm lỡ xuân xanh của nàng biết mấy? Nàng giận tôi, tôi cũng không oán. Nàng oán tôi, tôi cũng không kêu.. Nàng ơi! Sao nàng không nói lấy một đôi lời, để an ủi lòng tôi?

    Thúy Kiều thấy Thúc sinh rất đỗi thảm thương, khóc sướt mướt như mưa như gió, đành rưng rưng nước mắt nói:

    - Thì chàng bảo thiếp còn nói gì nữa. Ôi, đầu đã rơi xuống đất, sắt đã bỏ vào lò, ván đã đóng thuyền và cơm đã chín rồi, sống chết cũng đành thôi.

    Thúc sinh nói:

    - Viết kinh chỉ là tiếng gọi khác của sự giam lỏng, viết xong kinh, tất lại có việc sai khiến khắt khe hơn. Hắn biết đôi ta tình nồng như lửa, thế mà lại nhìn bằng con mắt lạnh lùng. Trước kia không chịu nhận việc lấy vợ lẽ thì nay tôi khó nhận nàng làm vợ. Hắn là người mưu sâu, kế hiểm, bụng dạ độc ác, đôi ta đã rơi vào vòng của hắn, khổ thế này thì chịu sao nổi. Tôi có một mẹo vẫn muốn nói nhỏ cùng nàng nhưng vì nhiều người lắm mắt, hắn đề phòng nghiêm ngặt, nên chưa dám hé răng. Mụ đố phụ này dám nói dám làm, hắn đã bầy ra cái tuyệt trận này, thì nhất định là muốn cho nàng phải chết. Nếu nàng chết ở đây, tôi lại không dám nhận thì có khác gì loài lợn, loài chó? Từ khu vường này đi về phía tây có khá nhiều am viện, trụ trì đều là ni cô. Vậy nàng nên thu thập lấy chút tiền lưng, hãy tạm trốn đi nơi khác, nương náu ít lâu, đợi khi công việc tạm yên sẽ lánh hẳn đi nơi xa là xong. Ân ái của chồng nàng đến đây là hết.

    Thúy Kiều nghe nói chỉ gật dầu mà thôi, bỗng giật mình hòi:

    - Tiểu thư đâu?

    Thúc sinh nói:

    - Hắn về bên ngoại rồi! Tôi ở Huệ Sơn đọc sách tạt về, thấy hắn đi vắng, mới vội lén về đây gặp nàng một chút.

    Thuý Kiều nghe nói tiểu thư vắng nhà, mới dám phóng tâm nói:

    - Chàng ơi! Chàng có biết vợ chàng đã khổ sở biết chừng nào? Từ khi bị bắt về với Hoạn phủ, thoạt tiên bị ngay trận đòn phủ đầu, cứ tưởng hồng nhan bạc mệnh, bị bọn côn đổ cướp bắt đem bán vào cửa nhà quỵền quý, ngờ đâu lại chính là kế độc của vợ chàng bày ra. Thiếp chết có khó gì, chỉ đáng tiếc nhân phẩm như thiếp mà phải chết dấm chết dúi trong đám tôi đòi thì lòng thật không cam, cho nên mới cố gắng sống cho qua ngày đoạn tháng đó thôi! Chàng nên nghĩ chút tình xưa nghĩa cũ, mở cho thiếp con đường sống, kiếp này chưa thể báo đáp, kiếp sau xin sẽ đền bồi.

    Nói xong khóc ngất trong lòng Thúc sinh. Thúc sinh ôm lấy Thuý Kiều và nói:

    Thật là vì tôi không nghe lời nàng, để mắc mưu đố phụ, để cho nàng vướng phải lao lung, tôi muốn cứu mà không có cách gì, nghĩ ngợi mãi chỉ có chước trốn chạy là có thể bảo toàn được tính mệnh mà thôi. Nàng đừng để nhỡ nhàng đến bước đường sau này.

    Thúc sinh nói đến chỗ thương tâm quá, bất giác gục đầu xuống lạy.

    Thúy Kiều cũng lạy. Bỗng Xuân Hoa lên lầu, nói:

    - Tiểu thư đã về.

    Tức thời, hai người vội vã lảng xa nhau và lau ráo nước mắt. Thúc sinh toan xuống lầu thì thấy Hoạn thư đã lên tới nơi, nét mặt hớn hở tươi cười, hỏi:

    Kìa, cậu về bao giờ? Thúc sinh nói:

    Tôi vừa mới về, vì mai là kì hội văn. Hoạn thư hỏi:

    Cậu xem viết kinh thế nào?

    Thúc sinh nói:

    - Tôi đang xem đây. Quả là viết rất tốt.

    Hoạn thư rửa tay và lễ Phật xong, Thúy Kiều bước tới cúi đẩu làm lễ.

    Hoạn thư với Thúc sinh thi lễ xong giở những tờ kinh viết ra xem, rồi cười và nói:

    Quả nhiên là viết tốt thật! Rõ ràng là Liễu cốt Nhan cân [27] Chẳng rõ viết bao lâu nữa thì xong?

    Thúy Kiều nói:

    Thưa! Phải viết chừng hai tháng nữa mới xong! Hoạn thư nói:

    Được! Chị phải dụng tâm viết, đừng để sai sót chữ, hoặc sai lầm chương chỉ, ấy là tội lỗi của chúng ta!

    Thúy Kiểu nói:

    - Xin vâng lời.

    Hoạn thư uống xong mấy chén trà, không một lời đả động đến việc gì khác, vui vẻ tươi cười cùng Thúc sinh xuống lầu trở về. Thúy Kiều hỏi Xuân Hoa:

    Bà đến từ bao giờ? Xuân Hoa nói:

    - Lúc chị kể khổ ở trên thì bà đã đến dưới lầu rồi. Bà không cho em lên báo, nên em không dám báo đó thôi!

    Thúy Kiểu thoạt nghe, nghĩ thầm: "Người đàn bà này ghê gớm thật! Quả là có thủ đoạn, dù việc đến bất ngờ cũng không kinh giận, trong lòng chứa đầy ghen tức mà ngoài mặt vẫn thản nhiên vui vẻ tươi cười. Như sự tình hôm nay, ở người khác ai mà không nổi giận, thế mà hắn trái lại cười nói như không. Giận là thường tình, cười mới thật là bụng dạ khó lường. Ta còn ở đây, tất khó bề bảo toàn tính mệnh. Vậy ta phải cố chép xong kinh quyển, trốn đi phương khác rồi sau sẽ liệu".

    Từ đó Thúy Kiêu ngày đêm không nghỉ tay, trong vòng một tháng đã chép xong bộ kinh.

    Một hôm, đêm đến, đợi cho Xuân Hoa và Thu Nguyệt ngủ rồi. Thuý Kiều mới thu nhặt ít đồ thờ bằng vàng bạc, gói lại một bọc, đoạn ra mé cạnh tường phía tây vườn, buộc một chiếc thừng lên cành cây, tự mình ăn bận quần áo đạo cô rồi viết mấy câu kệ lên cửa lầu như sau:

    Không thèm sống gửi! Đi, đi thôi!

    Đạp tung lọ dấm, dứt đôi dây oán.

    Phật Như Lai tám vạn bốn ngàn,

    Sư tử rống ba mươi sáu chốn.

    Nếu chẳng mau chân tìm lối sống,

    Lại bị gô cổ vào địa ngục muôn đời.

    Đi, đi cho thú! Chao ôi!

    Một bầu một bát lang thang góc biển chân trời,

    Không câu thúc tuỳ theo mây gió dạt trôi.

    Thúy Kiều đề xong, trở ra leo lên cây, rồi nắm thừng tụt xuống ngoài vườn.

    Lúc này, bóng trăng lờ mờ, Thúy Kiều mang chiếc bọc cứ thẳng hướng tây đi miết. Dọc đường thấy bốn bể hiu quạnh, lặng ngắt vắng tanh, đi đến lúc trời hửng sáng, trong lòng so sợ bời bời. Ngước đầu lên, bỗng thấy cái cửa nhà chùa trên đế ba chữ: "Chiêu Ẩn am", Thúy Kiều cả mừng, nghĩ bụng: "Chỗ này là nơi tạm yên thân đây". Liền gõ cửa am.

    Giây lát, một sư già ra mỏ cửa, thấy Thúy Kiều mặc đạo phục, liền hỏi:

    - Nữ Bổ tát từ đâu đến, sao đi sớm thế này?

    Thúy Kiều nói:

    Bạch sư bà! Tiểu đạo vân du đến đây, thấy chùa ta là nơi thanh tịnh muốn xin vào tuỳ hỷ, nên chăng?

    Sư già nói:

    Tôi không thể quyết, xin sư cô hỏi vị trụ trì! Thúy Kiểu hỏi:

    Vị trụ trì hiệu đạo là chi?

    Sư già nói:

    - Đạo hiệu người là Giác Duyên!

    Thúy Kiều liền theo sư già vào giữa nhà, thấy, một ni cô chừng trên dưới sáu mươi tuổi, tự dung phong nhã, không giống người thường, liền chắp tay xá:

    - A di đà phật!

    Ni cô đó đáp lễ, hỏi:

    - A di đà phật! Tiên cô từ đâu tới?

    Thúy Kiều nói:

    Bạch sư cụ! Tiểu đạo theo thầy vân du tối đây, định tới am Chiêu An thăm đạo hữu hiệu là Giác Duyên. Không biết thế nào, thầy tôi lac đường ở đâu, nhất thời tìm chưa thấy. Chợt thấy chùa đây để ba chữ "Chiêu Ẩn am", biết là đúng rồi, chẳng rõ sư phụ tôi đã đến đây chưa?

    Ni cô nghĩ ngợi giây lát, rồi nói:

    - Bần đạo chính là Giác Duyên, còn lệnh sư phải chăng là sư huynh Hằng Thuỷ ở Trấn Giang?

    Thúy Kiều đỡ lời ngay:

    Chính phải đó ạ! Giác Duyên nói:

    - Đã mấy năm nay không gặp, chẳng rõ sư huynh ở đâu? Thúy Kiều nói:

    - Có một vị phu nhân mời tới Kinh mấy năm, tiểu đạo cũng được thu lưu từ Bắc Kinh. Nay nhân sửa soạn được mấy món lễ vật cúng dàng, định đưa hầu sư thúc. Nhưng chẳng biết sư phu thì làm thế nào?

    Giác Duyên nghe nói có lễ vật cúng dàng, bèn nói:

    - Lệnh sư đã định qua thăm bần đạo, tất nhiên rồi sẽ tìm đến. Đạo hữu cứ ở lại am này đợi người cũng dược!

    Thuý Kiều ngỏ lời cảm tạ, đoạn lấy ra hai chiếc chuông vàng khánh bạc dâng lên. Giác Duyên mừng lắm liền đạo hiệu ThúyKiều.

    Thúy Kiều nói:

    - Tiểu đạo hiệu là Trạc Tuyền!

    Từ đó ở lại trong am. Ít lâu sau, không thấy thầy đến, Thúy Kiều bèn cố nói với Giác Duyên:

    Không biết sư phụ ở đâu, làm sao đến nay mà vẫn chưa thấy tới? Giác Duyên nói:

    Ngưòi tu hành, được chốn yên thân, tức là nhà đấy. Lệnh sư không đến thì đạo hữu cứ ở lại đây, không cần phải nghĩ ngợi gì khác. Nếu quả lệnh sư không đến thì xin cùng đạo hữu kết làm chị em tu hành cũng được chớ sao.

    Thúy Kiều nghe nói liền tương kê tựu kế, bái nhận ngay Giác Duyên làm đạo huynh. Hai người rất là ý hợp tâm đầu.

    Một hôm, hai người lên gác Ngọc Hoàng, Thúy Kiều ngắm trông phong cảnh, cao hứng vịnh một bài thơ:

    Tiên khuyết cao vòi vọi,

    Trèo lên hứng thú ngay!

    Quanh co sông uốn khúc

    Chót vót núi chờm mây.

    Ngâm nga chuông Phật lắng,

    Rạng rở mây lành bay.

    Ngước nhìn trong chốc lát,

    Tấc dạ mẩn mê say.

    Giác Duyên vui vẻ nói:

    - Bây lâu chưa biết sư muội thạo thơ, rồi đây thế nào cũng xin vịnh cho nghe nữa.

    Thúy Kiểu lại lấy đầu đề "Chiêu Ẩn am" vịnh tiếp một bài:

    Sương khói bao la mờ..

    Rừng cây cảnh xác xơ.

    Trời biếc chim bay mỏi,

    Nước xanh dệt thành thơ.

    Lòng tựa vừng trăng sáng,

    Giường sát đám mây chiều.

    Nhà đâu xin chớ hỏi,

    Sen trắng lặng nhìn theo.

    Lại một đêm, Giác Duyên cùng Thúy Kiểu, Triệu Không và Bất Hà, bốn người ngồi trên cầu Thăng Tiên cùng nhau uống rượu, Giác Duyên nói:

    - Đêm lành cảnh đẹp, không thể không vịnh thơ. Xin Trạc Tuyền đạo huynh ngâm to cho một bài.

    Thúy Kiểu mỉm cười, liền ngâm một bài. Thơ rằng:

    Cầu Tiên, đêm dài họp chuyện,

    Lửng lơ trăng sáng rừng bên.

    Cò ngủ bên cồn cát ấm,

    Ao sâu, con cá nhào lên.

    Cơn gió thoảng, bừng mắt tuệ,

    Nước im lặng, vững lòng thiền.

    Trăm mối từ nay yên tĩnh,

    Câu kinh Phạn, tiếng ếch xen.

    Mọi người đồng thanh nói:

    Trạc Tuyền đạo huynh thật là tài giỏi. Chỉ tiếc rằng chúng tôi thô tục không thể theo họa. Chúng tôi xin rót cốc rượu này để tạ lòng đạo hữu.

    Rồi đó, mọi người trò chuyện, chén tạc chén thù mãi đến trống năm canh mới tan cuộc.

    Thật là:

    Nửa chiếc giường thiền tiêu ngày trắng,

    Một điệu thơ hay qua đêm thanh.

    Xin xem hồi sau phân giải.
     
  8. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    • VÒNG MA CHƯỚNG, ỠM Ờ TRÊU MÁ PHẤN

    CHỐN YÊN HOA, MAY MẮN GẶP ANH HÙNG

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngũ Tử Tư là tay anh hùng, thế mà đến bước đường cùng còn phải thổi sáo kiếm ăn, huống chi Thúy Kiều là thân gái mềm yếu. Sợ vạ đi trốn mà trốn đến lúc tiến không thể được, lùi cũng không xong, lại đông có tròng, tây có bẫy, dù "chắp cánh cũng không thể bay thoát, như én lạc đàn, như vượn mất tổ, phải thui thủi ngậm đắng nuốt cay, chịu ép dưới tay người.

    Tình cảnh ấy thật đáng thương đáng xót, dù gan sắt đà, đọc đến đoạn này cũng không thể không thương không khóc. May nhờ đọc đến đoạn sau, thấy nàng bỗng gặp người kì dị đất Thái Nguyên, khiến nàng được hả giận, chừng ấy mới phá buồn làm vui mà cười rằng:" Dù việc ấy là hành vi trái ngược, nhưng cũng chỉ đủ làm nổi bật sự đắc ý của người anh hùng bị khốn khổ vậy "..

    Đây hãy tạm gác chuyện Thúy Kiều trốn ở am Chiêu Ẩn. Nhắc lại sáng hôm ấy, hai thị nữ Xuân Hoa và Thu Nguyệt ngủ dậy, thấy cửa lầu mở rộng, lại có để mấy hàng chữ, chạy vào trong phòng tìm Thúy Kiểu thì không thấy người, chỉ có chiếc giường không mà thôi, vội vàng ra báo cho Hoạn thư biết. Hoạn thư nói:

    - Con a đầu này mau chân thật, để nó trốn mất rồi! Vậy chúng mày thử xem mất những vật gì!

    Hai thị nữ báo rằng không thấy chuông vàng, khánh bạc, đèn châu và đỉnh báu, đáng giá chừng hơn hai trăm lạng. Hoạn thư nghe vậy liền sai người đi lùng tìm, một mặt sai người đi dán chiêu đê tìm bắt.  

    Hồi này Thúc sinh đương ở Huệ Sơn đọc sách, chợt được tin báo, trong bụng đã rõ, song chưa biết Thúy Kiều có chạy được thoát không, nên trong lòng áy náy không yên, liền trở về nhà. Dọc đường thấy giấy chiêu đề đã nhan nhản dán khắp mọi nơi liền sai mấy gia đinh tâm phúc đi bóc hết những giấy chiêu đề ấy đi, rồi về nhà nói với Hoạn thư:

    Trạc Tuyền không biết trốn đi đâu nhỉ? Hoạn thư nói:

    Thiếp đã sai người đi theo dõi lùng bắt! Thúc sinh nói:

    Nó là người bên nhà nhạc phụ, nếu nhà họ Thúc ta đứng tên đi bắt, người ngoài biết nó là hạng thị nữ thì còn ra gì nữa. Phương chi, đàn bà con gái đã bỏ nhà đi, khó bề giữ được thanh sạch. Nay bắt về, để thì coi không nhã, mà giết đi thì thêm tội. Cứ ý tôi thì mặc cho nó đi đâu thì đi, ta đừng hỏi đến nữa là xong.

    Hoạn thư nghe nói, biết việc Thúy Kiều trốn đi là do mưu kế của chồng. Nay nếu truy cứu ráo riết, e phương hại đến tình nghĩa vợ chồng. Huống chi kẻ tình địch đã đi rồi. Lòng cũng đã hả, liền tiếp lời nói:

    Cậu bàn phải lắm! Thôi! Bảo người đi nhặt hết giấy chiêu đề về, bất tất đi lùng tìm làm gì nữa!

    Vì thế mà Thúy Kiều ở am Chiêu Ẩn quá nửa năm được yên ổn vô sự.

    Một hôm trong am mở đại hội Vu Lan, thiện nam tín nữ đến khá đông, trong đó có nhiều vị phu nhân và tiểu thư vợ con nhà sĩ hoạn. Thúy Kiểu giả cách ốm không xuống lầu.

    Một vị phu nhân họ Thường vào phòng Giác Duyên, thấy chuông vàng khánh bạc, thì ngạc nhiên hỏi:

    Vật này từ đâu đến đây? Chỉ trong gác Quan Âm nhà họ Thúc mới có vật trân bảo này. Nghe nói vật quý này do nước ngoài gửi tặng quan Lại bộ họ Hoạn, rồi Hoạn tiểu thư đem về nhà chồng cúng dàng thờ Phật, cả vùng ai cũng cho là vật báu chẳng ngờ chùa ta cũng có. Nếu thế thì vật báu nhà họ Thúc cũng chưa đủ gọi là của lạ.

    Giác Duyên thoạt nghe kinh hãi, hàm hồ trả lời cho qua.

    Khi hội hè đã xong, Giác Duyên mới đem câu chuyện ấy nói lại cho

    Thúy Kiều nghe. Thúy Kiều thất kinh nói:

    - Thôi! Việc hỏng rồi, biết làm sao đây!

    Giác Duyên vội hỏi là duyên cớ gì, Thúy Kiều nói:

    Những vật này thật là của họ nhà Thúc, bây giờ em không thể còn giấu diếm sư huynh..

    Bèn đem đầu đuôi câu chuyện mình trước đây thuật kĩ môt lượt cho

    Giác Duyên nghe. Giác Duyên nghe nói sợ hãi rụng rời. Thúy Kiểu nói:

    - Sư huynh chớ lo, em có kế này khả dĩ che được mắt họ, nhưng em không thể yên thân ở đây được nữa rồi. Trước hết hãy xin sư huynh tìm giúp cho em một chỗ yên thân đi đã, sau rồi sư huynh tìm hiệu thợ đồng thuê đúc theo kiểu chuông và khánh này, rồi đem mạ vàng và bạc để thờ trong phòng. Nếu họ nghe phong phanh có đến tra xét, thì thấy kiểu chuông khánh của quý phủ đẹp, đã theo kiểu đúc theo, chớ không phải là của thật, tự khắc họ phải chịu thôi.

    Giác Duyên nói:

    Mưu hay lắm! Còn em thì chỗ nhà bà mẹ nuôi của chị là họ Bạc có thể ở được. Vậy em đổi thay quần áo để rồi sang bên ấy!

    Thúy Kiều nói:

    - Em không có quần áo thường tục thì làm thế nào?

    Giác Duyên nói:

    - Để chị đi sắm cho.

    Giác Duyên liền đến cửa hàng quần áo, mua mấy bộ đem về. Thúy Kiều thay mặc nữ trang, còn quần áo nhà chùa thì để lại cho Giác Duyên cả. Nhân khi đêm tối, Giác Duyên liền đưa Thuý Kiều đến nhà họ Bạc.

    Nguyên mụ Bạc này là một tay côn đồ trong hạng đàn bà, thấy nhan sắc Thúy Kiều, lại nghe nói là lánh nạn đến thì trong lòng nẩy ra ý bất lương, thường thường bịa chuyện để dọa nạt. Thúy Kiểu khiếp sợ đã sẵn, không khỏi đâm ra hoảng hốt, nên thổ lộ hết để cùng mụ bàn tính. Mụ Bạc nói:

    Tôi tưởng chốn này quyết không thể ở lâu, chỉ có một cách đi lấy chồng xa thì mới yên thân được. Song, người ở xa, biết họ là hạng thế nào, lấy họ liệu có tin cậy được hay không? Chi bằng tiện đây, tôi có người cháu tên là Bạc Hạnh, đã hai tám tuổi, bộ dạng coi cũng thanh nhã, còn chưa lấy vợ, lâu nay buôn bán ở Châu Thai bên tỉnh Chiết Giang hiện nay về đây mua hàng. Tính kế bây giờ, thì chi bằng cô lấy quách hắn cho rồi, rồi về ở Chiết Giang mới là cái kế yên thân toàn vẹn được! Chẳng hay ý cô ra sao?

    Thúy Kiều nghĩ thầm:" Nếu không đi thì ở đây không phải là nơi kết cục, nếu đi thì không biết bụng dạ người ấy ra sao? ". Bỗng thấy một ngưòi đàn ông vào, nói là mời thím ra nói chuyện. Bạc bà ra đón hắn chuyện trò. Thúy Kiều đưa mẳt nhìn trộm một cái, thấy anh chàng ăn mặc kiểu Tô Châu, bộ dạng cũng coi được. Duy mặt mũi có vẻ gian trá, chưa chắc đã không phải là hạng người hiểm độc vô tình.

    Người ấy đi rồi, mụ Bạc trở vào nói:

    Cô Vương đã nhìn rõ hắn chưa? Chính là cháu tôi đấy! Cô mà ưng ý, tôi sẽ mời sư phụ Giác Duyên đến bàn tính. Nếu không ưng thì tuỳ ý cô!

    Thúy Kiều cúi đầu, không nói sao cả. Mụ Bạc đoán chừng Thúy Kiều bằng lòng, liền đi tìm Giác Duyên kể lại việc trước. Giác Duyên theo mụ Bạc về gặp Thúy Kiều, Thúy Kiều thi lễ xong, Giác Duyên hỏi:

    Câu chuyện bà Bạc nói đó, ý em nghĩ thế nào? Thúy Kiều rưng rưng nước mắt nói:

    Việc ấy thì em cũng không biết nghĩ ra thế nào? Nếu em không đi thì chỗ này cũng không thể ở lâu được, mà đi xa thì khốn nỗi đàn bà con gái, hành động lại bị người ta kiềm chế. Cái việc bà Bạc bàn kể ra thật đáng thẹn, khó bề ưng thuận, mà vì lẽ bất đắc dĩ lại không tiện chối thẳng đi. Không biết chị dạy em nên như thế nào?

    Giác Duyên nói:

    - Chị cũng không nỡ xa em, nhưng em ở đây vẫn coi là một việc tạm bợ.. Âu là theo cháu bà Bạc đi hẳn nơi xa đi, cho thoát khỏi cái đất nguy hiểm này. Có điều hắn mà sánh với em thì cố nhiên là không được bằng em.

    Thúy Kiều nói: '

    Cái đó thì cũng đành thôi! Có điều, em coi anh ta bộ dạng có vẻ giảo quyệt, tựa hồ không phải hạng người trung hậu. Chỉ sợ lại coi em như món hàng lạ, thế là em lại rơi vào tay con quỳ Dạ Xoa rồi vậy.

    Mụ Bạc đỡ lời, nói:

    Cháu tôi là người trung hậu. Cô có ngại thì bảo hắn viết một tờ giấy cam đoan cho cô là được.

    Thúy Kiều nói:

    - Cái đó cũng không cần! Miễn là anh ta đối trời phát thệ suốt đời không phụ nhau, thì tôi sẽ theo anh ta đi.

    Mụ Bạc nói:

    Cái đó tôi nói một lời là được. Nhưng còn lễ vật thì cô muốn độ bao nhiêu?

    Thúy Kiều nói:

    Thân tôi đã thuộc về anh ấy, dù có lấy tiền thì rồi cũng trở vế nhà anh ây. Có điều, tôi không có của hồi môn, chỉ cần anh ấy đưa cho hai mươi lạng bạc, để tạ bà năm lạng và năm lạng gửi về bên am làm tiền dầu đèn cúng Phật, còn mười lạng thi sắm giúp tôi bộ chăn màn là đủ.

    Mụ Bạc liền đi tìm Bạc Hạnh nói cho biết việc ấy. Bạc Hạnh mừng lắm, liền đi mua ngay giấy tiền, hương, nến đem đến. Rồi đặt bàn đốt nến thắp hương, làm lễ trời đất, thề rằng:" Nếu Bạc Hạnh này phụ tình Vương Thúy Kiều, không cùng nàng sum họp đến già thì cam chịu chết đâm chết chém ". Thề xong, Bạc Hạnh đi ra thu xếp hai mươi lạng bạc, bốn bộ quần áo và một đôi thoa xuyến, sai tiểu đồng đưa đến. Mụ Bạc tiếp nhận trao lại cho Thúy Kiểu. Thúy Kiểu nghĩ việc khẩn cấp đành phải chịu thu nhận, đưa năm lạng bạc tạ ơn mụ Bạc, gửi Giác Duyên năm lạng để làm tiền dầu đèn và đưa mười lạng nhờ Giác Duyên đi sắm giúp bộ chăn màn.

    Sau đó Thúy Kiều tắm gội, trang sức xong một chốc thì kiệu hoa nhà họ Bạc đến đón. Thúy Kiều từ giã mụ Bạc và Giác Duyên, rồi lên kiệu về nhà Bạc Hạnh. Hai người làm lễ trời đất xong, cùng nhau vào trong phòng. Bạc Hạnh nói:

    - Đội ơn nàng không chê, chịu lấy kẻ hén này, xin cùng nàng trọn đời đoàn tụ!

    Thúy Kiều khóc nói:

    - Việc hôm nay thật là bất đắc dĩ, xin chàng giữ trọn thuỷ chung, chớ bỏ thiếp, ấy là thiếp được nhờ lắm rồi!

    Bạc Hạnh nói:

    - Lời thề luôn vẳng bên tai, tôi đâu dám phụ lòng!

    Bèn cầm khăn lau ráo nước mắt cho Thúy Kiều, rồi dắt nhau vào giường, thành đôi chồng vợ.

    Hôm sau, Bạc Hạnh thuê thuyền cùng Thúy Kiều khởi hành, qua Chiết Giang, rồi thẳng vê Châu Thai. Khi thuyền cập bến. Bạc Hạnh đưa Thúy Kiều vào nghỉ ở quán trọ và dặn rằng:

    - Nương tử hãy tạm ở quán trọ, tôi về trước thu xếp nhà cửa, rồi sẽ đến đón!

    Bạc Hạnh đi ra, chừng nửa ngày mới đưa một người cùng về, nói với Thúy Kiều:

    Người đến với tôi đây là bạn buôn cùng mở cửa hiệu, vậy nàng nên ra chào khách đi!

    Thúy Kiều từ trong phòng bước ra, thấy người ấy mày rậm mắt to, trạng mạo coi như là kẻ cướp, bèn vái chào, rồi quay ngay trở vào, hỏi Bạc Hạnh:

    Nhà cửa ra thế nào rồi? Bạc Hạnh nói:

    Đã lâu tôi không đến, có người láng giềng sang ở nhờ. Họ hẹn đêm nay thu xếp dọn đi để ngày mai cho ta trở về!

    Người bạn giục nhà quán sửa soạn tiệc rượu chào mừng Bạc Hạnh, mời cả chủ quán dự tiệc vui. Ba người ăn uống mãi tới canh hai mới giải tán.

    Bạc Hạnh về phòng, Thúy Kiều nói:

    Anh bạn ây, coi tướng như kẻ cướp. Bạc Hạnh nói:

    Anh ta sinh trưỏng ở vùng bể, mới ra hình dạng thế thôi. Nàng đừng sợ, rồi đây về cửa hàng, trông qua mấy lần rồi cũng sẽ quen mắt thôi. Bây giờ ta với nàng đi ngủ thôi.

    Thì ra Bạc Hạnh vốn là tay chỉ chuyên buôn người, đóng bộ khách hàng đi mua con gái, hoặc con hầu vợ lẽ người ta, giả danh làm vợ, rồi đưa về bến, để ở tạm quán trọ, tự khắc có người bán giúp. Người mặt đen râu xồm kia là một tay trong phường bán thịt buôn người, nhận lời với mụ khách đến xem mặt hàng, rồi bàn nhau bàn định số tiền mua là hai trăm bốn mươi lạng bạc. Số này về Bạc Hạnh hai trăm, còn về chủ quán và trung gian bốn mươi lạng.

    Hôm sau ngủ dậy, ăn cơm sáng xong, Bạc Hạnh nói với Thúy Kiều:

    Tôi về hiệu trước, cho kiệu đến đón nàng. Còn hành lí, tôi sẽ sai người đến lấy. Nàng cứ ngồi kiệu về hiệu là được.

    Nói xong ra đi.  

    Thúy Kiều bụng bảo dạ:" Anh chàng này mới kì quái làm sao! Bộ dang vội vàng, chắc là lập mưu lừa mình. Xem bộ dạng hình như định tống mình đi đâu đấy. Mình phải thu xếp y phục hành lí vào một rương, đem luôn trong kiệu, dù có xảy việc gì không may cũng tiện bề phòng thân ". Nghĩ rồi liền thu nhặt những y hục và các vật dụng của mình chứa vào một rương, còn chăn màn thì bọc làm một bó. Thu xếp vừa xong thì phu kiệu đã đến. Thúy Kiều bảo phu kiệu đặt cái rương và bó chăn màn vào trong kiệu. Phu kiệu nói:

    Ông Bạc dặn rằng những chăn màn và đồ hành lí không cần đem theo chút nào.

    Chủ quán cũng nói:

    - Ồng Bạc dặn hãy để những đồ vật ấy ở quán tôi đây, lần khác sẽ đến lấy về!

    Thúy Kiều càng ngờ, bèn nói:

    Đây là những vật tuỳ thân của tôi, tự nhiên phải tuỳ ý tôi, không ai ngăn trở được hết!

    Bèn giục phu kiệu cứ đặt hành lí vào kiệu, rồi từ biệt chủ quán lên đường. Đi hàng nửa ngày mới đến trước một ngôi nhà và dừng lại ở đó.

    Thúy Kiều để ý không trông thấy Bạc Hạnh ra đón, chỉ thấy một mụ chừng ngoài ba mươi tuổi chạy đến bên kiệu, nói:

    - Cô Vương! Mời cô vào trong này ngồi.

    Thúy Kiểu nhìn mụ, thây bộ dạng quả là một mụ dầu lầu xanh, tự biết nghiệp chướng chưa dứt, khó bế trốn thoát, nên đáp lại ngay.

    - Xin mẹ đưa giúp hành lí vào nhà cho con!

    Người đàn bà đó bèn đem đồ đạc, gọi Thúy Kiều theo. Thúy Kiều xuống kiệu, theo mụ vào nhà, thấy bên trong có mấy cô gái đứng đó thì lòng càng phát nghi. Vào tới nhà trong, liền nói:

    - Xin mời mẹ ngồi lên cho con bái kiến!

