Phần 4 - Chương 26: Lý thuyết viễn cảnh Bấm để xem Amos và tôi đã rơi vào thiếu sót chính yếu trong học thuyết của Bernoulli bởi một sự kết hợp may mắn của kỹ năng và sự mù mờ. Theo đề nghị của Amos, tôi đã đọc một chương trong cuốn sách của ông miêu tả những thí nghiệm nhấn mạnh tới các học giả đã đo lường độ thỏa dụng về tiền bạc bằng việc đề nghị mọi người đưa ra những sự chọn lựa các trò may rủi mà người tham gia có thể thắng hoặc thua một vài đồng penny. Những người thử nghiệm đo lường giá trị thỏa dụng của tài sản, bằng việc làm giảm bớt tài sản trong khoảng một hạn mức ít hơn một đô-la. Điều này đã đưa ra những câu hỏi. Có hợp lý không khi thừa nhận rằng mọi người đánh giá những trò may rủi bởi những khác biệt rất nhỏ về tài sản? Làm thế nào để một người có thể hy vọng lĩnh hội được Vật lý tâm thần học về tài sản bằng việc nghiên cứu những phản ứng khi được và mất những đồng penny? Những bước tiến gần đây trong học thuyết Vật lý - Tâm lý học đã gợi ra rằng nếu bạn muốn nghiên cứu giá trị chủ quan của tài sản, bạn nên đặt những câu hỏi trực tiếp về tài sản, chứ không phải về những thay đổi của tài sản. Tôi đã không hiểu một cách đầy đủ về học thuyết thỏa dụng để rồi thành ra mù mờ bởi triển vọng dành cho nó, và tôi đã lúng túng. Khi Amos và tôi gặp nhau vào ngày hôm sau, tôi đã thông báo về những khó khăn mà rôi gặp phải là những suy nghĩ mơ hồ, chứ không phải về việc nghiên cứu. Tôi đã hoàn toàn trông đợi ông ấy hiểu tôi một cách chính xác và giải thích tại sao thí nghiệm đó đã làm tôi lúng túng trong việc đưa ra phán đoán sau cùng, nhưng ông ấy đã không làm theo cách ấy – mối liên quan về Vật lý tâm thần học hiện đại đã ngay lập tức trở nên rõ ràng đối với ông ấy. Ông ấy nhớ ra nhà kinh tế học Harry Markowitz, sau này sẽ đoạt giải Nobel trên lĩnh vực tài chính, người đưa ra một học thuyết theo đó các thỏa dụng được gắn liền với những thay đổi về tài sản hơn là trạng thái tài sản. Ý tưởng của Markowitz đã được đưa ra trong khoảng ¼ thế kỷ và đã không thu hút được nhiều sự chú ý, nhưng chúng tôi kết luận nhanh chóng rằng đó chính là con đường để đi tiếp, và đó là học thuyết mà chúng tôi đang dự kiến phát triển. Nó sẽ đưa ra các kết quả là những lợi ích và tổn thất, chứ không giống như các trạng thái tài sản. Hiểu biết về sự nhận thức và điểm mù về lý thuyết quyết định, cả hai đã góp phần cho một bước tiến lớn trong việc nghiên cứu của chúng tôi. Chúng tôi nhanh chóng biết được rằng chúng tôi đã vượt qua một trường hợp phức tạp về học thuyết gây ra sự mù mờ, bởi ý tưởng chúng tôi đã loại trừ giờ đây có vẻ không chỉ sai mà còn vô lý. Chúng tôi đã vui mừng nhận ra rằng chúng tôi không có khả năng định giá tài sản hiện tại của mình trong khoảng 10 ngàn đô-la. Ý tưởng về việc nhận được những quan điểm đối với những thay đổi nhỏ từ thỏa dụng tài sản giờ đây dường như không thể biện minh được nữa. Bạn biết mình vừa tạo ra một bước tiến về mặt lý thuyết khi bạn không còn có thể tái dựng lại việc tại sao bạn đã mắc sai lầm trong thời gian quá lâu để thấy được một cách rõ ràng. Tuy nhiên, chúng tôi phải mất hàng năm trời để phát triển những hệ quả của việc suy nghĩ về những kết quả như là lợi ích và tổn thất. Trong học thuyết thỏa dụng, lợi ích của sự tăng thêm được định giá bằng việc so sánh những thỏa dụng của hai trạng thái tài sản. Ví dụ, thỏa dụng của việc có thêm một khoản 500 đô-la khi tài sản của bạn là 1 triệu đô-la là sự khác biệt giữa thỏa dụng của 1.500.000 đô-la và thỏa dụng của 1 triệu đô-la. Và nếu bạn sở hữu một lượng lớn hơn, thì việc mất đi 500 đô-la một lần nữa là sự khác biệt giữa những thỏa dụng của hai trạng thái tài sản. Trong học thuyết này, những lợi ích của những cái được và mất chỉ được phép phân biệt với nhau theo ký hiệu của chúng (+ hoặc -). Không có cách nào để trình bày sự thực rằng phản hiệu dụng của việc mất đi 500 đô-la có thể lớn hơn tính thỏa dụng của việc giành được cùng một lượng như vậy – mặc dù hiển nhiên là như vậy. Như có thể được dự tính trong trường hợp học thuyết gây ra sự mơ hồ, những sai biệt có thể giữa những cái được và mất không thể dự tính được cũng không thể nghiên cứu được. Sự khác biệt giữa những lợi ích và tổn thất được giả định là không quan trọng, bởi vậy không hề có đơn vị đo lường trong việc kiểm tra chúng. Amos và tôi đã không thấy được ngay rằng sự tập trung của chúng tôi vào những thay đổi về tài sản đã mở ra con đường dẫn tới một cuộc khảo sát về một đề tài mới. Chúng tôi chủ yếu quan tâm tới những khác biệt giữa những trò may rủi với khả năng chiến thắng cao hay thấp. Một ngày nọ, tình cờ Amos đã đưa ra gợi ý: “Những tổn thất thì như thế nào?” và chúng tôi nhanh chóng phát hiện ra rằng nỗi sợ rủi ro quen thuộc của chúng ta đã được thay thế bằng việc tìm ra những rủi ro khi chúng ta chuyển hướng tập trung. Hãy xem xét hai vấn đề sau: Bài toán 1: Bạn chọn phương án nào? Cầm chắc 900 đô-la HOẶC 90% cơ may có được 1.000 đô-la. Bài toán 2: Bạn chọn phương án nào? Mất chắc 900 đô-la HOẶC 90% khả năng mất 1.000 đô-la. Có thể bạn không muốn mạo hiểm trong bài toán 1, cũng như người khác. Giá trị chủ quan của một món lợi 900 đô-la chắc chắn là nhiều hơn 90% giá trị của một món lợi 1.000 đô-la. Lựa chọn tránh rủi ro trong vấn đề này sẽ không làm cho Bernoulli ngạc nhiên. Giờ hãy nghiên cứu sự ưu tiên của bạn trong bài toán 2. Nếu bạn giống như phần lớn những người khác, bạn chọn trò may rủi trong câu hỏi này. Cách lý giải cho lựa chọn tìm kiếm rủi ro này là hình ảnh phản chiếu của lời giải thích về nỗi sợ rủi ro trong bài toán 1: Giá trị (tiêu cực) của việc mất 900 đô-la nhiều hơn nhiều 90% giá trị (tiêu cực) của việc mất 1.000 đô-la. Việc chắc chắn bị mất thật chẳng mong muốn gì, và đó là chiều hướng để bạn chấp nhận rủi ro. Sau đó, bạn sẽ thấy rằng những đánh giá về các xác suất (90% so với 100%) cũng góp phần vào cả hai nỗi lo ngại rủi ro ở vấn đề 1 và sự ưu tiên cho trò may rủi trong vấn đề 2. Chúng ta không phải là những người đầu tiên nhận thức được rằng con người chuyển sang tìm kiếm rủi ro khi tất cả các phương án chọn lựa của họ đều xấu, nhưng học thuyết gây ra sự mù mờ đã thắng thế. Do học thuyết trội hơn đã không cung cấp một phương hướng hợp lý để thích ứng với những quan điểm trước rủi ro được hoặc mất khác nhau, thực tế là những quan điểm khác nhau đã bị bỏ qua. Ngược lại, quyết định của chúng ta nhằm nhìn thấy các kết quả được và mất dẫn đến việc chúng ta tập trung một cách chính xác vào chính sự trái ngược này. Điều nhận thấy về những thái độ tương phản trước rủi ro với những triển vọng có lợi và không có lợi đã nhanh chóng mang lại một bước tiến có ý nghĩa: Chúng tôi đã phát hiện ra một cách để chứng minh sai sót chủ đạo trong mô hình chọn lựa của Bernoulli. Hãy nhìn vào ví dụ sau: Bài toán 3: Thêm vào bất kể thứ gì bạn sở hữu, bạn đã được trao cho 1.000 đô-la. Giờ đây bạn được đề nghị chọn một trong những phương án sau: 50% cơ may giành được 1.000 đô-la HOẶC cầm chắc 500 đô-la. Bài toán 4: Thêm vào bất kể thứ gì bạn sở hữu, bạn đã được trao cho 2.000 đô-la. Bây giờ, bạn được đề nghị chọn một trong những phương án sau: 50% cơ may giành được 1.000 đô-la HOẶC mất chắc 500 đô-la. Bạn có thể dễ dàng thừa nhận rằng trong mối tương quan với các trạng thái cuối cùng của tài sản – tất cả đều là những vấn đề trong học thuyết của Bernoulli – vấn đề 3 và 4 giống hệt nhau. Trong cả hai trường hợp bạn có một chọn lựa giữa hai phương án giống nhau: Bạn có thể có được sự chắc chắn để trở nên giàu hơn bạn hiện tại với 1.500 đô-la, hoặc chấp nhận một trò may rủi theo đó bạn có những cơ may đồng đều để giàu hơn với 1.000 đô-la hoặc với 2.000 đô-la. Do vậy, trong học thuyết của Bernoulli, hai vấn đề kể trên sẽ gợi ra những ưu tiên giống nhau. Hãy kiểm tra trực giác của bạn, và bạn có thể đoán được những gì người khác sẽ làm. Trong chọn lựa đầu tiên, đại đa số những người được hỏi thích điều chắc chắn hơn. Trong chọn lựa thứ hai, đại đa số thích trò may rủi hơn. Việc phát hiện ra những ưu tiên khác nhau trong bài toán 3 và bài toán 4 là một ví dụ đối nghịch mang tính quyết định cho ý tưởng chủ đạo trong học thuyết của Bernoulli. Nếu thỏa dụng về tài sản là tất cả vấn đề, thì những trạng thái tương đương rõ ràng của cùng vấn đề sẽ mang lại những chọn lựa giống nhau. Sự so sánh các vấn đề làm nổi bật vai trò quan trọng của điểm tham chiếu từ đó các phương án được đánh giá. Điểm tham chiếu cao hơn tài sản hiện tại là 1.000 đô-la trong vấn đề số 3, và 2.000 đô-la trong vấn đề số 4. Việc có thêm với 1.500 đô-la bởi vậy là một khoản lợi 500 đô-la trong toán 3 và khoản mất trong vấn đề số 4. Rõ ràng là rất dễ để tạo ra những ví dụ cùng dạng khác. Câu chuyện của Anthony và Betty là một cấu trúc tương tự. Bạn dành sự quan tâm cho món quà 1.000 đô-la hoặc 2.000 đô-la mà bạn được “trao” trước khi đưa ra chọn lựa của bạn như thế nào? Nếu bạn giống hầu hết mọi người, bạn gần như không nhận thức được điều này. Thật vậy, không có lý do nào để bạn để ý tới, bởi món quà được bao gồm trong điểm tham chiếu, và các điểm tham chiếu thông thường đều bị bỏ qua. Bạn biết đôi chút về những sự ưu tiên của mình mà các học thuyết thỏa dụng không biết – những thái độ của bạn trước rủi ro sẽ không khác biệt nếu phạm vi giá trị của bạn cao hơn hoặc thấp hơn một vài ngàn đô-la (trừ khi bạn là một người nghèo khổ). Và bạn cũng biết rằng thái độ của bạn đối với những lợi ích và thua thiệt không bắt nguồn từ sự đánh giá của bạn đối với tài sản của bạn. Lý do để bạn thích ý nghĩ về việc đạt được 100 đô-la và không thích ý nghĩ của việc mất đi 100 đô-la không phải là việc thay đổi lượng tài sản của bạn. Bạn chỉ thích chiến thắng và không thích thất bại – và bạn gần như chắc chắn không thích việc thua lỗ hơn là bạn thích chiến thắng. Bốn vấn đề nêu bật điểm yếu trong mô hình của Bernoulli. Học thuyết của ông quá đơn giản và thiếu phần động. Biến số còn thiếu là điểm tham chiếu, trạng thái ban đầu liên quan tới những gì đạt được và mất đi sẽ được đánh giá. Trong học thuyết của Bernoulli, bạn chỉ cần biết tới trạng thái của tài sản để xác định sự thỏa dụng của nó, nhưng trong lý thuyết triển vọng bạn cũng cần phải biết tới trạng thái tham chiếu. Do vậy, lý thuyết triển vọng phức tạp hơn học thuyết thỏa dụng. Trong khoa học, sự phức tạp được xem xét là một chi phí, điều này phải được chứng minh bởi một tập hợp phong phú đầy đủ về những dự đoán mới và (tốt nhất là) thú vị về những thực tế mà học thuyết hiện tại không thể lý giải. Đó chính là thách thức mà chúng tôi đã gặp phải. Mặc dù Amos và tôi đã không làm việc với mô hình hai phương thức của trí não, giờ đây rõ ràng là có tới ba đặc trưng liên quan tới nhận thức tại điểm mấu chốt của lý thuyết viễn cảnh. Chúng giữ một vai trò thiết thực khi đánh giá về những kết quả tài chính và trở nên phổ biến đối với rất nhiều quy trình tự động về nhận thức, phán quyết và cảm xúc. Chúng nên được xem như những đặc điểm vận hành của Hệ thống 1. Sự đánh giá liên quan đến một điểm tham chiếu đẳng dụng, đôi khi được biết tới như là một “mức thích nghi”. Bạn có thể dễ dàng đưa ra một luận chứng thuyết phục cho nguyên lý này. Đặt ba cái bát ở trước mặt bạn. Chế nước lạnh vào bát bên trái và nước ấm vào bát bên phải. Nước ở bát giữa để ở nhiệt độ của phòng. Nhúng hai tay của bạn vào bát nước lạnh và ấm trong vòng vài phút, sau đó ngâm cả hai tay vào bát ở giữa. Bạn sẽ trải nghiệm mức nhiệt độ giống nhau như nóng ở một tay và lạnh ở tay còn lại. Đối với các kết quả tài chính, điểm tham chiếu thông thường là trạng thái, nhưng nó cũng có thể là kết quả mà bạn dự tính, hoặc có lẽ là kết quả mà theo đó bạn thấy được ủy quyền, ví dụ, mức tăng lương hoặc tiền thưởng mà đồng nghiệp của bạn nhận được. Các kết quả tốt hơn các điểm tham chiếu là những lợi ích. Ở mức dưới điểm tham chiếu là những thua lỗ. Một nguyên lý về việc giảm dần độ nhạy ứng dụng trong cả những khía cạnh cảm giác lẫn sự đánh giá những cơ may về tài sản. Việc bật lên một ngọn đèn yếu sẽ có hiệu ứng lớn trong một căn phòng tối. Số gia tăng tương tự như ánh sáng. Nó có thể không được phát hiện ra trong một căn phòng được chiếu sáng rực rỡ. Tương tự như vậy, sự khác biệt chủ quan giữa 900 đô-la và 1.000 đô-la nhỏ hơn rất nhiều so với sự khác biệt giữa 100 đô-la và 200 đô-la. Nguyên lý thứ ba là sự ác cảm mất mát. Khi được so sánh trực tiếp hoặc được đem ra cân nhắc từng thứ với nhau, những cái mất đi hiện hình rõ hơn những cái đạt được. Đó chính là sự mất cân xứng giữa sức mạnh của những dự tính tích cực và tiêu cực hoặc những trải nghiệm có một tiến trình tiến hóa. Các tổ chức xử trí những mối đe dọa khẩn cấp hơn cả đối với những cơ hội đều có cơ may tốt hơn để tồn tại và sinh trưởng. Ba nguyên lý chi phối giá trị của những kết quả được minh họa bởi biểu đồ số 10. Nếu lý thuyết viễn cảnh có một lá cờ, hình ảnh này sẽ được vẽ trên đó. Đồ thị minh họa chỉ ra giá trị tâm lý của những lợi ích và tổn thất, đó là những “vật mang” giá trị trong lý thuyết viễn cảnh (không giống như mô hình của Bernoulli, trong đó các trạng thái tài sản là những vật mang giá trị). Đồ thị minh họa có hai phần rõ rệt, nằm ở bên phải và bên trái của một điểm tham chiếu đẳng dụng. Đặc tính quan trọng nhất đó là nó có hình chữ S, nó đại diện cho độ nhạy giảm dần đối với cả những lợi ích và tổn thất. Cuối cùng, hai đường cong của chữ S không đối xứng. Độ dốc của hàm số thay đổi một cách bất ngờ tại điểm tham chiếu: Phản ứng trước những thất bại mạnh mẽ hơn phản ứng trước những lợi ích tương ứng. Đó chính là sự ác cảm mất mát. ÁC CẢM VỚI MẤT MÁT Rất nhiều phương án chúng tôi gặp phải trong cuộc sống đều bị “pha trộn”: Có một nguy cơ tổn thất và một cơ hội cho sự thu lợi, và chúng tôi phải quyết định liệu có nên chấp nhận trò may rủi hay từ bỏ nó. Các nhà đầu tư đánh giá sự khởi đầu, các vị luật sư băn khoăn liệu rằng có đệ đơn kiện, các vị tướng lĩnh trong chiến tranh cân nhắc một cuộc tấn công, và các chính trị gia phải quyết định liệu rằng có ứng cử vào bộ hay không, tất cả đều đối mặt với những khả năng thắng lợi hoặc bị hạ gục. Theo một ví dụ cơ bản về một triển vọng pha trộn, hãy kiểm tra phản ứng của bạn đối với câu hỏi tiếp theo. Bài toán số 5: Bạn được mời tham gia một trò may rủi tung đồng xu. Nếu đồng xu lật mặt sấp, bạn thua 100 đô-la. Nếu đồng xu lật mặt ngửa, bạn thắng 150 đô-la. Trò may rủi này có hấp dẫn không? Bạn sẽ chấp nhận chứ? Để đưa ra lựa chọn, bạn phải cân bằng lợi ích tâm lý của việc có 150 đô-la so với chi phí tâm lý của việc thua 100 đô-la. Bạn cảm thấy như thế nào? Mặc dù giá trị dự tính của trò may rủi tích cực một cách rõ rệt, bởi bạn kiên định với việc thu lợi hơn là bạn có thể tổn thất, bạn có thể không thích điều đó và hầu hết mọi người cũng như vậy. Sự từ chối trò may rủi này là một hành động của Hệ thống 2, nhưng các yếu tố đầu vào có tính quyết định là những phản ứng cảm xúc được tạo ra bởi Hệ thống 1. Đối với hầu hết mọi người, nỗi sợ của việc mất 100 đô-la mãnh liệt hơn hy vọng đạt được 150 đô-la. Chúng tôi đã kết luận từ rất nhiều nhận xét rằng “những tổn thất hiện hình rõ hơn những ích lợi thu về” và vì lý do đó mọi người ác cảm với mất mát. Bạn có thể đo lường mức độ không thích của bạn trước những tổn thất qua việc tự hỏi bản thân một câu hỏi: Lợi ích nhỏ nhất mà tôi cần phải cân bằng một khả năng đồng đều để mất 100 đô-la là gì? Đối với nhiều người câu trả lời là khoảng 200 đô-la, nhiều gấp đôi so với tổn hại. “Tỷ lệ ác cảm với mất mát” đã từng được ước tính trong một số thí nghiệm và thông thường trong khoảng 1.5 tới 2.5. Dĩ nhiên, đây là một mức trung bình, có một số người không thích tổn thất hơn những người khác. Những người chấp nhận rủi ro chuyên nghiệp trên các thị trường tài chính kiên nhẫn với những tổn thất nhiều hơn, có thể bởi họ không phản ứng một cách cảm tính trước mọi biến động. Khi những người tham gia trong một thí nghiệm được chỉ dẫn để “suy nghĩ như một thương nhân” họ trở nên ít ác cảm với sự tổn thất hơn và phản ứng cảm tính của họ trước những tổn thất (được đo lường bởi một chỉ số tâm lý về sự thức tỉnh cảm xúc) bị giảm thiểu một cách nhanh chóng. Để kiểm tra xem tỷ lệ ác cảm với mất mát đối với những nguy cơ khác nhau, bạn hãy xem xét những câu hỏi sau đây. Bỏ qua bất cứ lý do xã hội nào, không nên cố gắng tỏ vẻ liều lĩnh hay thận trọng, và chỉ tập trung vào tác động chủ quan của tổn thất có thể và lợi ích bù đắp. Xem xét một trò may rủi 50 – 50 trong đó bạn có thể thua 10 đô-la. Lợi ích nhỏ nhất khiến cho trò may rủi hấp dẫn là gì? Nếu bạn nói là 10 đô-la, sau đó bạn dửng dưng trước rủi ro. Nếu bạn nhận được một con số nhỏ hơn 10 đô-la, bạn tìm kiếm rủi ro. Nếu câu trả lời của bạn là trên 10 đô-la, bạn ác cảm với mất mát. Một tổn thất 500 đô-la có thể trong một trò tung đồng xu thì sao? Lợi ích có thể mà bạn đòi hỏi để bù đắp là gì? Một tổn thất 2.000 đô-la thì sao? Khi bạn đã tiến hành bài kiểm tra này, bạn có thể phát hiện ra rằng hệ số ác cảm mất mát của bạn có chiều hướng tăng khi các khoản tiền cược tăng, nhưng không đột ngột. Dĩ nhiên, tất cả các khoản cược sẽ mất đi nếu tổn thất có thể có khả năng gây hại, hoặc nếu cuộc sống của bạn bị đe dọa. Hệ số ác cảm mất mát là rất lớn trong những trường hợp như vậy và thậm chí có thể là vô cùng – có những rủi ro mà bạn sẽ không chấp nhận, bất chấp việc có bao nhiêu triệu đô-la bạn có thể giành được nếu bạn may mắn. Một cái nhìn khác về biểu đồ số 10 có thể giúp ngăn ngừa một sự nhầm lẫn phổ biến. Trong chương này tôi đã từng đưa ra hai khẳng định, mà một số độc giả có thể nhìn nhận như là sự mâu thuẫn: Trong những trò may rủi được pha trộn, nơi nào cả lợi ích lẫn tổn thất đều có thể xảy ra, sự ác cảm mất mát dẫn tới những chọn lựa cực kỳ lẩn tránh rủi ro. Trong những chọn lựa tồi, nơi một tổn thất chắc chắn được so sánh với một tổn thất lớn hơn đơn thuần có thể xảy ra, độ nhạy giảm dần dẫn tới sự tìm kiếm rủi ro. Ở đây không hề có sự mâu thuẫn nào cả. Trong trường hợp hỗn tạp, tổn thất có thể hiện hình rõ gấp hai lần với lợi ích có thể, như bạn có thể thấy qua việc so sánh độ dốc của hàm số giá trị đối với những tổn thất và lợi ích. Trong trường hợp xấu, điểm giao nhau của đường cong giá trị (độ nhạy giảm dần) dẫn tới sự tìm kiếm rủi ro. Nỗi đau mất đi 900 đô-la lớn hơn 90% nỗi đau mất đi 1.000 đô-la. Hai nhận thức này là cần thiết đối với lý thuyết viễn cảnh. Hình số 10 chỉ ra một sự thay đổi bất ngờ trong đường cong hàm số giá trị, nơi những lợi ích trở thành những tổn thất, do đó là sự ác cảm mất mát lớn ngay cả khi thực chất tại điểm rủi ro là rất nhỏ ảnh hưởng tới tài sản của bạn. Liệu có hợp lý khi các quan điểm về trạng thái tài sản có thể lý giải nỗi sợ tột cùng trước những rủi ro nhỏ? Đó là một ví dụ ấn tượng về học thuyết gây ra sự mơ hồ mà chính sai sót rõ ràng trong học thuyết của Bernoulli đã quên nhằm thu hút sự cảnh báo mang tính học giả trong hơn 250 năm. Vào năm 2000, nhà kinh tế học hành vi Matthew Rabin cuối cùng đã chứng minh bằng toán học rằng những cố gắng nhằm lý giải sự ác cảm mất mát qua lợi ích về tài sản thật vô lý và tất phải thất bại, và sự chứng minh của ông đã thu hút được sự chú ý. Định lý của Rabin chỉ ra rằng bất cứ ai bác bỏ một trò may rủi có lợi với những khoản cược nhỏ đều phạm phải sai lầm toán học ở một mức độ ngớ ngẩn về sự không thích rủi ro đối với một số trò may rủi lớn hơn. Ví dụ, ông chú giải rằng hầu hết con người đều bác bỏ trò may rủi dưới đây: 50% khả năng tổn thất 100 đô-la và 50% cơ may thắng 200 đô-la. Sau đó ông chỉ ra rằng theo như học thuyết thỏa dụng, một người từ bỏ trò may rủi đó cũng sẽ gạt bỏ trò may rủi sau: 50% khả năng tổn thất 200 đô-la và 50% cơ may thắng 20.000 đô-la. Nhưng dĩ nhiên không có điều gì trong tâm trí người ấy sẽ loại bỏ trò may rủi này! Trong một bài viết về minh chứng này, Matthew Rabin và Richard Thaler đã nhận xét rằng trò may rủi lớn hơn là: “Có lẽ bị cuốn theo nhiệt huyết, họ đã kết luận bài viết của mình bằng cách nhắc lại phác thảo Monty Python nổi tiếng theo đó một khách hàng thất vọng cố gắng trả lại một con vẹt chết cho cửa hàng vật nuôi. Khách hàng sử dụng một chuỗi các cụm từ để mô tả trạng thái của con vẹt, cực điểm trong đó là 'một con vẹt cũ', Rabin và Thaler đã tiếp tục phát biểu rằng đây là thời điểm cho các nhà kinh tế học nhận ra thỏa dụng dự tính là một giả thuyết cũ.” Nhiều nhà kinh tế học nhận thấy tuyên bố này thiếu nghiêm túc pha một chút báng bổ. Tuy nhiên, học thuyết gây ra sự mơ hồ về việc chấp nhận lợi ích về tài sản như một lời giải thích về những quan điểm trước đó cho những tổn thất nhỏ. NHỮNG ĐIỂM MÙ CỦA LÝ THUYẾT VIỄN CẢNH Đến phần này của cuốn sách tôi đã tán dương những ưu điểm của lý thuyết viễn cảnh và chỉ trích mô hình lý trí và học thuyết thỏa dụng kỳ vọng. Đã đến lúc để cân bằng một số điều. Hầu hết sinh viên tốt nghiệp ngành kinh tế đều đã nghe tới lý thuyết viễn cảnh và sự ác cảm mất mát, nhưng bạn không chắc có thể tìm được những thuật ngữ này trong chỉ mục của một cuốn sách nhập môn kinh tế. Đôi lúc tôi đã từng cảm thấy đau đớn bởi sự thiếu sót ấy, nhưng trên thực tế điều đó lại rất có lý, bởi đó là sự hợp lý của vai trò chủ đạo trong lý thuyết kinh tế cơ bản. Những khái niệm nền tảng và những hệ quả mà các sinh viên chưa tốt nghiệp đại học được dạy hầu hết được lý giải một cách đơn giản khi thừa nhận rằng kinh tế không hề phạm phải những sai lầm ngớ ngẩn. Giả định này là thực sự cần thiết, và nó sẽ bị mài mòn qua việc làm quen với Con người trong lý thuyết viễn cảnh, với những đánh giá của họ về kết quả thiển cận một cách vô lý. Đây đều là những lý do tốt cho việc lý thuyết viễn cảnh không xuất hiện ở những cuốn sách nhập môn. Những khái niệm cơ bản về kinh tế là những công cụ tri thức cần thiết, chúng không dễ để nắm bắt được thậm chí với những giả định đơn giản và phi thực tế về bản chất của các tác nhân kinh tế tương tác lên các thị trường. Việc đặt ra các câu hỏi về những giả định này, ngay cả khi chúng được phúc đáp cũng sẽ khó hiểu và dễ làm nản lòng. Thật hợp lý khi đặt quyền ưu tiên cho việc giúp đỡ các sinh viên có được những công cụ cơ bản của ngành học. Hơn nữa, thất bại của tính hợp lý được xây dựng thành lý thuyết triển vọng thường không liên quan tới những dự đoán về lý thuyết kinh tế, nó tiến triển với độ chính xác cao trong một số trường hợp và cung cấp những con số xấp xỉ tối ưu trong nhiều trường hợp khác. Tuy nhiên, trong một số bối cảnh, sự khác biệt trở nên có ý nghĩa: Con người được miêu tả qua lý thuyết viễn cảnh bị dẫn dắt bởi tác động cảm xúc tức thì về những lợi ích và tổn thất, không phải bởi những triển vọng dài hạn về tài sản và lợi ích bao trùm. Tôi đã nhấn mạnh tới học thuyết gây ra sự mơ hồ trong bài thảo luận của mình về những sai sót không bị chất vấn trong suốt hơn hai thế kỷ của mô hình của Bernoulli. Nhưng dĩ nhiên học thuyết gây ra sự mơ hồ không bị hạn chế đối với lý thuyết thỏa dụng kỳ vọng. Lý thuyết viễn cảnh tự bản thân nó có một số sai sót, và học thuyết gây ra sự mơ hồ đối với những hạn chế này đã góp phần vào sự thừa nhận nó như là hai chọn lựa chủ yếu đối với lý thuyết thỏa dụng. Xem xét giả thiết về lý thuyết viễn cảnh, mà ở đó điểm tham chiếu, thường thường là hiện trạng, có giá trị bằng không. Giả định này có vẻ hợp lý, nhưng nó dẫn tới một số hệ quả ngớ ngẩn. Hãy nhìn một cách rõ ràng vào những triển vọng sau. Triển vọng nào sẽ dễ xảy ra nhất? A. Một cơ may một phần triệu để giành được 1 triệu đô-la. B. 90% cơ may giành được 12 đô-la và 10% khả năng chẳng giành được gì cả. C. 90% cơ may giành được 1 triệu đô-la và 10% khả năng chẳng giành được gì cả. Chẳng giành được gì cả là một kết quả có thể trong cả ba trò may rủi, và lý thuyết triển vọng định ra giá trị như nhau cho kết quả này trong ba trường hợp. Việc chẳng giành được gì cả là điểm tham chiếu và giá trị của nó bằng không. Liệu những trạng thái này có tương ứng với những trải nghiệm của bạn không? Dĩ nhiên là không rồi. Việc chẳng giành được gì cả là một điều gây thất vọng trong hai trường hợp đầu, và việc gán cho nó một giá trị bằng không tạo ra một ý nghĩa tốt đẹp. Ngược lại, việc không giành được gì trong kịch bản thứ ba lại chán ngán vô cùng, giống như một khoản tăng lương mà đã được hứa hẹn một cách thân tình, xác suất lớn của việc giành được số tiền lớn tạo ra một điểm tham chiếu thăm dò mới. Có liên quan tới những dự tính của bạn, việc chẳng giành được gì cả sẽ được trải nghiệm như là một tổn thất lớn. Lý thuyết viễn cảnh không thể đối phó được với thực tế này, bởi nó không cho phép giá trị của một kết quả (trong trường hợp này là chẳng giành được gì) thay đổi khi nó có khả năng lớn không xảy ra, hoặc khi một trong hai chọn lựa rất đáng giá. Nói một cách đơn giản, lý thuyết viễn cảnh không thể thỏa mãn được nỗi thất vọng. Tuy nhiên, nỗi thất vọng và trạng thái đề phòng nỗi thất vọng là có thật, và thất bại đối với việc chấp nhận chúng là một sai sót hiển nhiên giống như là những phản ví dụ mà tôi đã viện dẫn để chỉ trích lý thuyết của Bernoulli. Lý thuyết viễn cảnh và lý thuyết thỏa dụng cũng không tính đến sự hối tiếc. Hai lý thuyết có chung giả định rằng những phương án hiện có trong một chọn lựa được đánh giá một cách riêng biệt và độc lập, và phương án có giá trị cao nhất là phương án được chọn. Sự giả định này chắc chắn là sai, như trong ví dụ dưới đây chỉ ra. Vấn đề số 6: Lựa chọn giữa 90% cơ may giành được 1 triệu đô-la HOẶC cầm chắc 50 đô-la. Vấn đề số 7: Lựa chọn giữa 90% cơ may giành được 1 triệu đô-la HOẶC cầm chắc 150.000 đô-la. So sánh hình phạt thấy trước được của việc lựa chọn trò may rủi và không giành lấy trong hai trường hợp. Để mất cái giành được là một nỗi thất vọng trong cả hai trường hợp, nhưng hình phạt tiềm tàng càng tồi tệ hơn trong vấn đề số 7, bằng việc biết rằng nếu bạn chọn trò may rủi và thất bại, bạn sẽ hối tiếc quyết định “tham lam” mà bạn đã đưa ra qua việc từ bỏ một món quà cầm chắc 150.000 đô-la. Trong sự hối tiếc, trải nghiệm về một kết quả phụ thuộc vào một phương án mà bạn đã có thể chấp nhận nhưng bạn đã không làm vậy. Một vài nhà kinh tế học và tâm lý học đã đưa ra những mô hình ra quyết định được dựa trên những cảm xúc của sự hối tiếc và thất vọng. Thật công bằng khi nói rằng: Những mô hình này có ít ảnh hưởng hơn lý thuyết triển vọng, và lý trí mang tính khải thị. Những cảm xúc hối tiếc và thất vọng là có thực, và những người ra quyết định đã lường trước một cách chắc chắn những cảm xúc này khi đưa ra những chọn lựa của mình. Vấn đề là những lý thuyết sai lầm này tạo ra một vài dự đoán nổi bật mà sẽ phân biệt chúng với lý thuyết triển vọng, nó có lợi thế của việc trở nên đơn giản hơn. Sự phức tạp của lý thuyết triển vọng trở nên dễ chấp nhận hơn trong sự so sánh với lý thuyết thỏa dụng dự tính bởi nó đã dự báo trước những quan sát mà lý thuyết thỏa dụng dự tính đã không thể lý giải được. Người giàu và những giả định thực tế hơn không đủ để tạo ra một lý thuyết thành công. Các nhà khoa học sử dụng các học thuyết như một túi dụng cụ lao động, và họ sẽ không nhận tha lôi một chiếc túi nặng hơn trừ khi các công cụ mới vô cùng hữu dụng. Lý thuyết viễn cảnh đã được thừa nhận bởi nhiều học giả không phải bởi nó “đúng”, mà bởi những khái niệm mà nó đã bổ sung cho lý thuyết thỏa dụng, đặc biệt là điểm tham chiếu và sự ác cảm mất mát, tỏ ra hữu ích trước rắc rối; chúng đã mang lại những dự đoán mới có vẻ như là đúng. Chúng ta đã thật may mắn. PHÁT NGÔN VỀ LÝ THUYẾT VIỄN CẢNH “Anh ấy bị tổn thất từ sự ác cảm mất mát cùng cực, thứ khiến cho anh ta bỏ qua nhiều cơ hội sinh lời.” “Xem xét khối tài sản lớn của cô ta, với cô ta những lợi ích và tổn thất nhỏ sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả.” “Anh ta coi nặng những tổn thất gấp đôi những lợi ích, điều đó là bình thường.” Còn nữa
Phần 4 - Chương 27: Hiệu ứng sở hữu Bấm để xem Chắc hẳn bạn đã từng nhìn thấy biểu đồ số 11 hoặc “một người anh em thân thuộc” với nó dù cho cho bạn chưa từng học một khóa học nào về kinh doanh cả. Biểu đồ biểu diễn một “bản đồ đường đẳng dụng” riêng biệt đối với hai loại hàng hóa. Những sinh viên học được từ những lớp học nhập môn kinh tế rằng mỗi điểm trên đồ thị chỉ ra thu nhập và những ngày nghỉ lễ. Mỗi “đường bàng quan” liên hệ với tổng lượng của hai loại hàng hóa đã bão hòa ham muốn – chúng có cùng sự thỏa dụng. Những đường cong sẽ chuyển sang thành những đường thẳng song song nếu người ta sẵn lòng “bán” những ngày nghỉ để đổi lấy một khoản thu nhập thêm ở cùng một mức giá bất chấp việc họ có bao nhiêu thu nhập và bao nhiêu thời gian rảnh rỗi. Hình lồi biểu thị thỏa dụng cận biên giảm dần: Bạn có càng nhiều ngày rảnh rỗi, bạn càng ít quan tâm tới ngày nghỉ thêm vào, và mỗi ngày được thêm vào lại có giá trị nhỏ hơn ngày trước đó. Tương tự như vậy, bạn càng có nhiều thu nhập, bạn càng ít quan tâm tới những đồng đô-la kiếm thêm và lượng tiền bạn sẵn sàng từ bỏ để đổi lấy thêm một ngày rảnh rỗi tăng lên. Tất cả những vị trí trên một “đường bàng quan” có sức cuốn hút cân bằng. Đây chính là những gì sự bàng quan đề cập tới: Bạn không quan tâm mình đang ở đâu trên “một đường bàng quan”. Do vậy nếu A và B ở trên cùng một “đường bàng quan” cùng với bạn, bạn dửng dưng giữa hai điểm và sẽ không cần có động cơ để dịch chuyển từ một điểm này sang điểm khác, hoặc ngược lại. Một vài phiên bản của biểu đồ này đã từng xuất hiện ở hầu hết các giáo trình kinh tế trong hàng trăm năm qua, và hàng triệu sinh viên đã từng nhìn nó chằm chằm. Một số đã nhận ra điều còn đang thiếu. Một lần nữa, ở đây sức mạnh và sự mê hoặc của một mô hình lý thuyết đã bịt mắt các sinh viên và các học giả trước một khiếm khuyết nghiêm trọng. Thứ còn thiếu từ biểu đồ là một sự biểu thị mức thu nhập và ngày rảnh rỗi hiện tại của cá nhân. Nếu bạn là một người làm công ăn lương, điều khoản công việc của bạn chỉ rõ một mức lương và một số ngày nghỉ, đó là một điểm trên đồ thị. Đấy chính là điểm tham chiếu của bạn, nguyên trạng của bạn, nhưng biểu đồ không chỉ ra được điều đó. Bằng việc quên biểu diễn điểm đó, các nhà lý luận đã vẽ ra biểu đồ này khuyến khích bạn tin rằng điểm tham chiếu không phải là vấn đề, nhưng cho tới giờ bạn biết được rằng tất nhiên là có. Một lần nữa đây lại là sai sót của Bernoulli. Sự thể hiện của “đường bàng quan” thừa nhận rõ ràng rằng sự thỏa dụng của bạn ở bất cứ thời điểm đưa ra nào được xác định hoàn toàn bởi tình thế hiện tại của bạn, rằng những biến cố đã xảy ra không có liên quan, và rằng sự đánh giá của bạn về một công việc hợp lý không phụ thuộc vào điều khoản công việc hiện tại của bạn. Những giả định này hoàn toàn không thực tế trong trường hợp này và trong nhiều trường hợp khác. Việc bỏ sót điểm tham chiếu trên bản đồ đường đẳng dụng là một trường hợp gây ngạc nhiên về việc mù mờ trong lý thuyết, bởi chúng ta thường xuyên gặp phải những trường hợp mà ở đó điểm tham chiếu rõ ràng là rất quan trọng. Trong các cuộc đàm phán lao động, cả hai bên đều hiểu rằng điểm tham chiếu là bản hợp đồng hiện đang tồn tại và các cuộc đàm phán này sẽ tập trung vào những nhu cầu chung đối với những nhượng bộ có liên quan tới điểm tham chiếu. Vai trò của sự ác cảm mất mát trong cuộc mặc cả cũng là dễ hiểu: Nhượng bộ gây ra những tai hại. Bạn đã có rất nhiều kinh nghiệm bản thân về vai trò của điểm tham chiếu. Nếu bạn thay đổi công việc hay địa điểm, hoặc thậm chí đã xem xét tới một sự thay đổi kiểu như vậy, bạn chắc hẳn nhớ rằng những đặc trưng của vị trí mới đã được mã hóa như những điểm cộng hoặc trừ so với nơi bạn đang làm. Bạn cũng có thể đã từng nhận ra rằng những điểm bất lợi hiện ra rõ hơn những điểm lợi thế trong sự đánh giá ấy – sự ác cảm với mất mát đã phát huy tác dụng. Thật khó để chấp nhận những thay đổi theo chiều hướng xấu hơn. Ví dụ, mức lương tối thiểu mà những người lao động thất nghiệp sẽ chấp nhận cho công việc mới trung bình bằng 90% mức lương trước đó của họ và tụt xuống dưới 10% trong khoảng thời gian một năm. Để hiểu rõ sức mạnh mà điểm tham chiếu tác động lên những chọn lựa, xem xét trường hợp Albert và Ben, “cặp song sinh hưởng thụ” có những thị hiếu giống hệt nhau và hiện tại có những công việc khởi đầu giống hệt nhau, với khoản thu nhập nhỏ và ít thời gian rảnh rỗi. Hoàn cảnh hiện tại của họ tương ứng với điểm được đánh số 1 trên biểu đồ số 11. Công ty tiến cử họ hai vị trí tốt hơn, A và B, và để cho họ quyết định xem ai sẽ nhận một khoản tăng 10.000 đô-la (vị trí A) và ai sẽ nhận thêm một ngày nghỉ được trả lương mỗi tháng (vị trí B). Khi cả hai người bọn họ cùng không quan trọng, họ tung một đồng xu. Albert lãnh phần tăng lương, Ben nhận thêm một ngày nghỉ. Một thời gian qua đi, cặp song sinh làm quen với những vị trí của họ, công ty tỏ ý họ có thể hoán đổi công việc nếu muốn. Lý thuyết chuẩn tắc đã mô tả trong biểu đồ cho rằng những ưu tiên là bất biến qua thời gian. Các vị trí A và B hấp dẫn ngang nhau đối với cả hai người song sinh và họ sẽ ít cần hoặc không có động cơ để hoán đổi. Ngược lại, lý thuyết viễn cảnh xác nhận rằng cả hai anh em sinh đôi sẽ nhất định thích giữ nguyên như hiện tại. Sự ưu tiên nguyên trạng này là một hệ quả của sự ác cảm mất mát. Chúng ta hãy tập trung vào Albert. Ban đầu anh ấy ở vị trí số 1 trên đồ thị và từ điểm tham chiếu đó anh nhận thấy hai lựa chọn sau hấp dẫn ngang nhau: Tiến tới điểm A: Lương tăng một khoản 10.000 đô-la. Hoặc: Tiến tới điểm B: có thêm 12 ngày nghỉ. Việc chấp nhận vị trí A thay đổi điểm tham chiếu của Albert, và khi anh ta xem xét tới việc hoán đổi sang điểm B, chọn lựa của anh có một kết cấu mới: Ở nguyên tại điểm A: không thêm và không mất gì. Hoặc: Chuyển tới điểm B: Có thêm 12 ngày nghỉ và khoản lương 10.000 đô-la bị cắt mất. Nếu bạn chỉ có sự trải nghiệm chủ quan về sự ác cảm mất mát, bạn có thể cảm thấy: Một khoản cắt giảm lương 10.000 đô-la là một tin rất xấu. Dù cho một sự thỏa dụng 12 ngày nghỉ cũng hấp dẫn như một khoản thỏa dụng 10.000 đô-la, sự gia tăng thời gian rảnh rỗi như vậy không đủ để bù đắp cho một mất mát 10.000 đô-la. Albert sẽ ở vị trí A bởi bất lợi của việc di chuyển nặng hơn cái có lợi. Cùng cách lý giải như vậy áp dụng với Ben, người cũng sẽ muốn giữ nguyên công việc hiện tại bởi việc mất đi thời gian rảnh rỗi quý báu hiện tại nặng hơn thỏa dụng của việc tăng thu nhập. Ví dụ này nhấn mạnh tới hai khía cạnh của chọn lựa mà mô hình tiêu chuẩn của các đường bàng quan không dự đoán được. Trước tiên, thị hiếu không phải là cố định; chúng biến đổi cùng với điểm tham chiếu. Thứ hai, những bất lợi của một thay đổi hiện ra rõ hơn lợi thế của nó, bao gồm cả một khuynh hướng thiên về nguyên trạng. Dĩ nhiên, sự ác cảm mất mát không ngụ ý rằng bạn không bao giờ thích thay đổi vị trí hiện tại của bạn; những ích lợi của một cơ may có thể vượt quá những tổn thất. Sự ác cảm mất mát ngụ ý rằng những chọn lựa có khuynh hướng thiên về trạng thái tham chiếu một cách mạnh mẽ (và thông thường có khuynh hướng thiên về những thay đổi nhỏ hơn là thay đổi lớn). Những bản đồ đường đẳng dụng và sự biểu diễn của Bernoulli về các kết quả như là những trạng thái về tài sản có chung một giả định sai lầm: Đó là sự thỏa dụng của bạn đối với một tình trạng của các sự việc chỉ phụ thuộc vào trạng thái đó và không bị ảnh hưởng bởi những việc đã xảy ra trong quá khứ của bạn. Việc sửa sai đã trở thành một trong những thành tựu của Kinh tế học hành vi. HIỆU ỨNG SỞ HỮU Câu hỏi về việc một phương pháp tiếp cận hoặc một sự biến động khởi đầu từ khi nào thường khó trả lời, nhưng nguồn gốc là Kinh tế học hành vi có thể được xác định một cách chính xác. Vào đầu những năm 1970, Richard Thaler, sau này là một sinh viên tốt nghiệp ngành Kinh tế vô cùng bảo thủ tại trường Đại học Rochester, đã bắt đầu có những suy nghĩ dị giáo. Thaler luôn luôn có một trí thông minh sắc bén cùng với khả năng châm biếm. Khi là một sinh viên ông đã tự tiêu khiển bằng việc tổng hợp những điều quan sát được về hành vi mà mô hình Kinh tế học hành vi lý trí không thể nào giải thích. Ông đã rất thích thú khi có căn cứ về những điều không hợp lý trong Kinh tế học giữa các vị giáo sư của mình và ông đã phát hiện ra một sự việc đặc biệt nổi trội trong đó. Giáo sư R (mà nay được tiết lộ là Richard Rosett, người đã trở thành chủ nhiệm khoa Sau Đại học của Trường Kinh doanh, Đại học Chicago) là một tín đồ trung thành vào lý thuyết kinh tế cơ bản cũng như là một người yêu thích và sành sỏi về rượu vang. Thaler đã quan sát thấy Giáo sư R đã rất miễn cưỡng khi bán một chai rượu trong bộ sưu tập của mình – ngay cả ở giá cao ngất 100 đô-la (đô-la vào năm 1975!). Giáo sư R mua rượu vang tại các cuộc đấu giá, nhưng ông không bao giờ trả nhiều hơn 35 đô-la cho một chai thuộc hạng đó. Ở mức giá giữa 35 và 100 đô-la, ông sẽ không bán mà cũng không mua. Khoảng cách lớn này là sự mâu thuẫn với lý thuyết kinh tế, ở đó vị giáo sư được kỳ vọng là đưa ra một giá trị duy nhất cho chai rượu. Nếu một chai rượu riêng lẻ có giá trị là 50 đô-la đối với ông, sau đó ông nên sẵn sàng bán chai rượu đó với khoản tiền vượt quá 50 đô-la. Nếu ông không có chai rượu nào, ông nên sẵn sàng chi ra bất cứ số tiền nào lên tới 50 đô-la để mua chai rượu đó. Giá bán chỉ có thể chấp nhận và giá mua chỉ có thể chấp nhận lẽ ra nên giống hệt nhau, nhưng trong thực tế mức giá thấp nhất để bán (100 đô-la) quá cao so với giá mua cao nhất là 35 đô-la. Việc sở hữu hàng hóa có vẻ như đã tăng giá trị của nó. Richard Thaler đã tìm ra nhiều ví dụ về những gì mà ông gọi là hiệu ứng sở hữu, đặc biệt là đối với các loại hàng hóa không được giao thương một cách thông thường. Bạn có thể dễ dàng tự mình hình dung ra trong một trường hợp tương tự. Giả sử bạn sở hữu một tấm vé xem hòa nhạc của một ban nhạc nổi tiếng đã bị cháy vé, bạn đã mua ở mức giá thông thường là 200 đô-la. Bạn là một người hâm mộ cuồng nhiệt và sẵn lòng chi tới 500 đô-la cho tấm vé. Giờ đây bạn đã có vé và bạn tìm hiểu được trên Internet rằng những người hâm mộ giàu có hoặc những người hâm mộ cuồng nhiệt hơn đang đề xuất mức giá 3.000 đô-la. Bạn sẽ bán chứ? Nếu bạn giống với hầu hết khán giả tại các biến cố cháy vé, bạn không bán nó. Mức giá bán thấp nhất của bạn là trên 3.000 đô-la và mức giá mua cao nhất của bạn là 500 đô-la. Đây là một ví dụ về hiệu ứng sở hữu và một tín đồ của lý thuyết kinh tế tiêu chuẩn sẽ bị nó làm cho khó xử. Thaler đã tìm kiếm một bản báo cáo có thể lý giải những điều khó xử kiểu như vậy. Sự tình cờ đã đến khi Thaler gặp một trong những sinh viên cũ của chúng tôi ở một hội thảo và đã đạt được một bản phác thảo ban đầu về lý thuyết viễn cảnh. Ông tuyên bố rằng ông đã đọc bản thảo một cách thích thú, bởi ông nhanh chóng nhận ra rằng hàm số giá trị ác cảm mất mát của lý thuyết viễn cảnh có thể lý giải hiệu ứng sở hữu và một vài điều khó xử khác trong thu thập của ông. Giải pháp đó là bỏ mặc ý niệm cơ bản mà Giáo sư R đã có một sự thỏa dụng duy nhất đối với trạng thái của việc có một chai rượu đặc biệt. Lý thuyết triển vọng đã chỉ ra rằng sự sẵn lòng mua hoặc bán chai rượu phụ thuộc vào điểm tham chiếu – liệu rằng có hay không vị giáo sư sở hữu chai rượu hiện tại. Nếu ông sở hữu nó, ông xem xét nỗi đau của việc từ bỏ chai rượu. Những giá trị này không cân bằng nhau bởi sự ác cảm mất mát: Việc từ bỏ một chai rượu ngon sẽ đau đớn hơn việc nhận về một chai rượu ngon tương đương. Hãy nhớ lại đồ thị về những tổn thất và lợi ích ở chương trước. Đường cong của hàm số dốc đứng ở phạm vi tiêu cực; phản ánh một tổn thất sẽ nặng nề hơn sự phản ánh trước một mức tăng tương ứng. Đây chính là lý giải về hiệu ứng sở hữu mà Thaler đang tìm kiếm. Và ứng dụng đầu tiên của lý thuyết triển vọng đối với một câu hỏi khó trả lời của ngành Kinh tế học giờ đây có vẻ như đã trở thành một dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của Kinh tế học hành vi. Thaler đã thu xếp để ở lại Standford một năm, khi ông biết được Amos và tôi sẽ ở đó. Trong suốt khoảng thời gian hữu ích đó, chúng tôi đã học hỏi lẫn nhau rất nhiều và trở thành bạn bè. Bảy năm sau, ông ấy và tôi đã có một cơ may khác để dành ra một năm cùng tiếp tục cuộc đàm luận giữa ngành Tâm lý học và Kinh tế học. Quỹ Russell Sage, nhà tài trợ chính trong một khoảng thời gian dài cho Kinh tế học hành vi, đã bỏ ra một trong những khoản hỗ trợ đầu tiên của mình cho Thaler để chi tiêu trong vòng một năm cùng với tôi ở Vancouver. Trong suốt năm đó, chúng tôi đã làm việc một cách tỉ mẩn với một nhà kinh tế học địa phương - Jack Knetsch, cùng với nhà kinh tế học này chúng tôi đã có cùng chung sự quan tâm cho hiệu ứng sở hữu, những quy tắc về tính rõ ràng trong kinh tế và gia vị thực phẩm Trung Hoa. Điểm khởi đầu đối với nghiên cứu của chúng tôi đó là hiệu ứng sở hữu không mang tính phổ quát. Nếu ai đó đề nghị bạn đổi một tờ bạc 5 đô-la thành năm tờ bạc lẻ, bạn cầm lấy 5 năm tờ bạc lẻ mà không hề có bất cứ cảm giác mất mát nào. Và cũng không có quá nhiều sự ác cảm mất mát khi bạn đi mua một đôi giày. Người bán hàng không đổi đôi giày để lấy tiền sẽ không cảm thấy tổn thất. Thực vậy, theo quan điểm của anh ta, đôi giày mà anh ta trao tay luôn luôn là một vật đại diện cồng kềnh cho số tiền mà anh ta đang hy vọng thu về từ một số khách hàng. Thêm nữa, bạn có lẽ không cảm thấy việc trả tiền cho người bán hàng như là một tổn thất, bởi thực ra bạn đang giữ tiền như thể một vật đại diện cho đôi giày bạn có ý định mua. Những trường hợp buôn bán thường ngày này về bản chất không khác gì với việc đổi một đồng bạc 5 đô-la sang năm tờ bạc lẻ. Không hề có sự ác cảm mất mát ở cả hai mặt của những trao đổi thương mại thông thường. Điều gì phân biệt những giao dịch thị trường này với sự miễn cưỡng của Giáo sư R khi bán đi những chai rượu vang của ông, hay sự miễn cưỡng của những người sở hữu vé giải Super Bowl phải bán lại vé ngay cả ở một mức giá rất cao? Nét đặc trưng để phân biệt đó là cả đôi giày mà người bán hàng bán cho bạn lẫn số tiền bạn trích ra từ ngân quỹ của mình để mua đôi giày đó đều có giá trị “để trao đổi.” Chúng được dùng để đổi lấy những hàng hóa khác. Những hàng hóa khác, ví dụ như rượu vang và những tấm vé giải đấu Super Bowl, có giá trị “để sử dụng,” được dùng hoặc được thụ hưởng theo một cách khác. Thời gian rảnh rỗi của bạn và mức sống tiêu chuẩn mà mức thu nhập của bạn cung cấp cũng không được dùng để bán hoặc trao đổi. Knetsh, Thaler và tôi đã sắp đặt để phác họa một thí nghiệm nhấn mạnh tới sự tương phản giữa các hàng hóa được coi như là để sử dụng và trao đổi. Chúng tôi