Về Trường Cũ Trường cũ ta về mây trắng bay Nhớ em, ngõ trúc lá rơi đầy Áo trắng không còn trong sương trắng Trắng chiều thu lạnh, trắng heo may. Lớp học nhìn ra những cánh đồng Những mùa xanh mướt lúa đơm bông Tìm đâu bụi phấn ngày xưa ấy Một thuở chia xa thắm phượng hồng? Vẫn bóng thầy xưa dưới mái trường Vẫn lời trầm ấm lắm yêu thương Vẫn lời thơ nở trên trang sách Những nụ hoa đời, gió ngát hương. Tóc cô giờ bạc màu sương xám Lãng đãng mây chiều vạt nắng rơi Một lần thổn thức ta thầm gọi Gió vọng sân trường tiếng: Mẹ ơi!... 1995 (Tập thơ Hoa sứ trắng - NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Bài thơ được viết tại sân trường THPT Võ Thị Sáu. Gần ngày 20 tháng 11, khi tác giả đang cùng các em trong Ban chấp hành Đoàn trường họp thì nghe văng vẳng ở lớp học phòng bên một em nữ đang hát tặng cô Lê Nga (giáo viên văn) bài hát Lòng Mẹ. "Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào..." Tác giả ghé qua lớp nhìn thì thấy cô Lê Nga, tóc bới sau đầu thả dài đã có sợi bạc, gương mặt phúc hậu như một người mẹ hiền, đang ngồi chăm chú lắng nghe hát. Tác giả đã xúc động viết bài thơ, trong đó có bốn câu thơ khổ cuối tặng riêng cô: Tóc cô giờ bạc màu sương xám Lãng đãng mây chiều vạt nắng rơi Một lần thổn thức ta thầm gọi Gió vọng sân trường tiếng: Mẹ ơi!...
Xuân Hà Nội Xuân đã về chưa Hà Nội ơi? Ta về lồng lộng gió lưng trời Sông Hồng bỗng đỏ như ngày ấy Nửa dường nhung nhớ, nửa xa xôi. Bóng chiều bàng bạc bóng Hồ Tây Mây pha màu khói, khói pha mây Mùa xuân thấp thoáng như cô gái Nắng hồng bẽn lẽn, má hây hây. Ta theo tìm em giữa phố xa Bao nàng áo đỏ đẹp như hoa Bao màu ngói đỏ tươi son mới Lấp lánh hoàng hôn những mái nhà. Là đã bên nhau rồi đó em Mùa xuân Hà Nội buốt hơi kem Hoa đào nghiêng nụ lung linh gió Lất phất mưa bay ướt lạnh thềm. Hà Nội 1996 (Tập thơ Hoa sứ trắng - NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Hà Nội có nhiều khu phố cổ và rất đẹp Khu phố cổ Hà Nội là tên gọi thông thường của một khu vực đô thị có từ lâu đời của Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô thị này tập trung dân cư hoạt động tiểu thủ công nghiệp và buôn bán giao thương, hình thành lên những phố nghề đặc trưng, mang những nét truyền thống riêng biệt của cư dân thành thị, kinh đô. Bài thơ viết kỷ niệm tác giả lần đầu tiên ra Hà Nội và được một cô bạn dẫn đi ăn kem bờ hồ. Hà Nội lúc đó sắp vào xuân nên đỏ rực màu hoa đào, màu cờ, màu ngói son mới, màu áo len đỏ và màu áo dài hồng của các thiếu nữ Hà Nội... Bài thơ viết tặng thầy Tùng, giáo viên lý Võ Thị Sáu, người đã cùng tác giả ra Hà Nội lần đầu năm 1996. Mùa xuân Hà Nội năm ấy ánh lên một màu hồng đỏ rất đẹp, rất lãng mạn: màu đỏ của sông Hồng, màu đỏ của nắng, màu đỏ hây hây trên má của các cô gái vì trời lạnh, màu áo len đỏ, màu ngói đỏ cùng màu cờ, màu hoa đào đỏ....