    Mụ kia vui mừng nói:

    - Con ơi không cần lạy.

    Thúy Kiều sụp mình lạy bốn lạy.

    Thì ra mụ này chính là mụ khách, mụ ta liền hỏi:

    - Tại sao con biết là người ta bán con?

    Thúy Kiểu nói:

    - Con thấy hành động của hắn rất là khác thường cho nên đã biết. Chẳng biết mẹ đã mua con hết bao nhiêu lạng bạc?

    Mụ khách nói:

    - Hai trăm bốn mươi lạng!

    Thúy Kiều thở dài nói:

    - Lời gấp mười rồi đấy!

    Mụ khách gạn hỏi đầu đuôi. Thúy Kiều kể lại một lượt. Mụ khách nói:

    - Hắn dụng tâm đến như thế, may mà còn có kiến thức mang được hành lí theo về. Nay mẹ cũng không làm khó dễ gì cho con vậy con phải cố gắng giúp mẹ làm ăn.

    Thúy Kiều nói:

    Như thế đủ thấy nghiệp chướng của con chưa hết nên lại vào đây. Thôi con cũng không mơ tưởng hão huyền nữa.

    Mụ khách nghe thấy Thúy Kiều nói vậy, lấy làm vừa ý bằng lòng lắm.

    Còn Bạc Hạnh nắm được số tiền tránh đi nơi khác. Đợi cho Thúy Kiều đi khỏi mới trở về quán trọ, thấy những đồ dạc hành lí của Thúy Kiều đã đem đi rồi thì dẫm chân nói.

    - Thật là lợi mụ khách, bốn mươi lạng bạc đồ quần áo trang sức! Muốn đến nhà mụ khách đòi, lại sợ gặp Thúy Kiều sẽ xảy ra việc lôi thôi nên đành chịu, bèn thu xếp hành lí trở về Vô Tích.  

    Lại nói, Thúy Kiều lại rơi vào chốn lầu xanh, tự than mệnh bạc. Hồi trước đã được tòng lương, chịu bao nỗi lầm than khổ ải, nay lại rơi vào chốn cũ lầu xanh, há chẳng là số mệnh hay sao? Số mệnh đã nhất định phải như thế nên cũng không mơ tường hão huyền gì nữa. Từ buổi bắt đầu tiếp khách, chẳng qua là mấy người cầu vui ở mình thì mình cũng mượn người khiển hứng, lời ca suốt sáng, trận cười thâu đêm, tiếng tăm lừng lẫy một vùng.

    Hồi ấy có một tay hảo hán họ Từ, tên Hải, hiệu Minh Sơn, vốn người đất Việt, tâm tính khoáng đạt, độ lượng lớn lao, coi phú quý như lông hồng, nhìn người đời tựa cỏ rác, và lại anh hùng rất mực tinh thông lược thao. Lúc thiếu thời cũng có học tập khoa cử, vì không đỗ đạt mới bỏ đi làm nghề buôn, của cải dư dật, lại thích kết giao bè bạn. Nghe nói Thúy Kiều là trang tài sắc, lại có tính tình hào hiệp khảng khái, Từ Hải bèn đến thăm chơi. Mụ khách biết Từ Minh Sơn là tay hảo hán, nay bỗng thấy chiếu cố đến nhà mình, vội gọi Thúy Kiểu ra tiếp.

    Bốn mắt nhìn nhau đều có phần trìu mến. Minh Sơn nói:

    Nghe đồn khanh ở đây đã một năm rồi mà chưa một lần ai được lọt vào mắt, có phải thế không?

    Thúy Kiều nói;

    - Người ta đồn vậy là quá đáng. Thiếp tìm người gửi của, trông mặt đặt tên, cho nên không khinh suất mà uỷ thác can trường cho phường tục tử thì có đấy. Còn như trong con mắt mà không kể gì kẻ ngu người hiền thì tha thứ làm sao được?

    Minh Sơn nói:

    - Nếu như thế thì khanh cũng như câu thơ cũ đã nói: Can" trường nào biết ai cùng gửi - Khiến người lại nhớ Bình Nguyên Quân". Phỏng như bỉ nhân đây, muôn phần liệu có được một giống như Bình Nguyên Quân không?

    Anh hùng đại độ, chàng đáng là bậc dị nhân ở đất Thái Nguyên, chớ Bình Nguyên Quân cũng không khoáng đạt đến như thế!

    Minh Sơn cười, nói:

    Khanh xem xét anh hùng trong chốn trần ai, chớ có nhận lầm nhé! Thúy Kiều nói:

    Đôi mắt biết anh hùng này của thiếp há không nhận đúng được. Minh Sơn nói:

    - Hay lắm! Từ Hải này hôm nay gặp được người tri kỉ rồi đây!

    Liền bảo chủ nhà đặt tiệc rượu cùng Thúy Kiều ăn uống chuyện trò, rồi lưu lại nghỉ đêm. Thúy Kiểu bèn đem việc chung thân của mình ra phó thác cho Từ. Từ cũng khảng khái coi đó là trách nhiệm của mình.

    Hôm sau, Từ đưa ra hai trăm lạng vàng làm tiền chuộc mình cho Thúy Kiều và tìm thuê một nơi cho Thúy Kiều ở, lại mượn một thị nữ để hầu hạ. Thúy Kiều nói:

    - Sao chàng không đưa thiếp về quê nhà mà còn gây thêm bếp núc ở đây?

    Từ Minh Sơn nói:

    Khanh nói như thế, có thể nói là không bằng nàng Chuyển Ngọc rồi. Chuyển Ngọc đòi mười vị triều quan làm mối mới chịu lấy Hách sinh, thì ta đây há lại không thể đem mười vạn binh đến đón nàng à? Bây giờ hãy ở tạm đây, chỉ trong vài ba năm ta sẽ đón nàng vu quy với những đao to, búa lớn, gươm tuốt, cung giương, hậu ủng, tiền hô, muôn quân ngàn ngựa, tức là cái lúc Từ Hải này đắc chí đó. Lúc ấy nàng sẽ rót rượu ở vùng Đông Nam để mừng cho ta. Chứ như nay, ta chỉ trơ trọi một mình, thì đưa nàng nào biết về đâu?

    Thúy Kiều nghe nói mới vỡ lẽ. Từ Hài bèn dựng một tòa nhà để cùng ăn ở với Thúy Kiều. Vợ chồng đoàn tụ chừng nửa năm, Từ Hải liền từ biệt Thúy Kiều ra đi.

    Không biết sau khi đi thế nào, xin xem hồi sau phân giải.
     
  9. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    VƯƠNG THÚY KIỀU, KIỂM GIẾT PHƯỜNG VÔ NGHĨA

    TỪ MINH SƠN, VÀNG TẶNG KẺ CÓ ƠN

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Vương phu nhân làm việc báo đền, có thể nói là ân oán phân minh. Duy đối với Thúc sinh chưa hề vạch rõ cái tội "ngồi nhìn khoanh tay không cứu" là có chút sai lầm mà thôi. Ý hẳn phu nhân nghĩ cũng không chấp cái người đần độn, yếu đối, vô tài mà chỉ biết cảm cái ơn thương hồi trước.

    Vương phu nhân đã biết cảm sự yêu thì ngày nay còn yêu ai hơn Từ Minh Sơn. Từ Minh Sơn đã yêu phu nhân, có lẽ nào phu nhân lại không yêu Từ Minh Sơn. Phu nhân đã yêu Từ Minh Sơn thì tất yếu muốn bảo toàn Từ Minh Sơn. Nếu cứ khuyến khích cho suốt đời làm giặc thì đâu phải là kế bảo toàn?

    Vì thế mà Vương phu nhân ân cần khuyên bảo Từ Minh Sơn ra hàng. Giả sử bọn đương cục mà biết suy bụng ta ra bụng người, đổi đãi như bọn Tiêu, Vương đời Hán thì có phụ gì người ra hàng đâu. Cho nên, dù không thể dự đoán được công việc đến cùng, song khuyên hàng là việc chính đáng, chớ không phải là việc lầm lẫn. Ta không nên bàn tán chuyên thành bại ở đây..

    Lại nói, Thúy Kiều thấy Từ Minh Sơn đi luôn ba năm tuyệt nhiên không có tin tức gì cả. Một ngày kia bỗng có tin quân giặc kéo đến rất đông, nhân dân trong vùng đểu chạy trốn hết. Bọn người nhà đều giục Thúy Kiều nên rời chỗ ở. Thúy Kiều nói:

    - Ta đã ước hẹn với Từ Minh Sơn là dù gặp cơn binh lửa cũng không tiện bỏ chốn này đi. Các ngưòi muốn đi thi cứ đi, bằng không thì sống chết cùng với nhau.  

    Bọn người nhà không dám ở lại, đều dắt nhau bỏ di.

    Cách ít lâu, bỗng có toán quân đông ước vài nghìn và hơn mười vị tướng, thình lình kéo đến, vây quanh ngôi nhà, rồi hô lớn:

    Vương phu nhân có ở đây không? Chúng tôi phụng mệnh Từ Minh Sơn thiên tuế đến đón phu nhân!

    Thúy Kiều nghe xong, liền bước ra nói:

    - Chính ta!

    Bọn tướng tá và binh sĩ đều quỳ cả xuống, nói:

    Kính trình phu nhân! Tướng sĩ chúng tôi xin làm lễ bái kiến! Phu nhân nói:

    - Xin cảm tạ các vị! Chẳng hay đại vương hiện nay ở đâu? Các tướng nói:

    Trình phu nhân! Đại vương hiện đóng quân ở thành Đại Hoang chờ đợi phu nhân.

    Phu nhân nói:

    Nếu vậy ta sẽ khởi hành ngay! Các tướng bẩm rằng:

    - Xin phu nhân hãy khoan cho, xe loan sẽ đến đón bây giờ. Vương phu nhân liền hạ lệnh:

    - Dân cư miền này đều là láng giềng của ta, các ngươi không được cướp giết, gian dâm, kẻ nào trái lệnh sẽ bị chém đầu răn làm gương!

    Hiệu lệnh truyền ra, ba quân nghiêm túc phụng hành cho nên cả vùng không bị tai họa gì. Đó đều là ơn đức của Vương phu nhân cả.

    Lát sau, một viên đại tướng đưa xe loan và bọn cung nữ đến, vào nhà yết kiến phu nhân, vòng tay xá một xá, nói:

    Kính trình phu nhân! Tiểu tướng mình mang giáp trụ, không thể toàn lễ, xin phu nhân xá tội.

    Phu nhân nói:

    Kế đó bọn cung nữ khấu đầu nói:

    Chúng con phụng lệnh đại vương, kính đón phu nhân! Phu nhân nói:

    - Hãy đứng dậy!

    Bọn quân sĩ nghênh tiếp cũng đều rập đầu chào. Mọi việc xong xuôi, các tướng nói:

    Loan giá đã chỉnh tề, xin rước phu nhân thay đổi y phục để lên xe.

    Cung nữ dâng mũ ngọc, áo đỏ. Phu nhân thay đổi xong, bọn cung nữ đỡ ngồi lên xe loan, tiền hô hậu ủng, bắt đầu khởi hành. Đi luôn trong ba ngày mới gần đến thành Đại Hoang, liền gặp mấy chục quân thám mã theo tới hộ vệ.

    Bọn quân hộ vệ nói to:

    - Kíp báo đại vương biết là phu nhân đã tới!

    Bọn thám mã phóng ngựa chạy như bay. Một lát liền nghe súng nổ rền trời, trong thành có xí kéo lên phấp phối, trống nhạc khua vang, tiếp đến hàng ngũ những đội quân mang đủ đao, thương, kiếm, kích lần lượt kéo ra. Thúy Kiều nhìn thấy trên ngựa tiêu diêu có một vị đầu đội mũ tam sơn, mình mặc bào đại hồng, đeo đai bích ngọc, mang ủng thêu, mặt trắng, mày thanh, đầu hùm, hàm én, thì ra chẳng ai khác, đó chính là Từ Minh Sơn.

    Minh Sơn tiến tới đón Thúy Kiều và hỏi:

    - Phu nhân, bữa nay tôi nghênh đón phu nhân tòng lương so với Hách sinh đón Chuyển Ngọc thì như thế nào?

    Thúy Kiều nói:

    - Hách sinh đón Chuyển Ngọc chẳng qua chỉ mượn sự vinh quang của mười vị quan triều, chớ đại vương đón thiếp ở đây là ở sức mình, không có cái thẹn làm đuôi trâu vậy.

    Minh Sơn nói:

    - Phu nhân thật hiểu lòng ta!

    Liền đó đón về dinh. Minh Sơn lại nói:

    - Cách biệt ba năm, một sớm tái ngộ, năm xưa hàn vi, giờ đây phú quý, tuy không xẻ cõi chia bờ, nhưng cũng đánh thành bạt lũy, uy vũ hơn người.

    Nhân câu chuyện này, phu nhân bèn khuyên Minh Sơn chớ nên đốt phá nhà của dân, gian dâm phụ nữ và giết hại già trẻ.

    Minh Sơn y lời. Từ đó mỗi khi đại quan đến đâu liền hạ lệnh nghiêm cấm việc gian dâm và cướp giết. Việc đó đều là do công ơn của phu nhân.

    Một hôm, Thúy Kiều kể lại việc cũ ở Lâm tri cho Minh Sơn nghe.

    Minh Sơn nói:

    - Điểu đó có khó gì! Tôi sẽ điểm năm nghìn quân sai đi quét sach vùng Lâm Tri để báo cái thâm thù ấy cho phu nhản.

    Phu nhân nói:

    Tội nhân chỉ có mấy tên Mã Bất Tiến, mụ Tú và Sở Khanh mà thôi! Chớ nên làm hại lây đến người khác.

    Minh Sơn y lời, liền hạ lệnh điểm năm nghìn quân tiến đánh Lâm Tri, trước hết gọi kiện tướng Sử Chiêu ra dặn:

    - Ngươi đem bọn thám tử đến Lâm Tri trước do thám nơi ăn ở và cách hành động của bọn Mã Bất Tiến, rồi bí mật nấp sẵn ở đó, đợi đại binh đến, sẽ đón bắt cho hết. Nếu để chạy thoát tên nào nhất định sẽ thi hành quân lệnh!

    Sử chiêu vâng lệnh ra đi.

    Lại sai kiện tướng Lôi Phong cầm một chiếc lệnh tiễn tới cắm ở trước cửa nhà họ Thúc, nhưng không được làm kinh động già trẻ. Lôi Phong phụng lệnh mà đi. Lại sai đại tướng Biện Báo lĩnh năm nghìn quân đến thẳng Vô Tích bắt mụ đố phụ Hoạn thị, Kế thị, gia nhân hai nhà Thúc, Hoạn và Bạc bà, Bạc Hạnh, cùng Giác Duyên ở am Chiêu Ẩn. Hết thảy mọi người đều bắt sống về nộp, không được để thoát tên nào. Hẹn trong một tháng sẽ về hội họp tại Lâm Tri. Biện Báo lĩnh binh mã đi.

    Sau đó Từ Hải chọn định một ngày tốt, ước hội nhất tề ra quân. Tới ngày hôm đó, Từ Hải nói với Thúy Kiếu:

    - Việc ra quân bữa nay là vì phu nhân mà xuất phát, ấy là lúc phu nhân báo thù đây. Vậy xin phu nhân hãy làm lễ thệ sự, sau đó bỉ nhân sẽ phát binh.

    Vương phu nhân liền rót rượu làm lễ thệ sư. Các tướng đều quỳ cả xuống. Phu nhân đọc lời chúc rằng:

    "Hoàng thiên hậu thổ soi xét lòng này, non cao sông dài chứng giám ý tôi: Vương Thúy Kiều này vì cha bán mình, gặp bọn Mã Bất Tiến, Sở Khanh, Tú Bà, Bạc bà, Bạc Hạnh, Kế thị và Hoạn thị hãm hại, nay nhờ uy uy linh Từ công ra quân báo thù. Vậy trên xin cáo với trời đất thần linh, rồi mới xuất phát. Ba quân, các ngươi chớ ngại vất vả, hãy vì ta hăng hái ra sức".