đã mượn khái niệm từ Vernon Smith cho bản phác họa về thí nghiệm của chúng tôi, ông là nhà sáng lập bộ môn Kinh tế thực nghiệm, người cùng tôi nhận giải Nobel nhiều năm sau đó. Trong phương pháp này, một số lượng các thẻ đổi hàng giới hạn được phát cho những người tham gia trên một “thị trường.” Bất cứ người tham gia nào vào thời điểm cuối cùng của thí nghiệm sở hữu một thẻ đổi hàng có thể mua lại nó bằng tiền mặt. Các giá trị mua lại là không giống nhau giữa những cá nhân khác nhau, để biểu thị thực tế rằng những hàng hóa được trao đổi trên thị trường đối với một số người này có giá trị nhiều hơn đối với một số người khác. Cùng một thẻ đổi hàng có thể trị giá 10 đô-la đối với bạn và 20 đô-la đối với tôi, và một sự trao đổi ở bất cứ mức giá nào giữa những giá trị này sẽ là có lợi cho cả hai chúng ta. Smith đã tạo ra những minh chứng sống động về việc các cơ chế căn bản của cung và cầu hoạt động hiệu quả như thế nào. Từng người như thế sẽ khiến cho đám đông tiếp tục ngỏ ý mua hoặc bán một thẻ đổi hàng, và những người khác sẽ đáp lại một cách công khai để cung ứng. Tất cả mọi người quan sát những trao đổi này và thấy được mức giá mà ở đó các thẻ đổi hàng được trao tay. Các kết quả diễn ra đều đặn như những biểu hiện vật lý. Chắc chắn như thể “nước chảy chỗ trũng”, những người sở hữu một thẻ đổi hàng mà ít có giá trị đối với họ (bởi giá trị mua lại của họ thấp) đi tới việc bán thẻ đổi hàng của mình ở một mức lợi nhuận nào đó cho những ai định giá nó cao hơn. Thêm nữa, lý thuyết kinh tế dự đoán một cách chính xác cả mức giá cuối cùng mà tại đó thị trường sẽ chấp thuận và số lượng thẻ đổi hàng sẽ được trao tay. Nếu một nửa số người tham gia vào thị trường được phân phát thẻ một cách ngẫu nhiên, lý thuyết dự đoán rằng một nửa số thẻ đổi hàng sẽ được trao tay. Chúng tôi đã sử dụng một sự biến thiên trong phương pháp của Smith cho thí nghiệm của mình. Mỗi phiên bắt đầu với một vài chu kỳ của những trao đổi các thẻ đổi hàng, một bản sao hoàn hảo phát hiện của Smith. Con số ước tính về các giao dịch thường rất gần hoặc giống hệt với số lượng được dự đoán bởi lý thuyết chuẩn. Dĩ nhiên, các thẻ đổi hàng có giá trị chỉ bởi chúng có thể được chuyển đổi sang tiền mặt của người thử nghiệm; chúng không có giá trị sử dụng. Sau đó chúng tôi đã điều khiển một thị trường tương tự cho một đối tượng mà chúng tôi kỳ vọng mọi người định đoạt giá trị sử dụng: Một cốc uống café bắt mắt, được tô điểm bằng phù hiệu các trường đại học ở bất cứ nơi nào chúng tôi đã tiến hành các thí nghiệm. Chiếc cốc sau đó có giá trị khoảng 6 đô-la (và ngày nay sẽ có giá trị gấp đôi số tiền đó). Những chiếc cốc được phân phát một cách ngẫu nhiên cho một nửa số người tham gia. Những người bán bày chiếc cốc của mình ra trước mặt và những người mua được mời xem qua chiếc cốc của hàng xóm của mình; tất cả đều chỉ ra mức giá mà họ sẽ đổi chác. Những người mua đã phải dùng tiền của chính mình để giành được chiếc cốc. Các kết quả thật ấn tượng: Mức giá bán trung bình ở khoảng gấp đôi mức giá mua trung bình, và con số ước tính về các giao dịch ít hơn một nửa con số đã dự đoán bằng lý thuyết chuẩn. Sức lôi cuốn của thị trường đã không hiệu quả đối với một hàng hóa mà những người chủ sở hữu đã dự tính sẽ sử dụng. Chúng tôi đã tiến hành một loạt các thí nghiệm sử dụng các biến thể của cùng một quy trình, chúng luôn luôn cho các kết quả như nhau. Thí nghiệm ưa thích nhất của tôi đó là một thí nghiệm mà ở đó chúng tôi thêm vào ngoài nhóm những người bán và người mua một nhóm thứ ba – những người lựa chọn. Không giống với những người mua, những người phải bỏ tiền của mình ra để giành được món hàng, những người lựa chọn có thể nhận được hoặc một chiếc cốc hoặc một số tiền, và họ đã chỉ ra số tiền xứng với việc nhận được món hàng. Đây là các kết quả: Người bán: 7.12 đô-la. Người lựa chọn: 3.12 đô-la. Người mua: 2.87 đô-la. Khoảng cách giữa người bán và người lựa chọn là đáng chú ý, bởi vì họ thực sự phải đối mặt với cùng một lựa chọn! Nếu bạn là một người bán, bạn có thể trở về nhà với hoặc là một chiếc cốc hoặc là tiền, và nếu bạn là một người lựa chọn bạn có chính xác hai phương án tương tự vậy. Những tác động dài hạn của quyết định giống hệt với hai nhóm này. Sự khác biệt duy nhất đó là cảm xúc tại thời điểm đó. Mức giá cao mà những người bán đặt ra phản ánh sự miễn cưỡng phải từ bỏ một vật mà họ thực sự sở hữu, một sự miễn cưỡng có thể nhìn thấy ở những đứa trẻ giữ chặt một món đồ chơi và bày tỏ sự kích động mãnh liệt khi món đồ đó bị lấy đi. Sự ác cảm mất mát được xây dựng trên những đánh giá tự động của Phương thức số 1. Những người mua và những người chọn lựa đặt ra các giá trị tiền mặt như nhau, mặc dù những người mua phải trả tiền cho chiếc cốc, trong khi lại miễn phí cho những người lựa chọn. Đây là thứ mà chúng tôi có thể dự tính nếu những người mua không trải nghiệm việc chi tiền cho chiếc cốc như là một tổn thất. Căn cứ từ hình chụp bộ não khẳng định sự khác biệt rằng: Việc bán các hàng hóa mà ai đó thường dùng sẽ kích hoạt những vùng não bộ được liên kết với sự ác cảm và nỗi đau. Việc mua cũng kích thích những khu vực này, nhưng chỉ khi nào các mức giá được nhận thức là quá cao – khi bạn cảm thấy rằng một người bán đang nhận được khoản tiền vượt quá giá trị trao đổi. Các ghi nhận não bộ cũng chỉ ra rằng việc mua ở các mức giá đặc biệt thấp là một biến cố mang lại niềm phấn khích. Giá trị tiền mặt mà những người bán đặt ra cho chiếc cốc cao gấp so với với giá trị được đặt ra bởi những người lựa chọn và những người mua. Tỷ lệ này rất gần với hệ số sự ác cảm mất mát trong chọn lựa rủi ro, như chúng ta có thể dự tính nếu cùng một hệ số giá trị đối với những lợi ích và tổn thất tiền bạc được áp dụng cho cả những quyết định rủi ro lẫn phi rủi ro. Một tỷ lệ khoảng 2:1 đã từng xuất hiện trong các nghiên cứu của các lĩnh vực kinh tế khác nhau, bao gồm cả sự phản ứng của các hộ gia đình trước những thay đổi giá cả. Như các nhà kinh tế học có thể dự đoán, những người tiêu dùng có xu hướng tăng cường mua trứng, nước cam, hay cá khi mức giá hạ và giảm thiểu việc mua bán của mình khi mức giá tăng; tuy nhiên, ngược lại với những dự đoán của lý thuyết kinh tế, tác động của việc tăng giá (những tổn thất có liên quan tới mức giá tham chiếu) lớn hơn khoảng hai lần so với hiệu quả của những lợi ích. Thí nghiệm về những chiếc cốc vẫn giữ nguyên luận chứng thông thường của hiệu ứng sở hữu, cùng với một thí nghiệm đơn giản hơn nữa mà Jack Knetsch đã báo cáo ở cùng thời điểm đó. Knetsch đã đề nghị hai lớp học điền vào một bảng câu hỏi và hứa thưởng công cho họ một món quà khi hoàn thiện.Trong một buổi học, phần thưởng là một chiếc bút đắt tiền; trong một buổi khác, là một thanh kẹo sô-cô-la Thụy Sĩ. Vào cuối buổi học, nhà thử nghiệm đã chỉ ra một trong hai món quà và cho phép tất cả mọi người trao đổi phần quà của anh ta hoặc cô ta cho nhau. Chỉ khoảng 10% những người tham gia đã chọn lựa để trao đổi phần quà của mình. Hầu hết những người này đã từng nhận được chiếc bút vẫn giữ nguyên chiếc bút, và những ai đã từng nhận được sô-cô-la cũng đã không hề nhúc nhích. SUY NGHĨ NHƯ MỘT THƯƠNG NHÂN Những ý niệm căn bản về lý thuyết viễn cảnh là những điểm tham chiếu hiện có và những tổn thất hiện ra rõ hơn những lợi ích tương ứng. Những quan sát trên các thị trường thực thế thu thập được qua các năm là ví dụ cho sức mạnh của những khái niệm này. Một cuộc nghiên cứu về thị trường các căn hộ cao cấp tại Boston trong suốt thời kỳ suy thoái đã mang lại các kết quả rõ ràng một cách chi tiết. Các tác giả của nghiên cứu này đã so sánh hành vi của các chủ sở hữu đã mua nhà ở các mức giá khác nhau. Đối với một tác nhân có lý trí, giá mua không liên quan tới hoạt động đã diễn ra trước đó – giá trị thị trường hiện tại là tất cả vấn đề. Điều đó không diễn ra đối với con người trên thị trường nhà giá rẻ. Các chủ sở hữu có một điểm tham chiếu cao và theo cách đó đối mặt với những tổn thất cao hơn đặt ra một mức giá cao hơn dựa trên căn hộ của họ, bỏ ra một khoảng thời gian lâu hơn để nỗ lực bán căn hộ của mình và sau cùng là thu về nhiều tiền hơn. Luận chứng ban đầu về độ vênh giữa các mức giá bán và các mức giá mua (hoặc thuyết phục hơn, giữa hoạt động bán và lựa chọn) là rất quan trọng trong tiếp nhận ban đầu về những ý niệm điểm tham chiếu và sự ác cảm mất mát. Tuy nhiên, có thể hiểu một cách sâu sắc rằng: Các điểm tham chiếu là không ổn định, đặc biệt trong các tình huống thí nghiệm không bình thường và hiệu ứng sở hữu này có thể bị loại trừ bởi việc thay đổi điểm tham chiếu. Không hiệu ứng sở hữu nào được dự tính khi những người chủ sở hữu nhìn nhận những hàng hóa của mình là vật mang giá trị đối với những trao đổi trong tương lai, đây là một quan điểm phổ biến trong giao dịch thông thường và trên các thị trường tài chính. Nhà Kinh tế học thực nghiệm John List, người đã nghiên cứu hoạt động chuyển nhượng trên những quy định thẻ thông tin cầu thủ, đã phát hiện ra rằng những thương nhân mới vào nghề đã miễn cưỡng tách các tấm thẻ mà họ đã sở hữu ra, nhưng sự miễn cưỡng này dần biến mất cùng với kinh nghiệm giao thương. Ngạc nhiên hơn, List đã phát hiện ra một tác động to lớn của kinh nghiệm giao thương lên hiệu ứng sở hữu đối với những mặt hàng mới. Theo một thỏa ước, List đã đưa ra nhận xét rằng: Những người được mời tham gia vào một cuộc khảo sát ngắn, theo đó họ có thể được trả công bằng một phần quà nhỏ: Một chiếc cốc café hoặc một thanh sô-cô-la có giá trị ngang bằng. Các phần quà được phân chia một cách ngẫu nhiên. Khi các tình nguyện viên chuẩn bị rời đi, List đã nói với từng người trong số họ rằng “Chúng tôi tặng cho bạn một chiếc cốc [hoặc thanh sô-cô-la], nhưng bạn có thể trao đổi lấy một thanh sô-cô-la [hoặc cốc] thay vào đó, nếu bạn muốn.” Trong một sự mô phỏng chính xác thí nghiệm ban đầu của Jack Knetsch, List đã phát hiện ra rằng chỉ có 18% những người trao đổi thiếu kinh nghiệm mới sẵn lòng đổi những món quà của mình với người khác. Trong sự tương phản một cách sắc nét, những người trao đổi có kinh nghiệm đã tỏ rõ không hề có dấu hiệu của một hiệu ứng sở hữu nào: 48% trong số họ đã đổi lại! Ít nhất trong một môi trường thị trường mà ở đó việc đổi chác là một quy chuẩn, họ đã tỏ ra không chút miễn cưỡng khi giao dịch. Jack Knetsh cũng đã tiến hành các thí nghiệm mà ở đó những thao túng khôn khéo đã khiến cho hiệu ứng sở hữu biến mất. Những người tham gia đã bày tỏ một hiệu ứng sở hữu chỉ khi họ có trạng thái sở hữu vật lý đối với hàng hóa trong một chốc lát trước khi triển vọng của hoạt động giao thương hàng hóa đó được đề cập tới. Các nhà kinh tế học theo thuyết chính thống có thể đã bị xúi giục khi nói rằng Knetsch đã tốn quá nhiều thời gian với các nhà tâm lý học, bởi sự vận dụng thực nghiệm của ông đã cho thấy sự quan tâm tới những biến thiên mà các nhà Tâm lý học xã hội cho là quan trọng. Thực vậy, hệ phương pháp khác nhau có liên quan tới các nhà Kinh tế học thực nghiệm, và các nhà tâm lý học đã thu được nhiều căn cứ trong cuộc tranh luận đang tiếp diễn về hiệu ứng sở hữu. Những thương nhân kỳ cựu dường như đã học được cách đặt câu hỏi chuẩn, đó là “Tôi muốn có chiếc cốc đó nhiều tới đâu, so với những thứ khác mà tôi có thể có thay vào đó?” Đây chính là câu hỏi mà các nhà Kinh tế học đặt ra. Câu hỏi này không hề gây ra hiệu ứng sở hữu, bởi độ vênh giữa sự thỏa mãn của việc đoạt được và nỗi đau của việc từ bỏ không có liên quan gì tới nhau. Những nghiên cứu gần đây về tâm lý của “việc ra quyết định dưới tình trạng thiếu thốn” chỉ ra rằng người nghèo nằm trong một nhóm khác mà ở đó chúng tôi không dự tính tìm thấy hiệu ứng sở hữu. Người nghèo, theo lý thuyết triển vọng, hiện đang sống dưới điểm tham chiếu của một ai đó. Có những hàng hóa mà người nghèo cần và không thể chi trả nổi, do vậy họ luôn luôn “trong tình trạng mất mát”. Bởi vậy mà một số lượng nhỏ tiền bạc mà họ thu về được nhìn nhận như là một sự giảm thiểu mất mát, chứ không phải một lợi ích. Tiền bạc giúp một ai đó leo lên gần hơn một chút với điểm tham chiếu, nhưng người nghèo vẫn luôn luôn ở chân dốc của hàm giá trị. Những người nghèo suy nghĩ như những thương nhân, nhưng những động lực thật quá khác biệt. Không giống như những thương nhân, người nghèo không bàng quan trước những khác biệt giữa việc đạt được sự thỏa dụng và việc từ bỏ. Vấn đề của họ đó là tất cả những chọn lựa của họ đều nằm giữa nhưng sự tổn thất. Số tiền tiêu tốn cho một hàng hóa là sự mất mát một hàng hóa khác, mà có thể đã được mua thay vào đó. Đối với người nghèo, các chi phí là những tổn thất. Tất cả chúng ta đều biết rằng đối với con người, việc chi tiêu là không lấy gì làm vui vẻ, cho dù về khách quan có thể họ khá sung túc. Ở đây cũng có thể là bởi những khác biệt về văn hóa trong thái độ đối với tiền bạc, và đặc biệt là đối với việc chi tiêu tiền bạc vào những vật phẩm đắt tiền nhỏ nhặt và nảy ra bất chợt, giống như việc mua được một chiếc cốc thiết kế. Một sự khác biệt như vậy có thể lý giải sự sai biệt giữa các kết quả của “nghiên cứu những chiếc cốc” ở Mỹ và ở Anh. Các mức giá mua và bán khác nhau về căn bản trong các thí nghiệm đã được tiến hành đối với tập các mẫu sinh viên Mỹ, nhưng những khác biệt này nhỏ hơn rất nhiều giữa những sinh viên Anh. Vẫn còn nhiều điều cần phải học về hiệu ứng sở hữu. PHÁT NGÔN VỀ HIỆU ỨNG SỞ HỮU “Cô ấy không quan tâm tới văn phòng nào trong số hai cái mà cô ấy sẽ có, nhưng sau đó một ngày thông báo đã được đưa ra, cô ấy không còn sẵn lòng trao đổi nữa. Hiệu ứng sở hữu!” “Các cuộc đàm phán này sẽ chẳng đi tới đâu cả bởi cả hai bên đều thấy khó có thể nhượng bộ.” Thậm chí ngay cả khi họ có thể đạt được điều gì đó. Tổn thất dù không rõ nhưng có thể sẽ lớn hơn lợi ích đạt được. “Khi họ tăng giá của họ lên, nhu cầu đã hết.” “Anh ấy chỉ ghét ý nghĩ về việc bán căn hộ của mình được ít tiền hơn so với giá anh ấy mua. Sự ác cảm mất mát đang diễn ra.” “Hắn ta là một kẻ keo kiệt, hắn coi từng đồng mình tiêu như thể một sự mất mát.” Còn nữa
Phần 4 - Chương 28: Những biến cố tiêu cực Bấm để xem Khái niệm về “sự ác cảm mất mát” chắc hẳn có đóng góp ý nghĩa nhất của ngành Tâm lý học cho sự hình thành và phát triển của ngành Kinh tế học hành vi. Điều này nghe có vẻ kỳ lạ, bởi chúng ta thường đánh giá kết quả dựa trên những ích lợi và tổn thất, trong khi chúng ta dễ dàng nhận ra tổn thất hơn là những ích lợi, do đó phát hiện này không có gì mới lạ khiến chúng ta phải ngạc nhiên cả. Amos và tôi vẫn thường đùa cợt với nhau rằng: Chúng ta đang tiến hành nghiên cứu một đề tài mà đến những người bà của chúng ta cũng có thể hiểu rất rõ rồi. Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta biết nhiều hơn những người bà của mình và có thể giờ đây chúng ta đã gắn sự ác cảm mất mát vào hai hệ thống đang vận hành bên trong trí não của chúng ta. Điều đặc biệt là trí não của chúng ta phủ nhận và né tránh thực tế mà ở đó quan điểm Tâm - Sinh lý đã thống trị sự vận hành của nó. Chúng tôi cũng có thể chỉ ra những hệ quả của sự ác cảm mất mát trong những quan sát gây ngạc nhiên khác nhau: Chỉ những hàng hóa bị thất lạc trong quá trình vận chuyển mới được đền bù bằng tiền mặt; những nỗ lực cải tổ ở quy mô lớn thường hay thất bại; những tay gôn chuyên nghiệp có tỷ lệ số lần đánh nhẹ bóng vào lỗ chính xác hơn rất nhiều một tay gôn nghiệp dư. Cũng theo một cách tài tình như vậy, bà tôi sẽ phải ngạc nhiên bởi những dự đoán từ một ý niệm mơ hồ mà bà tưởng chừng nó rất chính xác. TIÊU CỰC VƯỢT TRỘI Nhịp tim của bạn dồn dập hơn khi bạn nhìn vào bên trái của biểu đồ. Nó đập dồn dập ngay cả trước khi bạn có thể gọi tên thứ gì kỳ quái ở trong bức hình. Sau một thời gian bạn mới có thể nhận ra thứ kỳ quái ấy là đôi mắt của một người đang rất sợ hãi. Đôi mắt bên phải thu lại nhỏ hơn đôi mắt bên phải bởi một nụ cười híp má, nhằm diễn tả sự sung sướng nhưng không hẳn nó thể hiện sự phấn khích. Hai bức hình được đưa ra cho những người đang nằm dưới máy chụp cắt lớp xem. Mỗi bức hình được chiếu trong khoảng nhỏ hơn 2/100 giây và ngay lập tức bị che khuất bởi sự “nhiễu hình” một hiển thị ngẫu hiện các khoảng sáng tối lên bức hình. Không ai trong số những người quan sát nhận thức được rằng mình vừa được nhìn những bức ảnh chụp đôi mắt nhưng một phần não bộ của họ đã biết được là “hạch hạnh nhân’’ có vai trò là “trung khu cảnh báo” của não bộ, mặc dù nó cũng có vai trò kích hoạt các trạng thái cảm xúc khác nhau diễn ra trong trí não. Những hình ảnh đã chỉ ra một phản ứng mạnh của “hạch hạnh nhân” của não bộ người quan sát mà không thể nhận ra hình ảnh ghê rợn của bức hình mà mình đang quan sát đó. Thông tin về mối đe dọa có thể được nhận ra khi nhìn vào bức hình đó có thể di chuyển qua một rãnh thần kinh cực nhạy bằng việc quét trạng thái “nhìn” trực tiếp vào phân khu xử lý các cảm xúc của não bộ. Chu trình tương tự như vậy cũng dẫn tới việc phác họa vẻ giận dữ (một mối đe dọa tiềm ẩn) của những khuôn mặt được xử lý nhanh hơn và hiệu quả hơn so với những phác họa của khuôn mặt vui vẻ. Một số thí nghiệm đã chỉ ra rằng, một khuôn mặt giận dữ đơn lẻ có thể nổi bật hơn giữa các khuôn mặt vui vẻ nhưng một khuôn mặt vui vẻ đơn lẻ không nổi bật giữa các khuôn mặt giận dữ. Cơ chế của não bộ ở con người và ở một số loài động vật khác được thiết kế để ưu tiên chứa các tin tức xấu. Chỉ lướt qua trong một vài phần trăm của giây có thể phát hiện ra một loài động vật ăn thịt, chu trình này giúp các động vật sống sót để duy trì nòi giống. Những vận hành tự động của Hệ thống 1 phản ánh quá trình tiến hóa lịch sử của loài người. Không hề tồn tại một quy trình nhanh nhạy như thế để nhận diện những tin tốt từng được phát hiện ở não bộ của người hay các loài động vật khác. Dĩ nhiên, chúng ta và “người anh em động vật” của mình nhanh chóng được cảnh báo trước các dấu hiệu cho biết thời cơ thích hợp để giao phối hoặc để ăn thịt, và các chuyên gia quảng cáo đã áp dụng cơ chế này để thiết kế những tấm biển quảng cáo sao cho phù hợp với quy trình vận hành não bộ của con người. Tuy nhiên, các quảng cáo này ưu tiên thể hiện những mối hiểm họa hơn là những cơ may, như cách chúng vốn được thiết kế và vận hành trong não bộ của chúng ta. Não bộ phản ứng nhanh chóng ngay cả trước những hiểm họa hoàn toàn chỉ được phác họa bằng biểu tượng chứ không phải chỉ là các hiểm họa thực sự đã xảy ra. Những từ ngữ giàu cảm xúc được nạp vào bộ não thu hút được sự chú ý của chúng ta. Những từ ngữ chỉ sự tiêu cực như chiến tranh, tội ác lôi cuốn sự chú ý nhanh hơn những từ ngữ chỉ sự tích cực như hòa bình, tình yêu. Không hề có một hiểm họa thực sự nào ở đây nhưng chỉ cần có một sự gợi nhắc về một biến cố tiêu cực trong Hệ thống 1 được xem như là mối đe dọa. Như chúng ta đã thấy ngay từ chương đầu với từ “nôn mửa”, sự hình dung liên tưởng mang tính biểu tượng gợi lên những phản ứng thực tế cảm xúc bị suy yếu, thậm chí làm chúng ta có phản ứng lùi lại hoặc ngả người về phía trước khi có liên tưởng đến từ “nôn mửa”. Độ nhạy với những hiểm họa kéo dài tới cả hoạt động xử lý những trạng thái cảm xúc cũng rất bất đồng trong trí não của chúng ta. Ví dụ, quan điểm của bạn đối với cái chết nhân đạo, não bộ của bạn sẽ mất tối đa ¼ giây để ghi nhận “sự chỉ dẫn” để đưa ra ý kiến được bắt đầu với “Tôi nghĩ cái chết nhân đạo là một … chấp nhận được/không chấp nhận được.” Nhà tâm lý học Paul Rozin, một chuyên gia nghiên cứu về cảm xúc tiêu cực (trong tình huống này nghiên cứu về sự ghê tởm), đã quan sát thấy rằng chỉ cần một con gián sẽ làm hỏng hoàn toàn sức hấp dẫn của một bát chứa đầy quả anh đào, nhưng một quả anh đào sẽ chẳng có gì hấp dẫn khi nằm trong một bát chứa đầy những con gián. Như ông đã chỉ ra, càng rơi vào thế bí thì càng có nhiều cách thoát ra và sự “ác cảm mất mát” là một trong rất nhiều biểu hiện của một trạng thái tiêu cực điển hình. Trong một bài báo có tiêu đề “Cái xấu lấn át cái tốt”, số học giả tổng hợp như sau: “Những cảm xúc tồi tệ, những căn nguyên tệ hại, phản hồi không tốt có tác động lớn hơn những thứ tốt đẹp và tin dữ được xử lý triệt để hơn tin lành. Một người có xu hướng tránh những nhận thức xấu hơn là theo đuổi các nhận thức tốt. Những ấn tượng xấu và định kiến không tốt được tạo thành nhanh hơn và có sức kháng cự đối với sự tốt hơn của những điều tích cực.” Họ dẫn chứng các quan điểm của John Gottman, một chuyên gia nổi tiếng nghiên cứu về mối quan hệ vợ chồng: Một cuộc hôn nhân bền vững phụ thuộc rất nhiều vào việc tránh làm các hành động tiêu cực, hơn là vào việc cố gắng có nhiều hành động tích cực. John Gottman đã ước tính được rằng hôn nhân bền vững đòi hỏi những tương tác tích cực phải lấn át những tương tác tiêu cực ở mức nhỏ nhất là 5/1. Những điều bất cân xứng trong lĩnh vực xã hội thậm chí còn nổi bật hơn, như tất cả chúng ta đều biết rằng một tình bạn phải mất nhiều năm mới có thể gây dựng được cũng có khả năng bị hủy hoại chỉ bằng một hành động. Một vài sự khác biệt giữa tốt và xấu đã được lập trình sẵn trong mỗi chúng ta. Những đứa trẻ sơ sinh, sinh ra đã phản ứng với đau đớn như là điều xấu và phản ứng với yêu thương (đến một điểm nào đó) như là điều tốt. Tuy nhiên, trong nhiều tình huống thì ranh giới giữa tốt và xấu là một điểm tham chiếu thay