Thu Nắng rơi một nửa con đường Em đi một nửa nhớ thương vọng về Cỏ vàng một nửa bờ đê Tay cầm một nửa câu thề... Nửa buông Gió lay một nửa cánh chuồn Lá thu một nửa nỗi buồn Nửa thôi Hoàng hôn một nửa chân đồi... Trăng lên một nửa Cuối trời Nửa rơi. 1996 (Tập thơ Hoa sứ trắng - NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Mùa thu là mùa đẹp nhất trong năm, gợi lại nhiều kỷ niệm trong ký ức nhất. Trong thẳm sâu tâm hồn chúng ta thực sự muốn cảm ơn tạo hóa vì đã sinh ra mùa thu, để chúng ta được sống giữa những ngày mát mẻ, trong trẻo và nhớ lại những ngày thu đã xa. Mùa thu rất đẹp: nắng vàng, lá vàng, trăng vàng... Bài thơ viết khi thăm mộ một người bạn ở Định Quán.
Ký Ức Mùa Thu Có một chiều cha nhặt chiếc lá vàng rơi Mái đầu xám bạc chợt cúi buồn u ẩn Nhớ thuở chiến tranh mẹ một đời lận đận Gồng gánh thương chồng đánh giặc miền xa. Mấy mươi mùa xuân rồi lặng lẽ trôi qua Cha cô độc trong nỗi buồn nhớ mẹ Thời trăng mật, trái tim hồng tươi trẻ Lại phải chia xa cách trở hai đầu... Có nước mắt nào dập tắt được nỗi đau Có hương khói nào làm nguôi ngoai nỗi nhớ Con khôn lớn trong từng đêm cha trăn trở Nghe biển khơi xa khắc khoải gọi về. Rồi ngày lại ngày nắng rực chân đê Cha vẫn bước lê trên con đường đến lớp Ngôi trường ấy có tàng cây bóng rợp Có mơ ước mẹ xưa tha thiết, ngọt ngào... Một bàn chân mình cha đã gởi lại rừng sâu Một trái tim đau cha cũng gởi vào dĩ vãng Ký ức cũ tưởng đã lặn vào năm tháng Lại chợt hiện về ....................lấp lánh ............................mùa thu! 1996 (Tập thơ Hoa sứ trắng - NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia, hay còn được gọi là Chiến tranh biên giới Tây Nam bắt đầu từ năm 1975 đến 1985. Bài thơ viết tặng cho một người bạn thân khi chiến đấu ở biên giới Tây Nam đất nước năm 1980. Anh là thương binh, bị mất một chân do đạp trúng mìn cóc của Trung Quốc. Cô vợ trẻ của anh (quê ở Bình Thuận) bị bạo bệnh mất cũng là lúc chiến tranh vừa chấm dứt. Lời trong bài thơ là "lời muốn nói" tác giả viết thay cho người con trai của anh. Bài thơ viết từ những năm chiến tranh biên giới Tây Nam (1980), đến năm 1996 thì hoàn chỉnh.
Ngày Xưa Ngày xưa có một bến đò Tuổi thơ cùng nhảy lò cò mà chơi Có lần nước mắt em rơi Tim tôi rụng xuống rối bời nỗi đau Em giành một nhánh bông lau Nhường em, nhường hết trăng sao trên trời. Ngày xưa có một khoảng trời Xanh xanh lá nhãn cùng ngồi mộng mơ Chuồn chuồn đậu xuống trang thơ Thả con thuyền giấy lạc bờ bến thương Bến thương cách mấy con mương Em trao quả chín nối hương vào lòng. Ngày xưa bảy sắc cầu vồng Bây giờ mây trắng bềnh bồng trôi qua Em giờ lên tỉnh học xa Quên tôi, quên cả quê nhà nắng mưa Nắng mưa là chuyện nắng mưa Em xưa quên hết ngày xưa. Bao giờ? 1996 (Tập thơ Hoa sứ trắng - NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Bài thơ trong chuỗi các bài thơ Hoa Mua - Ngày Xưa - Trở Về - Bi Kịch - Ly Dị - Người Hóa Đá. Cô gái trong bài thơ Ngày Xưa cũng là cô gái trong bài thơ Hoa mua. Bến đò ở Miền Tây là bến đỗ của các đò chở khách. Có 2 loại đò: đò dọc là đò chở khách đi dọc theo dòng sông, đò ngang là đò chở khách từ bờ này qua bờ bên kia sông.