    Đọc xong, tưới rượu xuống đất. Ba quân đều hô lớn:

    - Chúng tôi nguyện vì phu nhân làm hết sức mình!

    Những tiếng phẫn nộ nổi lên, non lay, biển động. Từ Hải ra lệnh khởi hành. Chừng mấy ngày sau tiến đến địa đầu Lâm Tri liền nổ ra một phát súng lệnh rồi tiến đánh. Tại đây tuy có mấy trăm quân quan, nhưng địch sao nổi đại quân ấy, nên đều bò chạy hết. Vì thế, trong khoảng một ngày, quân họ Từ đã tiến sát phủ thành Lâm Tri. Quan phủ và cư dân thảy đều trốn hết.

    Từ Hải truyền lệnh đóng quân tại một khu đất không. Vừa cắm trại xong liền thấy kiện tướng Sử Chiêu giải bọn Mã Bất Tiên đến thỉnh công. Từ Hải cũng truyền hãy tạm giữ cả lại một nơi.

    Lại có kiện tướng Lôi Phong đem cha con nhà họ Thúc đến yết kiến.

    Từ Hải lệnh đưa vào doanh bên, tiếp đãi tử tê.

    Sau đó đại tướng Biện Báo vào trại, bẩm:

    - Tiểu tướng phụng mệnh đại vương tróc nã bọn Hoạn, Thúc đều đã đưa về đây. Duy có Thúc Thủ văng nhà nên chưa bắt được, vậy xin thỉnh tội!

    Từ Hải nói:

    - Thúc Thủ đã ở đây rồi, hãy đưa phạm nhân ra giữ ở một nơi.

    Biện Báo vâng lệnh lui ra. Từ Hải sai mời phu nhân tới dinh và nói:

    - Hiện những phạm nhân ở Lâm Tri, Vô Tích đều bắt cả về đây. Bây giờ phu nhân xử trí ra sao?

    Phu nhân nói:

    Thiếp chịu ơn cha con họ Thúc và bà già ở Hoạn phủ cùng ni cô Giác Duyên, muốn trước đền ơn, rồi sau mới báo oán.

    Từ Hải nói:

    - Phải lắm!

    Từ Hài gật đầu khen phải. Bèn truyền mời cha con họ Thúc, bà già ở Hoạn phủ và Giác Duyên cho vào yết kiến.

    Giây lát Lôi Phong đưa cha con Thúc sinh và Biện Báo đưa Giác Duyên cùng bà già ở Hoạn phủ vào trại. Bốn người sợ hãi run rẩy, đều quý cả xuống kêu van xin tha cho khỏi chết. Từ Hải nói:

    - Xin mời bốn vị đứng lên, đừng có sợ hãi! Các vị đã có ơn với phu nhân, đều được tha chết.

    Phu nhân gọi:

    - Thúc sinh! Tôi là Vương Thúy Kiểu đây! Hồi trước chàng cứu tôi khỏi chết thì nay tôi để cha con chàng được toàn tính mệnh. Còn vợ chàng là Hoạn thị, tôi đã bắt về đây. Nhất định sẽ báo cái tội ác ngày xưa.

    Liền gọi quân lấy ra một nghìn lạng bạc trắng và trăm tấm vóc lụa, tiễn cho Thúc sinh ra về và dặn thêm ràng:

    - Chàng muốn thấy vợ mình thì tới gian phòng phía đông, còn được gặp mặt một lần chót.

    Thúc sinh nghe xong mới biết là Thúy Kiều báo oán, liền quỳ lạy nói:

    - Kính bẩm phu nhân! Con vợ ngu xuẩn của tôi dù muôn lần chết cũng là đáng tội. Xong Thúc Thủ này đã được phu nhân ân xá, vậy đối với vợ tôi, cũng xin rộng lòng từ bi, mở cho một con đường sống.

    Phu nhân cười, nói:

    - Chàng muốn tôi tha hắn, thế sao hồi trước, khi thấy hắn hành hạ tôi, chàng không hề nâng đỡ chút nào?

    Thúc sinh nói:

    - Gác Quan Âm viết kinh, phu nhân quên rồi à?

    Thúy Kiều ngẫm nghĩ giây lát rồi nói:

    Ờ, thì cũng nhớ một chút ấy! Thôi thì ta sẽ trả chàng sống, lát nữa sẽ đến mà lĩnh người về. Cho chàng tạm lui.

    Thúc sinh ra, bảo cha về nhà trước, còn mình thì đến gian phòng phía đông tìm gặp Hoạn thư, thì đã thấy mẹ con Hoạn thị và bọn Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển đểu có ở cả đó. Hoạn thị xa trông thấy chồng, bèn vội nói với mẹ là Kế thị:

    - Mẹ ơi! Người đến kia chẳng phải chàng Thúc là gì.

    Kế thị nhân ra quả là con rể, bèn vội vàng gọi:

    - Chàng Thúc ơi! Mau tới đây!

    Thúc sinh chạy tới nơi. Mọi người thấy đều khóc nức nở.

    Hoạn thị hỏi:

    - Sao cậu cũng có ở đây?

    Thúc sinh nói:

    - Chỉ tại mợ làm luỵ đến tôi.

    Lại dẫm chân, nói:

    - Mợ a! Cái việc Hoa nô cùa mợ vỡ tung ra rồi.

    Hoạn thị thoạt nghe, nhất thời ngĩ không ra đầu đuôi, bèn hỏi:

    - Thế nghĩa là làm sao?

    Thúc sinh nói:

    Có gì đâu! Vương Thúy Kiều giận mẹ con mợ ghen ghét nàng và hành hạ nàng, bây giờ nàng đã lấy Từ đại vương nên phát binh bắt mợ để trả thù ấy. Tôi vì hồi đó không biết gì cả, nên được khỏi chết. Còn bọn các ngươi đều mình làm mình chịu, thì bây giờ còn biết làm sao?

    Hoạn thị nghe rõ câu chuyện, bất giác hoảng hồn, tưởng như leo trên ngọn núi bị trượt chân, liền dẫy lên đành đạch, nói:

    Thôi hỏng rồi! Hỏng rồi! Tính mạng của ta thế là xong! Ngày nay hối thì đã muộn. Cậu ơi! Cậu đã cùng nàng có ơn, sao không nói một câu để cứu nhau với!

    Rồi thị chảy nước mắt ròng ròng.

    Thúc sinh nói:

    - Người Ngô kẻ Việt cùng thuyền còn chiếu cố lẫn nhau, huống hồ là chồng vợ! Tôi đã năn nỉ kêu van ở bên ấy, được nàng thuận mở cho một lối sống và hẹn tôi lát nữa đến lĩnh người. Nhưng sự hành hạ thì e không tránh khỏi được đâu!

    Thúc sinh nói chưa dứt lời liền nghe trong quân cố lệnh cho dẫn những phạm nhân vào.

    Lại nói Vương phu nhân, khi thấy cha con họ Thúc đãđi rồi, liền xuống ghế lấy tay kéo Giác Duyên và bà già hỏi:

    - Giác Duyên sư huynh có nhận ra Trạc Tuyền không? Bà có nhận ra Hoa nô không?

    Hai người đều đứng sững nhìn ngơ ngác. Phu nhân nói với Giác Duyên:

    - Tôi từng đưa chuông vàng khánh bạc đến am, chẳng lẽ sư huynh quên rồi à?

    Lại nói với bà già:

    - Tôi là người đã từng bị Kế thị đánh đòn hai mươi gậy, rồi giao cho thêu thùa với bà, không lẽ bà quên rồi à?

    Giác Duyên nhìn kĩ mới nhận ra, liền nói:

    Em còn sống đó à? Thế mà hồi trước Bạc Hạnh về, lại nói với chị là em không quen thủy thổ, đã chết rồi, khiến cho chị thương nhớ mãi chị có đặt bàn thờ và tụng kinh sám hối siêu thoát cho em. Nào ngờ em là lệnh bà đây, thật đáng mừng lắm. Mừng lắm!

    Bà già cũng gật đầu nói:

    - Té ra chị Vương bên nhà họ Thúc. Tôi thường vẫn nhớ đến chị, không biết lưu lạc đi đâu, không ngờ chị vẫn mạnh giỏi như thế này.

    Phu nhân nói:

    Hôm nay định mời bà đến, để xin báo ơn! Từ Hải nói tiếp:

    - Phu nhân lúc nào cũng nhớ đến ơn hai vị đã từng che chở cho. Bữa nay gặp đây, thật là thỏa lòng mong nhớ.

    Liền hối tả hữu lấy hai trăm lạng vàng và bốn nghìn lạng bạc, chia một nửa đưa tặng Giác Duyên và một nửa đưa tặng bà già để báo đền ơn xưa. Hai ngưòi nhận lấy và tạ ơn.

    Phu nhân truyền quân đặt thêm ghế ngồi và nói:

    - Xin mời hai vị hãy tạm ngồi chơi đây với tôi, để xem ngày nay tôi báo thù!

    Hai người bèn ngồi vào phía dưới.

    Bỗng nghe một tiếng trống hiệu, rồi thấy tên quân mang cờ xanh bước ra gọi:

    - Có lệnh đưa những phạm nhân thứ nhất vào.

    Tức thời Biện Báo điệu bọn Hoạn thị, Kế thị, Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển, Bạc bà và Bạc Hạnh vào quỳ xuống.

    Phu nhân nói:

    - Mụ Bạc đưa người vào cạm, Bạc Hạnh mua người lương thiện bán vào lầu xanh. Làm theo lời thể, Bạc Hạnh bị tội băm vằm, xương thịt đổ nuôi gia súc, còn mụ Bạc thì bị chém đầu.  

    Quân đao phủ tuân lệnh, liền lôi mụ Bạc ra chém đầu, còn Bạc Hạnh thì dùng chiếu quấn quanh cả thân thể như bó củi, ngoài dùng dây thừng buộc chặt. Kế đó hai người giữ chặt, rồi một người cầm mác đâm nhừ từ chân đến đầu làm cho tội nhân đứt thành trăm mảnh. Đang là một con người nguyên vẹn, tức khắc biến thành một đống thịt nát. Những người xung quanh trông thấy đều ghê sợ rùng mình sởn ốc. Quân báo đã xỉa xong. Thúy Kiều truyền trộn xương thịt ấy vào với rơm cỏ để cho ngựa ăn.

    Kế đó, gọi đến Hoạn thị, Hoạn thị sợ mất hồn, mất vía, chỉ dập đầu kên van, xin tha cho khỏi chết.

    Phu nhân nói:

    - Hoạn tiểu thư! Mưu kế của chị thật là cao diệu! Chị thật là nhẫn tâm! Phàm xử sự phải nên dành ra một lối, để mai sau còn dễ thấy nhau. Nay tôi gặp chị, hẳn là chị không thể sống!

    Hoạn thị dập đầu lia lịa nói:

    - Kính bẩm phu nhân! Tội tiện thiếp thật đáng muôn chết, chỉ xin phu nhân nhớ lại hồi viết cung trạng và viết kinh, rồi bỏ đi mà không truy cứu. Thiếp không phải là không biết tôn kính phu nhân, song thế không cùng đứng chung được, không thể cắt ái chia ân, đến nỗi gây nên tội lỗi, cúi xin phu nhân tha thứ.

    Phu nhân cúi đầu ngẫm nghĩ giây lát rồi nói:

    - Thật ra ta muốn nhai thịt ngươi, cắt da ngươi cho hả nỗi giận ngày xưa. Sở dĩ người còn được sống, là khi ta bỏ đi, ngươi không đuổi bắt là cũng có ý tháo cũi sổ lồng. Nhưng cái tội sống của ngươi thì không thể nào tránh được. Ta hãy hỏi ngươi, việc bắt cóc ta ở Lâm Tri là tự đứa nào? Phải mau mau khai thật, sẽ được giảm bớt tội lỗi một đôi phần!

    Hoạn thị lại dập đầu nói:

    - Thi hành kế sách tuy là Hoạn Khuyển và Hoạn Ưng nhưng sai khiến là do tiện thiếp. Chúng chẳng qua chỉ theo lệnh mà làm, nếu nay bắt chúng chịu tội thay thiếp, thì lòng thiếp sao yên!

    Phu nhân nói:

    - Ừ, ngươi cũng còn là kẻ biết nhận tội mình đấy!

    Liền sai quân đao phủ đem Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển ra chém để làm gương răn bọn đứa ở lếu láo.

    Đao phủ dạ một tiếng, liền lôi hai tên ra để chém đầu. Phu nhân lại sai tả hữu lôi Kê thị ra đánh đòn ba mươi roi. Tả hữu tuân lệnh, nhất tề động thủ. Hoạn thị vội vàng ôm lấy Kế thị và nói:

    - Xin cho tiện thiếp thay mẹ chịu đòn!

    Bà già cũng lật đật quỳ xuống, nói:

    Kể tội tình của chủ tôi, cố nhiên không thể tha thứ được nhưng lão nô xin thay mạng cho chủ.

    Phu nhân nói:

    - Gắn bó với nhau như thế kể cũng có tình có nghĩa thật. Như thế cũng là may đời cho mụ già kia. Thôi, cho bà đưa mụ ấy ra!

    Bà già bái tạ phu nhân, rồi vực Kế thi ra khỏi trai.

    Kế thị đã sáu mươi tuổi, lại là một vị nhất phẩm phu nhân, chưa hề qua sự khổ sở như thế bao giờ. Từ hôm bị bắt ở Vô Tích đã bị chịu vô hạn khổ sở, lại thêm chiến tranh làm cho khiếp hãi và thấy cửa quân chém giết người như cỏ rác, tuổi cao khiếp đẩm, nên sợ quá mà chết. Bà già phải ngồi canh xác Kế thị ở cửa trại.

    Vương phu nhân thấy bà già đã đưa Kế thị ra khỏi, liền sai cung nữ lột quần áo Hoạn thị, treo lên xà nhà, hai người cung nữ nắm hai tay, rồi phía sau, hai người cầm roi ngựa nhất tề động thủ. Một người vút từ trên xuống, một người vút từ dưới lên, đánh cho Hoạn thị như cá rơi than nóng, lươn phải nước sôi, kêu rên rầm trời, mình quay như chong chóng, khắp mình không còn chỗ nào lành lặn.

    Cung nữ bẩm đã đánhđủ trăm roi. Phu nhân sai lôi Hoạn thị ra ngoài trại, giao cho Thúc sinh lĩnh nhận. Tả hữu vâng Ịênh, thả Hoạn thị xuống, rồi lôi ra ngoài, gọi Thúc sinh đến nhận. Thúc sinh luôn ngỏ lời cảm tạ. Khi trông thấy Hoạn thị thì chỉ thấy còn chút hơi thoi thóp. Thúc sinh bùi ngùi than:

    Mợ ơi! Chỉ vì thủ đoạn của mợ quá cao mới đến nỗi mình làm tội lấy mình như vậy!

    Bèn một mặt thu liệmthi thể Kế thị và một mặt dìu Hoạn thị về nhà, an dưỡng nửa năm mới khỏi. Chuyện ấy không nói nữa.

    Lại nói đến Sử Chiêu giải bọn Mã Bất Tiến, Tú bà và Sở Khanh vào trại. Phu nhân hỏi:

    Mụ Tú! Mụ có nhận ra ta là ai không? Tú bà run rẩy, nói:

    Bẩm phu nhân! Gái đĩ này không nhận được ạ! Phu nhân nói:

    Cho mụ ngửa mặt lên, xem ta là ai?

    Quân hầu quát tháo, nắm tóc mụ Tú bà kéo ngửa mặt lên. Chừng ấy mụ mới nhận được Vương Thúy Kiều, liền luôn miệng kêu van:

    Gái đĩ này tội đáng muôn lần chết, xin phu nhân tha mạng cho! Phu nhân cười, nói:

    - Mày muốn sống à? Lời thề "đốt đèn trời" kia làm sao tiêu tan đi được?

    Bèn truyền quân tẩm dầu thông vào mình Tú Bà, đầu cấm xuống đất, chân trở lên trời, đốt làm cây đèn để đền thề xưa. Còn Mã Bất Tiến thì dùng găm căng người ra, lột hết da, rút hết gân, xẻ từng tay chân để ứng lời thề của nó.