đổi theo thời gian và phụ thuộc vào từng hoàn cảnh. Hãy hình dung rằng bạn đang rời khỏi đất nước vào một đêm lạnh lẽo, ăn mặc phong phanh dưới cơn mưa xối xả, quần áo của bạn sũng nước. Một cơn gió lạnh buốt góp phần làm tăng thêm nỗi đau trong lòng bạn. Bạn đã lang thang khắp nơi và cuối cùng bạn cũng tìm thấy một khối đá lớn để trú ẩn. Nhà Sinh vật học Michel Cabanac gọi sự trải nghiệm trong khoảnh khắc tìm thấy tảng đá để trú ẩn ấy là cảm giác vui thích theo đặc trưng riêng của nó, như là niềm khoái lạc thông thường đem lại, chỉ ra sự cải biến về mặt sinh học quan trọng đối với tình huống ấy. Dĩ nhiên, sự bù đắp vui thú ấy chỉ trong chốc lát và bạn sẽ nhanh chóng có lại cảm giác run rẩy khi đứng phía sau khối đá và bị thôi thúc bởi nỗi đau đớn trở lại nhằm tìm ra nơi trú ẩn tốt hơn tảng đá ấy. CÁC MỤC TIÊU LÀ NHỮNG ĐIỂM THAM CHIẾU “Sự ác cảm mất mát” đề cập đến sức mạnh tương quan của hai động cơ: Chúng ta bị thôi thúc một cách mạnh mẽ nhằm tránh những tổn thất hơn là đạt được những lợi ích. Một điểm tham chiếu, đôi khi ở thời điểm hiện trạng, nhưng cũng có khi là một mục tiêu trong tương lai: Việc không đạt được một mục tiêu là một mất mát, việc hoàn thành vượt mức mục tiêu là một lợi ích. Như chúng ta có thể dự tính từ sự thống trị của các cảm giác tiêu cực, hai động cơ này không có tác động đồng đều. Ác cảm trước thất bại của việc không đạt được mục tiêu mạnh mẽ hơn tham vọng vượt qua mục tiêu đó. Mọi người thường chấp nhận những mục tiêu ngắn hạn mà họ phấn đấu để đạt được nhưng không nhất thiết phải vượt mức mong đợi. Họ có thể giảm bớt nỗ lực của mình khi họ đã đạt tới mục tiêu trước mắt, với kết quả mà đôi khi là không đúng nếu dựa vào tính logic của kinh tế. Ví dụ, những tài xế taxi ở New York có thể có một mục tiêu thu nhập lập theo từng tháng hoặc năm, nhưng mục tiêu chính chi phối nỗ lực của họ là các mức thu nhập hàng ngày. Dĩ nhiên, mục tiêu theo ngày dễ dàng đạt được (và vượt mức) vào một số nhất định. Vào những ngày mưa, người tài xế nhanh chóng đạt được mục tiêu của mình vì ngày mưa thường đông khách hơn những ngày khác; điều tương tự không xảy ra vào những ngày thời tiết dễ chịu, khi những chiếc xe taxi thường tốn thời giờ lượn lờ trên các con phố tìm khách. Lập luận kinh tế ngụ ý rằng những tài xế taxi nên làm việc nhiều giờ vào những ngày mưa và tự thưởng cho bản thân một vài ngày nghỉ vào những ngày ôn hòa, khi đó họ có thể “mua” sự thảnh thơi ở một mức giá thấp hơn. Tính logic của “sự ác cảm mất mát” cho thấy điều ngược lại: Những người tài xế có một mục tiêu hướng tới cố định hàng ngày sẽ làm việc nhiều giờ hơn khi có các khoản thỏa dụng ít ỏi và trở về nhà sớm khi các vị khách ướt sũng nước mưa đang cầu xin để được đưa tới nơi nào đó. Các nhà kinh tế học Devin Pope và Maurice Schweitzer tại trường Đại học Pennsylvania, đã lấy một ví dụ lý tưởng về một điểm tham chiếu dựa trên môn chơi gôn: Gậy chuẩn 1. Tất cả các lỗ trên sân gôn đều có một số gậy tương ứng với con số đó; số gậy chuẩn cung cấp đường cơ bản để đạt được thành tích tốt nhưng không vượt quá con số quy định. Đối với một tay gôn chuyên nghiệp, một birdie (một gậy dưới gậy chuẩn) là một lợi thế và một bogey (một gậy trên chuẩn) là một tổn thất. Các nhà kinh tế học đã so sánh hai trường hợp mà người chơi có thể đối mặt khi gần lỗ: Đánh nhẹ vào lỗ nhằm tránh một điểm bogey. Đánh nhẹ vào lỗ nhằm đạt một điểm birdie. Mỗi gậy được tính điểm trong sân gôn và trong sân gôn, chuyên nghiệp có giá trị rất lớn. Tuy nhiên, theo như lý thuyết viễn cảnh một số cú đánh ghi được nhiều điểm hơn những cú đánh khác. Không ghi được gậy chuẩn là một tổn thất nhưng việc đánh trượt một gậy ghi điểm birdie (một gậy dưới gậy chuẩn) là một lợi ích thấy trước, không phải là một tổn thất. Pope và Schweitzer đã lập luận rằng từ “sự ác cảm mất mát”, những người chơi gôn khi đánh gậy chuẩn (nhằm tránh một điểm bogey - một gậy trên chuẩn) sẽ cố gắng nhiều hơn một chút khi đánh bóng để ghi một điểm birdie - một gậy dưới chuẩn.) Họ đã phân tích một cách cẩn thận hơn 2.5 triệu cú đánh vào lỗ để kiểm chứng dự đoán này. Và họ đã đúng. Cho dù cú đánh vào lỗ ở mọi khoảng cách tới lỗ gôn có dễ hay khó, những gôn thủ thành công khi ghi điểm gậy chuẩn hơn là khi ghi điểm birdie. Sự khác biệt trong tỷ lệ thành công của họ khi thực hiện gậy chuẩn (nhằm tránh điểm bogey) hoặc ghi điểm birdie là 3.6%. Sự khác biệt này không hề tầm thường chút nào. Tiger Woods là một trong số những “người tham gia” vào nghiên cứu của họ. Nếu trong năm thi đấu tốt nhất của mình, Tiger Woods đã thành công trong việc đưa bóng vào lỗ để ghi điểm gậy dưới chuẩn cũng như anh đã làm đối với gậy chuẩn, điểm số giải đấu trung bình của anh sẽ được cải thiện bởi một cú đánh và thu nhập của anh đạt gần 1 triệu đô-la mỗi mùa giải. Những đối thủ cạnh tranh ác liệt này chắc chắn không đưa ra một quyết định lý trí nào nhằm giảm bớt các cú đánh ghi điểm gậy dưới chuẩn, nhưng sự ác cảm mạnh mẽ của họ với một điểm bogey - một gậy trên chuẩn dường như góp phần vào sự tập trung vượt mức đối với nhiệm vụ trong tầm tay. Nghiên cứu về các cú đánh vào lỗ gôn minh chứng cho lý thuyết như thể nó hỗ trợ cho hoạt động tư duy. Ai có thể nghĩ rằng bỏ ra hàng tháng trời phân tích những cú đánh ghi điểm gậy chuẩn và điểm gậy dưới chuẩn là việc đáng làm? Ý tưởng về “sự ác cảm mất mát,” chẳng thể gây kinh ngạc cho ai ngoại trừ một vài nhà Kinh tế học, đã tạo ra một giả thuyết chính xác không gì sánh kịp và đã dẫn dắt các nhà nghiên cứu tới một phát hiện đã làm chấn động tất thảy mọi người – bao gồm cả những tay gôn chuyên nghiệp. HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ NGUYÊN TRẠNG Nếu bạn bắt đầu lao vào tìm kiếm điều gì đó, cường độ không cân xứng của các động cơ nhằm tránh những tổn thất và đạt được những lợi ích gần như xuất hiện ở khắp mọi nơi. Đó là bản chất của những cuộc đàm phán, đặc biệt là của các cuộc đàm phán dựa trên một hợp đồng được ký kết trước, tình huống thường xuất hiện cho các cuộc thương lượng lao động và trong các cuộc thảo luận thương mại hoặc những hạn ngạch vũ khí quốc tế. Những điều khoản hiện hành xác định các điểm tham chiếu và bất kỳ một thay đổi nào đưa ra từ điều khoản trước, được coi như là một sự nhượng bộ của một bên dành cho đối phương. “Sự ác cảm mất mát” tạo ra một sự mất cân xứng khiến cho các thỏa thuận khó có thể đạt được. Những nhượng bộ bạn tạo cho tôi là những lợi ích của tôi nhưng chúng lại là những tổn thất của bạn, chúng gây ra cho bạn nỗi đau nhiều hơn là chúng mang lại cho tôi sự thỏa mãn. Chắc hẳn, bạn sẽ đặt ra một cái giá cho chúng cao hơn tôi đặt. Dĩ nhiên, điều tương tự cũng đúng đối với mọi nhượng bộ khó nhọc mà bạn đòi hỏi từ phía tôi, những thứ mà bạn không chừng đã đánh giá đúng đắn! Những cuộc đàm phán tiến hành trên một “cái bánh đang bị nhỏ lại” dần là đặc biệt khó khăn, bởi chúng đòi hỏi cần phải có một sự phân chia những tổn thất cho đôi bên. Con người có xu hướng dễ tính hơn nhiều khi họ thương lượng trên một “chiếc bánh đang phình ra”. Rất nhiều thông điệp mà các nhà thương thuyết trao đổi trên bàn đàm phán là những nỗ lực nhằm truyền tải một điểm tham chiếu và đưa ra một nguồn đáng tin cậy cho đối phương. Thông điệp này không phải lúc nào cũng thẳng thắn. Các nhà thương thuyết thường làm ra vẻ quyến luyến ghê gớm với một vài loại hàng hóa (có thể là những loại tên lửa điển hình trong các cuộc thương thảo giải trừ vũ khí), mặc dù họ thực sự xem món hàng đó như là một “chiêu bài mặc cả” và cuối cùng thì có ý định “thí con tốt” trong một vụ trao đổi. Do các nhà thương thuyết bị tác động bởi một quy tắc “có đi có lại”, một sự nhân nhượng được đưa ra giống như thể những thiện chí xót xa dành cho một sự nhượng bộ đầy đau đớn tương tự (và có lẽ đều giả dối như nhau) từ phía đối phương. Các loài động vật, bao gồm cả con người, cạnh tranh khắc nghiệt nhằm ngăn chặn những mất mát hơn là nhằm đạt tới những lợi ích. Trong phạm vi lãnh thổ của các loài động vật, nguyên tắc này giải thích sự thành công của những kẻ bảo vệ được lãnh thổ. Một nhà Sinh vật học đã quan sát được rằng “khi một loài vật chiếm giữ lãnh thổ bị thách thức bởi một đối thủ, thì nó hầu như luôn giành chiến thắng (chỉ trong vài giây) các cuộc xung đột.” Trong các vấn đề về con người, quy tắc đơn giản tương tự lý giải phần lớn về những điều xảy ra khi các thể chế cố gắng sửa đổi chính mình, trong các cuộc “cải tổ” và “tái cấu trúc” các doanh nghiệp, và trong những nỗ lực nhằm hợp lý hóa một hệ thống hành chính quan liêu, đơn giản hóa mã số thuế hoặc giảm thiểu các chi phí y tế. Như đã hình dung từ đầu, các kế hoạch cải cách gần như luôn luôn sản sinh ra những “người chiến thắng” và một số “kẻ thất bại” trong khi đạt được một sự cải biến tổng thể. Tuy nhiên, nếu các bên bị ảnh hưởng có bất cứ sự chi phối về chính trị nào thì những kẻ thua cuộc tiềm tàng sẽ trở nên chủ động hơn và quả quyết hơn những kẻ chiến thắng, kết quả sẽ bị sai lệch theo hướng có lợi cho họ và chắc hẳn sẽ tốn kém và ít hiệu quả hơn so với dự kiến ban đầu. Các cuộc cải tổ thông thường bao gồm các điều khoản nhằm bảo vệ các bên liên quan, ví dụ, khi lực lượng lao động hiện tại bị cắt giảm bởi sự suy giảm hơn là giải thể, hoặc khi sự cắt giảm lương và cắt giảm quyền lợi chỉ áp dụng đối với những công nhân ở tương lai. “Sự ác cảm mất mát” là một lực lượng kỳ cựu hùng mạnh bảo vệ cho những thay đổi rất nhỏ từ nguyên trạng cuộc sống của cả các tổ chức lẫn các cá nhân. Chủ nghĩa bảo thủ này góp phần giúp chúng ta ở yên trong khối phố, trong cuộc hôn nhân và nghề nghiệp của chúng ta; đó là lực hấp dẫn hút chặt cuộc sống của chúng ta lại với nhau gần với điểm tham chiếu. SỰ ÁC CẢM MẤT MÁT TRONG LUẬT PHÁP Trong suốt một năm làm việc với nhau tại Vancouver - Richard Thaler, Jack Knetsch và tôi đã phác thảo ra một nghiên cứu về tính công bằng trong các giao dịch kinh tế, một phần là bởi chúng tôi đã say mê chủ đề đó nhưng cũng bởi chúng tôi đã có một cơ may cũng như là một bổn phận hoàn chỉnh một bảng câu hỏi mới hàng tuần. Bộ Thủy sản và Đại dương của Chính phủ Canada có một chương trình dành cho các chuyên gia bị thất nghiệp tại Toronto, những người này được trả lương để quản lý các cuộc điều tra thăm dò qua điện thoại. Một nhóm gồm phần lớn những người phỏng vấn đã làm việc hàng đêm và các câu hỏi mới liên tục được cập nhật nhằm giữ cho quá trình này luôn tiếp diễn. Thông qua Jack Knetsch, chúng tôi đã chấp thuận thiết kế một bảng câu hỏi hàng tuần, với các phiên bản được dán nhãn bốn màu. Chúng tôi có thể hỏi về bất kể điều gì, sự gò bó duy nhất đó là bảng câu hỏi phải bao gồm ít nhất một câu đề cập tới thủy sản, nhằm tạo cho nó thích hợp với sứ mệnh của Bộ Thủy Sản và Đại dương, nơi đã thuê chúng tôi. Công việc này kéo dài trong nhiều tháng và chúng tôi đã tự mình xử lý được một mớ các dữ liệu thu thập. Chúng tôi đã nghiên cứu nhận thức của công chúng về những gì tác động đến hành hành vi không tốt của một bộ phận các thương nhân, chủ lao động và chủ đất. Câu hỏi bao quát của chúng tôi đó là liệu sự sỉ nhục đi kèm với bất công có áp đặt những hạn chế trong việc tìm kiếm lợi ích hay không. Chúng tôi đã phát hiện ra rằng điều đó có tồn tại. Chúng tôi cũng phát hiện ra rằng những quy tắc đạo đức mà theo đó dân chúng đánh giá những gì các doanh nghiệp có thể hoặc không thể rút ra sự khác biệt chủ yếu giữa những mất mát và lợi ích. Nguyên tắc cơ bản đó là mức lương, mức giá, hoặc tiền thuê hiện tại đặt ra một điểm tham chiếu, là bản chất của một đặc quyền bất khả xâm phạm. Đối với doanh nghiệp, áp đặt những thua thiệt cho các khách hàng hoặc công nhân của mình bị xem là không đúng so với giao dịch tham chiếu, trừ khi buộc phải làm vậy nhằm bảo vệ đặc quyền sở hữu của doanh nghiệp đó. Xem xét ví dụ sau: Một cửa hàng bán đồ kim khí vẫn thường bán những chiếc xẻng xúc tuyết với giá 15 đô-la. Vào một buổi sáng sau khi có một trận bão tuyết lớn tràn qua, cửa hàng nâng giá bán lên là 20 đô-la. Hãy xếp loại hành động này theo cấp độ: Hoàn toàn đúng Chấp nhận được Không đúng Rất không đúng Cửa hàng bán đồ kim khí cư xử một cách thích đáng theo như mô hình kinh tế chuẩn: Đáp ứng nhu cầu đang tăng của một loại hàng hóa bằng việc tăng giá bán của loại hàng hóa đó. Những người tham gia vào cuộc khảo sát đã không tán đồng: 82% xếp hạng hành động đó là “Không đúng” hoặc “Rất không đúng”. Họ rõ ràng đã xem mức giá trước trận “bão giá” như là một điểm tham chiếu và mức giá tăng lên như một mất mát mà cửa hàng áp đặt lên khách hàng của mình. Một quy tắc cơ bản về sự công bằng mà chúng tôi đã phát hiện ra đó là sự khai thác sức mạnh thị trường nhằm áp đặt những mất mát lên những kẻ khác là không thể chấp nhận được. Ví dụ tiếp theo đây minh họa cho quy tắc này trong một bối cảnh khác (những giá trị của đồng đô-la nên được điều chỉnh lên khoảng 100% kể từ khi những dữ liệu này được thu thập vào năm 1984): Một cửa hàng phô-tô nhỏ thuê một nhân công. Người này đã làm việc ở đây được 6 tháng và được trả 9 đô-la mỗi giờ. Công việc làm ăn tiếp tục phát đạt, nhưng một số công ty khác ở gần cửa hàng phô-tô này mới đóng cửa khiến số người thất nghiệp tăng lên. Một số cửa hiệu khác thuê những nhân công này ở mức giá 7 đô-la một giờ để làm những công việc tương tự như những gì người nhân công làm tại cửa hàng phô-tô. Người chủ cửa hàng phô-tô này giảm mức lương của người nhân công này xuống còn 7 đô-la. Các đối tượng điều tra đã không tán đồng: 83% đã coi hành vi đó là “Không đúng” hoặc “Rất không đúng”. Tuy nhiên, một sự thay đổi nhỏ trong câu hỏi làm rõ được đặc trưng nghĩa vụ của người sử dụng lao động. Bối cảnh của một cửa hiệu phát đạt trong vùng có số người thất nghiệp cao là như nhau, nhưng bây giờ người làm công hiện tại bỏ đi và người chủ quyết định trả cho người thay thế một khoản là 7 đô-la một giờ. Đại đa số (73%) đã coi hành động này là “chấp nhận được”. Có vẻ như là người chủ lao động không có bổn phận đạo đức phải trả 9 đô-la một giờ. Quyền ở đây mang tính cá nhân: Người nhân công hiện tại có quyền duy trì mức lương của anh ta dù cho các điều kiện thị trường sẽ cho phép người chủ lao động áp đặt một mức cắt giảm lương. Người lao động thay thế không có đặc quyền nào so với mức lương tham chiếu của người nhân công trước đó và bởi vậy người chủ được phép cắt giảm mức chi trả mà không có nguy cơ bị mang tiếng là bất công. Doanh nghiệp có quyền riêng của mình, đó là duy trì khoản lợi nhuận hiện tại của mình. Nếu doanh nghiệp đối mặt với một nguy cơ tổn thất, nó được phép chuyển đổi tổn thất ấy sang người khác. Một số lượng lớn những đối tượng được hỏi đã tin rằng đối với một doanh nghiệp việc cắt giảm các mức lương nhân công khi lợi nhuận của doanh nghiệp đó sụt giảm không phải là không thích đáng. Chúng tôi đã mô tả các quy tắc như là việc xác định các quyền lợi kép cho doanh nghiệp và các cá nhân mà nó ảnh hưởng lẫn nhau. Khi bị đe dọa, không phải là không thích đáng khi doanh nghiệp trở nên ích kỷ. Doanh nghiệp cũng không được kỳ vọng là sẽ gánh vác một phần những tổn thất, họ có thể vượt qua chúng. Những quy tắc khác nhau chi phối điều mà doanh nghiệp có thể làm nhằm cải thiện lợi nhuận của mình hoặc tránh cho lợi nhuận bị giảm sút. Khi một doanh nghiệp đứng trước các chi phí sản xuất thấp hơn, những quy tắc về sự công bằng không đòi hỏi doanh nghiệp phải chia sẻ khoản lợi nhuận tăng thêm cho hoặc các khách hàng hoặc cho nhân viên của doanh nghiệp. Dĩ nhiên, những người trả lời câu hỏi của chúng tôi ưa thích một doanh nghiệp tử tế hơn và đã mô tả nó như thể sẽ công bằng hơn nếu doanh nghiệp đó rộng rãi khi lợi nhuận tăng lên, nhưng họ cũng không quy chụp một doanh nghiệp là không công bằng khi không chia sẻ lợi nhuận. Họ đã thể hiện sự phẫn nộ chỉ khi một doanh nghiệp đã lợi dụng quyền năng của mình mà phá vỡ những bản hợp đồng miệng với nhân viên hoặc khách hàng và áp đặt một tổn thất lên người khác để gia tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhiệm vụ quan trọng đối với các nhà nghiên cứu sự công bằng trong kinh tế không phải là để xác định lối ứng xử nhân văn mà là nhằm tìm ra giới hạn phân cách hành xử có thể chấp nhận được với những hành động đem lại sự bất công và hình phạt. Chúng tôi đã không lạc quan khi gửi bản báo cáo nghiên cứu này cho Tạp chí Kinh tế Hoa Kỳ (American Economic Review). Bài báo của chúng tôi đã thách thức những tri thức được thừa nhận sau đó giữa các nhà kinh tế học mà hành vi kinh tế được quy định bởi lợi ích cá nhân và rằng những mối lo về sự công bằng nói chung là không thích đáng. Chúng tôi cũng đã dựa trên các câu trả lời rõ ràng mà đã khảo sát của các nhà kinh tế nhìn chung ít có sự lưu tâm. Tuy nhiên, biên tập viên của tạp chí đã gửi bài viết của chúng tôi cho hai nhà Kinh tế học để đánh giá, hai vị này bị giới hạn bởi chính những quy ước ấy (chúng tôi sau này đã được gặp mặt họ, họ là người thân thiện nhất mà vị biên tập viên đó có thể tìm được). Vị biên tập viên đã tìm được đúng người. Một nghiên cứu gần đây hơn đã xác thực những điều nhận thấy về sự công bằng phụ thuộc tham chiếu và cũng đã chỉ ra rằng những lo âu về sự công bằng rất có ý nghĩa về phương diện kinh tế, một thực tế mà chúng tôi đã hoài nghi nhưng không đi chứng minh. Những người chủ lao động vi phạm những quy tắc về sự công bằng bị trừng phạt bởi năng suất bị sụt giảm và những thương nhân áp dụng các chính sách giá không công bằng có thể dự đoán trước được việc buôn bán thua lỗ. Những người thông qua một cuốn catalog mới đã biết được rằng người thương nhân giờ đây đang tính giá một sản phẩm thấp hơn so với sản phẩm mà họ vừa mới mua gần đây ở mức giá cao hơn đã giảm 15% lượng mua trong tương lai của họ từ nhà cung cấp đó, một tổn thất trung bình ở mức 90 đô-la mỗi khách hàng. Các khách hàng này hiển nhiên đã nhận thấy mức giá thấp hơn là một điểm tham chiếu và suy nghĩ của chính họ là sự duy trì một tổn thất qua việc chi trả nhiều hơn mức hợp lý. Hơn thế nữa, những khách hàng phản ứng mạnh mẽ nhất lại là những người mua hàng nhiều nhất với mức giá cao hơn. Những tổn thất vượt xa những lợi ích từ việc tăng giá hàng hóa sản xuất bằng các mức giá thấp hơn trong cuốn catalog mới. Việc áp đặt không công bằng những tổn thất lên người khác là hiểm họa nếu các nạn nhân đang ở trong tư thế trả thù. Hơn thế nữa, các thí nghiệm đã chỉ ra rằng những người ngoài quan sát lối hành xử không công bằng này thường tham gia vào sự trừng phạt. Các nhà kinh tế học thần kinh (các nhà khoa học kết hợp kinh tế học với việc nghiên cứu não bộ) đã sử dụng các máy MRI để kiểm tra não bộ của những người đang thực hiện việc trừng phạt một người lạ bởi lối hành xử không công bằng với một vài người lạ khác. Đáng chú ý là hình phạt nhân đạo được đi kèm bởi hoạt động gia tăng trong “trung khu khoái lạc” của não bộ. Có vẻ việc duy trì trật tự xã hội và các quy tắc về sự công bằng theo kiểu như vậy là phần thưởng của riêng nó. Hình phạt nhân đạo có thể là chất keo dính cố định các xã hội lại với nhau. Tuy nhiên, não bộ của chúng ta không được tạo ra để tưởng thưởng sự khoan hồng một cách chắc chắn, giống như chúng trừng phạt sự hèn mạt. Ở đây thêm một lần nữa, chúng tôi phát hiện ra một sự bất cân xứng rõ rệt giữa những tổn thất và lợi ích. Sự ảnh hưởng của “sự ác cảm mất mát” và các quyền mở rộng vượt khỏi các lĩnh vực giao dịch tài chính. Các nhà luật học đã nhanh chóng nhận ra tác động của họ lên luật pháp và trong lĩnh vực hành chính tư pháp. Trong một nghiên cứu, David Cohen và Jack Knetsch đã phát hiện ra nhiều ví dụ về một sự khác biệt sâu sắc giữa những tổn thất trong thực tế với những lợi ích thấy trước trong các quyết định dựa trên luật pháp. Ví dụ, một thương nhân có hàng hóa bị thất lạc trong quá trình vận chuyển có thể được bồi thường các chi phí mà anh ta lẽ ra phải chịu nhưng không được bồi thường cho những lợi nhuận bị mất. Thói quen thường thấy mà quyền sở hữu là 9/10 của luật xác nhận trạng thái tinh thần của điểm tham chiếu. Trong một cuộc thảo luận gần đây, Eyal Zamir tạo ra điểm kích thích mà ở đó sự khác biệt được rút ra trong luật pháp, giữa việc phục hồi thiệt hại với việc bù đắp cho những lợi ích thấy trước có thể được điều chỉnh bởi những tác động không cân bằng của họ lên hạnh phúc cá nhân. Nếu những người tổn thất bị ảnh hưởng nhiều hơn những người không đạt được lợi ích, họ đáng được bảo vệ nhiều hơn bởi luật pháp. PHÁT NGÔN VỀ NHỮNG TỔN THẤT “Sự đổi mới này sẽ không vượt qua được. Những người giữ vững quan điểm để mất sẽ chiến đấu mạnh mẽ hơn so với những người giữ vững quan điểm để có lợi ích.” “Mỗi người trong số họ nghĩ rằng những nhượng bộ của người khác ít đau đớn hơn. Tất cả bọn họ đều sai lầm, dĩ nhiên rồi. Đó chỉ là sự bất cân xứng của các tổn thất.” “Họ sẽ thấy đàm phán lại thỏa ước trở nên dễ dàng hơn nếu họ đã nhận thức được việc chiếc bánh đang thực sự mở rộng. Họ không phân bổ những tổn thất, họ đang phân bố những lợi ích.” “Các mức giá cho thuê nhà quanh đây đã tăng lên gần đây, nhưng những người thuê nhà của chúng ta không nghĩ đó là điều công bằng khi chúng ta cũng nên tăng tiền thuê nhà của họ.” “Các khách hàng của tôi không hề tức giận trước việc tăng giá bởi họ hiểu được rằng các chi phí của tôi cũng đã tăng lên. Họ chấp nhận thực trạng này của tôi để giữ nguyên lợi ích.” Còn nữa