Vào Chợ Đệm Đường vào Chợ Đệm bao xa? Thương thương hương đất mặn mà quê em Mông mênh sông nước êm đềm Thuyền ai thấp thoáng chở nghiêng nắng hồng? Bình Chánh 1996 (Tập thơ Hoa Sứ Trắng - NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Chợ Đệm là một địa danh ở huyện Bình Chánh TP.HCM. Gọi là Chợ Đệm vì chợ này từ xưa bán những sản phẩm làm từ cây bàng như: Giỏ xách, bao đựng muối, manh thưa, nóp, đệm... cây lát như chiếu,... Có câu ca dao sử dụng bốn từ cùng trường nghĩa (bàng, đệm, bị, bao) nói về nghề buôn bán và đan bàng ở Chợ Đệm năm xưa như sau: "Chim đại bàng bay ngang Chợ Đệm Trách ông Lưu Bị bàn chuyện chiêm bao" (ca dao) Bài thơ viết tặng một cô bạn cũ nhà ở Bình Chánh.
Đi Tân Bửu Long lanh đáy nước chân cầu Đường đi Tân Bửu xôn xao nắng chiều Trời xa xanh thẳm cánh diều Áo em xanh biếc để nhiều nhớ nhung. Bình Chánh 1996 (Tập thơ Hoa sứ trắng - NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Tân Bửu thuộc tỉnh Long An, là một địa danh ở gần huyện Bình Chánh, TP.HCM. Bình Chánh là một huyện thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Huyện Bình Chánh được biết đến là khu vực có tốc độ đô thị hóa cao, dân cư đông đúc, nằm ở cửa ngõ hành lang chính thức khu vực phía Tây, Tây Bắc và phía Nam thành phố. Bài thơ viết tặng một cô bạn cũ nhà ở Bình Chánh.
Chiều Hưng Long (bản tứ tuyệt) Hưng Long nắng đỏ bụi hồng Mênh mông biển lúa, bềnh bồng biển mây Hương đồng gió chạm khẽ bay Hoàng hôn khẽ xuống chạm ngày vào đêm... Bình Chánh 1996 (Tập thơ Hoa sứ trắng - NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Hưng Long là một xã thuộc huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Trước năm 2000, Hưng Long chưa có đường tráng nhựa như bây giờ. Xuyên qua cánh đồng lúa là những con đường đắp đất đỏ, mùa mưa thì lầy lội còn mùa nắng thì mù mịt bụi. Bụi đỏ nhiều khi bám cả vào tóc, vào áo người đi đường... Hưng Long là một xã thuộc huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Trước năm 2000, Hưng Long chưa có đường tráng nhựa như bây giờ. Xuyên qua cánh đồng lúa là những con đường đắp đất đỏ, mùa mưa thì lầy lội còn mùa nắng thì mù mịt bụi. Bụi đỏ nhiều khi bám cả vào tóc, vào áo người đi đường... Bài thơ viết khi tác giả về thăm lại Hưng Long
Chiều Hưng Long Hưng Long Nắng đỏ bụi hồng. Mênh mông biển lúa Bềnh bồng biển mây. Hương đồng Gió chạm Khẽ bay. Hoàng hôn khẽ xuống Chạm ngày Vào đêm... Bình Chánh 1996 (Tập thơ Hoa sứ trắng - NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Hưng Long là một xã thuộc huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Trước năm 2000, Hưng Long chưa có đường tráng nhựa như bây giờ. Xuyên qua cánh đồng lúa là những con đường đắp đất đỏ, mùa mưa thì lầy lội còn mùa nắng thì mù mịt bụi. Bụi đỏ nhiều khi bám cả vào tóc, vào áo người đi đường... Hưng Long là một xã thuộc huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Trước năm 2000, Hưng Long chưa có đường tráng nhựa như bây giờ. Xuyên qua cánh đồng lúa là những con đường đắp đất đỏ, mùa mưa thì lầy lội còn mùa nắng thì mù mịt bụi. Bụi đỏ nhiều khi bám cả vào tóc, vào áo người đi đường... Bài thơ viết khi tác giả về thăm lại Hưng Long