    Lại nấu một vạc dầu nhựa thông lẫn với vỏ cây gai cho chảy tan ra, một bên để một thùng nước lã, lột sạch quần áo Sở Khanh, một người tưới nhựa thông sôi lên mình Sở Khanh, một người tưới nước lã vào. Quân sĩ vâng lệnh, bắt bọn chúng xuống. Tú bà bị đốt như một cây sáp lớn, phía dưới để lòi đầu ra. Mã Bất Tiến thì bị căng ra trên một cái giàn. Sở Khanh bị nhựa bọc cứng đờ như sắt. Phu nhân bảo đốt cây sáp người lên. Quân sĩ thắp lửa ở dưới chân Tú bà. Lửa bén cháy, Tú bà kêu la thảm thiết.

    Phu nhân nói:

    - Mày cũng biết đau, sao đối với người ta, mày lại tha hồ thẳng tay vùi dập!

    Mụ Tú chết ngất đi, không thể trả lời.

    Phu nhân hạ lệnh:

    - Rút gân thằng Mã Bất Tiến, xẻ xác nó ra!

    Lại sai quân sĩ bóc những vỏ cây gai dính ở trên mình Sở Khanh. Quân sĩ vâng lệnh, đem dao nhọn nhằm chỗ nhiều gân trên mình Mã Bất Tiến mà cắt da ra, đoạn dùng cái móc sắt móc vào đầu gân, cố sức lôi. Mã Bất Tiến đau quá chết tươi. Rút luôn ba bốn gân như thế, thân thể của Mã Bất Tiến tức thòi bị xé tung ra.

    Phu nhân truyền quân đem ném xuống biển cho cá ăn để báo cái tội bạc ác.

    Sở Khanh tuy bị nhựa thông và cỏ cây gai dính chặt vào da nhưng trong ruột vẫn sống, mà bên ngoài động đậy không được. Quân sĩ lại gần, nhằm chỗ nào có vỏ cây gai thì nắm giật lại. Da Sở Khanh bị nhựa thông nóng làm cho nát nhừ, nên chỉ sẽ giật một cái là lại kéo theo xuống cả một mảng. Chỉ một chốc lát, bóc sạch mình Sở Khanh, chỉ còn lại hình dạng một cục máu nhày nhụa. Sở Khanh tuy bị bóc da nhưng vẫn thở. Lại bảo tưới nước vôi lên mình Sở Khanh. Chỉ một lát, lập tức nổi lên những cái bỏng lớn, phút chốc nát thành máu mủ, thịt rơi xương khô mà chết.

    Phu nhân đứng dậy, ngỏ lời cảm tạ Từ Hải:

    - Moi thâm thù vô hạn của thiếp, nhờ uy trời của đại vương, một sớm rửa sạch. Thiếp dù gan óc lấy đất cũng không đủ để báo đền được ơn nặng này!

    Từ Hải nói:

    - Giữa đường thấy việc bất bình liền nổi can qua, ấy là bản tính của bọn tôi đó! Nàng nay đã trả được thù, trong lòng tưởng cũng đã hơi dịu. Tôi còn định muốn cho nàng được gặp lại cha mẹ thì tôi mới thật là mãn nguyện.

    Phu nhân ba bốn lần ngỏ lời cảm tạ. Kế đó, Giác Duyên đứng dậy cáo từ. Phu nhân hỏi:

    Đạo huynh đi chuyến này định trụ trì ở đâu? Giác Duyên nói:

    - Chị định qua bên Việt Thuỷ? Phu nhân nói:

    Xa nhau chuyến này, chẳng biết mai sau có còn được gặp nhau nữa không?

    Giác Duyên nói:

    - Gặp nhau nữa không xa đâu. Chỉ trong vòng năm năm mà thôi!

    Phu nhân nói:

    - Thế thì đạo huynh thật là bậc người thông tuệ!

    Giác Duyên nói:

    - Thật thì chị không biết gì đâu. Chị có gặp đạo cô Tam Hợp, được nghe nhiều điều kì diệu. Người hiểu thấu mọi việc lành dữ, lại biết việc tương lai, có bảo rằng, trong khoảng năm năm sẽ còn được gặp nhau lần nữa. Ban đầu chị chưa tin, nay gặp em nhân dịp báo thù, lại ở chốn can quan, tưởng việc trước đã đúng thì việc sau tất rồi cũng đúng. Nghe nói người hiện ở bến Việt Thuỷ nên chị định qua đó tìm người!

    Phu nhân dặn:

    - Nếu chị gặp người, xin nhớ hỏi giúp em cho biết kết cục!

    Giác Duyên xin vâng. Phu nhân phái quân sĩ theo đi hộ tống Giác Duyên, đến nơi yên ổn mới được trở lại. Giác Duyên ân cần cảm tạ, rồi đi.

    Từ Hải hạ lệnh mở tiệc khao quân, làm lễ rửa oan cho phu nhân. Quân sĩ đều được ban thưởng, uống rượu mừng công luôn trong ba ngày.

    Qua ngày thứ tư, Từ Hải truyền nổ súng nhổ trại, kéo quân trở về Đại Hoang. Sau đó luôn phái quân đi đánh phá các miền lân cận, quân uy ngày càng lừng lẫy.

    Quan Đốc phủ được tin, bèn phái Tham tướng Bốc Tế và Du kích Cừu Nhiêu dẫn một vạn quân tới nghênh tiếp. Quân hai bên bỗng gặp nhau giữa đưòng. Từ Hải nói với phu nhân:

    - Quân ta tới đâu, chưa từng có một người nào dám nghênh địch. May sao, bây giờ ta gặp toán quan quân này, để tôi thân ra tham chiếu với chúng một trận, đặng làm nổi khí thế anh dũng của quân ta!

    Ba hồi trống hiệu vừa dứt, hai trận đối nhau. Minh Sơn tế ngựa ra trước trận, nạt lớn:

    - Bọn quân quan! Thằng nào mạnh thì ra đây, thằng nào hèn thì đừng có ra!

    Bốc Tế, Cừu Nhiêu thấy Từ Hải oai phong lẫm lẫm, sát khí bừng bừng, khoa búa nhảy ngựa rong ruổi trước trận tiền như thiên thần xuống hạ giới, sao ác sát tới phàm trần. Bốc Tế thấy vậy bảo Cừu Nhiêu:

    - Chú là Du kích tướng quân nên xông lên trước đi.

    Cừu Nhiêu nói:

    - Ông là Chủ tướng sao lại đẩy tôi lên trước?

    Hai người, kẻ đun, người đẩy không ai dám nghênh dịch. Minh Sơn thấy bộ dạng như vậy, liền lớn tiếng quát:

    Quân lính như vậy mà cũng đòi tới đây giao chiến? Bớ tướng sĩ? Mau theo ta thẳng xông vào doanh trại.

    Liền thúc ngựa múa búa, thét một tiếng lớn, tưởng như sét nổ thinh không, phi ngựa lên trước, đâm thẳng Cừu Nhiêu. Cừu Nhiêu không dám đánh đòn, liển hối Thủ bị là Không Hỗn ứng chiến. Không Hỗn không biết làm sao, đành phải giơ thương giục ngựa xông lên. Minh Sơn quát:

    - Tên khốn khiếp này ra mà chịu chết!

    Không Hỗn rùng mình một cái ngã nhào xuống ngựa. Minh Sơn sấn tới chém làm hai đoạn, rồi vẫy quân đánh bừa vào. Bốc Tế và Cừu Nhiêu cắm cố chạy trốn, không dám chậm trễ. Quan quân rối loạn, bị quân Minh Sơn đuổi giết, thây phơi khắp nội, máu chảy thành ngòi. Quân sĩ thừa thắng, ruổi dài thẳng tiến, không đầy ba ngày chiếm luôn năm huyện, quân oai lừng lẫy khắp nơi.

    Chợt có tin báo đại binh của Đốc phủ đã đến, Minh Sơn mới hạ lệnh thu quân, về trại nói với Phu nhân:

    Lâu nay tôi vẫn thường nghĩ là Trung Quốc không có người tài, song không ngờ chúng lại đốn mạt quá đến thế. Tôi mà biết sớm thì xuất binh đã lâu!

    Phu nhân nói:

    Đại vương uy vũ không phải người thường, song thiếp nghĩ giáp binh của triều đình cũng không phải hoàn toàn hư nhược. Có điều là thái bình đã lâu, tướng suý không tập gươm giáo, không quen chiến đấu. Một khi nghe tiếng chiêng trống, thấy oai sát phạt thì thảy đều rụng rời chân tay, không dám đua tranh đối địch. Tuy trên miếu đường hiếm tay hào kiệt, nhưng trong rừng núi vẫn có anh hùng. Thiên hạ đã khổ lâu về nạn can qua, thế tất có cuộc chiêu mộ thì trong nơi rừng sâu núi thẳm, há không có những bậc kì tài đứng dậy ứng mộ ư? Đại vương uy danh lừng lẫy xa gần, người ta nghe thấy đều khiếp vía. Thiếp lại nghĩ là đại vương không nên lo là không có uy. Thiếp chỉ lo sau khi đại thắng mà nấy lòng kiêu. Tướng đã kiêu tất quân sẽ lười; quân đã lười thì thua được khó bề nắm vững. Thiếp xin đại vương gặp việc nên cẩn thận, sẵn mưu kế để thành công, liệu sức địch hãy tiến, được thắng càng phải lo toan, thì sự nghiệp bá vương mới có thể thành được.

    Minh Sơn cả mừng, nói:

    - Phu nhân bàn phải lắm!

    Bèn truyền lệnh ba quân chỉnh đốn đội ngũ, nghiêm minh hiệu lệnh, kẻ nào dám vượt trước lùi sau, chụm đầu ghé tai hoang mang nhớn nhác, tuần đêm không cẩn, do thám không thực, sẽ đểu phải chiều theo quân pháp nghiêm trị. Mệnh lệnh ban ra, ba quân thảy đểu nghiêm túc. Từ đó binh thế lại càng mạnh mẽ.

    Bỗng có tin báo Đốc phủ sai người đến chiêu hàng. Từ Hải bảo bắt trói đưa vào. Quân hầu vâng lệnh, giây lát điệu vào môt ông già, cho quỳ ở trước án. Từ Hải hỏi:

    - Ngươi là người thế nào mà dám vào hang hùm vuốt râu cọp? Nói phải lẽ ta sẽ tha cho, bằng không thì phải biết lưỡi gươm ta có thể băm thịt ngươi đấy.

    Ông già run rẩy nói:

    Kính bẩm đại vương! Tôi họ Hoa tên Nhân. Đã lâu, quan Đốc phủ biết tiếng đại nhân là tay anh hùng hào kiệt đời nay, khôn xiết kính mến, ý muốn vì triều đình mà chiêu hàng. Chỉ vì không chọn được người đi thông hiếu, đã toan sai một viên thuộc tướng đi, lại sợ chọc giận đại vương, nhân thấy tôi sinh trưởng đất này, dưới quyển che chở của đại vương, đội ơn đã nhiều, nên mới sai tôi đến trước bẩm hầu đại vương rõ là đại vương đóng quân ở đây, tuy tiếng dậy một thời, song cũng chưa phải là kết cục. Chi bằng đại vương trên thuận lòng trời. Dưới thương mạng dân, quy thuận triều đình, sẽ được chia đất phong hầu, hiển vinh tổ tông, phong thê ấm tử chẳng là hay lắm ru? Tội gì không muốn sinh mà muốn sát, lấy loạn thay cho an, để sau này muôn đời bàn luận. Xin đại vương nghĩ điểu ấy cho!

    Từ Hải cả giận nói:

    - Hà, thằng giặc già này lại dám đến dẫn dụ ta ư? Ta ở ngoài vòng cương tỏa, tuy chưa mở rộng bờ cõi cũng mặc sức xưng vương bá. Mi lại xui ta đầu hàng cam tâm làm hạng chó săn, vẫy đuôi xin xỏ, để chịu những sự chọc tức của bọn quan văn ấy à? Tên này nói năng mới đáng giận làm sao? Quân bay! Mau xẻo lưỡi tên giặc già này đi!

    Bọn quân đao phủ dạ ran, liền túm tóc Hoa Nhân lôi ra định hành hình. Vương phu nhân vội ngăn lại, bảo quân đao phủ hãy khoan, rồi thong thả nói với Từ Hải:

    Trình đại vương! Hai nước tranh hùng không giết sứ giả. Hàng hay không hàng là quyền ở ta, có can gì đến sứ giả? Nếu giết sứ giả, e rằng người thiên hạ sẽ chê đại vương thiếu lượng bao dung. Huống chi Hoa Nhân vâng mệnh người trên đến đây, chỉ có công chứ không có tội. Vậy giết hắn là không lành, mà còn làm lấp đường của kẻ đến sau. Thiếp thường nghe những bậc làm nên việc lớn phải có lượng cả bao dung thiên hạ. Nay mới có một Hoa Nhân đến mà không cho sống trở về, chẳng là sự tỏ cái lòng nhỏ hẹp của mình ư? Xin đại vương tha chết cho hắn, cho ăn uống, rồi thả cho về, để hắn tuyên dương ân uy đức dũng của ta, khiến quân địch đã khiếp sợ oai ta, lại cảm phục ân đức ta nữa. Thế là để sống một người vô dụng mà truyền bá sâu rộng uy đức của ta, chẳng là được lợi nhiều hơn sao?

    Từ Hải liền ngỏ lời cảm tạ, nói:

    - Phu nhân bàn phải lắm!

    Bèn truyền quân cởi trói cho Hoa Nhân và bảo:

    - Lẽ thì ta giết mi cho Đốc phủ biết oai cùa ta. Song may được phu nhân đây nói rằng mi là kẻ vô dụng, không cần phải bẩn đến đao búa của ta, nên ta tha cho mi, để mi trở về nói với Đốc phủ rằng, đầu hàng là một việc lớn, không thể lấy miệng lưỡi dẫn dụ được đâu. Nếu muốn ta hàng, trừ phi chiến thắng nổi ta, trừ phi ta thế cùng lực kiệt thì mới nói đến chuyện ấy được.

    Nói xong, ban cho rượu thịt. Hoa Nhân khấu tạ ra về, thuật lại những lời Từ Hải nói cho Đốc phủ nghe.

    Đốc phủ nghe xong, sắc mặt có vẻ lo. Hoa Nhân nói:

    - Xin Đốc phủ cứ yên tâm, ta còn có cơ hội khả dĩ toan tính được!

    Đốc phủ hỏi:

    Cơ hội gì?

    Hoa Nhân nói:

    Giặc Từ tuy chưa trị nổi ngay, song Vương thị là vợ yêu của nó. Con xét lời nói hình như có ý muốn quy hàng. Nếu ta bắt được một đường liên lạc với thị ấy thì có thể mượn tay chị ta mà giết tên giặc kiệt hiệt ấy được.

    Đốc phủ nói:

    Đã có cơ hội như thế, ta không nên bỏ lỡ! Bèn trọng thưởng Hoa Nhân và cho lui về. Kế đó, Đốc phủ triệu tập các tướng lĩnh, hỏi:

    - Ta muốn sai một người sang dụ Từ Hải về hàng, ai dám đi đây? Liền có viên Trung quân họ La bước ra, nói:

    Bẩm! Tì chức xin đi!

    Đốc thủ cả mừng, nói:

    - Trung quân đi thì hay lắm, nhưng cần phải khéo tuỳ cơ. Ta nghe Từ Hải khoẻ mà nhiều mưu trí, thiện chiến lại được lòng quản. Sở dĩ ta chưa sai tướng lĩnh đi dụ hàng mà sai Hoa Nhân đi là vì hắn sinh trưởng ở đây, đã có biết Từ Hải, mong rằng hắn có thể gặp người nào quen biết, nhân đó tìm được lối hở tiến vào để thi hành mưu kế của ta. Nay cứ lời hắn nói thì Vương thị, vợ Từ Hải có ý quy hàng, mà Vương thị lại là người được Từ Hải rất mực tin yêu, thế thì khả dĩ nhờ người đàn bà này mà có thể thành công được. Ta thu xếp sẵn đây ba nghìn vàng, mười vạn bạc, mười tấm gấm hoa, hai vòng đai ngọc, mười đấu hạt châu, bốn mươi đôi sừng tê, hai bào gấm, một mũ dát châu và một chiếc màn nhung để ông đem sang, dụ Từ Hải về hàng, hứa với hắn là triều đình sẽ ban tước vị, chồng quý vợ vinh, phúc lộc trọn đời. Ngoài ra, lại chọn hai thị nữ hầu hạ Vương thị để tìm cách khuyên mụ về hàng. Ta nghe nói mụ trước ở Bắc Kinh, vì cha mà phải bán mình vào nơi ca xướng, lưu lạc đến Lâm Tri, tấm lòng nhớ nhung cha mẹ quê hương rất nặng. Ta đem ý ấy dặn hai thị nữ tuỳ thời khêu gợi lòng mụ thì công việc đại khái có thể thành được đến tám, chín phần mười!