Phần 4 - chương 29: Mô hình bốn phần Bấm để xem Bất cứ khi bạn có ý định đánh giá tổng thể về một đối tượng phức tạp, như là xem xét một chiếc ô tô để mua, con rể của bạn là người như thế nào, hoặc một tình huống bất kỳ mà không chắc chắn, bạn thường gán các “trọng số” cho các đặc tính của chúng. Điều này đơn giản như là một số đặc tính đã tác động đến hành động đánh giá của bạn hơn những thứ khác. Việc trọng số hóa này vẫn diễn ra mặc dù bạn có ý thức được về nó hay là không, đó là do cơ chế tác động của Hệ thống 1 quyết định. Đánh giá tổng thể của bạn về một chiếc xe hơi có thể đặt thêm hoặc bớt trọng số vào tính năng tiết kiệm nhiên liệu, tiện nghi, hoặc kiểu dáng. Đánh giá của bạn về chàng rể có thể phụ thuộc nhiều hay ít hơn vào các tiêu chí như là anh ta giàu có, đẹp trai hoặc đáng tin ra sao. Tương tự như vậy, việc đánh giá của bạn về một triển vọng không chắc chắn, định ra các trọng số lên những kết quả có thể xảy ra. Các trọng số chắc chắn có mối tương quan với những khả năng có thể xảy ra của những kết quả sau: Cơ may chiếm tới 50% để giành được một triệu đô-la hấp dẫn hơn rất nhiều so với cơ may chỉ có 1% để giành được cùng số tiền như vậy. Việc gán các trọng số đôi lúc có tính toán và chủ ý. Tuy nhiên, thông thường bạn chỉ là người quan sát một sự đánh giá tổng quát mà Hệ thống 1 của bạn cung cấp. THAY ĐỔI NHỮNG CƠ MAY Một lý do cho tính phổ biến của các dự đoán mạo hiểm trong nghiên cứu về hoạt động ra quyết định đó là nó cung cấp một quy tắc tự nhiên cho việc gán các trọng số tới các kết quả của một triển vọng: Một kết quả càng có khả năng xảy ra bao nhiêu càng có trọng lượng bấy nhiêu. Giá trị kỳ vọng của một trò may rủi là giá trị trung bình của các kết quả của nó, mỗi kết quả được gắn trọng số bằng khả năng xảy ra của các kết quả đó. Ví dụ, giá trị kỳ vọng của “20% cơ may để giành được 1.000 đô-la và 75% cơ may để giành được 100 đô-la” là 275 đô-la. Vào trước thời kỳ của Bernoulli, các trò may rủi đã được quy định bởi giá trị kỳ vọng của chúng. Bernoulli đã giữ lại phương pháp này phục vụ cho việc gán các trọng số cho kết quả, điều này được biết tới như là yếu tố kỳ vọng cơ bản nhưng được áp dụng vào tác dụng tâm của các kết quả. Lợi ích của một trò may rủi, trong lý thuyết của ông là giá trị trung bình của các lợi ích từ các kết quả của nó, mỗi kết quả được gắn trọng lượng bằng khả năng có thể xảy ra của nó. Nguyên tắc kỳ vọng cơ bản không mô tả chính xác việc bạn tư duy về các kết quả có khả năng xảy ra có mối liên quan tới những triển vọng rủi ro như thế nào. Trong bốn ví dụ dưới đây, các cơ may của bạn đối với việc nhận được 1 triệu đô-la được nâng lên 5%. Liệu tin này có giá trị ngang bằng trong từng trường hợp hay không? A. Từ 0 tới 5%. B. Từ 5% tới 10%. C. Từ 60% tới 65%. D. Từ 95% tới 100%. Nguyên tắc kỳ vọng cơ bản khẳng định rằng: Lợi ích của bạn tăng lên trong mỗi trường hợp chính xác 5% lợi ích của việc nhận được 1 triệu đô-la. Sự dự đoán này thể hiện kinh nghiệm của bạn? Dĩ nhiên là không. Tất cả đều đồng ý rằng từ 0 tới 5% và từ 95% tới 100% hấp dẫn hơn từ 5% tới 10% hoặc 60% tới 65%. Việc gia tăng các cơ may từ 0 tới 5% biến đổi hoàn toàn tình thế, tạo ra một xác suất đã không hề tồn tại trước đó, một hy vọng về việc giành được phần thưởng. Đó là một thay đổi về chất, 5% tới 10% chỉ là một sự cải thiện về lượng. Sự thay đổi từ 5% tới 10% tăng gấp đôi xác suất giành chiến thắng, nhưng có một thỏa ước chung rằng tác dụng tâm lý của triển vọng không được nhân đôi. Tác động lớn của việc tăng từ 0 tới 5% minh họa cho hiệu ứng xác suất, đây là nguyên nhân khiến các kết quả rất khó xảy ra bị đặt nặng một cách không tương xứng hơn là chúng “đáng được”. Những người mua số lượng lớn vé số cho thấy bản thân họ mong đợi vào giá trị dự tính cho từng cơ may nhỏ để mong giành được một giải thưởng lớn. Sự cải thiện từ 95% lên 100% là một sự thay đổi về chất khác có một tác động lớn, đây được gọi là hiệu ứng chắc chắn. Các kết quả gần như chắc chắn có ít trọng lượng hơn so với những biện minh về khả năng của họ. Để hiểu đúng sự ảnh hưởng chắn chắn, hãy tưởng tượng rằng bạn được thừa kế 1 triệu đô-la, nhưng người chị kế tham lam của bạn đã đưa đơn kiện ra tòa. Phán quyết dự tính sẽ được đưa ra vào ngày mai. Luật sư của bạn cam đoan với bạn rằng: Bạn có cơ may 95% giành phần thắng, nhưng ông này cũng đau xót nhắc nhở bạn rằng: Các quyết định của tòa không bao giờ có thể dự đoán đúng một cách tuyệt đối được. Bây giờ bạn được một công ty dàn xếp rủi ro tiếp cận, họ đề nghị mua lại vụ kiện của bạn với giá 910.000 đô-la, và bạn phải quyết định nhận số tiền này hay không ngay lập tức. Đề nghị này thấp hơn (40.000 đô-la) so với giá trị dự tính của việc chờ đợi sự điều đình (950.000 đô-la) nhưng bạn có chắc rằng bạn muốn từ chối? Nếu quả thực có một biến cố như vậy xảy đến trong cuộc đời bạn, bạn nên biết rằng ngành “quy hoạch đô thị cho các khu tái định cư” đã đưa ra một mức giá quá cao, bằng việc tận dụng lợi thế từ hiệu ứng chắc chắn. Triển vọng và sự chắc chắn có cùng chung những hiệu ứng tác động trong phạm vi ảnh hưởng của những tổn thất. Khi một người thân của bạn được đưa tới phòng mổ có nguy cơ xấu lên tới 10% khả năng sẽ phải cắt bỏ một phần chân tay và chỉ có 5% cơ may là không bị cắt bỏ một phần chân tay. Do hiệu ứng xác suất tác động, chúng ta có xu hướng trầm trọng hóa những rủi ro nhỏ và luôn sẵn sàng để chi trả nhiều hơn rất nhiều giá trị dự tính nhằm loại trừ các rủi ro này. Sự khác biệt về tâm lý giữa nguy cơ 95% xảy ra thiên tai và sự chắc chắn về việc xuất hiện thiên tai thậm chí còn lớn hơn, hy vọng mong manh rằng mọi thứ có thể vẫn ổn hiện ra rất rõ. Việc đánh giá quá cao những khả năng nhỏ có thể xảy ra làm gia tăng sức cuốn hút của cả những trò may rủi lẫn những chính sách của bảo hiểm. Kết luận ở đây rất dễ hiểu: Những trọng số để ra quyết định mà nhiều người gán cho các kết quả là không đồng nhất với khả năng xảy ra của các kết quả này, nó trái ngược với nguyên lý kỳ vọng. Các kết quả không chắc chắn được đánh giá cao, đây chính là hiệu ứng xác suất. Các kết quả gần như chắc chắn lại bị đánh giá không đúng mức có liên quan đến sự chắc chắn thực sự. Nguyên lý kỳ vọng, theo đó các giá trị được gắn trọng số dựa vào xác suất của nó, ít mang tính tâm lý. Tuy nhiên, tình tiết trở nên phức tạp bởi tác động của luận cứ rằng một nhà chiến lược có lý trí cần phải tuân theo nguyên lý kỳ vọng. Đây chính là cách giải thích về lý thuyết viễn cảnh mà Von Neumann và Morgenstern đã giới thiệu vào năm 1944. Nguồn gốc nguyên lý kỳ vọng của họ khởi nguồn từ các tiên đề về sự chọn lựa dựa trên lý trí được nhìn nhận là một thành tựu vĩ đại, nó đã đặt lý thuyết lợi ích dự tính làm cốt lõi của mô hình tác nhân dựa trên lý trí về kinh tế và các ngành khoa học xã hội khác. 30 năm sau, khi Amos khai tâm cho tôi công trình của họ, ông ấy đã trình bày nó như thể một khách thể đáng kinh ngạc. Ông ấy cũng đã giúp tôi bước đầu làm quen với một thách thức nổi tiếng về lý thuyết này. NGHỊCH LÝ CỦA ALLAIS Vào năm 1952, vài năm sau khi công bố về lý thuyết của Von Neumann và Morgenstern, một hội nghị được tổ chức tại Paris nhằm thảo luận về tính rủi ro của kinh tế, đã thu hút nhà kinh tế học nổi danh tham dự. Các vị khách người Mỹ bao gồm cả các nhân vật đoạt giải Nobel sau này như Paul Samuelson, Kenneth Arrow, Milton Friedman và cả Jimmie Savage - một nhà Thống kê học hàng đầu lúc bấy giờ. Trong số các nhà tổ chức buổi gặp mặt tại Paris có Maurice Allais, người mà sau này cũng giành được giải thưởng Nobel. Allais có điều gì đó bí mật, một cặp câu hỏi về sự chọn lựa mà ông đã thuyết trình trước khán giả đặc biệt của mình là các nhà khoa học khác. Trong khuôn khổ hội nghị đó, Allais đã chỉ ra rằng các vị khách mời của ông nhạy cảm với một hiệu ứng chắc chắn và do đó đã vi phạm lý thuyết lợi ích dự tính và lý thuyết này hình thành trên các tiên đoán dựa trên lý trí. Tập hợp các chọn lựa sau đây là một phiên bản giản lược của vấn đề nan giải mà Allais đã dựng lên. Trong các vấn đề A và B, bạn sẽ chọn cái nào? A. 61% cơ may giành được 520.000 đô-la HOẶC 63% cơ may giành được 500.000 đô-la. B. 98% cơ may giành được 520.000 đô-la HOẶC 100% cơ may giành được 500.000 đô-la. Nếu bạn giống như hầu hết mọi người, bạn ưu tiên phương án bên tay trái trong vấn đề A và bạn ưu tiên phương án bên tay phải trong vấn đề B. Nếu đây quả là những sự ưu ái của bạn, bạn vừa mới phạm phải một lỗi logic và đã vi phạm phải quy tắc về sự chọn lựa dựa trên lý trí. Các nhà Kinh tế học có tiếng tăm đã tụ họp tại Paris cũng đã phạm phải những lỗi tương tự như vậy trong một phiên bản phức tạp hơn nhiều của “Nghịch biện Allais”. Để thấy được tại sao những chọn lựa còn phải bàn luận, hãy hình dung rằng các kết quả sẽ được xác định bởi một lượt bốc thăm từ một chiếc bình có chứa 100 viên bi bạn giành phần thắng nếu bạn bốc được một viên bi đỏ, bạn thua nếu bạn bốc phải viên bi trắng. Trong vấn đề A, gần như tất cả mọi người ưu tiên chiếc bình bên tay trái hơn, mặc dù nó chứa các viên bi đỏ chiến thắng ít hơn, do sự khác biệt về số lượng của phần thưởng hấp dẫn hơn so với sự khác biệt về các cơ may chiến thắng. Trong vấn đề B, phần lớn chọn chiếc bình được đảm bảo với một món lời 500.000 đô-la. Hơn thế nữa, những người thỏa mãn với cả hai sự chọn lựa cho tới khi họ hướng đến tính logic của vấn đề. So sánh hai vấn đề, bạn sẽ thấy được rằng hai chiếc bình trong vấn đề B là những phiên bản có lợi hơn so với những chiếc bình trong vấn đề A, với 37 viên bi trắng bị thay thế bằng những viên bi đỏ chiến thắng trong từng chiếc bình. Sự cải thiện bên tay trái rõ ràng là tốt hơn sự cải thiện bên tay phải, kể từ khi mỗi một viên bi màu đỏ mang lại cho bạn một cơ may giành được 520.000 đô-la bên tay trái và chỉ 500.000 đô-la bên tay phải. Do bạn đã khởi đầu vấn đề đầu tiên với một sự ưu ái dành cho chiếc bình bên tay trái, sau này nó đã được cải thiện nhiều hơn chiếc bình bên tay phải nhưng giờ đây bạn lại thích chiếc bình bên tay phải! Hình mẫu về sự chọn lựa không mang lại ý nghĩa logic nhưng hiệu ứng chắc chắn lý giải cho hiện tượng này. 2% khác biệt giữa 100% và 98% cơ may giành chiến thắng trong vấn đề B hấp dẫn hơn sự khác biệt tương tự giữa 63% và 61% trong vấn đề A. Như Allais đã dự đoán trước, những người tham dự buổi gặp mặt không để ý rằng những ưu ái của họ đã vi phạm lý thuyết lợi ích đến khi ông thu hút sự chú ý của họ về thực trạng này thì buổi gặp mặt gần như đã kết thúc. Allais đã mong chờ tuyên bố này làm xôn xao dư luận: Các nhà lý luận về ra quyết định hàng đầu trên thế giới đã có những ưu ái không phù hợp với quan điểm cá nhân họ về tính hợp lý! Ông dường như đã tin rằng khán giả của mình sẽ bị thuyết phục để từ bỏ phương pháp tiếp cận mà ông phần nào khinh khỉnh đã gán cho là “trường học Mỹ” và thừa nhận một trong hai logic về sự chọn lựa mà ông đã phát triển. Ông đã bị thất vọng vì những gì diễn ra sau đấy không như dự tính của ông. Các nhà kinh tế học đã không mặn mà với lý thuyết quyết định và phần lớn đã lờ đi vấn đề của Allais. Như vẫn thường xảy ra khi một lý thuyết hữu ích được trình bày rộng rãi mà không được thừa nhận, họ xem vấn đề như một sự dị thường và tiếp tục vận dụng lý thuyết thỏa dụng dự tính như thể không có gì xảy ra. Ngược lại, các lý luận ra quyết định bao gồm một tập hợp pha trộn giữa các nhà thống kê học, kinh tế học, triết học và tâm lý học đã thực hiện thử thách của Allais rất nghiêm túc. Khi Amos và tôi bắt đầu công việc của mình, một trong những mục tiêu ban đầu của chúng tôi đó là phát triển một bản miêu tả tâm lý thỏa đáng về nghịch biện của Allais. Hầu hết các nhà lý luận ra quyết định bao gồm cả Allais, đã giữ vững niềm tin và đã cố gắng hướng các quy tắc về sự chọn lựa dựa trên lý trí khiến cho hình mẫu của Allais có thể sử dụng được. Trong nhiều năm qua đã có nhiều nỗ lực nhằm tìm kiếm một sự biện minh hợp lý cho hiệu ứng chắc chắn, tuy nhiên không có lý thuyết nào thuyết phục tuyệt đối. Amos chỉ có chút ít kiên nhẫn với những nỗ lực ấy; ông ấy đã gọi các nhà lý luận những người mà đã gắng công hợp lý hóa những vi phạm về lý thuyết thỏa dụng là “các vị trạng sư của sai lầm.” Chúng tôi đi theo một hướng khác. Chúng tôi đã duy trì lý thuyết thỏa dụng như một logic về sự chọn lựa dựa trên lý trí nhưng đã bỏ qua ý niệm cho rằng con người là những người chọn lựa lý tưởng. Chúng tôi đã thực thi nhiệm vụ phát triển một lý thuyết tâm lý mà sẽ mô tả các chọn lựa do con người đưa ra, bất chấp việc liệu rằng chúng có hợp lý hay không. Trong lý thuyết viễn cảnh, các trọng số quyết định sẽ không bị đồng nhất với các xác suất. CÁC TRỌNG SỐ QUYẾT ĐỊNH Rất nhiều năm sau khi công bố lý thuyết viễn cảnh, Amos và tôi đã tiến hành một nghiên cứu, trong đó chúng tôi đã đo lường các trọng số quyết định đã lý giải cho việc con người thường dành khoản tiền cược khiêm tốn cho các trò may rủi. Bạn có thể thấy rằng các trọng số quyết định đồng nhất với các xác suất tương ứng ở các mức độ: Cả hai đều bằng 0 khi kết quả là bất khả thi và cả hai đều bằng 100 khi kết quả nắm chắc trong tay. Tuy nhiên, các trọng số quyết định ở gần những điểm này đã đột ngột chệch khỏi xác suất. Ở mức thấp cuối, chúng tôi tìm ra hiệu ứng xác suất: Các biến cố không chắc xảy ra được đặt trọng số quá mức. Ví dụ, trọng số quyết định tương ứng với 2% cơ may là 8.1. Nếu người ta tuân theo các tiên đề về sự chọn lựa lý trí, trọng số quyết định sẽ là 2, do đó biến cố hiếm hoi này được đặt trọng số cao hơn với thừa số 4. Hiệu ứng chắc chắn ở điểm cuối khác của tỷ lệ xác suất thậm chí còn đáng chú ý hơn. Một nguy cơ 2% không giành được phần thưởng giảm lợi ích của trò may rủi tới 13%, từ 100 xuống 87.1. Để đánh giá đúng sự bất cân xứng giữa hiệu ứng xác suất và hiệu ứng chắc chắn, hãy hình dung trước hết bạn có 1% cơ hội chiến thắng 1 triệu đô-la. Bạn sẽ biết được kết quả vào ngày mai. Giờ hãy tưởng tượng rằng bạn gần như chắc chắn giành được 1 triệu đô-la nhưng có 1% nguy cơ bạn không giành được gì. Lại một lần nữa, bạn sẽ được biết kết quả vào ngày hôm sau. Nỗi băn khoăn về tình huống thứ hai tỏ ra nổi bật hơn niềm hy vọng trong tình huống đầu tiên. Hiệu ứng chắc chắn cũng gây chú ý nhiều hơn hiệu ứng xác suất nếu kết quả là một tai nạn phẫu thuật hơn là một lợi ích tài chính. So sánh cường độ này với điều mà bạn dồn cả vào hy vọng mong manh trong một ca phẫu thuật gần như chắc chắn làm nguy hiểm tới tính mạng, so với nỗi sợ về 1% rủi ro. Sự kết hợp giữa hiệu ứng chắc chắn và những hiệu ứng xác suất ở hai điểm cuối của tỷ lệ xác suất chắc chắn đi kèm với độ nhạy không tương xứng với những xác suất ở giữa. Bạn có thể thấy được rằng khoảng xác suất giữa 5% và 95% được liên ứng với một khoảng các trọng số quyết định nhỏ hơn nhiều (từ 13.2 đến 79.3), nhiều bằng khoảng 2/3 dự tính hợp lý. Các nhà thần kinh học đã xác nhận những lời nhận xét này, việc phát hiện ra các vùng thuộc não bộ phản ứng lại những thay đổi trong khả năng giành chiến thắng một phần thưởng. Sự phản ánh của não bộ đối với những biến đổi của các xác suất tương đồng một cách ấn tượng với các trọng số quyết định đã dự tính từ các sự chọn lựa. Các xác suất cực thấp hoặc cực cao (dưới 1% hoặc trên 99%) là một trường hợp đặc biệt. Rất khó để áp đặt một trọng số quyết định đơn nhất cho các biến cố vô cùng hiếm, bởi đôi lúc chúng hoàn toàn bị lờ đi, thực chất là bị áp đặt một trọng số quyết định bằng 0. Mặt khác, nếu bạn không lờ đi các biến cố vô cùng hiếm, chắc chắn bạn sẽ đặt trọng số cao vượt mức. Hầu hết chúng ta đã bỏ ra rất ít thời gian để lo lắng về các vụ rò rỉ hạt nhân hoặc mơ mộng viển vông về những khoản thừa kế khổng lồ từ các mối quan hệ họ hàng không xác định. Tuy nhiên, khi một biến cố không chắc xảy ra trở thành tiêu điểm của sự chú ý, chúng ta sẽ áp đặt lên nó trọng số lớn hơn rất nhiều so với xác suất xứng đáng của nó. Hơn thế nữa, người ta gần như hoàn toàn không cảm nhận được những mức độ biến đổi của rủi ro trong số các xác suất nhỏ. 0.001% nguy cơ mắc bệnh ung thư không dễ được phân biệt với 0.00001% nguy cơ mặc dù cái trước sẽ biến đổi thành 3.000 ca ung thư trong dân số Mỹ và cái sau là 30 ca. Khi bạn chú tâm tới một hiểm họa, bạn lo lắng và các trọng số quyết định phản ánh việc bạn lo lắng tới chúng như thế nào. Do hiệu ứng xác suất, sự lo lắng không cân xứng với xác suất về hiểm họa đó. Việc biến đổi hay làm giảm nhẹ rủi ro là không thỏa đáng; để loại trừ sự lo lắng xác suất cần phải được hạ xuống bằng 0. Câu hỏi dưới đây được thống nhất từ một nghiên cứu về tính hợp lý của các đánh giá khách hàng về những rủi ro sức khỏe, nó đã được công bố bởi một nhóm các nhà kinh tế học vào những năm 1980. Bảng câu hỏi đã được gửi đến cho các bậc cha mẹ có con nhỏ. Giả định rằng hiện tại bạn sử dụng một bình xịt côn trùng có giá 10 đô-la và cứ mỗi 10.000 bình xịt diệt côn trùng được sử dụng sẽ có 15 đứa trẻ nhiễm độc. Bạn được biết tới một loại thuốc diệt côn trùng đắt hơn nhưng làm giảm rủi ro xuống còn 5 ca cho mỗi 10.000 bình xịt được sử dụng. Bạn sẽ sẵn sàng chi trả bao nhiêu cho nó? Các bậc cha mẹ đã sẵn sàng chi trả một khoản bù thêm trung bình là 2.38 đô-la để giảm rủi ro xuống còn 2/3 từ 15 ca mỗi 10.000 bình xuống còn 5. Họ đã sẵn sàng chi trả 8.09 đô-la, nhiều hơn gấp ba lần, để loại trừ nó hoàn toàn. Các câu hỏi khác đã chỉ ra rằng các bậc cha mẹ đã xử lý hai rủi ro (hít phải khí và trẻ em nhiễm độc) như là những nỗi lo riêng biệt và đã sẵn lòng chi trả khoản tiền phụ trội chắc chắn cho sự loại trừ hoàn toàn một trong hai rủi ro. Khoản tiền trả thêm này tương hợp với tâm lý lo lắng nhưng không tương thích với hình mẫu lý trí. MÔ HÌNH BỐN PHẦN Amos và tôi tiến hành công việc của mình với lý thuyết viễn cảnh và nhanh chóng đạt được hai kết luận: Con người gắn liền các giá trị với những lợi ích và tổn thất hơn là danh lợi, các trọng số quyết định mà họ áp đặt cho các kết quả khác biệt với các xác suất. Ý niệm đó cũng chẳng mới mẻ gì nhưng trong sự kết hợp với nhau chúng đã lý giải một mẫu hình đặc biệt về những ưu ái mà chúng tôi đã gọi là mô hình bốn phần. Cái tên hẳn đã gây ra sự lúng túng. Các kịch bản được minh họa dưới đây: CÁC LỢI ÍCH CÁC TỔN THẤT XÁC SUẤT CAO Hiệu ứng chắc chắn 95% cơ may thắng 10.000 đô-la. Lo sợ sự thất vọng ÁC CẢM RỦI RO Chấp nhận sự dàn xếp không có lợi. 95% nguy cơ mất 10.000 đô-la. Hy vọng tránh tổn thất TÌM KIẾM RỦI RO Loại bỏ sự dàn xếp có lợi. XÁC SUẤT THẤP Hiệu ứng xác suất 5% cơ may thắng 10.000 đô-la. Hy vọng về lợi ích lớn TÌM KIẾM RỦI RO Loại bỏ sự dàn xếp có lợi. 5% nguy cơ mất 10.000 đô-la Lo sợ tổn thất lớn ÁC CẢM RỦI RO Chấp nhận sự dàn xếp không có lợi. Hình 13 Hàng trên cùng trong mỗi ô biểu diễn một triển vọng minh họa. Hàng thứ hai mô tả cảm xúc trọng tâm mà triển vọng gợi lên. Hàng thứ ba cho biết hầu hết mọi người hành xử như thế nào khi được đề nghị một chọn lựa giữa một trò may rủi với một lợi ích đảm bảo (hoặc tổn thất) tương ứng với giá trị dự tính của chúng (ví dụ, giữa “95% cơ may thắng 10.000 đô-la” và “chắc chắn có 9.500 đô-la”). Các chọn lựa bị gọi là ác cảm rủi ro nếu điều đảm bảo được ưu tiên, gọi là tìm kiếm rủi ro nếu trò may rủi được ưu tiên. Hàng thứ tư mô tả các thái độ dự tính về bên bị và bên nguyên khi họ tranh luận về sự dàn xếp một vụ kiện dân sự. Mô hình bốn phần về những ưu tiên được xem như là một trong những thành tựu cốt lõi của lý thuyết triển vọng. Ba trong số bốn ô là tương tự như nhau; ô thứ tư (góc trên bên phải) rất mới mẻ và không dự tính được. Góc trên bên trái là một trong những điều mà Bernoulli đã tranh luận: con người ác cảm với rủi ro khi họ nhìn nhận các viễn cảnh với một cơ may lớn đạt tới một lợi ích lớn. Họ sẵn lòng chấp nhận số ít hơn giá trị dự tính của một trò may rủi nhằm khóa chặt một lợi ích đảm bảo. Hiệu ứng xác suất trong ô dưới cùng bên trái giải thích tại sao trò xổ số phổ biến. Khi giải nhất cực lớn, những người mua vé số tỏ vẻ thờ ơ với sự thực rằng cơ may thắng giải của họ là rất nhỏ. Một tấm vé số là ví dụ sau cùng về hiệu ứng xác suất. Nếu không có một tấm vé số bạn không thể thắng giải, với một tấm vé số bạn có một cơ may và cho dù cơ may đó rất nhỏ hay đơn thuần là những cơ hội nhỏ không đáng kể. Dĩ nhiên, những gì người ta thu được từ một tấm vé có ý nghĩa nhiều hơn là một cơ may giành giải, đó là quyền được mơ ước giành chiến thắng một cách thú vị. Ô dưới cùng bên phải là nơi hợp đồng bảo hiểm được mua. Người ta sẵn lòng chi trả cho hợp đồng bảo hiểm nhiều hơn giá trị dự tính, nó giải thích cho việc các công ty bảo hiểm kiểm soát các chi phí và tạo lợi nhuận cho mình như thế nào. Ở đây một lần nữa, người ta mua sự phòng vệ trước một thảm họa không chắc xảy ra nhiều hơn, họ loại trừ một nỗi lo và mua về sự yên ổn trong tâm hồn. Các kết quả dành cho ô trên cùng bên phải ban đầu đã làm chúng tôi kinh ngạc. Chúng tôi đã được tập cho quen với lối tư duy theo lối ác cảm rủi ro không tính tới ô dưới cùng bên trái, nơi các tấm vé số được ưu ái. Khi chúng tôi nhìn vào các chọn lựa của mình trước các phương án xấu, chúng tôi đã nhanh chóng nhận ra rằng chúng tôi chỉ mới tìm kiếm rủi ro trong