    Đốc phủ truyền kén lấy mấy thị nữ có tài để sang trại Từ Hải thi hành kế sách. Kén chọn được hai người, một người tên là Tuyên Nghĩa, con một tội nhân can việc án mạng, một người tên là Dụ Ân, vợ một tội nhân bị kết án treo cổ. Hai thị này tình nguyện liều mình sang trại địch thi hành kế sách để chuộc tội cho cha và chồng. Đốc phủ ưng chuẩn, tức thời truyền tha chồng và cha của hai người kia ra, lại cấp cho áo xiêm và hai trăm lạng bạc để sang trại địch sử dụng. Người cha và người chồng xin với Đốc phủ cho phép đi theo tiễn con và vợ, Đốc phủ cũng ưng cho.

    La trung quân dẫn hơn mười tên quân tinh tráng cùng hai thị nữ Tuyên Nghĩa và Dụ Ân đi thẳng đến đại doanh họ Từ. Đi luôn vài ngày, khi gần tới nơi, bỗng gặp toán quân tuần tiễu chặn đón, quát hỏi:

    Quan quân nào mà dám xông vào tới đây? La trung quân nói:

    Tôi là La Trung quân, thuộc hạ của quan Đốc phủ, vâng lệnh Đốc phủ đến để xin vào yết kiến đại vương!

    Quân tuần tiễu liền đi thông báo. Từ Minh Sơn hỏi:

    - Chúng đến nhiều hay ít người?

    Quân tuần tiễu bẩm:

    Chỉ có một viên tướng và quân tùy tùng chừng hơn mười người, lại có kèm theo một cỗ xe!..

    Minh Sơn nói:

    - Chúng lại tính dùng lợi để dụ ta hàng đây!

    Liền truyền quân đặt một chiếc vạc dầu chờ sẵn, rồi sai người ra gọi La Trung quân vào. La Trung quân vào tới nơi thấy trong trại gươm đao san sát, giữa sân có một vạc dầu sôi, hai bên có chừng năm trăm quân đao phủ dàn hầu, Từ Minh Sơn chễm chệ ngồi tại phía trên, tay chống thanh gươm dài, hai mắt đăm đăm nhìn thẳng xuống La Trung quân. La Trung quân vái dài một cái nói:

    - La mỗ xin bái kiến!

    Minh Sơn làm bộ cả giận hỏi:

    - Tên này là tên nào, dám vô lễ như vậy? Quân bay! Tóm cổ hắn quăng vào vạc dầu mà nấu đi.

    La Trung quân hoảng sợ, vội vàng đặt gối quỳ xuấng kêu van:

    Xin đại vương tha chết cho! Minh Sơn cười nói:

    - Sao anh dám to gan đến đây làm thuyết khách. Giết anh chỉ thêm bẩn gươm ta. Thử nói ta nghe, nếu có lí, ta sẽ tha cho tội chết.

    La Trung quân đã sợ thất thần, lặng thinh một chốc rồi mới nói:

    - Bẩm đại vương! Đốc phủ tôi bấy nay vẫn ngưỡng mộ cao nghĩa của đại vương, sai tiểu tướng dâng chút lễ mọn chúc thọ đại vương và hai tên thị nữ để hầu hạ phu nhân.

    Vương phu nhân đứng bên nói:

    - Nếu vậy, người này là viên quan mà Đốc phủ sai đưa tặng lễ vật. Đại vương nên lấy lễ mà đối đãi với người ta!

    Minh Sơn cười, vừa đỡ La Trung quân dậy vừa nói:

    - Tôi đùa Trung quân một chút thôi, việc gì mà sợ hãi như thế?

    Bèn cùng La Trung quân thi lễ, rồi mời ngồi, hỏi:

    - Trung quân đến đầy, có việc gì dạy bảo?

    La Trung quân nói;

    - Bẩm đại vương! Đốc phủ nghe đại vương là bậc hào kiệt, muốn cùng giao hiếu. Nay sai tiểu tướng đưa dâng ba nghìn vàng, mười vạn bạc, mười tấm gấm hoa, hai vòng đai ngọc, một đấu hạt châu, bốn mươi đôi sừng tê, hai bào gấm, một mũ dát châu, một chiếc màn nhung và hai thị nữ. Xin đại vương vui lòng nhận cho!

    Minh Sơn nói:

    - Tôi cùng Đốc phủ xưa nay không hể quen biết, mà nay cho lễ vật quá hậu này, tất nhiên còn có việc gì. Xin Trung quân cứ nói thẳng cho biết?

    Trung quân nói:

    - Đốc phủ dặn tôi trân trọng kính thưa đại vương là: Việc làm giặc cướp tất nhiên không phải là kế lâu dài và ở ngoài vòng vương hóa cũng không phải là kế trường cửu. Huống nay vận hội nhà vua đương lúc hưng thịnh, nhiều tay anh hùng cùng đến ủng hộ. Lấy cái to rộng của thiên hạ, lấy cái đông đúc của chúng dân để đánh dẹp một miền cũng không phải là việc khó. Nhưng, thánh triều thể hiếu sinh, đã hạ sắc dụ chiêu an và Đốc phủ cũng suy tấm lòng nhân, cốt việc vỗ về thỏa thuận. Dám xin đại vương cải tà quy chính, về làm bức thành đồng cho nhà vua để cùng hưởng phú quý và cùng dài lâu với núi sông, mong đại vương lưy ý cho!

    Minh Sơn nói:

    - Đa tạ hậu ý của Đốc phủ và lời chỉ bảo sáng suốt cua Trung quân. Song việc này không phải nhỏ, quan hệ rất lớn. Nếu không chu đáo, ắt là khó toàn thân mệnh. Vậy xin mời Trung quân hãy tạm trở về mà hậu lễ này tôi cũng không dám nhận!

    Trung quân nói:

    - Việc quy thuận chưa thể quyết định được ngay, điều này tiểu tướng không dám cố nài. Còn như lễ mọn của Đốc phủ thì xin vui lòng nhận cho!

    Minh Sơn nói:

    - Nhận lễ vật của họ làm sao cho tiện?

    Vương phu nhân nói:

    - Họ đưa lễ đến, ta nhận cũng không can gì, mà khước từ thì ta cố ý khinh. Chi bằng ta cứ nhận lễ, rồi lấy vật báu đáp lại thì có hề chi?

    Minh Sơn cho là phải, liền giục tả hữu ra thu nhận lễ vật. Tả hữu vâng lệnh ra ngoài, giây lát đem vào dâng những bạc, vàng ngọc, gấm và hai thị nữ mặc đồ cung trang lộng lẫy bước lên khấu đầu.

    Minh Sơn truyền cho hai thị nữ vào trại sau hầu hạ phu nhân, đoạn lấy hai viên dạ minh châu, bốn đôi san hô gửi về đáp tạ Đốc phủ và đưa tặng La Trung quân một trăm lạng vàng, một nghìn lạng bạc. Còn những quân sĩ đi theo thì thưởng cho mỗi người mười lạng bạc. La Trung quân ân cần cảm tạ rồi từ biệt. Còn hai thị nữ thì vào khấu đầu yết kiên Vương phu nhân.

    Không biết hai thị nữ nói năng những gì, xin xem hồi sau phân giải.
     
  10. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    CHIÊU AN GIẢ, MINH SƠN BỎ MẠNG

    ĐOẠN TRƯỜNG THỰC, THÚY KIỀU LIỀU MÌNH

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Minh Sơn đáng lẽ không chết vì quy hàng mà lại chết vi quy hàng chỉ là vì không phòng bị đó thôi. Đã không phòng bị mà Vương phu nhân còn khuyên bỏ giáp ngồi chờ là tại làm sao? Không phải là

    Minh Sơn không lo đến điều ấy, nhưng mà còn có lòng trời kia. Đại khái cái nạn lầm than cùa dân chúng miền đông nam đến đây là hết, cái vận hùng bá của Minh Sơn đến đây là hết, mà cái số kiếp của Vương phu nhân cũng đến đây là hết, cho nên Minh Sơn không hề nghi ngờ, để đến nỗi một phút bị tiêu tan.

    Nếu theo việc người mà bàn thì cải tà quy chính, dù chết như còn, Vương phu nhân nào có làm hại Minh Sơn. Nhưng lập mưu giết kẻ về hàng, khiến triều đình mang tiếng thất tín, thật là bọn đương sự đã làm hại Vương phu nhân vậy.

    Minh Sơn là tay giặc lợi hại và việc dùng binh không hiểm gian dối, mà giết đi thì cũng có thể được. Còn Vương phu nhân bị hãm trong đảng giặc, lại hết sức khuyên giặc quy hàng, như thế không phải là giặc nữa, mà lại là công thần. Có điều là đàn bà không tiện phong thưởng thì nên cho trở về quê nhà, cho cốt nhục được đoàn viên, há chẳng phải là việc nhân chinh ư? Có sao lại ép duyên thổ tù, tính kế cho nàng Tây Phi chơi Ngũ Hồ. Ấy rõ ràng là đưa nàng vào chỗ chết, so với việc giết Minh Sơn còn thảm khốc hơn. Sau đó người đương sự kia cũng bất đắc kì tử. Ôi! Ai bảo là việc người không có liên quan đến đạo trời vậy!

    Lại nói, hai thị nữ Tuyên Nghĩa và Dụ Ân vào trại sau, bái kiến Vương phu nhân, thuật lại ý chiêu hàng của quan Đốc phủ và khuyên:

    Nếu phu nhân khuyên được đại vương ra hàng thì chồng quý vợ vinh, mặc áo gấm về làng, làm bậc mệnh phụ triều đình há chẳng là vẻ vang lắm ư?

    Nếu ở ngoài vong vương hóa thì được thua chưa chắc bề nào! Phu nhân vốn là bậc hiếu nữ, nay lại muốn vì nước nhà ra sức khuyên nhủ được đại vương quy thuận để nhà vua khỏi phải lo lắng, cứu nhân dân khỏi cảnh lầm than thì công đức ấy không gì to lớn bằng.

    Trước là hiếu nữ nay là trung thẩn, tất được tâu lên nhà vua nêu danh khen thưởng. Vinh quy đất cũ, cha con được đoàn viên, sống được giầu sang, thác được thờ phụng.

    Xin phu nhân lấy việc quân quốc làm trọng, lấy sinh dân làm quan tâm, sớm chiều toan tính cố gắng cho được thành công!

    Phu nhân cúi đầu lặng thinh, nghĩ thầm: 'Triều đình là tôn, sinh dân là trọng, báo ơn riêng là nhỏ, phụ một người là khinh. Vả chăng, làm giặc là điều không thuận, theo giặc đáng phải giết.. ". Nghĩ đi nghĩ lại phân vân. Chợt thấy Minh Sơn lui vào trại sau, nói đến việc dụ hàng, phu nhân nói;

    Ý đại vương thế nào? Minh Sơn nói:

    - Thà làm mỏ gà, chớ làm đuôi trâu, không hàng là hay hơn. Không hàng thì có ba điếu tiện và hàng thì có năm điều hại. Đánh thành chiếm đất, không ai gò bó được mình, là một điều tiện; vàng bạc, đàn bà con gái tùy ý ta muốn, là hai điều tiện; thắng thì thẳng ruổi tiến lên, không thắng thì cuốn giáp lui về, là ba điều tiện. Còn hàng thì phải nhận các mệnh nhà vua, quan có phép quan, hơi sai lầm một chút sẽ bị vấn tội, là một điều hại; hàng thì phải chịu sự sai khiến của bọn quan văn, hơi không vừa lòng thì họ đàn hặc mình ngay, là hai điều hại; không hàng thì uy phúc ở ta, mà hàng thì chịu sự điều động đó đây, cái thế ở họ, là ba điều hại; binh quyền ở ta, nhà vua cũng không thể coi thường, hàng thì không còn binh quyền nữa, một lực sĩ có thể bắt mình, là bốn điều hại; những miền sông biển bị quân ta tàn sát, hầu hết quan phủ huyện và nhân dân thảy đều oán giận, hàng thì bọn ấy đều muốn báo thù ta làm năm điều hại. Đem sự hung hiểm của năm điều hại mà so sánh với sự thuận tiện của ba điểu tiện thì chắc chắn không nên hàng!

    Phu nhân nói:

    - Ý kiến đại vương kể cũng phải!

    Song đem năm điểu hại ấy mà xử trí cho thích hợp từng hoàn cảnh thì cũng chưa hẳn không có lợi.

    Nhận chiếu lệnh nhà vua mà không nhận trách nhiệm quan thú, thì vấn tội vào đâu được?

    Chịu chức quan của nhà Đại Minh nhưng không chịu sự sai khiến của bọn họ thì đàn hặc nỗi gì? Chịu làm thần tử triều đình mà không lìa khỏi nơi hiểm yếu, thì cái thế đó đâu ở họ? Danh nghĩa tuy là quy thuận, nhưng thân mình không vào nơi miếu đường, thì lực sĩ làm gì bắt được?

    Đóng quân không động, bỏ giáp đợi thời, thế vẫn ở ta, kẻ nào muốn báo thù phỏng có được chăng? Cứ ý thiếp nghĩ thì chẳng những không có năm hại, mà có năm lợi nữa kia! Huống chi, những quân bất lương không phải là hạng người có thể thân cận lâu với họ được, mà giặc cướp chỉ là một việc làm bất đắc dĩ, thì còn quyến luyến mãi ở đó làm gì? Vả tổ phụ của đại vương và thiếp xưa kia cũng đểu đã chịu ơn bình thành của nhà vua, vậy mà ngày nay tàn phá bờ cõi, giết hại sinh dân, cướp vàng lụa của họ, làm cho nhà vua lo lắng, ăn nuốt không xuống, quan Tể phụ đau xót, mắt nhìn không yên, thường thường ngỏ ý muốn chiêu an cũng chỉ là thể theo đức lớn hiếu sinh của trời và cầu được vô sự làm vinh đó thôi!

    Nếu vạn nhất nhà vua nổi giận, hiệu triệu sáu quân để tiến đánh thì đại vương phỏng có thể giữ được cái thế tất thắng hay không? Còn như việc muốn đồ vương định bá, không có đủ Đức, Vị và Thời, không có đủ Nhân, Trí và Dũng, thì cũng không thể được. Đức, Vị và Thời, ba cái đó đều có ở triều đình; còn Trí. Nhân, Dũng thì chưa hoàn toàn ở phía đại vương.

    Chỉ khư khư một chút thắng lợi vể mặt giáp binh mà muốn mưu đồ việc lớn thì tất không thể thành được. Thiếp lại thường nghe nói, người thức thời ấy là bậc tuấn kiệt, nếu nhân lúc này là lúc quân đương thịnh, lại nhân dịp họ chiêu an mà mình ra hàng, tất nhiên được chức trọng quan cao, suốt đời cùng hưởng phú quý, ấy là thượng sách đó!

    Minh Sơn nghe xong bèn quả quyết nói:

    - Phu nhân bàn có lẽ lắm! Nay Đốc phủ đã hai lần sai người sang dụ, chưa thấy ta ngỏ ý quy hàng. Vậy nay hãy tiến quân thế tất họ lại sai người đến chiêu dụ.

    Bèn hạ lệnh tiến quân.

    Lại nói, La Trung quân về yết kiến Đốc phủ, thuật lại những lời Minh Sơn và Vương phu nhân nói cùng việc dâng minh châu và san hô lên.

    Đốc phủ nói:

    Hắn tuy không hàng, song đã nhận lễ vật, ấy là có ý muốn thông hiếu, Cần được người nào tài giỏi, đi trần thuyết lợi hại một lần nữa mới thành công được.

    Bỗng có tin báo đại quân Từ Minh Sơn ruổi dài tiến mạnh, châu thành sợ không thể giữ vững, gấp rút xin cho viện binh đến cứu.

    Một viên mạc tân trong dinh Đốc phủ tên là Lợi liền nói:

    - Kẻ học trò bất tài này xin phụng mệnh Đốc phủ đi thuyết Minh Sơn quy hàng!

    Đốc phủ cả mừng, liền sai Lợi sinh đi. Trước hết phi ngựa báo tin cho Minh Sơn biết. Minh Sơn đã có ý quy hàng, liền hạ lệnh dừng quân lại để chờ.

    Lợi sinh đến cửa đại trại. Quân cờ lam vào báo tin. Minh Sơn truyền lệnh mời vào.

    Lợi sinh thi lề bái kiến xong, Minh Sơn mời ngồi, rồi hỏi:

    Bữa nay tiên sinh quá bộ đến tệ trại, tất có câu chuyện gì hay chỉ giáo?

    Lợi sinh nói:

    - Tiểu sinh đã lâu được nghe cao danh của đại vương, vẫn mong một phen bái kiến. Trước đây chỉ vì không có vật gì làm lễ ra mắt nên chưa dám đến tay không. Bữa nay định dâng món phú quý làm lễ ra mắt, chẳng hay đại vương có vui lòng chấp nhận cho chăng?

    Từ Minh Sơn nói:

    Đội ơn tiên sinh có nhã ý đem phú quý đến cho, cô há lại không vui lòng nghe lời tiên sinh chỉ giáo!

    Lợi sinh nói:

    Người khác đưa phú quý đến, tất đại vương tiến lên một bước. Còn tiểu sinh dâng phú quý đây thì chỉ cần đại vương lùi một bước.

    Từ Minh Sơn nói:

    - Xin tiên sinh cho nghe ý nghĩa việc lùi bước là thế nào?

    Lợi sinh nói:

    Lùi bưóc không có cách gì khác, chỉ có quy hàng mà thôi! Quy hàng thì có vinh mà không có nhục, phú quý không kể sao chọ hết.

    Minh Sơn nói:

    Cô nghĩ quy hàng có nhiều điều bất tiện, cho nên còn trù trừ chưa quyết.

    Lợi sinh nói:

    Xin hỏi, bất tiện như thế nào? Minh Sơn nói:

    Cô nay cầm quân ở ngoài vòng thanh giáo của nhà vua quả đã lâu. Nay một sớm vể hàng, địa vị không quá chức tổng binh, tước lộc không hơn nhị phẩm. Tuy tiếng gọi là được vua phong nhưng về danh phận thì không khỏi kém trước, ấy là một điều bất tiện. Nhà vua trọng văn khinh võ, quy hàng tất bị bọn quan văn khinh rẻ. Huống chi, ngày thường họ oán cô rất sâu, chắc đâu họ không mưu hại, ấy là hai điều bất tiện. Bọn tướng sĩ theo cô lâu năm, phóng túng đã quen, nay quy hàng thì thế nào cũng bị giảm sút quân uy, chia sẻ lực lượng, hoặc còn điều cô đi nhận chức nơi khác. Nghĩ người quen thói tung hoành như cô thì chịu sao nổi được sự kiềm chế của bọn họ, ấy là ba điều bất tiện!

    Lợi sinh cười nói:

    - Đại vương quá lo xa nên mới thấy mình như là không tiện, chớ như ý tiểu sinh nghĩ thì lại rất tiện! Hiện nay giặc cướp hoành hành, nhà vua đã có chiếu chỉ ai bình định được giặc cướp sẽ phong chức hầu vạn hộ. Nay đại vương chịu bó giáp quy hàng, rồi đi tiễu trừ bọn giặc cướp thì sẽ được phong hầu ngay, như thế có khác gì xưng cô xưng quả? Nhà nước tuy trọng văn, nhưng đại vương đâu phải như bọn tập ấm vô dụng kia! Đại vương có binh quyển trong tay, họ muốn cầu thân còn chưa thể được, dám đâu còn nghĩ đến sự mưu hại? Quân của đại vương là của đại vương, phân tán hay không là do ý muốn của mình, họ lao lung sao được! Nếu đại vương chịu hàng, tiểu sinh sẽ đem ngay những ý kiến này bẩm cùng Đốc phủ, tâu lên nhà vua, xin cho đại vương ba điều đó đã, rồi sau sẽ bàn đến việc quy hàng. Đại vương nghĩ sao?

    Từ Minh Sờn cả mừng nói:

    - Được như lời bàn của tiên sinh thì xin cô hàng!

    Liền hổỉ tả hữu lấy ra năm trăm lạng vàng và một nghìn lạng bạc đưa tặng Lợi sinh. Lợi sinh nói:

    - Đa tạ hậu ý của Đại vương! Từ chối thì mang tội bất kính, vậy xin bái lĩnh. Tiểu sinh về gặp Đốc phủ sẽ bẩm rõ ý kiến của Đại vương, đính ước ba điều ấy, rồi sẽ trở sang phúc báo cho Đại vương rõ.  

    Minh Sơn nói:

    - Tiểu sinh toan tính cho mỗ thật là chu tất

    Lợi sinh cáo biệt, trở vể yết kiến Đốc phủ, thuật lại kĩ càng ý kiến của

    Minh Sơn. Đốc phủ nói:

    Như thế thì tiếng là quy thuận, mà thực thì vẫn chống đối. Sau này, vạn nhất có điều gì bất như ý, lòng hung ác lại nổi lên thì tội ấy ai chịu? Cho nên việc này ta nghĩ chưa được tiện lắm!

    Lợi sinh nói:

    Khó mà gặp được thời cơ như thế này. Nay Minh Sơn có hàng trăm vạn quân, nếu cùng hắn đối địch, chưa biết thua được về ai. Nay ta đã theo đuổi chiêu dụ đến ba lần, lại được Vương thị ở trong nói vào nên hắn mới ưng thuận quy hàng. Nếu ta không nhận mấy điểu ước ấy, tất nhiên hắn cho là những lần chiêu dụ trước cũng là tìm cách lung lạc hắn đó thôi. Rồi hắn hẹn quân cả tám đường tới đánh ta thì thật là một điểu hại lớn. Chi bằng ta tương kế tựu kế, cứ ưng cho hắn ba việc ấy, sai quan sang cùng hắn định việc minh ước, hẹn người đem quân đến đón hắn tới hàng. Tới kì, ta bên ngoài dàn bày cỗ nhạc, mà bên trong thì ẩp nấp đại binh, thừa lúc hắn không phòng bị mà đánh, thì có thể bắt sống Minh Sơn được! Kế của tiểu sinh là như thế, chẳng rõ ý kiến của Đại nhân thế nào?

    Đốc phủ cả mừng nói:

    - Tiên sinh bàn kế ấy, thật là phúc lớn cho nước nhà!

    Bèn cử viên Thông phán là Quyền Nghi và Du kích là Nữu Hiệp cùng

    Lợi sinh lại sang trại Từ để định minh ước. Từ Minh Sơn truyền mời vào.

    Mọi người thi lễ xong, Quyền Nghi nói:

    - Kẻ thư sinh phụng mệnh Đốc phủ sang định minh ước, chẳng hay đại vương còn có cao kiến gì nữa không?

    Minh Sơn nói:

    Tôi có ba việc đã nhờ Lợi tiên sinh về trình giúp với Đốc phủ, chẳng rõ Đốc phủ có ưng thuận cho không?

    Quyền nghi nói:

    Đốc phủ gửi lời trình cùng đại vương là ba điều ấy đều tiện lắm, không có trở ngại gì. Đại vương quy hàng, tự nhiên sẽ được danh cao chức trọng; nếu còn có nơi nào chưa chịu thần phục, sẽ còn nhờ uy vũ của đại vương để trấn áp và chiêu dụ nữa. Đại vương muốn làm quan tại triều đình thì Đốc phủ sẽ dâng sớ tấu trình, còn nếu muốn ở ngoài làm bình phong phía đông nam thì Đốc phủ tự nhiên cũng sẽ hết sức bảo tấu!

    Minh Sơn nói:

    Kẻ cuồng phu ở ngoài vòng cương tỏa, vốn không quen chạy vạy theo các quan văn võ thiên triều, được làm bầy tôi bôn ba ở nơi ven biển là đủ rồi.

    Liền đó, mọi người uống máu ăn thề, mở tiệc mừng vui linh đình, rồi giải tán.

    Từ Minh Sơn lui vào trại sau, nói với Vương phu nhân:

    - Lúc mới bàn tới việc quy hàng, tôi thấy là bất tiện lắm. Saunghe nàng khuyên mãi mới thi hành, nay lại thấy tiện lợi lắm. Ta chịu sắc phong của vua nhà Minh, thế là xóa bỏ sự thù hẳn với nước cha mẹ. Ta cầm quân ở ngoài thì không sợ bị bọn quan văn lăng nhục, ngoài khả dĩ đắc chí, trong sẽ cùng thuận tình. Nếu không được những lời giải thích hợp lí của phu nhân thì Từ Hải này không thể nghĩ tới thế được.'

    Phu nhân nói:

    Đó là phúc của vua, may của nước nhà, oai của Đại vương, đức của Đốc phủ, công của tướng sĩ, chớ thiếp có giúp sức được gì?

    Minh Sơn mừng rỡ, truyền tả hữu đặt tiệc ăn mừng, khao thưởng tướng quân và truyền dụ ý nghĩa của việc quy hàng sẽ được tước lộc cùng được vinh quy làng xóm v. V.. Quân sĩ thảy đều hoan hô vang dậy, mất hết chí chiến đấu, ai nấy chỉ lo thu thập hành trang và tính toán đến việc trở về gia đình. Từ đókhông ai nghĩ đến việc chỉnh lí y giáp và khí giới. Canh phòng không nghiêm, đội ngũ không chỉnh, tinh kì không thứ tự, tuần sát không cẩn mật. Hàng ngày cùng nhau uống rượu làm vui, chụm đầu ghé tai chuyện trò, không còn vẻ chỉnh túc như quân doanh hồi trước nữa.

    Minh Sơn cũng cho là mình đã quy thuận triều đình, không cần phải nghiêm túc binh ngũ nữa, nên hàng ngày cũng cung Vương phu nhân tha hồ yến tiệc vui vẻ.

    Quân do thám dò la biết được tình hình này, liền báo về cho Đốc phủ biết. Đốc phủ nói:

    - Hắn tin ở lời nói suông mà không phòng bị, ấy là mua lấy cái chết rồi đó!

    Bèn sai Du kích Trương Năng dẫn năm nghìn quân từ phía đông đánh vào. Tham tướng Lí Thiên dẫn năm nghìn quân từ phía tây đánh tới. Tổng binh Âm Mưu dẫn năm nghìn quân nấp theo phía sau đội quân đón hàng, xông thẳng vào doanh, chém lấy đầu Minh Sơn. Còn Vương thị là người có công với triều đình, kẻ nào giết lầm chị ta sẽ bị phạt tội chết không tha.

    Trương, Lí, hai tướng dẫn quân đi trước. Kế đó, Đốc phủ hạ lệnh nổi trống nhạc rộn rã, kéo theo một lá cờ vàng lớn có đề bốn chữ:" Đại thiên chiêu phủ ", còn đội quân đánh úp doanh trại thì đi lẫn vào trong đám quân chiêu hàng đó. Tướng sĩ thẩy đều hãng hái, hùng dũng.

    Đốc phủ sai Lợi sinh sang trước gặp Minh Sơn, nói rõ cho biêt công việc nghênh hàng. Minh Sơn mừng lắm, liền sai quân bầy hương án để nghênh tiếp, song lại có ý nghi ngại, nói với phu nhân:

    - Phải chăng bên trong họ có điều dối trá. Hay là ta cử chỉnh tề quân đội đề phòng bất trắc xảy ra. Ý phu nhân thê nào?

    Phu nhân nói:

    - Họ đến đón tiếp mình quy hàng, nếu ta dàn bày quân đội thì lại gây mối nghi ngờ. Chi bằng cứ tỏ lòng thành khẩn của ta, khiến người phụ trách việc chiêu an được yên lòng tâu lên trên.  

    Minh Sơn rất lấy làm phải, bèn hạ lệnh cho quân sĩ mở rộng cửa trại, ăn bận áo mỏng đai rộng, bỏ hết mọi đồ nai nịt đợi cuộc nghênh hàng. Lại nhờ Lợi sinh trở về báo cho Đốc phủ biết Đốc phủ cả mừng, thúc xe tiến lên.

    Quân Từ thấy quan quân trống nhạc vang trời, phía giữa kéo lên lá cờ hiệu Đại" thiên chiêu phủ ", bèn vào báo tin cho chủ tướng biết. Minh Sơn cùng phu nhân ra ngoài cửa trại trông xem. Vừa thoáng thấy tình hình, Minh Sơn liến thất kinh nói với phu nhân:

    Thôi! Hỏng rồi, trúng kế của họ rồi! Đây không phải là quân nghênh hàng, mà là kế đánh úp. Phu nhân trông kìa, chúng đầy vẻ sát khí và tướng sĩ đều ra mặt giận dữ.

    Liền truyển lệnh ba quân chuẩn bị chiến đấu. Nhưng, quân sĩ ban đầu nghe tin quân đến nghênh hàng đã từng cuốn giáp bó gươm, không hề dự bị gì đến việc chiến đấu, nay đột nhiên được lệnh này, người có ngựa thì không có yên, người có gươm lại không có giáp, ai nấy hoảng hốt cuống quít cả lên.

    Minh Sơn nai nịt không kịp, hối quân dắt ngựa đến thì ngựa đã cởi yên, làm sao cho kịp, vội gọi khiêng búa đến. Búa khiêng chưa kịp, quân triều đình đã đến. Chợt nghe một tiếng súng hiệu nổ vang. Âm Mưu thúc quân nhất tề đánh vào. Minh Sơn không kịp lên ngựa, tay không một tấc sắt, vội quay lại chạy về phía sau, cướp được một cây đao dài của quan quân, hăng hái đánh bộ, chặn lấy Âm Mưu. Hai tướng, một ngựa, một dưới bộ, đấu nhau kịch liệt chừng hơn mười hiệp. Minh Sơn lia một nhát đao trúng vó ngựa Âm Mưu, con ngựa bị thương nhảy chồm lên hất Âm Mưu ngã ngựa. Minh Sơn xông đến định chém Âm Mưu thì Trương Năng chợt đến, cứu thoát Ầm Mưu, đoạn đón lấy Minh Sơn giao chiến. Đấu đến hơn mười hiệp, Minh Sơn thấy mình đã bị mấy mũi thương, nhưng không hể sợ hãi gì cả. Kế đó đội quân Lí Thiên tiến đến, hiệp lực giáp công. Minh Sơn quay lại lùi chạy, Lí Thiên đuổi theo. Bỗng Minh Sơn dừng bước, chém trở lại một đao trúng bụng, Lí Thiên nhào ngay xuống ngựa chết liền. Trương Năng sấn đến, đồng thời Âm Mưu cũng tế ngựa áp vào trợ chiến.

    Cây đao trong tay Minh Sơn lúc này đã bị gãy. Từ bèn một tay túm lấy đầu tóc một tên quân làm khí giới, xung phong nghênh chiến, đánh bừa ra phía ngoài, khoẻ mạnh không ai đương nổi. Âm Mưu thấy địch thủ đã khoẻ lại bển bì chiến đấu bèn truyền lệnh cho đội quân cung nỏ vây quanh bắn bừa vào. Minh Sơn hai tay xách hai người xông xáo trong đám tên bay, vẫn không chịu khuất phục. Cuộc chiến như vậy kéo dài chừng một giờ. Minh Sơn khắp mình trúng tên, cơ hồ không hờ chỗ nào. Đau đớn vô cùng, dần dần không thể gượng được, vụt kêu to lên rằng:

    - Phu nhân làm hại ta! Phu nhân làm lỡ ta rồi!