phạm vi những tổn thất giống như chúng tôi đã ác cảm với rủi ro trong phạm vi những lợi ích. Chúng tôi không phải là những người đầu tiên quan sát sự tìm kiếm rủi ro với những cái nhìn tiêu cực, ít nhất hai tác giả đã báo cáo sự thực đó nhưng họ đã không làm gì nhiều với nó. Tuy nhiên, chúng tôi đã may mắn có được một cái khung khiến cho việc khám phá ra sự tìm kiếm rủi ro được làm sáng tỏ một cách dễ dàng và đó là một mốc quan trọng trong tư duy của chúng tôi. Thực vậy, chúng tôi đã nhận biết hai lý do cho hiệu ứng này. Trước tiên, đó là độ nhạy giảm dần. Tổn thất chắc chắn rất bị ác cảm bởi phản ứng trước một tổn thất 900 đô-la sẽ mạnh mẽ hơn nhiều so với phản ứng trước một nguy cơ 90% tổn thất 1.000 đô-la. Yếu tố thứ hai thậm chí có thể còn mãnh liệt hơn: Trọng số quyết định tương ứng với một xác suất 90% chỉ ở khoảng 71, thấp hơn rất nhiều so với xác suất. Kết quả là khi bạn xem xét một lựa chọn giữa một tổn thất nắm chắc và một trò may rủi với một xác suất cao về một tổn thất lớn, độ nhạy giảm dần khiến cho tổn thất rõ ràng này bị ác cảm nhiều hơn, và hiệu ứng chắc chắn giảm bớt những ác cảm về trò may rủi. Hai yếu tố tương tự làm gia tăng sức lôi cuốn của điều chắc chắn và làm giảm bởi sức cuốn hút của trò may rủi khi các kết quả khả quan. Trạng thái của hàm giá trị và các trọng số quyết định đều góp phần vào mô hình nhìn thấy được ở dòng đầu tiên của biểu hình 13. Tuy nhiên, tại dòng cuối cùng, hai yếu tố có hiệu lực theo các hướng đối lập. Độ nhạy giảm dần tiếp tục thiên về sự ác cảm rủi ro dành cho những lợi ích. Và sự tìm kiếm rủi ro dành cho những tổn thất nhưng việc đặt trọng số quá cao vào các xác suất thấp đã loại bỏ hiệu ứng này. Nó đã sinh ra mô hình được quan sát về hành động liều lĩnh trước những lợi ích và cẩn trọng trước những tổn thất. Nhiều tình huống bất hạnh của con người đã nảy sinh trong ô trên cùng bên phải. Tại đây những người này phải đối mặt với những phương án vô cùng tệ khi chấp nhận những trò may rủi liều lĩnh, việc chấp thuận một xác suất cao về việc làm cho mọi thứ trở nên tồi tệ hơn trong sự hoán đổi lấy hy vọng nhỏ nhoi nhằm tránh một tổn thất lớn. Hành động chấp nhận rủi ro theo kiểu này thường biến những thất bại có thể kiểm soát thành các thảm họa. Ý nghĩ về việc chấp nhận tổn thất lớn chắc chắn là quá khó khăn và hy vọng về sự giảm nhẹ hoàn toàn lại quá lôi cuốn, để đưa ra quyết định hợp lý thì đã đến lúc để cắt giảm những tổn thất của ai đó. Đây chính là nơi các doanh nghiệp đang dần mất đi vị trí trong một lĩnh vực công nghệ cao, lãng phí số tài sản còn lại của họ trong những nỗ lực vô ích nhằm bắt kịp. Bởi rất khó để chấp nhận thất bại, bên thua trận trong các cuộc chiến thường sa đà vào cuộc chiến vượt qua ngưỡng mà tại đó, chiến thắng của bên còn lại đã nắm chắc và chỉ còn là vấn đề thời gian. ĐÁNH BẠC DƯỚI SỰ BẢO TRỢ CỦA LUẬT PHÁP Học giả Chris Guthrie đã đưa ra một ứng dụng thuyết phục về mô hình bốn phần trong hai trường hợp mà trong đó bên nguyên và bên bị ở một vụ kiện dân sự cân nhắc một sự dàn xếp khả thi. Những tình huống này khác nhau ở mặt mạnh của việc thưa kiện của bên nguyên. Như trong một kịch bản chúng ta đã thấy trước đó, bạn là người đứng kiện trọng một vụ án dân sự trong đó bạn đưa ra yêu cầu bồi thường một khoản tiền lớn cho những thiệt hại. Phiên tòa diễn ra rất tốt đẹp và luật sư của bạn viện dẫn quan điểm chuyên gia rằng bạn có 95% cơ may thắng kiện ngay lập tức nhưng thêm vào lời cảnh báo: “Bạn chẳng bao giờ thực sự biết được kết quả cho tới khi hội thẩm đoàn quay trở lại.” Luật sư của bạn cố thuyết phục bạn chấp nhận một sự dàn xếp mà trong đó bạn có thể chỉ nhận được 90% đòi hỏi của bạn. Bạn đang rơi vào ô trên cùng bên trái trong mô hình bốn phần, và câu hỏi trong đầu bạn là: “Tôi có sẵn lòng chấp nhận thậm chí một nguy cơ nhỏ nhoi trong việc chẳng nhận được gì cả? Thậm chí 90% đòi hỏi là một số tiền rất lớn và tôi có thể rời khỏi đây với nó ngay bây giờ.” Hai sắc thái đã được gợi lên, cả hai hướng về cùng một phía: Sức cuốn hút của một lợi ích đảm bảo (và có thật) và nỗi sợ thất vọng tột cùng và hối tiếc nếu bạn bỏ qua một sự dàn xếp rồi thua kiện. Bạn có thể cảm thấy áp lực mà điển hình là dẫn tới những cảnh báo về cách thức hành động trong trường hợp này. Bên nguyên ở vào thế mạnh có khả năng sẽ ác cảm với rủi ro. Giờ chuyển sang địa vị của bên bị trong trường hợp tương tự. Mặc dù bạn chưa hẳn đã từ bỏ hoàn toàn hy vọng về một quyết định có lợi cho bạn, bạn nhận ra rằng phiên tòa đang diễn ra một cách tồi tệ. Các luật sư của bên nguyên đã trình lên một sự dàn xếp mà trong đó bạn sẽ phải trả 90% yêu sách ban đầu của họ và rõ ràng là họ sẽ không chấp nhận ít hơn. Bạn sẽ hòa giải hay sẽ theo đuổi vụ kiện này? Do bạn đối mặt với một khả năng thua kiện cao, tình thế của bạn thuộc vào ô trên cùng bên phải. Thôi thúc lao vào vụ kiện trở nên mạnh mẽ: Sự dàn xếp mà bên nguyên đã đưa ra gần như khó chấp nhận như kết quả tệ hại mà bạn đối mặt và vẫn còn đó hy vọng thắng thế trên tòa. Ở đây một lần nữa, hai sắc thái trở nên phức tạp: Tổn thất cầm chắc thật ghê gớm và xác suất thắng kiện lại hết sức mê hoặc. Bên bị với một sự yếu thế gần như sẽ tìm kiếm rủi ro, sẵn sàng chơi một canh bạc hơn là chấp nhận một sự dàn xếp không thiện chí. Trong cuộc đối mặt giữa bên nguyên ác cảm rủi ro và bên bị tìm kiếm rủi ro, bên bị nắm đằng chuôi. Vị thế thuận lợi lớn hơn của bên bị nên được phản ánh trong các sự dàn xếp đã được đàm phán, với sự dàn xếp của bên nguyên kết quả phiên tòa dự tính ít thỏa đáng hơn. Sự dự đoán từ mô hình bốn phần này đã được xác định bởi các thí nghiệm đã diễn ra với các sinh viên luật và thẩm phán tập sự, và cũng thông qua các phân tích thống kê của các đàm phán có thực dưới sự che chở của các phiên tòa dân sự. Giờ hãy xem xét “vụ kiện tụng nhẹ dạ”, khi một nguyên đơn với một tình thế mong manh đệ trình một yêu sách huênh hoang mà phần lớn có khả năng sẽ thua kiện. Cả hai bên đều nhận thức được về các khả năng xảy ra và cả hai biết trong một cuộc dàn xếp đàm phán, bên nguyên sẽ chỉ nhận được một phần rất nhỏ của con số yêu sách ban đầu. Cuộc đàm phán được tiến hành trong hàng cuối cùng của mô hình bốn phần. Bên nguyên ở trong ô bên trái, với một cơ may rất nhỏ thắng kiện một số tiền rất lớn; yêu sách “nhẹ da” này là một tấm vé xổ số hướng đến một giải thưởng lớn. Việc đặt trọng số quá mức lên cơ may thành công nhỏ hoàn toàn tự nhiên trong tình huống này, thúc đẩy bên nguyên trở nên liều lĩnh và hiếu chiến trong đàm phán. Đối với bên bị, kiện tụng là một mối họa với một rủi ro nhỏ về một kết quả vô cùng tồi tệ. Việc đặt trọng số quá mức lên nguy cơ nhỏ của một vụ thua kiện lớn thiên về sự ác cảm rủi ro và sự dàn xếp một khoản tiền vừa phải tương đương với việc mua bảo hiểm nhằm đối phó với biến cố không chắc xảy ra là một phán quyết bất lợi. Quả bóng giờ đây được chuyển sang chân người khác: Bên nguyên đang sẵn sàng cho canh bạc và bên bị muốn được an toàn. Nguyên đơn với những yêu sách viển vông có khả năng đạt được một sự dàn xếp rộng rãi hơn so với những số liệu thống kê về tình thế biện hộ. Các quyết định được mô tả bởi mô hình bốn phần rõ ràng là không hợp lý. Bạn có thể thấu cảm trong từng vụ kiện với những cảm nhận của bên nguyên đơn và bên bị đơn, khiến họ chấp thuận một thái độ hiếu chiến hoặc hợp tác. Tuy nhiên, trong thời gian dài những sự chệch hướng khỏi giá trị dự tính có khả năng sẽ hao tiền tốn của. Xem xét một tổ chức lớn như: Thành phố New York và giả định rằng nó đối mặt với 200 vụ kiện tụng “nhẹ dạ” mỗi năm, mỗi vụ có 5% nguy cơ tiêu tốn của thành phố 1 triệu đô-la. Giả định xa hơn rằng trong từng phiên tòa thành phố có thể dàn xếp vụ kiện với một mức chi trả là 100.000 đô-la. Thành phố cân nhắc tới một trong hai chính sách mà nó sẽ ứng dụng được cho tất cả các tình huống như vậy: Hòa giải hay đưa nhau ra tòa. (Tính một cách đơn giản, tôi bỏ qua án phí.) Nếu thành phố tranh tụng tất cả 200 vụ kiện, thành phố sẽ tổn thất 10, gộp lại là một tổn thất 10 triệu đô-la. Nếu thành phố hòa giải mọi vụ kiện với 100,000 đô-la, tổng số tổn thất của thành phố sẽ là 20 triệu đô-la. Khi bạn có cái nhìn xa về nhiều quyết định tương tự, bạn có thể thấy rằng việc chi trả một khoản tiền cao hơn mức thường nhằm tránh một rủi ro nhỏ của một tổn thất lớn thật tốn kém. Phép phân tích tương tự được ứng dụng vào từng ô trong mô hình bốn phần: Những sai lệch có hệ thống với giá trị dự tính thật tốn kém trong thời gian dài và quy tắc này ứng dụng cho cả sự ác cảm rủi ro lẫn tìm kiếm rủi ro. Việc đặt trọng số quá mức một cách kiên định vào những kết quả không chắc, một đặc thù của hoạt động ra quyết định theo trực giác kết cục là dẫn tới những kết quả bi đát. NHỮNG PHÁT NGÔN VỀ MÔ HÌNH BỐN PHẦN “Ông ấy bị thúc giục dàn xếp đòi hỏi nhỏ nhặt đó nhằm né tránh một tổn thất, tuy nhiên điều đó không có khả năng xảy ra. Đó là việc đặt trọng số quá mức lên những xác suất nhỏ. Kể từ khi ông ta có thể phải đối diện với nhiều vấn đề tương tự, ông ta sẽ trở nên khá giả vì việc không nhượng bộ đó.” “Chúng tôi chưa từng để cho các kỳ nghỉ của mình bị đình lại vào phút cuối cùng. Chúng tôi luôn sẵn lòng trả thật nhiều cho điều chắc chắn.” “Họ sẽ không cắt bỏ những tổn thất của mình chừng nào có một khả năng sụt giá xảy ra. Đây là sự tìm kiếm rủi ro trong những tổn thất.” “Họ biết được hiểm họa của một vụ nổ khí ga là rất nhỏ, nhưng họ muốn nó được giảm nhẹ đi. Đó là hiệu ứng xác suất và họ muốn sự yên ổn trong đầu óc.” Còn nữa
Phần 4 - Chương 30: Các biến cố hiếm Bấm để xem Tôi đã thăm lại Israel một vài lần trong suốt quãng thời gian các vụ đánh bom liều chết trên xe bus xảy ra khá phổ biến, dù trong các điều kiện thông thường rất ít có khả năng xảy ra. Có tổng cộng 23 vụ đánh bom trong khoảng giữa tháng 12 năm 2001 và tháng 9 năm 2004, đã gây ra tổng cộng 236 cái chết thảm khốc. Số lượng người đi xe bus hàng ngày tại Israel xấp xỉ 1.3 triệu người (tại thời điểm đó). Rất ít hành khách rơi vào tình huống rủi ro trên nhưng công chúng vẫn cảm thấy rất sợ hãi khi đi xe bus. Người dân đã tránh đi xe bus hết sức có thể, nhiều hành khách trên xe bus lo lắng nhìn lướt qua những người bên cạnh có những túi xách hoặc bọc quần áo mà sợ rằng có thể có bom trong các túi đó. Tôi hiếm khi đi xe bus, vì tôi di chuyển bằng xe thuê riêng, nhưng tôi cảm thấy thất vọng khi phát hiện ra rằng cách hành xử của mình cũng bị ảnh hưởng bởi tâm lý lo sợ chung đó. Tôi phát hiện ra rằng mình không thích đậu xe cạnh xe bus khi đang chờ đèn đỏ và mỗi khi đèn chuyển màu xanh tôi đã lái xe đi nhanh nhất có thể. Tôi đã tự cảm thấy xấu hổ, bởi dĩ nhiên tôi là người hiểu biết hơn, tôi biết rằng rủi ro thực sự xảy ra không đáng kể và rằng bất kỳ hành động nào của tôi sẽ áp đặt một “trọng số quyết định” cao quá mức lên một xác suất rất nhỏ. Thực tế, tôi đã suýt bị thương trong một vụ tai nạn xe hơi hơn là vì bị tai nạn khi đỗ cạnh một chiếc xe bus. Nhưng tôi đã không né tránh xe bus lâu vì thực sự không có lý do hợp lý để tôi phải làm điều đó. Thứ đã đưa đẩy tôi đến hành động tránh xa xe bus là trải nghiệm thời điểm khi tôi ở cạnh một chiếc xe bus, tôi thường nghĩ tới những quả bom và cảm thấy lo lắng. Tôi tránh xe bus bởi tôi muốn nghĩ về những điều khác hơn là nghĩ đến những quả bom. Trải nghiệm của tôi giải thích cho việc khủng bố diễn ra như thế nào và tại sao nó lại gây ảnh hưởng lo sợ đến mọi người đến vậy, vì nó đã khơi ra một nỗi lo sợ đã thường trực sẵn trong tâm lý của chúng ta. Hình ảnh về cái chết và tổn hại được giới truyền thông đặc biệt chú ý đưa tin và nếu nó được gắn liền với một tình huống cụ thể giống như cảnh tượng đánh bom trên một chiếc xe bus thì càng nhận được sự chú ý quan tâm và tranh cãi của dư luận. Cảm xúc bị khuấy động, chúng có tính liên kết, tự động và không kiểm soát được và nó sinh ra hành động tự bảo vệ trong mỗi chúng ta. Hệ thống 2 có thể “biết được” rằng xác suất những rủi ro trên là thấp nhưng sự am hiểu này của Hệ thống 2 không loại trừ nỗi lo lắng tự nó tạo ra và mong muốn tránh xa các mối lo này. Hệ thống 1 không thể rẽ sang hướng khác. Nó cũng không cảm nhận được mức độ chính xác của xác suất có thể xảy ra. Giả định rằng hai thành phố đã được cảnh báo về những kẻ đánh bom liều chết. Các cư dân của một thành phố được thông báo rằng hai kẻ đánh bom đã sẵn sàng tấn công. Các cư dân của một thành phố khác được cảnh báo về việc một kẻ đánh bom. Rủi ro của họ đã thấp hơn một nửa nhưng họ có cảm thấy an toàn hơn. Nhiều cửa hàng kinh doanh vé số rất phát đạt ở thành phố New York. Tâm lý của chúng ta khi nghĩ về những tờ vé số trúng giải cao tương tự với tâm lý khi chúng ta nghĩ về hoạt động khủng bố. Việc trúng giải thưởng lớn được diễn ra tại cộng đồng và được củng cố thêm bởi các cuộc buôn chuyện tại công sở và ở nhà. Vì thế việc mua vé số ngay lập tức khiến chúng ta liên tưởng ngay đến những cảm xúc dễ chịu, giống như việc tránh một chiếc xe bus đã ngay lập tức giúp chúng ta tưởng tưởng đến sự giảm nhẹ nỗi sợ về đánh bom. Trong cả hai trường hợp, xác suất thực tế xảy ra ít. Công thức ban đầu của lý thuyết viễn cảnh đã bao gồm đối số “các biến cố không chắc xảy ra cao hoặc thấp hoặc được đặt trọng số quá mức”, nhưng nó đã không chỉ rõ các điều kiện theo đó cái này hay cái khác sẽ xảy ra, cũng không đặt ra một sự diễn giải tâm lý cho nó. Quan điểm hiện tại của tôi về các trọng số quyết định đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi nghiên cứu gần đây về vai trò của các cảm xúc và sự sống động của hoạt động ra quyết định. Việc đặt trọng số quá mức cho các kết quả không chắc chắn xảy ra được bắt rễ từ các đặc tính của Hệ thống 1 mà giờ đây chúng tương tự như nhau. Cảm xúc và tính sống động của hoạt động chi phối sự liên tưởng trôi chảy và những đánh giá về khả năng có thể xảy ra, do vậy chúng tôi đã không bỏ qua trong báo cáo những phản ứng quá mức của chúng tôi đối với một vài biến cố hiếm. SỰ ĐÁNH GIÁ QUÁ CAO VÀ TRỌNG SỐ VƯỢT MỨC Đánh giá của bạn về khả năng vị Tổng thống kế nhiệm của nước Mỹ sẽ là một ứng viên của Đảng thứ ba là gì? Bạn sẽ trả bao nhiêu cho một vụ cá cược mà trong đó bạn nhận về 1.000 đô-la nếu vị Tổng thống kế nhiệm của nước Mỹ là một ứng viên Đảng thứ ba và không nhận được đồng nào cho những phương án khác? Hai câu hỏi trên khác nhau nhưng rõ ràng có liên quan. Câu thứ nhất yêu cầu bạn ước định xác suất của một biến cố không chắc xảy ra. Câu thứ hai mời chào bạn đưa ra một trọng số quyết định lên cùng một biến cố, bằng cách đặt ra một trò cá cược dựa trên đó. Người ta đưa ra các đánh giá như thế nào và người ta áp đặt các trọng số như thế nào? Chúng tôi bắt đầu từ hai câu trả lời đơn giản, sau đó sửa đổi chúng. Đây là những câu trả lời đơn giản hóa quá mức: Người ta đánh giá quá mức các xác suất của các biến cố không chắc xảy ra. Người ta đặt trọng số quá mức các biến cố không chắc xảy ra trong các quyết định của mình. Mặc dù sự đánh giá quá cao và việc đặt trọng số quá mức là các tình huống riêng biệt thì các cơ chế tâm lý cùng loại cũng tham gia vào cả quá trình này và dễ dàng để nhận thức. Những mô tả cụ thể kích hoạt cơ chế liên kết của Hệ thống 1. Khi bạn nghĩ về chiến thắng không chắc chắn xảy ra của một ứng viên Đảng thứ ba, hệ thống liên kết của bạn vận hành trong chế độ xác nhận mặc định của nó, khôi phục lại một cách có chọn lọc những dấu hiệu, các ví dụ và những hình ảnh sẽ khiến cho lời tuyên bố của nó là đúng. Quá trình này được thiên vị nhưng nó không phải là một sự vận dụng vào trong tưởng tượng của chúng ta. Bạn tìm kiếm một kịch bản phù hợp với những khuôn khổ của thực tế, bạn đã không dễ dàng để hình dung ra bà tiên phương Tây làm lễ nhậm chức cho một vị Tổng thống Đảng thứ ba như thế nào. Đánh giá của bạn về xác suất cuối cùng được xác nhận bởi sự thoải mái về nhận thức hoặc sự trôi chảy, cùng với nó là một kịch bản hợp lý sẽ xuất hiện trong đầu. Bạn luôn không tập trung vào biến cố mà bạn được yêu cầu đánh giá. Nếu biến cố mục tiêu rất có thể xảy ra, bạn sẽ tập trung vào một trong hai chọn lựa của nó. Xem xét ví dụ sau: Xác suất để một đứa trẻ được sinh ra trong vòng 3 ngày tại bệnh viện địa phương ở nơi bạn sống sẽ được ra viện là bao nhiêu? Bạn đã được yêu cầu ước tính xác suất của đứa trẻ được trở về nhà, nhưng bạn gần như chắc chắn đã tập trung vào những biến cố mà có thể dẫn tới việc đứa bé không được xuất viện trong khoảng thời gian thông thường. Trí não của chúng ta có khả năng tập trung một cách tự nhiên vào những gì dị thường, khác biệt hoặc khác thường. Bạn đã nhận ra ngay rằng những đứa bé ở Mỹ (không phải ở tất cả các nước có ngưỡng giống nhau) được ra viện trong vòng hai hoặc ba ngày là chuyện thông thường, do vậy sự chú ý của bạn đã chuyển sang lựa chọn khác thường. Biến cố không chắc chắn xảy ra trở thành tiêu điểm. Phỏng đoán sẵn có rất có khả năng được khơi dậy: Sự đánh giá của bạn hầu như chắc chắn đã có dựa trên kịch bản về những vấn đề y tế mà bạn đã đưa ra và chúng đã hiện lên trong đầu bạn một cách tự nhiên. Bởi bạn đã ở trong trạng thái xác nhận, đây là một cơ hội tốt mà sự đánh giá của bạn về tính thường xuyên của các vấn đề là quá cao. Xác suất của một biến cố hiếm hầu như có khả năng bị đánh giá quá cao khi sự chọn lựa không được định rõ một cách đầy đủ. Ví dụ ưa thích của tôi xuất phát từ một nghiên cứu mà nhà tâm lý học Craig Fox đã tiến hành khi còn là sinh viên của Amos. Fox đã tập hợp các cổ động viên của môn bóng rổ chuyên nghiệp, suy ra một vài sự đánh giá và quyết định liên quan đến đội giành chiến thắng ở các trận đấu tại giải NBA. Nhìn chung, ông đã đề nghị họ đánh giá xác suất giành phần thắng vòng đấu loại của từng đội trong số tám đội tham gia; chiến thắng của từng đội đã trở thành biến cố trọng tâm. Bạn có thể đoán chắc được điều gì đã xảy ra nhưng tầm quan trọng của hiệu ứng mà Fox đã quan sát được có thể khiến bạn ngạc nhiên. Hãy hình dung một người hâm mộ được đề nghị đánh giá các khả năng mà đội Chicago Bulls sẽ chiến thắng giải đấu. Các biến cố trọng tâm được xác định rõ ràng nhưng sự thay thế của nó – một trong bảy đội khác chiến thắng – khuếch tán và ít gợi lên. Trí nhớ của người hâm mộ và sự tưởng tượng, vận hành trong chế độ xác nhận, đang cố gắng để tạo lập một chiến thắng cho Bulls. Khi vẫn người đó được đề nghị ước lượng các cơ hội của đội Lakers, sự kích hoạt có chọn lựa sẽ vận hành theo hướng có lợi cho đội đó. Tám đội bóng rổ chuyên nghiệp hàng đầu ở Mỹ đều rất cừ và có thể hình dung ngay cả một đội tương đối yếu trong số đó cũng có thể nổi lên như một nhà vô địch. Kết quả là: Những đánh giá xác suất đã lần lượt tạo ra đối với tám đội có tổng là 240%! Dĩ nhiên, mô hình này thật hết sức vô lý bởi tổng cơ hội của cả tám biến cố bắt buộc phải là 100%. Sự vô lý đã biến mất khi vẫn những người thẩm định này được hỏi liệu rằng đội chiến thắng có thể đến từ miền Đông hay miền Tây. Biến cố tập trung và những chọn lựa của nó đã cân bằng rõ ràng với câu hỏi đó và những đánh giá về xác suất của chúng đã có tổng là 100%. Để ước định các trọng số quyết định, Fox cũng đã đề nghị những người hâm mộ bóng rổ tham gia cá cược kết quả giải đấu. Họ đã quy định một khoản tương đương tiền cho mỗi lần đặt cược (một lượng tiền mặt vừa đủ hấp dẫn giống như việc chơi cá độ). Người thắng cược sẽ nhận được phần thưởng 160 đô-la. Tổng của các khoản tiền tương đương tiền cho tám đội riêng lẻ là 287 đô-la. Một người chơi trung bình đặt cả tám cửa sẽ được bảo đảm một mức thua là 127 đô-la! Những người chơi biết chắc rằng có cả thảy tám đội trong giải đấu và khoản tiền thưởng trung bình cho việc đặt cược vào tất cả các đội không thể vượt quá 160 đô-la, tuy nhiên họ đã đặt vào việc cá cược trọng số quá mức. Những người hâm mộ không chỉ tập trung vào đánh giá quá cao xác suất của các biến cố, mà họ còn quá trông đợi để đặt cược vào chúng. Những phát hiện này đã “tỏa ra ánh hào quang” mới lên sự ảo tưởng dự kiến và những biểu hiện khác về sự lạc quan. Thường dễ dàng để mường tượng một kế hoạch thành công khi một ai đó cố gắng dự đoán kết quả của một dự án. Ngược lại, thất bại lại phổ biến hơn, bởi có vô số cách khiến cho mọi thứ dễ rơi vào sai lầm. Các doanh nhân và nhà đầu tư đánh giá các triển vọng của họ thiên hơn về những cơ may của họ lẫn đặt trọng số quá cao vào các đánh giá của họ. CÁC KẾT QUẢ SINH ĐỘNG Như chúng ta đã thấy, lý thuyết viễn cảnh khác với lý thuyết thỏa dụng trong mối quan hệ giữa xác suất và trọng số quyết định. Trong lý thuyết thỏa dụng, các trọng số quyết định và xác suất là như nhau. Trọng số quyết định của một điều chắc chắn là 100. Và trọng số tương ứng với 90% cơ may chính xác là 90, nhiều hơn 9 lần so với trọng số quyết định của 10% cơ may. Trong lý thuyết viễn cảnh, những dao động về xác suất có ít hiệu ứng lên các trọng số quyết định. Một thí nghiệm mà tôi đã từng đề cập trước đây đã phát hiện ra rằng trọng số quyết định đối với 90% cơ may là 71.2 và trọng số quyết định đối với 10% cơ may là 18.6. Tỷ lệ xác suất là 9.0 nhưng tỷ lệ trọng số quyết định chỉ là 1.83, biểu thị độ nhạy không đầy đủ đối với xác suất trong giới hạn đó. Trong cả hai lý thuyết, các trọng số quyết định phụ thuộc duy nhất vào xác suất, chứ không vào kết quả. Cả hai lý