    Đoạn thở dài mấy tiếng rồi chết, nhưng thi thể vẫn cứ đứng sững không ngã ra. Giờ lâu, bọn quân sĩ mới dám đến gần, còn nghe thấy tiếng thở thì vội lui lại hàng mười bước, thấy thi thể vẫn không nhúc nhích, chừng ấy mới biết là chết thật, bèn báo cho Âm Mưu và Trương Năng biết. Hai tướng đến. Thấy quang cảnh như vậy liền hối quân xô đẩy cho ngã xuống, nhưng thi thể như đá tạc, như đồng đúc, không sao xô ngã được. Giữa lúc này, Thúy Kiều bị một toán quân điệu đến, thấy Minh Sơn chêt đứng không nhào, liền khóc và nói:

    - Người ấy là tay anh hùng, vì nghe lời tôi cố khuyên quy hàng, đến nỗi chết oan, oán khí không tan, nên chết mà còn đứng đấy. Để tôi lạy khấn an ủi vong linh.

    Rồi liền đến trước tử thi sụp lạy và khấn rằng:

    - Đại vương ơi! Thiếp thật đã làm hại Đại vương. Song không dám sống sót một mình, để phụ đức lớn của Đại vương!

    Khấn xong buông tiếng khóc lớn. Minh Sơn bỗng mở choàng đôi mắt, lệ tuôn như mưa, kế đó cái thây cũng đổ xuống liền. Thúy Kiểu dập đầu xuống đất để liều chết, song bị bọn quân sĩ cứu được khỏi chết.

    Trận này, quan quân trừ được tay đầu sỏ hung dữ của địch, tướng sĩ có chết mất ít nhiều, song dẹp yên được giặc cướp.

    Tướng sĩ kéo về dâng công. Đốc phủ với Thúy Kiều đến, hỏi:

    - Công này sở dĩ thành được, thật là nhờ ở nàng. Vậy nay nàng có muốn gì không?

    Thúy Kiều nói:

    Từ Hải lầm vì quá nghe lời của Phủ gia, đến nỗi bại vong. Mong đại nhân thương cái điểm thành khẩn ấy mà cho một nắm đất chôn lấp thi hài. Ý nguyện của tôi như thế là đủ.

    Nói đến đây, nghẹn ngào không nói tiếp được nữa. Đốc phủ thấy vậy cũng động lòng thương, liền hạ lệnh đem thí thể Minh Sơn mai táng.

    Sau đó, Đốc phủ truyền đặt tiệc đại hội các tướng ở nha môn để mừng công. Quân sĩ đểu được khao thưởng. Rượu ngà ngà say, Đốc phủ nói với các tướng:

    - Ta nghe Vương Thúy Kiều thạo hồ cầm, giỏi tân thanh. Ngày nay mừng công, nên để nàng phải đàn hầu rượu giúp thêm cuộc vui cho bữa tiệc.

    Các tướng đểu đồng ý. Đốc phủ liến cho vời Thúy Kiều đến. Thúy Kiểu không dám không tuân, rưng rưng châu lệ, cầm lấy cây đàn, nghĩ nay nhớ trước, bèn gảy ngay khúc Oán bạc mệnh do mình soạn ra. Lúc này trong lòng đau đớn biểu lộ ra tiêng đàn, như nghẹn ngào thổn thức, khiến cho người nghe trong bữa tiệc thấy đều buồn bã.

    Thúy Kiều đàn xong, Đốc phủ hỏi:

    Khúc đàn gì mà khiến người nghe thê thảm vậy? Thúy Kiều nói:

    Đó là khúc Oán bạc mệnh do tôi tự soạn hồi còn thơ ấu. Nay sự việc xảy đến, quả ứng với lời thuở xưa ấy. Nhìn ngày nay mà nhớ ngày xưa, việc đời thịnh suy ngờ đâu đến thế, nên lòng này lại càng đau đớn bồi hồi.

    Đốc phủ nói:

    - Ta xem tài sắc của nàng, há thiếu gì người thương yêu, hà tất quyến luyến tên giặc chết ấy làm gì?

    Thúy Kiều cúi đầu không nói gì cả, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng.

    Lúc này Đốc phủ chếnh choáng hơi men, lòng dục đã động, liền bước xuống thềm, giơ tay vừa lau nước mắt cho Kiểu, vừa nói:

    - Khanh chớ quá ưu phiền, ta với khanh bách niên giai lão..

    Rồi tiện tay cầm chén rượu đùa ép Thúy Kiểu uống và nói:

    - Rượu này là ơn mưa móc đây! Há nàng không chịu vì ta mà nở một nụ cười à?

    Thúy Kiểu trừng trừng nhìn Đốc phủ giây lát, rồi nói:

    - Vợ tên tội phạm vong mạng này đâu dám hầu hạ đại nhân!

    Thúy Kiều lúc này hai hàng lệ tuôn trong vắt như rợn sóng, một khoé thu ba tưởng như thu hồn tao nhân mặc khách, khiến cho Đốc phủ càng thêm quyến luyến, bèn cầm chén rượu cố nài Thúy Kiều uống. Thúy Kiều cúi đầu mà uống. Các tướng lĩnh đều đứng dậy nâng chén chúc thọ Đốc phủ. Đốc phủ vừa dắt tay Thúy Kiều vừa nhận rượu uống, mất hết cả phong độ một ông quan. Cuộc rượu kéo mãi đến tận khuya rồi mới tàn.

    Sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, Đốc phủ nhớ lại sự việc Thúy Kiểu đêm qua thì hối hận, thầm nghĩ:" Việc này há phải là việc làm của một ông quan đại thần. Nếu ta thu dùng người đàn bà này thì có phương hại đến khuôn phép nhà quan. Nếu thả nàng đi thì lại là thất tín. Âu là giết quách làm mất tích đi cho rồi. "Bỗng nghĩ lại:" Nhờ nàng mới bình định được quân giặc, ai mà không biết. Kẻ có công to mà bị giết thì lấy gì để thu phục lòng người thiên hạ? Để thì không nên, giết cũng không nỡ, thì tính thế nào cho phải đây ". Nghĩ ngợi hồi lâu, bỗng gật đầu nói:

    - Thôi thế này là hơn, ta đem nàng thưởng cho một quan nhân. Đã làm mất tích mà không sát hại đền tính mạng nàng thì còn ai dị nghị ta được.

    Bèn lên công đường, vời Thúy Kiều đến bảo:

    - Nàng có công dẹp giặc, ta tha tội chết. Nay định gả nàng cho một viên quân trưởng Vĩnh Thuận. Vậy nàng nên theo hắn kết duyên trọn đời.

    Thúy Kiều vừa khóc vừa nói:

    - Tôi mệnh bạc chót đã lầm lỡ lấy phải Minh Sơn. Vì việc lớn nước nhà, dỗ chồng quy phục, thành ra bị giết. Nay chỉ xin đại nhân mở lòng tha, cho tôi được trở về quê để thỏa cái ý muốn quy thuận trước kia. Còn gả người cho quân trưởng thì không phải ý nguyện của tôi vậy.

    Đốc phủ nói:

    - Ta nghĩ nàng có công, tha cho tội chết, lại cho sánh duyên cùng viên quân trưởng thì có phụ gì nàng đâu!

    Bèn chiểu danh sách những viên quân trưởng Vĩnh Thuận xem người nào chưa có vợ thì gả Thúy Kiều cho và bảo kéo quân về.

    Viên quân trưởng Vĩnh Thuận liền dẫn Thúy Kiểu cùng đi. Thúy Kiều rưng rưng nước mắt, bất đắc dĩ đành phải theo viên quân trưởng xuống thuyền mà đi.

    Quân lính đi theo liền làm tiệc mừng tù trưởng.

    Thuyền đậu trên sông Tiền Đường. Mọi người ăn uống đến đêm, rồi ai nấy về thuyền mình nghỉ ngơi. Tù trưỏng bảo Thúy Kiều:

    Nàng đi nghỉ thôi. Thúy Kiều nói:

    Hãy ngồi một chốc đã:

    Viên tù trưỏng thấy nàng muôn vàn sầu thảm, không chút vui mừng, nên cũng không dám cưỡng ép. Thúy Kiều quyết ý tự tử, nhưng chỉ sợ lại người cứu lên thì không ra sao, nên mượn cớ lần lữa ngồi đến canh ba. Chợt thấy một trái núi băng từ ngoài cửa bể lừng lững trôi vào, ầm ầm dữ dội như sấm động, tưởng chừng xa vài trăm dặm cũng còn nghe tiếng. Thúy Kiều hỏi:

    Tiếng gì thế? Tù trưởng nói:

    Tiếng ấy người ta gọi là" trào tín ".

    Thúy Kiều nghe hai tiếng" trào tín "liền sực nhớ ra, hỏi:

    Nếu thế thì đây là sông Tiền Đường phải không? Tù trưởng nói:

    Phải, chính sông Tiền Đưòng đấy!

    Thúy Kiều nghĩ thầm:" Thôi! Đây là nơi kết quả của ta rồi! Cái hẹn mười lăm năm trước của Lưu Đạm Tiên ở đây đây! ". Quay đầu nhìn lại, vừa khéo trong thuyền có sẵn bút nghiên, bèn cầm ngay bút đề bài thơ rằng:

    Hẹn nước mười lăm năm trước,

    Hôm nay mới đến Tiền Đường

    Trăm tuổi quang âm thâm thoắt,

    Một đời thân sự" kê vàng"

    Tiếng sóng giục người mau bước,

    Từ đây hết kiếp đoạn trường!

    Đề xong kêu lớn:

    Từ Minh Sơn đãi ta hậu. Ta vì việc nước đã giết oan người! Giết một tù trưởng này để lấy một tù trưởng khác, ta còn mặt mũi nào mà đứng ở đời! Nay xin đành một thác đế tạ Minh Sơn vậy!

    Nói dứt lời liền văng mình nhảy xuống dòng sông. Tù trưởng vội vàng tới cứu nhưng không thể được. Quân sĩ đểu thất kinh tỉnh dậy cả, nhưng giữa lúc sóng triều đương mạnh, đứng cũng chẳng vững thì còn cứu vớt người sao được. Mọi người lúng túng mãi đến sáng, tù trưởng đành phải đưa bài thơ tuyệt mệnh của Thúy Kiều đem báo cho Đốc phủ biết.

    Đốc phủ riêng lòng vừa hối vừa thẹn, song việc đã rồi, đành căn dặn địa phương tìm vớt thi thể để mai táng. Việc không nói nữa.

    Đây nhắc lại Giác Duyên, từ ngày ở Lâm Tri cách biệt Thúy Kiều, liển vân du miền đất Việt, tìm gặp Tam Hợp đạo cô để theo học phép tu luyện, nhân nhớ tới Thúy Kiều có nhờ hỏi việc trọn đời xem thế nào, bèn nhân lúc nhàn rỗi hỏi đạo cô:

    - Vương Thúy Kiều có chút tình cũ vối đệ tử, không biết nàng vì nhân duyên nào mà vướng phải ác báo như vậy?

    Tam Hợp đạo cô nói:

    - Phàm người sinh trên đời, tu đức thì gặp phúc, vướng tình thì chịu khổ. Thúy Kiểu nhân vì tình ái mới thành cảnh khổ; cho nên chốn nhà nàng không thể ở lâu mà đất đoạn trường lại thường dẫn thân tới. Nợ yên hoa chịu khổ hai phen, tội kì tất từng qua một án. Trong đám đao binh làm bạn với vương ma, hùm sói, dưới làn sóng nước làm mồi cho thủy tộc cá tôm, như vậy mới tiêu trừ được kiếp số ấy.

    Giác Duyên cả kinh nói:

    - Nếu như vậy thì cuộc đời Thúy Kiều còn gì nữa!

    Tam Hợp đạo cô nói:

    - Chị hãy khoan lo, còn may mà! Ban đầu nàng tuy mê mệt vì tình, nhưng không phạm loạn dâm, sau gặp khổ nạn, hiếu thảo một lòng. Nay lại không nghĩ cái ân gần gũi nhỏ mọn mà biết trọng đại nghĩa triều đình. Vì thế công đức lớn lao đã làm cho nợ cũ tiêu tan mà kết nên duyên mới. Chị đã có tình cũ với nàng thì nên đến sông Tiên Đường, đợi khi nàng tiêu kiếp liều mình, sẽ bơi một chiếc bè mà đón, để nối lại nguyền xưa. Âu cũng là một hạt giống trong ruộng phúc đó!

    Giác Duyên nghe xong, cả mừng nói:

    - Đệ tử kính tuân lời dạy bảo của sư phụ, nhưng không biết đến chỗ nào để nối lại mối tình ấy?

    Tam Hợp đạo cô nói:

    - Chị bất tất tìm nàng, tự nàng sẽ tìm đến thôi!

    Giác Duyên nghe nói, liền đến bên sông Tiền Đường dựng am Vân Thuỷ rồi ở luôn đó, mua chiếc thuyền nhỏ, dùng tơ mộc kết thành một chiếc lưới, lại mướn hai tay thuyền chài, tự mình đôn đốc họ giãng lưới suốt đêm ngày.

    Đêm ấy, khi Thúy Kiều nhảy xuống dòng sông, vừa khéo rơi ngay vào lưới của Giác Duyên. Hai tay chài đã sẵn lòng cứu người, thoáng thấy có người sa vào lưới liền vội vã kéo lên trên thuyền. Trong khi ấy thuyền đã theo dòng nước trôi đi xa vài dặm. Giác Duyên mở lưới, đỡ Thúy Kiều ra, lấy quần áo khô thay đổi cho nàng. Thúy Kiều nằm trong thuyền vẫn còn hôn mê chưa tỉnh, hoảng hốt thấy Đạm Tiên đến bảo rằng:

    - Em đợi chị ở đây đã lâu, không biết là chị vì bán mình cứu cha, lòng hiếu cảm động đến trời; khuyên người quy thuận, bảo vệ dân lành, lòng trung thấu đến nhật nguyệt, vả từ trước đã trải hết những cơn khổ nhục, ngày nay lại tiêu hết kiếp nạn. Từ đây chị sẽ được hưởng phúc lộc về mình, tình duyên như ý. Hội Đoạn trường hôm trước đã được xóa tên, thơ Đoạn trường nay xin trả lại. Thế là em trông đợi suông đã mười mấy năm rồi!

    Nói đoạn, đưa mấy bài thơ Đoạn trường khi trước trao trả cho Thúy Kiều. Thúy Kiều đang định hỏi nữa thì nghe bên tai có tiếng người gọi:

    - Trạc Tuyền! Mau tỉnh! Mau tỉnh!

    Thúy Kiểu mở mắt trông thấy Giác Duyên ngồi bên, bèn hỏi:

    - Em đã nhảy xuống sông chết rồi, sao lại còn gặp đạo huynh. Phải chăng là em đang mơ màng ở nơi âm phủ?

    Giác Duyên thấy Thúy Kiều tỉnh rồi, thì đổi ra vẻ vui mừng nói:

    - Em chớ có nghi ngờ! Em trâm mình nhưng chị đã cứu được em đây!

    Thúy Kiều nghe xong mới gượng ngồi dậy, hỏi:

    - Em trẫm mình là do tính cương liệt nhất thời, mà sao sư huynh lại biết?

    Giác Duyên nói:

    - Vì hồi trước em có dặn chị hỏi giúp Tam Hợp đạo cô về việc chung thân của em, thì người bảo rằng nay em nợ kiếp trước đã tiêu và duyên sau sắp nối, nên dặn chị cắm thuyền tại đây để đợi cứu em!

    Thúy Kiều nói:

    Nếu vậy thì chị là cha mẹ tái sinh của em rồi! Có một điều chiếc thuyền nhỏ này giấu mình sao được, chỉ sợ Đốc phủ dò biết thì sao?

    Giác Duyên nói:

    - Em chớ lo! Chị đã dựng sẵn một am ở bên sông để làm nơi cho em giấu mình.

    Bèn bảo nhà chài nhân lúc đêm tối chèo thuyền về trước am, rồi lén dắt Thúy Kiều vào đó ẩn náu, không để một người nào được biết.

    Thực là

    Lòng như chim sổ lồng,

    Thân tựa hoa lại nở.

    Xin xem hồi sau phận giải tiếp.
     
Trả lời qua Facebook
Loading...