thuyết dự đoán rằng trọng số quyết định của 90% cơ hội là giống nhau cho việc chiến thắng 100 đô-la, nhận một bó hồng, hay bị điện giật. Sự dự đoán mang tính lý thuyết này biến thành sai lầm. Các nhà tâm lý học ở trường Đại học Chicago đã công bố bản báo cáo với tựa đề hấp dẫn “Tiền tài, những nụ hôn và những vụ điện giật: Dựa trên tâm lý dễ xúc động trước rủi ro.” Phát hiện của họ là sự đánh giá về các trò may rủi ít nhạy bén với xác suất khi các kết quả (giả tưởng) dễ gây xúc động (“gặp gỡ và hôn ngôi sao truyền hình ưa thích của họ” hoặc “hứng chịu một cú sốc đau đớn, nhưng không gây hại, giật điện”) so với khi các kết quả là những lợi ích hoặc tổn thất về tiền. Đây không phải là một phát hiện duy nhất. Những nhà nghiên cứu khác đã phát hiện ra, sử dụng các thước đo sinh lý như là nhịp tim, rằng nỗi sợ về một vụ giật điện sắp xảy ra về cơ bản là không tương quan với xác suất của việc nhận cú điện giật đó. Xác suất nhỏ nhất của một cú điện giật đã gây ra sự bùng phát phản ứng sợ hãi. Nhóm Chicago đã dự tính rằng “hình ảnh có tác động nặng nề” đã lấn át sự phản ứng với xác suất. 10 năm sau, một nhóm các nhà tâm lý học tại Princeton đã không thừa nhận kết luận đó. Nhóm Princeton đã lập luận rằng độ nhạy thấp trước xác suất đã từng quan sát được đối với những kết quả mang tính cảm xúc là bình thường. Các trò may rủi về tiền bạc là biệt lệ. Độ nhạy trước xác suất là tương đối cao đối với những trò may rủi, bởi chúng có một giá trị dự tính rõ ràng. Số lượng tiền mặt nào hấp dẫn ngang với những trò may rủi sau? A. 84% cơ may thắng 59 đô-la. B. 84% cơ may nhận được 12 bông hồng đỏ trong một chiếc lọ thủy tinh. Bạn chú ý vào điều gì? Khác biệt nổi bật đó chính là câu hỏi A dễ hơn câu hỏi B rất nhiều. Bạn đã không ngừng tính toán giá trị dự tính của trò cá cược, nhưng bạn hầu như chắc chắn bạn đã biết ngay rằng cơ may của bạn không vượt quá 50 đô-la (trong thực tế thì là 49.56 đô-la), và sự áng chừng không chính xác đủ để cung cấp một nguồn đáng tin cậy hữu ích khi bạn tìm kiếm một món quà bằng tiền mặt hấp dẫn không kém. Không hề có một nguồn đáng tin cậy nào như vậy hiện diện trong câu hỏi B, cũng bởi vậy mà khó trả lời hơn rất nhiều. Những người tham gia trả lời cũng đã ước định các trò may rủi tương đương tiền với 21% cơ may thu được hai kết quả. Như đã dự tính, sự khác biệt giữa xác suất cao với xác suất thấp ở những trò may rủi vì tiền là rõ rệt hơn rất nhiều so với những bông hồng. Để củng cố lập luận vốn trên, nhóm nghiên cứu Princeton đã so sánh thiện ý chi trả để tránh những mạo hiểm: 21% khả năng (hoặc 84% khả năng) bỏ ra một kỳ nghỉ cuối tuần để sơn căn hộ ba phòng ngủ của một ai đó. 21% khả năng (hoặc 84% khả năng) dọn dẹp ba gian phòng trong một nhà tắm tập thể sau khi sử dụng trong suốt một kỳ nghỉ cuối tuần. Kết quả thứ hai chắc chắn cảm tính hơn nhiều so với kết quả đầu tiên nhưng các trọng số quyết định đối với cả hai kết quả không hề khác. Hiển nhiên, cảm xúc nhạy bén không phải là câu trả lời. Một thí nghiệm khác đã mang lại một kết quả đáng ngạc nhiên. Những người tham gia đã nhận được thông tin giá cả rõ ràng cùng với sự mô tả bằng lời về giá cả. Một ví dụ có thể là: 84% cơ may giành được: 12 bông hồng đỏ trong một bình thủy tinh. Trị giá 59 đô-la. 21% cơ may giành được: 12 bông hồng đỏ trong một bình thủy tinh. Trị giá 59 đô-la. Thật dễ để ước định giá trị về tiền bạc dự tính của những trò may rủi này, nhưng việc thêm vào một giá trị tiền bạc cụ thể không làm thay đổi các kết quả: các đánh giá vẫn không nhạy với xác suất, ngay cả trong điều kiện đó. Những người nghĩ về món quà như là một cơ may để nhận được những bông hồng đã không sử dụng thông tin về giá như là một nguồn tin cậy trong việc đánh giá trò may rủi. Như các nhà khoa học đôi lúc vẫn nói, đó là một phát hiện gây ngạc nhiên đang cố gắng tiết lộ cho chúng ta biết đôi điều gì đó. Câu chuyện đang cố gắng tiết lộ cho chúng ta biết điều gì? Tôi tin rằng, câu chuyện là một sự hình dung rất hay và sinh động về kết quả, dù cho nó có cảm xúc hay không, làm giảm vai trò của xác suất trong sự đánh giá một viễn cảnh không chắc chắn xảy ra. Giả thuyết này gợi ra một sự dự đoán, trong đó tôi có được sự tự tin kha khá: Việc thêm những chi tiết không liên quan nhưng sinh động vào kết quả về tiền bạc cũng phá vỡ sự tính toán. So sánh những vật tương đương tiền của bạn với những kết quả sau đây: 21% (hoặc 84%) khả năng nhận được 59 đô-la vào thứ Hai tới. 21% (hoặc 84%) khả năng nhận được một phong bì bìa cứng màu xanh lớn có 59 đô-la bên trong vào sáng thứ Hai tới. Giả thuyết mới này sẽ ít nhạy cảm với xác suất hơn so với trường hợp thứ hai, do chiếc phong bì màu xanh gợi ra một sự hình dung phong phú và chính xác hơn so với khái niệm trừu tượng về một khoản tiền. Bạn đã lập ra biến cố trong đầu mình và hình ảnh sinh động về kết quả đó tồn tại ngay cả khi bạn biết rằng xác suất của nó là thấp. Sự nhận thức một cách dễ dàng góp phần vào hiệu ứng chắc chắn như là: Khi bạn kìm nén một hình ảnh sinh động về một biến cố, xác suất nó không xảy ra cũng được gợi lại một cách sống động và cũng được đặt trọng số quá mức. Sự kết hợp của một hiệu ứng xác suất nâng cao với một hiệu ứng chắc chắn nâng cao nhường chỗ cho các trọng số quyết định với sự thay đổi giữa các khả năng 21% với 84%. CÁC XÁC SUẤT MẠNH MẼ Ý nghĩ rằng sự phong phú, sống động và sự thoải mái trong việc liên tưởng góp phần để các trọng số quyết định đạt được sự ủng hộ từ nhiều người quan sát khác. Những người tham gia vào một thí nghiêm nổi tiếng đã được trao cho một lựa chọn về việc lấy một hòn bi từ một trong hai chiếc lọ, trong đó những viên bi đỏ thắng một phần thưởng: Lọ A chứa 10 viên bi, trong đó có 1 viên màu đỏ. Lọ B chứa 100 viên bi, trong đó có 8 viên đỏ. Bạn sẽ chọn lọ nào? Cơ may chiến thắng là 10% ở lọ A và 8% ở lọ B, do vậy đưa ra lựa chọn đúng hẳn sẽ thật dễ dàng nhưng thực tế không phải vậy: Khoảng 30% - 40% nhà nghiên cứu đã chọn chiếc lọ có chứa số những viên bi chiến thắng lớn hơn, thay vì chiếc lọ đưa ra một cơ hội chiến thắng khả quan hơn. Seymour Epstein đã lập luận rằng các kết quả này minh họa cho đặc trưng xử lý bên ngoài của Hệ thống 1 (thứ mà ông gọi là phương thức dựa trên kinh nghiệm). Như bạn có thể dự tính, những lựa chọn dại dột khác thường mà người ta đã đưa ra trong trường hợp này đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Khuynh hướng này đã được đặt cho một vài cái tên, theo như Paul Slovic tôi sẽ gọi nó là Mẫu thức bỏ quên. Nếu sự chú ý của bạn bị hút về những viên bi chiến thắng, bạn không ước định số lượng những viên bi không chiến thắng cùng với sự cẩn trọng tương tự. Hình ảnh sống động góp phần vào mẫu thức bỏ quên, chí ít thì như tôi đã trải nghiệm điều này. Khi tôi nghĩ tới chiếc lọ nhỏ, tôi thấy được một viên bi đỏ duy nhất trên một nền tảng được xác định một cách áng chừng của những viên bi trắng. Khi tôi nghĩ về chiếc lọ lớn hơn, tôi thấy được 8 viên bi đỏ chiến thắng trên một nền tảng không rõ ràng của những viên bi trắng, nó tạo ra một cảm giác hy vọng nhiều hơn. Tính sinh động đặc biệt của những viên bi chiến thắng gia tăng trọng số quyết định của biến cố đó, làm tăng hiệu ứng xác suất. Dĩ nhiên, điều tương tự cũng sẽ xảy ra chính xác với hiệu ứng chắc chắn. Nếu tôi có 90% cơ may thắng một phần thưởng, biến cố của việc không chiến thắng sẽ trở nên nổi bật nếu 10 trong số 100 viên bi là “những kẻ thua cuộc” hơn là nếu 1 trong số 10 viên bi đem lại kết quả tương tự. Ý niệm về mẫu thức bỏ quên giúp lý giải tại sao các cách thức khác nhau của việc truyền đạt những rủi ro biến đổi rất nhiều trong các tác động của chúng. Bạn đã đọc được rằng “một liều vắc-xin có thể bảo vệ trẻ em khỏi một dịch bệnh chết người có 0.001% nguy cơ bị bại liệt mãi mãi.” Nguy cơ có vẻ như rất nhỏ. Giờ hãy cân nhắc một sự mô tả khác về cùng một nguy cơ: “Một trong số 100.000 trẻ em được tiêm vắc-xin sẽ bị bại liệt vĩnh viễn.” Cách diễn đạt thứ hai đề cập tới một vài điều trong đầu bạn mà cách thứ nhất không nói đến: Nó gợi ra hình ảnh của một đứa trẻ riêng lẻ nào đó bị bại liệt vĩnh viễn bởi một liều vắc-xin; 999.999 đứa trẻ được tiêm vắc-xin an toàn đã chìm dần vào hậu cảnh. Như đã dự đoán bởi mẫu thức bỏ quên, các biến cố có xác suất thấp thường được đặt trọng số cao khi được mô tả trong mối tương quan với các tần suất (bao nhiêu lần) hơn rất nhiều so với khi được phát biểu một cách trừu tượng trong mối quan hệ với “các cơ hội”, “rủi ro”, hoặc “xác suất” (có thể xảy ra như thế nào). Như chúng ta đã thấy, Hệ thống 1 có hiệu lực với việc áp dụng với các cá nhân hơn rất nhiều so với các nhóm. Tác động của dạng thức tần suất là rất lớn. Trong một nghiên cứu, những người đã thấy được thông tin về “một dịch bệnh đã làm chết 1.286 người trong mỗi 10.000 người nhiễm bệnh” đã được đánh giá là nguy hiểm hơn nhiều so với những người được thông báo rằng “một dịch bệnh đã làm chết 24.14% dân số”. Điều đầu tiên tỏ vẻ có sức đe dọa nhiều hơn điều thứ hai, mặc dù rủi ro của điều đầu tiên chỉ lớn bằng một nửa điều sau đó! Trong biểu hiện thậm chí còn trực tiếp hơn của mẫu thức bỏ quên“, một dịch bệnh đã làm chết 1.286 người trong mỗi 10.000 người nhiễm bệnh” được đánh giá là nguy hiểm hơn một dịch bệnh đã “làm chết 24.14 người trong số 100 người nhiễm bệnh.” Hiệu ứng này chắc chắn sẽ được làm giảm hoặc triệt tiêu nếu những người tham gia được đề nghị làm một phép so sánh trực tiếp hai phép tính theo công thức, một nhiệm vụ rõ ràng cần phải dùng tới Hệ thống 2. Tuy nhiên, cuộc sống thường là một sự trải nghiệm giữa các chủ thể, trong đó bạn chỉ thấy được một sự trình bày có hệ thống tại một thời điểm. Nó sẽ điều khiển Hệ thống 2 hoạt động một cách đặc biệt nhằm tạo ra các phép tính theo công thức khác về điều mà bạn thấy được và để khám phá ra rằng chúng gọi ra một câu trả lời khác. Các nhà Tâm lý học và chuyên gia Tâm thần pháp y có kinh nghiệm không được miễn dịch với những tác động của dạng thức này trong đó các rủi ro được nói rõ ràng. Trong một thí nghiệm, các chuyên gia đã đánh giá xem liệu có an toàn không khi cho một bệnh nhân tâm thần, ông Jones, xuất viện với một tiền sử bạo lực. Thông tin mà họ nhận được là những đánh giá của chuyên gia về nguy cơ hàng động. Những số liệu thống kê giống nhau được miêu tả theo hai cách: Các bệnh nhân tương tự như ông Jones được đánh giá là có 10% xác suất phạm phải hành động bạo lực với người khác trong những tháng đầu sau khi được ra viện. Cứ 100 bệnh nhân tương tự như ông Jones có 10 người phạm phải một hành động bạo lực đối với những người khác trong những tháng đầu sau khi được ra viện. Các chuyên gia đã thấy định dạng tần số gần như lớn gấp hai lần khả năng từ chối xuất viện (41%, so với 21% trong định dạng xác suất). Sự miêu tả càng sinh động bao nhiêu sản sinh ra một trọng số quyết định lớn hơn bấy nhiêu cho cùng một xác suất. Sức mạnh của dạng thức tạo ra các cơ hội cho sự thao túng, mà con người cùng với một mục đích cá nhân phải đạt được biết phải tận dụng nó như thế nào. Slovic và đồng sự của mình trích dẫn một bài báo cáo tuyên bố rằng “khoảng chừng 1.000 vụ giết người hàng năm trên cả nước được gây ra bởi các cá nhân bị bệnh tâm thần nặng đã không được chữa trị.” Một cách diễn đạt khác về cùng một sự thực đó là “1.000 trong số 273 triệu người Mỹ sẽ chết theo kiểu này mỗi năm.” Một cách khác đó là “Khả năng bị giết bởi một cá nhân như vậy là khoảng 0,00036% mỗi năm.” Vẫn còn cách khác là: “1.000 người Mỹ sẽ chết theo cách này mỗi năm, hoặc ít hơn 1/30 số người chết do tự tử và khoảng ¼ số người chết vì ung thư thanh quản.” Slovic chỉ ra rằng “những người theo chủ trương này khá cởi mở với động cơ của họ: Họ muốn gieo rắc nỗi kinh hoàng cho công chúng về hành động bạo lực gây ra bởi những người rối loạn tâm thần, với hy vọng rằng nỗi sợ này sẽ chuyển hóa thành số lượng kinh phí tăng thêm cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần.” Một luật sư giỏi mong muốn loại bỏ hoài nghi về chứng cứ DNA sẽ không nói với hội đồng xét xử rằng “khả năng xảy ra sự trùng khớp nhầm lẫn là 0.1%.” Cách diễn đạt “sự trùng khớp nhầm lẫn xảy ra với 1 trong số 1.000 trường hợp tai hại” có khả năng vượt qua ngưỡng hoài nghi hợp lý hơn rất nhiều. Các thành viên ban bồi thẩm nghe được những lời đó được đề nghị tạo ra một liên tưởng về người đàn ông đang ngồi trước mặt họ trong phòng xử án đang bị kết án sai bởi chứng cứ DNA có sơ hở. Dĩ nhiên, công tố viên sẽ thiên về khung hình trừu tượng nhiều hơn – hy vọng nhằm khỏa lấp tâm trí các thành viên ban bồi thẩm với những dấu phảy thập phân. CÁC QUYẾT ĐỊNH ĐẾN TỪ NHỮNG ẤN TƯỢNG CHUNG Những giả thuyết dựa trên các chứng cứ đưa ra rằng: Sự chú tâm và sự nổi trội góp phần vào cả sự đánh giá quá cao các biến cố không chắc xảy ra lẫn việc đặt trọng số quá mức các kết quả không chắc xảy ra. Sự nổi trội tăng lên bởi sự đề cập tới một biến cố, bằng tính chất sống động của nó và bởi dạng thức mà trong đó xác suất được mô tả. Dĩ nhiên, có những trường hợp ngoại lệ, trong đó việc tập trung vào một biến cố không làm tăng xác suất của nó: Các trường hợp trong đó một lý thuyết không đúng khiến cho một biến cố có vẻ như là bất khả thi ngay cả khi bạn nghĩ tới nó, hoặc các trường hợp mà trong đó việc không có khả năng tưởng tượng ra một kết quả có thể xảy ra như thế nào khiến bạn bị thuyết phục rằng nó sẽ không xảy ra. Khuynh hướng thiên về sự đánh giá quá cao và đặt trọng số quá mức lên các biến cố nổi bật không phải là một quy tắc thuần túy nhưng nó bao quát và thiết thực. Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về Chọn lựa dựa trên trải nghiệm, được quan tâm nhiều tuân theo những quy tắc khác nhau từ Chọn lựa dựa theo sự mô tả được phân tích trong lý thuyết viễn cảnh. Những người tham gia trong một thí nghiệm điển hình đối mặt với hai nút bấm. Khi ấn, mỗi nút đưa ra hoặc một khoản tiền thưởng hoặc chẳng gì cả và kết quả được bốc thăm một cách ngẫu nhiên dựa theo những điều khoản của một viễn cảnh (ví dụ: “5% thắng 12 đô-la” hoặc “95% khả năng thắng 1 đô-la”). Quá trình này thực sự diễn ra ngẫu nhiên, do vậy không hề có sự đảm bảo rằng mẫu mà một người tham gia trông thấy miêu tả chính xác thiết lập thống kê. Những giá trị dự tính kết hợp với hai nút bấm xấp xỉ bằng nhau nhưng một cái rủi ro (biến thiên) nhiều hơn so với cái khác. (Ví dụ: Một nút có thể đưa ra 10 đô-la trên 5% của các thử nghiệm và cái khác là 1 đô-la trên 50% của các thử nghiệm). Lựa chọn dựa trên sự trải nghiệm được thực hiện qua việc đặt người tham gia vào nhiều tình huống thử nghiệm, trong đó cô ta có thể quan sát các kết quả của việc nhấn nút này hay nút khác. Ở thử nghiệm quyết định, anh ta chọn một trong hai nút bấm và có được kết quả với thử nghiệm đó. Lựa chọn dựa trên sự mô tả được thực hiện qua việc cho thấy chủ thể miêu tả bằng lời về viễn cảnh mạo hiểm liên hệ với mỗi nút (như là “5% thắng 12 đô-la”) và đề nghị cô ta chọn lấy một. Như đã được dự tính từ lý thuyết viễn cảnh, lựa chọn dựa trên sự miêu tả gợi ra một hiệu ứng về khả năng là các kết quả hiếm thấy được đặt trọng số quá mức cân xứng với xác suất của chúng. Ngược lại hoàn toàn, việc đặt trọng số quá cao chưa từng được ghi nhận trong sự chọn lựa dựa theo kinh nghiệm và việc đặt trọng số thấp lại phổ biến. Những lựa chọn qua sự trải nghiệm nhằm mục đích đưa ra nhiều tình huống trong đó chúng ta được đặt vào các kết quả biến đổi có cùng nguồn gốc. Một nhà hàng có uy tín có thể thi thoảng phục vụ một bữa ăn khác thường hoặc tệ hại. Người bạn của bạn thường ngày là một cộng sự tốt nhưng anh ta đôi lúc lại ủ rũ và hung hãn. California hay xảy ra động đất nhưng hy hữu. Các kết quả từ nhiều trải nghiệm gợi ra rằng các biến cố hiếm xảy ra không được đặt trọng số quá mức khi chúng ta đưa ra các quyết định như lựa chọn một nhà hàng ăn uống hoặc việc vặn chặt nồi hơi nhằm giảm thiểu thiệt hại động đất. Việc làm sáng tỏ về sự lựa chọn dựa trên trải nghiệm cho tới nay chưa được giải quyết nhưng có sự thỏa thuận chung về nguyên nhân chính của việc đặt trọng số thấp những biến cố hiếm xảy ra, cả trong những thí nghiệm lẫn đời thực: Nhiều người tham gia chưa từng trải nghiệm biến cố hiếm! Hầu hết người California chưa từng trải nghiệm một trận động đất, năm 2007, không chủ ngân hàng nào trải qua khủng hoảng tài chính thảm khốc. Ralph Hertwig và Ido Erev nhận thấy rằng “các khả năng xảy ra các biến cố hiếm (như là sự tan vỡ của bong bóng nhà ở) nhận được ít tác động hơn so với những gì chúng đáng được hưởng theo như các xác suất mục tiêu của chúng.” Họ chỉ rõ sự thờ ơ của công chúng phản ứng lại với những mối đe dọa về môi trường trong dài hạn như là một ví dụ. Những ví dụ về sự không chú ý này đều quan trọng và được lý giải một cách dễ dàng, nhưng việc đặt trọng số thấp cũng xảy ra ngay cả khi người ta đã thực sự trải nghiệm biến cố hiếm. Giả sử, bạn có một câu hỏi phức tạp mà hai đồng sự cùng phòng với bạn hầu như chắc chắn có thể trả lời được. Bạn đã biết hai người này suốt nhiều năm qua và có nhiều cơ hội để quan sát và kiểm định tính cách của họ: Adele khá kiên định và là người biết giúp đỡ người khác mặc dù đây không phải là cá tính chủ đạo của anh ta; Brian không thân thiện cho lắm và giúp đỡ người khác giống như Adele, vào một vài dịp, anh ta đã cực kỳ tử tế giành thời gian và lời khuyên của mình cho những người khác. Bạn sẽ tiếp xúc với ai? Xem xét hai quan điểm có thể thực thi được về quyết định sau: Đây là một sự lựa chọn giữa hai trò may rủi. Adele là một người gần gũi và chắc chắn dễ hiểu, còn Brian có nhiều khả năng mang lại một kết quả thua kém hơn một chút, với một xác suất thấp cho một kết quả cực kỳ tốt. Biến cố hiếm sẽ được đặt trọng số quá cao bởi một hiệu ứng xác suất, thiên về Brian. Đây là một sự lựa chọn giữa những ấn tượng chung của bạn về Adele và Brian. Những trải nghiệm tốt và xấu mà bạn từng có đã góp phần vào sự hình dung về cách hành xử thông thường của họ. Trừ khi biến cố hiếm xuất hiện trong đầu một cách tách biệt (Brian đã có lần thóa mạ một đồng nghiệp khi anh này hỏi xin sự giúp đỡ), định chuẩn sẽ được thiên về hướng các trường hợp điển hình và gần đây, thiên về Adele. Trong một ý nghĩ hai hệ thống, sự giải thích thứ hai xem ra hợp lý hơn nhiều. Hệ thống 1 tạo ra những hình dung chung về Adele và Brian, bao gồm một thái độ cảm xúc và một xu hướng tiếp cận hoặc xa lánh, để sự so sánh về những xu hướng này là cần thiết nhằm xác định “cánh cửa mà bạn sẽ gõ” tìm ra câu trả lời. Trừ khi biến cố hiếm xảy ra trong đầu bạn một cách rõ ràng, nó sẽ không được đặt trọng số cao. Việc áp dụng cùng ý tưởng này vào các thí nghiệm về sự lựa chọn dựa trên sự trải nghiệm không mấy phức tạp. Khi họ là đối tượng quan sát việc tạo ra các kết quả qua thời gian, hai nút bấm phát triển “các tính cách” hòa nhập với những hưởng ứng cảm xúc đi kèm. Các điều kiện theo đó các biến cố hiếm bị bỏ qua hoặc đặt trọng số quá lớn giờ đây được nhận thức tốt hơn so với trước đây khi lý thuyết triển vọng được lập thành công thức. Xác suất của một biến cố hiếm sẽ (thường là không đều đặn) được đánh giá quá cao, bởi khuynh hướng chứng thực của trí nhớ. Khi nghĩ về biến cố, bạn cố gắng biến nó thành sự thực trong đầu mình. Một biến cố hiếm sẽ bị đặt trọng số quá cao nếu nó lôi cuốn được sự chú ý một cách cụ thể. Sự chú ý riêng biệt được bảo đảm một cách thực sự khi các triển vọng được mô tả rõ ràng (“99% khả năng thắng 1.000 đô-la và 1% khả năng chẳng có gì”). Những mối lo thường trực (xe bus ở Jerusalem), những hình ảnh sinh động (những bông hồng), những hình dung cụ thể (1 trong số 1.000), và những lời nhắc nhở rõ ràng (như trong lựa chọn dựa trên sự miêu tả) tất cả góp phần vào việc đặt trọng số quá cao. Và khi không còn hoạt động đặt trọng số quá cao nữa, sự sao nhãng sẽ thay thế. Khi nó trở thành những xác suất hiếm, trí óc của chúng ta không được dự tính tiếp nhận những thứ khá có lý. Đối với các cư dân của một hành tinh có thể được tiếp xúc với những biến cố mà chưa ai từng trải qua, đây chẳng thể là tin tốt lành. PHÁT NGÔN VỀ NHỮNG BIẾN CỐ HIẾM “Các trận sóng thần hiếm xảy ra ngay cả ở Nhật Bản, nhưng hình ảnh đó quá mạnh mẽ và ám ảnh tới nỗi các du khách ắt sẽ đánh giá quá mức xác suất xảy ra của chúng.” “Đó là một chu kỳ thảm họa quen thuộc. Bắt đầu bằng sự cường điệu và việc đặt trọng số quá mức, sau đó sự sao nhãng bắt đầu xảy ra.” “Chúng ta không nên tập trung vào một tình huống riêng lẻ, hoặc chúng ta sẽ đánh giá quá mức xác suất của nó. Hãy thiết lập những lựa chọn loại trừ riêng biệt và đặt ra các xác suất có tổng bằng 100%.” “Họ muốn người ta lo lắng bởi rủi ro. Đó là lý do tại sao họ miêu tả 1 ca tử vong trên 1000 ca mắc phải. Họ đang tính toán dựa trên sự sao nhãng mẫu thức.” Còn nữa
Phần 4 - Chương 31: Các chính sách/cách giải quyết rủi ro Bấm để xem Tưởng tượng rằng bạn đối mặt với cặp quyết định đồng thời sau. Trước hết hãy nghiên cứu cả hai quyết định, sau đó đưa ra các lựa chọn của bạn. Quyết định (1): Lựa chọn giữa: A. Một khoản lợi ích chắc chắn 240 đô-la. B. 25% khả năng thu về 1.000 đô-la và 75% khả năng không thu về cái gì. Quyết định (2): Lựa chọn giữa: C. Mất chắc 750 đô-la. D. 75% khả năng mất 1.000 đô-la và 25% khả năng không mất thứ gì. Cặp lựa chọn các vấn đề này có một vị trí quan trọng trong tiểu sử của lý thuyết viễn cảnh và nó có những phát hiện mới để nói với chúng ta về tính hợp lý. Như bạn đã đọc lướt qua hai vấn đề, phản ứng ban đầu của bạn với những điều chắc chắn (A và C) là sự chú ý tới điều thứ nhất và sự ác cảm đối với điều thứ hai. Sự đánh giá dựa trên cảm xúc về “lợi ích chắc chắn” và “tổn thất chắc chắn” là một phản ứng có cơ chế tự động của Hệ thống 1, nó chắc chắn diễn ra trước khi sự tính toán cần nhiều công sức hơn (và không bắt buộc) về các giá trị dự tính của hai trò may rủi (tương ứng là, một lợi ích 250 đô-la và một tổn thất 750 đô-la). Hầu hết sự lựa chọn của con người tương tự như những dự đoán của Hệ thống 1 và đại đa số thích phương án A hơn B và D hơn C. Giống như nhiều sự lựa chọn khác có liên quan tới các xác suất trung bình hoặc cao, người ta có xu hướng ác cảm với rủi ro trong phạm vi của những lợi ích và tìm kiếm rủi ro trong phạm vi của những tổn thất. Trong thí nghiệm gốc mà Amos và tôi đã tiến hành, 73% số người tham gia lựa chọn A trong quyết định (1) và D trong quyết định (2) và chỉ có 3% thiên về sự kết hợp B và C. Bạn đã được đề nghị nghiên cứu cả hai lựa chọn trước khi đưa ra lựa chọn đầu tiên của mình và bạn chắc hẳn đã làm vậy. Nhưng có một điều mà bạn chắc chắn đã không làm: Bạn không tính toán các kết quả có thể của cả bốn sự kết hợp giữa các lựa chọn (A và C, A và D, B và C, B và D) để xác định xem sự kết hợp nào khiến bạn hài lòng nhất. Những ưu ái của bạn dành cho hai vấn đề mang tính thuyết phục trực giác và không có lý do nào để nghĩ rằng chúng có thể dẫn tới rắc rối. Hơn thế nữa, việc kết hợp hai vấn đề quyết định là một bài tập khó, bạn phải cần tới giấy bút để hoàn thành. Bạn đã không làm vậy. Giờ hãy xem xét vấn đề lựa chọn dưới đây: AD. 25% khả năng thắng được 240 đô-la và 75% khả năng thua 760 đô-la. BC. 25% khả năng thắng được 250 đô-la và 75% khả năng thua 750 đô-la. Lựa chọn này quả dễ dàng! Phương án BC thực sự vượt trội so với phương án AD (thuật ngữ chuyên môn dành cho một phương án rõ ràng trở nên tốt hơn so với thứ khác). Bạn đã thực sự biết điều gì diễn ra tiếp theo đó. Phương án vượt trội ở AD là sự kết hợp của hai phương án bị loại bỏ trong cặp đầu tiên của các vấn đề quyết định, phương án thứ nhất chỉ có 3% người tham gia ủng hộ trong nghiên cứu gốc của chúng tôi. Phương án BC kém hơn được ưu tiên bởi 73% số người tham gia. PHỔ QUÁT HAY CHI TIẾT? Tập hợp các lựa chọn này chứa đựng nhiều điều để nói với chúng ta về những giới hạn về sự suy nghĩ hợp lý của con người. Một điều trong số đó là nó giúp chúng ta thấy được sự thống nhất hợp logic của những sự ưu ái con người dành cho điều mà nó vốn là một ảo tưởng vô vọng. Hãy có cái nhìn khác đối với vấn đề sau cùng, khá dễ dàng. Bạn có thể đã tưởng tượng ra xác suất của việc phân tách vấn đề lựa chọn rõ ràng này thành một cặp các vấn đề sẽ dẫn tới đại đa số người dân lựa chọn một phương án tệ hơn? Về cơ bản điều này là đúng: Mỗi lựa chọn đơn giản được đưa vào công thức trong mối quan hệ với những lợi ích và tổn thất có thể được mổ xẻ theo vô số cách tạo thành một sự liên kết các lựa chọn, gợi ra những ưu tiên có khả năng mâu thuẫn nhau. Ví dụ cũng đã chỉ ra rằng thật tốn kém khi trở nên ác cảm rủi ro. Những quan điểm này khiến bạn sẵn sàng chi trả một khoản phụ phí để giành được một lợi ích chắc chắn hơn là đối mặt với một trò may rủi và cũng sẽ sẵn sàng chi trả một khoản phụ phí (trong giá trị dự tính) để tránh một tổn thất chắc chắn. Cả hai sự chi trả ấy đều xuất phát từ cùng một túi tiền và khi bạn đối mặt với cả hai dạng vấn đề cùng lúc, các quan điểm trái ngược không chắc là tối ưu. Có hai cách phân tích các quyết định 1 và 2: Cấu trúc hẹp: Một chuỗi các quyết định đơn giản, được xem xét một cách tách biệt. Cấu trúc phổ quát: Một quyết định bao hàm đơn nhất, với bốn phương án. Cấu trúc phổ quát rõ ràng là ưu việt hơn trong trường hợp này. Thật vậy, nó sẽ trở nên ưu việt (hoặc chí ít thì cũng không kém hơn) trong hầu hết các trường hợp, trong đó một vài quyết định phải được suy tính cùng nhau. Hình dung ra một bản danh sách dài gồm năm (cặp) quyết định đơn được xem xét cùng một lúc. Cấu trúc phổ quát (bao hàm) gồm có một lựa chọn đơn nhất với 32 phương án. Cấu trúc hẹp sẽ gợi ra một chuỗi gồm năm lựa chọn đơn. Chuỗi năm sự lựa chọn sẽ trở thành một trong số 32 phương án thuộc cấu trúc phổ quát. Nó sẽ là thứ tốt nhất chứ? Có thể nhưng không chắc chắn lắm. Dĩ nhiên, một tác nhân có lý trí sẽ gia nhập vào cấu trúc phổ quát, nhưng con người theo bản năng lại là những cấu trúc hẹp. Ý niệm về sự thống nhất hợp logic, như trong ví dụ này đã chỉ ra, không thể thực hiện được qua trí não bị giới hạn của chúng ta. Do chúng ta dễ bị ảnh hưởng bởi WYSIATI và ác cảm với sự nỗ lực trí óc, chúng ta có xu hướng đưa ra các quyết định khi nảy sinh vấn đề, dù cho chúng ta đã được chỉ dẫn rõ ràng là cần phải xem xét chúng trong cùng một tổng thể. Chúng ta không có cả khuynh hướng lẫn những nguồn lực tinh thần để tuân theo sự thống nhất trong các quyền ưu tiên của mình, và các quyền ưu tiên của chúng ta không được tạo lập một cách thần diệu để trở nên chặt chẽ, vì chúng nằm trong mô hình tác nhân lý trí. VẤN ĐỀ CỦA SAMUELSON Paul Samuelson vĩ đại, một nhà kinh tế học vĩ đại của thế kỷ XX – đã hỏi một người bạn rằng liệu ông này sẽ chấp nhận một trò may rủi bằng cách tung một đồng xu, trong đó ông ta sẽ thua 100 đô-la hoặc thắng 200 đô-la hay không. Người bạn của ông đã trả lời: “Tôi sẽ không đặt cược bởi tôi cảm thấy 100 đô-la mất đi lớn hơn so với 200 đô-la thu được. Nhưng tôi sẽ tham gia cùng với ông nếu ông hứa cho phép tôi làm 100 lần trò cá cược như vậy.” Trừ khi bạn là một nhà lý luận, bạn chắc hẳn sẽ có cùng chung trực cảm với người bạn của Samuelson, rằng việc chơi một canh bạc vô cùng có lời nhưng cũng rất rủi ro, nhiều lần chơi sẽ làm giảm sự rủi ro một cách chủ quan. Samuelson thấy câu trả lời của bạn mình thật thú vị và bắt tay vào phân tích nó. Ông đã chứng minh được rằng dưới một số điều kiện vô cùng cụ thể, một người tối đa hóa lợi ích từ bỏ một trò may rủi đơn giản có thể cũng sẽ từ bỏ lời đề nghị tham gia nhiều trò may rủi. Đáng chú ý là Samuelson dường như không quan tâm tới thực tế là chứng minh của ông, dĩ nhiên là có căn cứ, đã dẫn tới một kết luận phạm vào chiều hướng phổ biến, nếu không hợp lý: Lời đề nghị tham gia hàng trăm trò may rủi quả thực quá lôi cuốn đến nỗi không một người ôn hòa nào có thể từ chối. Matthew Rabin và Richard Thaler đã chỉ ra rằng “trò may rủi được tổng hợp từ một trăm trò cá cược 50-50 thua 100 đô-la/ được 200 đô-la có một khoản lợi nhuận dự tính là 5.000 đô-la, chỉ với 1/2.300 khả năng bị thua bất cứ khoản tiền nào và chỉ 1/62.000 khả năng bị mất nhiều hơn 1.000 đô-la.” Dĩ nhiên, luận điểm của họ là như vậy nếu lý thuyết thỏa dụng có thể phù hợp với sự ưu tiên ngớ ngẩn như vậy với bất kể hoàn cảnh nào, vậy thì hẳn đã phải có vài sai sót xảy ra giống như kiểu chọn lựa dựa trên lý trí. Samuelson đã không thấy được sự kiểm chứng của Rabin đối với các kết quả vô lý của sự ác cảm mất mát gay gắt đối với những khoản tiền cược nhỏ, nhưng ông chắc chắn sẽ không bị làm cho ngạc nhiên bởi điều này. Thiện ý của ông còn nhằm xem xét xác suất hợp lý có thể để loại bỏ ảnh hưởng mạnh mẽ của mô hình dựa trên lý trí. Cho phép chúng tôi được thừa nhận rằng một hàm giá trị rất đơn giản mô tả các ưu tiên của người bạn Samuelson (gọi ông ấy là Sam). Để diễn đạt sự ác cảm của ông ấy với những tổn thất, Sam chép lại vụ cá cược, sau khi nhân từng tổn thất với hệ số 2. Sau đó ông tính toán giá trị dự tính của trò cá cược đã được chép lại. Và đây là các kết quả, với một, hai, hoặc ba lần tung đồng xu. Chúng xứng đáng được dùng để cung cấp tài liệu cụ thể cho một số nỗ lực của những người thích sự chi tiết. Giá trị dự tính Tung một lần Tổn thất nhân đôi (50% thua 100; 50% thắng 200) (50% thua 200; 50% thắng 200) 50 0 Tung hai lần Tổn thất nhân đôi (25% thua 200; 50% thắng 100; 25% thắng 400) (25% thua 400; 50% thắng 100; 25% thắng 400) 100 50 Tung ba lần Tổn thất nhân đôi (12.5% thua 300; 37.5% thắng 0; 37.5% thắng 300; 12.5% thắng 600) (12.5% thua 600; 37.5% thắng 0; 37.5% thắng 300; 12.5% thắng 600) 150 112.5 Bạn có thể thấy trong sự trình bày này trò may rủi có một giá trị dự tính là 50. Tuy nhiên, một lần tung đồng xu chẳng có giá trị gì đối với Sam bởi ông cảm thấy nỗi đau của việc mất đi một đô-la nhức nhối gấp hai lần niềm vui giành được một đô-la. Sau khi chép lại trò may rủi nhằm phản ánh sự ác cảm mất mát của mình, Sam sẽ phát hiện ra rằng giá trị của trò may rủi là 0. Giờ hãy xem xét trường hợp tung đồng xu hai lần. Những nguy cơ tổn thất đã giảm xuống 25%. Hai kết quả cực đoan (thua 200 hoặc thắng 400) triệt tiêu lẫn nhau về giá trị; chúng có khả năng xảy ra ngang nhau, và các tổn thất được đặt trọng số nhiều gấp hai lần so với lợi ích. Nhưng kết quả trung bình (một tổn thất, một lợi ích) lại tích cực, và do vậy là một canh bạc kép như là một chỉnh thể. Giờ đây bạn có thể thấy được cái giá của cấu trúc hẹp và sự thần kỳ của tổng hợp các trò may rủi. Đó là hai trò may rủi có triển vọng, nếu chúng đứng riêng lẻ thì chẳng có giá trị gì đối với Sam. Nếu ông gặp lời đề nghị vào hai dịp riêng biệt, ông sẽ từ bỏ ở cả hai lần. Tuy nhiên, nếu ông gộp cả hai lời đề nghị lại cùng nhau, chúng có tổng trị giá là 50 đô-la! Mọi thứ thậm chí trở nên sáng sủa hơn khi cả ba trò may rủi được gộp lại. Các kết quả tiêu cực vẫn triệt tiêu lẫn nhau, nhưng chúng đã trở nên ít quan trọng hơn. Lần tung đồng xu thứ ba, mặc dù chẳng có giá trị gì nếu đánh giá riêng nó, nhưng đã cộng thêm 62.5 đô-la vào tổng giá trị của gói. Trong thời gian đó Sam được đề nghị năm trò may rủi, giá trị dự tính của lời đề nghị sẽ là 250 đô-la, xác suất của việc không mất gì cả của ông sẽ là 18.75% và khoản tương đương tiền của ông sẽ là 203.125 đô-la. Khía cạnh đáng chú ý của câu chuyện này đó là Sam không lưỡng lự trong mối ác cảm của mình trước những tổn thất. Tuy nhiên, tập hợp các trò may rủi có triển vọng làm giảm nhanh chóng xác suất của tổn thất và tác động của sự ác cảm mất mát đối với những ưu tiên của ông giảm bớt một cách phù hợp. Giờ đây tôi đã có bài thuyết pháp cho Sam nếu ông từ chối lời đề nghị về một trò may rủi có triển vọng cao được chơi chỉ một lần và dành cho bạn nếu bạn cùng chung mối ác cảm với những tổn thất một cách vô lý: Tôi đồng cảm với mối ác cảm của bạn trước việc thua bất cứ một trò may rủi nào, nhưng nó đang lấy đi của bạn một khoản tiền lớn. Xin hãy xem xét câu hỏi sau: Bạn đang ở vào giờ phút lâm chung? Đây có phải là lời đề nghị cuối cùng về một trò may rủi nhỏ có triển vọng mà bạn sẽ cân nhắc hay không? Dĩ nhiên, bạn không chắc đã được đề nghị chơi trò may rủi này thêm một lần nữa, nhưng bạn sẽ có nhiều cơ hội để cân nhắc những trò may rủi hấp dẫn với những khoản đặt cược rất nhỏ so với sự giàu có của bạn. Bạn sẽ tự mình kiếm được một khoản lợi tài chính lớn nếu bạn có khả năng thấy được một trong số những trò may rủi này như là một phần của một chỉnh thể gồm nhiều trò may rủi nhỏ và nhẩm câu thần chú sẽ đưa bạn tiến một bước đáng kể tới gần hơn với tính hợp lý của kinh tế: Bạn thắng một chút, thua một chút. Mục đích chính của câu thần chú này là nhằm kiểm soát sự phản ứng cảm xúc của bạn khi bạn thua cuộc. Nếu bạn tin tưởng nó có hiệu quả, bạn nên tự nhắc nhở mình về điều đó mỗi khi quyết định việc nên hay không nên chấp nhận một rủi ro nhỏ với giá trị dự tính lạc quan. Nhớ lại những hạn chế sau khi sử dụng câu thần chú: Nó thực thi khi các trò may rủi thực sự độc lập với những trò khác, nó không ứng dụng cho những hoạt động đầu tư phức tạp trong cùng một lĩnh vực, mà ở đó có thể tất cả đều cùng nhau có chiều hướng xấu đi. Nó chỉ thực thi khi tổn thất có thể không khiến bạn phải lo lắng về tổng tài sản của mình. Nếu bạn có thể chấp nhận tổn thất như là tin tức tồi tệ về lợi ích kinh tế của bạn, hãy coi chừng! Nếu bạn có phương pháp rèn luyện cảm xúc điều mà quy tắc này cần đến, bạn sẽ không bao giờ xem xét một trò may rủi nhỏ riêng lẻ hoặc ác cảm mất mát đối với một trò may rủi nhỏ cho tới khi bạn thực sự nằm trên giường bệnh của mình và thậm chí là cả sau đó nữa. Lời khuyên này không phải là không thể làm theo. Các thương nhân lão luyện trên các thị trường tài chính sống nhờ vào nó mỗi ngày, che chở cho bản thân họ khỏi nỗi xót xa về những tổn thất gây ra bởi cấu trúc phổ quát. Như đã được đề cập từ trước đó, giờ đây chúng ta biết được rằng các chủ thể thực nghiệm có thể gần như đã khắc phục được nỗi ác cảm mất mát của mình (trong bối cảnh chung) bằng cách xui khiến họ “suy nghĩ như một thương nhân”, đúng như các chuyên gia chuyển nhượng cầu thủ bóng rổ lão luyện không hề bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng sở hữu giống như là những người chưa có kinh nghiệm phạm phải. Các nhà nghiên cứu đưa ra các quyết định rủi ro (chấp nhận hoặc từ bỏ các trò may rủi trong đó họ có thể sẽ thua) dưới những chỉ dẫn khác nhau. Trong trạng thái cấu trúc hẹp, họ được mách nước rằng “đưa ra từng quyết định một như thể nó là quyết định duy nhất” và chấp nhận các cảm xúc của họ. Các chỉ dẫn dành cho cấu trúc phổ quát của một quyết định bao gồm các cụm từ “tưởng tượng bản thân bạn là một thương nhân”, “bạn làm việc này mãi rồi” và “xử lý nó như một trong nhiều quyết định có liên quan tới tiền, nó sẽ cộng tổng tất cả lại để tạo ra một ‘danh mục đầu tư’.” Các nhà thực nghiệm đã đánh giá phản ứng cảm xúc của các chủ thể trước những lợi ích và tổn thất bằng những thước đo sinh lý, bao gồm cả những chuyển đổi trong độ dẫn điện từ của da, mà đã từng được sử dụng trong việc phát hiện nói dối. Như đã dự tính, cấu trúc phổ quát đã bào mòn phản ứng cảm xúc trước những tổn thất và làm tăng sự tự nguyện đón nhận những rủi ro. Sự kết hợp của mối ác cảm mất mát với cấu trúc hẹp là một tai họa tốn kém. Các nhà đầu tư cá nhân có thể tránh được tai họa đó, đạt được những lợi ích cảm xúc với cấu trúc phổ quát trong khi cùng lúc tiết kiệm được thời gian và lo âu, bằng việc giảm tần số xuất hiện, cùng với đó họ kiểm tra các khoản đầu tư của mình đang tiến triển thuận lợi như thế nào. Theo sát chặt chẽ những biến động hàng ngày là thừa nhận mất mát, bởi nỗi xót xa thường xuyên về những tổn thất nhỏ vượt quá niềm vui về những lợi ích nhỏ tương đương diễn ra thường xuyên. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng đời sống tinh thần, sự né tránh có chủ tâm trước rủi ro thuộc về các kết quả trong ngắn hạn cải thiện chất lượng của cả các quyết định lẫn kết quả. Sự phản ứng trong ngắn hạn trước tin xấu làm gia tăng mối ác cảm mất mát. Các nhà đầu tư đã tập hợp sự phản hồi nhận được những tin tức như vậy ít thường xuyên hơn và có thể ít ác cảm rủi ro hơn và kết thúc với sự giàu có hơn. Bạn cũng ít ngả về sự nhào nặn khoản đầu tư vô ích của mình hơn nếu bạn không biết được mỗi cổ phần trong đó đang tiến triển thuận lợi từng ngày (từng tuần hoặc từng tháng) như thế nào. Một cam kết không thay đổi lập trường của một ai đó trong một vài giai đoạn (tương đương với việc “giữ chặt” một khoản đầu tư) cải thiện thành quả tài chính. CÁC CHÍNH SÁCH RỦI RO Các nhà lập định nghiêng về cấu trúc hẹp dành sự ưu ái bất cứ khi nào họ đối mặt với một chọn lựa rủi ro. Họ có thể làm tốt hơn bằng việc có một chính sách rủi ro mà họ áp dụng theo thông lệ bất cứ khi nào một vấn đề có liên quan nảy sinh. Các ví dụ tương tự về các chính sách rủi ro “luôn luôn giữ mức khấu trừ cao nhất có thể khi mua bảo hiểm” và “không bao giờ mua các khoản bảo đảm mở rộng.” Một chính sách rủi ro là một cấu trúc phổ quát. Trong các ví dụ về bảo hiểm, bạn chờ đợi sự tổn thất hi hữu đối với khoản được khấu trừ toàn bộ, hoặc thất bại hi hữu của một sản phẩm không được bảo hiểm. Vấn đề có liên quan đó là khả năng của bạn nhằm giảm thiểu hoặc triệt tiêu nỗi xót xa trước sự tổn thất hi hữu bằng suy nghĩ rằng: Chính sách này cho phép bạn tiếp cận với nó hẳn sẽ gần như chắc chắn mang lại thuận lợi về tài chính trong dài hạn. Một chính sách rủi ro kết hợp các quyết định tương tự như cái nhìn bên ngoài về các vấn đề dự tính mà tôi đã thảo luận trước đó. Cái nhìn bên ngoài chuyển đổi mục tiêu tập trung từ những chi tiết thuộc về tình thế hiện tại sang những số liệu thống kê về các kết quả trong các tình huống tương tự. Cái nhìn bên ngoài là một cấu trúc phổ quát đối với lối tư duy về các kế hoạch. Chính sách rủi ro là một cấu trúc phổ quát bao bọc một chọn lựa rủi ro cá biệt trong một chuỗi các chọn lựa tương tự. Cái nhìn khách quan và chính sách rủi ro là những biện pháp chống lại hai khuynh hướng dễ nhận thấy có ảnh hưởng tới nhiều quyết định: Sự lạc quan quá mức của sai lầm dự kiến và sự cẩn trọng quá sức đã gây ra mối ác cảm mất mát. Hai khuynh hướng này đối lập lẫn nhau. Sự lạc quan quá mức bảo vệ các cá nhân và tổ chức khỏi những hiệu ứng làm nảy sinh mối ác cảm mất mát; mối ác cảm này bảo vệ họ khỏi những ý nghĩ điên rồ về sự lạc quan tự tin thái quá. Kết quả cuối cùng khá dễ chịu đối với người ra quyết định. Những người lạc quan tin rằng các quyết định mà họ đưa ra thận trọng hơn so với thực tế, và những người ra quyết định ác cảm mất mát từ chối một cách nghiêm chỉnh những mệnh đề biên hạn mà họ có thể chấp nhận theo một cách khác. Dĩ nhiên, ở đây không hề có sự đảm bảo rằng các khuynh hướng này triệt tiêu lẫn nhau trong từng tình huống. Một tổ chức mà có thể triệt tiêu cả sự lạc quan quá mức lẫn mối ác cảm quá độ thì nên làm như vậy. Sự kết hợp của cái nhìn bên ngoài với một chính sách rủi ro nên là một mục tiêu hướng đến. Richard Thaler bàn về một cuộc thảo luận về việc ra quyết định mà ông đã tham gia cùng với các nhà quản lý hàng đầu của 25 bộ phận trong một công ty lớn. Ông đã đề nghị họ xem xét một phương án rủi ro theo đó, với các xác suất bằng nhau, họ có thể thua lỗ một khoản vốn lớn mà họ đang kiểm soát hoặc kiếm được gấp đôi khoản tiền đó. Chẳng ai trong số các nhà quản lý cấp cao sẵn sàng chấp nhận một trò may rủi nguy hiểm cỡ đó. Sau đó, Thaler đã chuyển sang vị CEO của công ty, ông này lúc đó cũng đang góp mặt và hỏi xin ý kiến của vị lãnh đạo. Không chút do dự, vị CEO đã trả lời: “Tôi mong sao tất cả bọn họ đều chấp nhận những rủi ro của mình.” Trong bối cảnh của cuộc thảo luận, đó là điều tự nhiên đối với vị CEO khi chấp nhận một cấu trúc phổ quát bao gồm tất cả 25 vụ đánh cược. Cũng giống như Sam khi đối mặt với 100 lần tung đồng xu, ông đã có thể hy vọng ở sự tổng hợp thống kê sẽ làm giảm rủi ro toàn bộ. PHÁT NGÔN VỀ NHỮNG CHÍNH SÁCH/ CÁCH GIẢI QUYẾT RỦI RO “Hãy bảo cô ta suy nghĩ như một thương nhân! Có thắng thì cũng phải có thua.” “Tôi đã quyết định đánh giá danh mục đầu tư của mình chỉ trên một phần tư. Tôi quá ác cảm với sự mất mát đến nỗi đưa ra những quyết định hợp lý trong sự việc đối diện với những dao động giá cả hàng ngày.” “Họ chưa từng mua các loại bảo hiểm mở rộng. Đó chính là chính sách rủi ro của họ.” “Từng chuyên viên của chúng tôi có “ác cảm mất mát” trong lĩnh vực của anh ta hoặc cô ta. Đó là điều hoàn toàn tự nhiên, nhưng kết quả là tổ chức đang không.” Còn nữa
Phần 4 - Chương 32: Giữ vững mục tiêu Bấm để xem Ngoại trừ những người rất nghèo hay những người thu nhập vừa đủ sống có động cơ kiếm tiền là để duy trì cuộc sống thì đối với một số người động cơ kiếm tiền không nhất thiết nhằm mục đích kiếm thật nhiều tiền. Đối với tỷ phú hay một số thương gia đầu tư vào một dự án kinh tế thì tiền bạc đôi khi thể hiện sự tự trọng và sự thành công. Những phần thưởng hay những trừng phạt, những hứa hẹn và những đe dọa, đều ở trong đầu chúng ta và được chúng ta giữ gìn cẩn thận. Chúng ta định hình những ưu tiên của mình và thúc đẩy hành động của mình, như những sự khích lệ được cung cấp trong môi trường xã hội. Như một hệ quả, chúng ta khước từ những tổn thất khi làm việc đó đồng nghĩa với việc thừa nhận thất bại, chúng ta có thành kiến với những hành động có thể dẫn tới sự hối tiếc và chúng ta gợi ra một sự viển vông nhưng tương phản rõ nét giữa chểnh mảng và ủy quyền, không làm và làm, bởi ý thức trách nhiệm đối với người này có thể sẽ cao hơn so với những người khác. Tiền tệ sau cùng để làm phần thưởng hoặc trừng phạt thường có cảm xúc, một dạng của hoạt động tự phân chia mà chắc hẳn tạo ra những xung đột về lợi ích khi cá nhân hành động như một trung gian đại diện cho một tổ chức. NHỮNG GIÁ TRỊ VỀ TINH THẦN Richard Thaler đã từng bị mê hoặc trong nhiều năm bởi sự giống nhau giữa thế giới của sự tính toán cùng với những giá trị tinh thần mà chúng ta sử dụng để thiết lập và vận hành cuộc sống của mình, với các kết quả đôi khi là ngớ ngẩn nhưng lại rất hữu dụng. Các giá trị tinh thần đến từ một vài trạng thái khác nhau. Chúng ta tích trữ tiền bạc của mình dưới những giá trị khác nhau, đôi khi nó là vật chất, đôi lúc chỉ là tinh thần. Thường chúng chỉ dành các khoản tiền tiết kiệm cho việc học hành của con em chúng ta hoặc cho các tình huống y tế khẩn cấp. Rõ ràng, ở đây có một hệ thống phân cấp rõ ràng các mong muốn của chúng ta để rút ra các giá trị này nhằm trang trải cho những nhu cầu hiện tại. Chúng ta sử dụng các bảng kê khai tài chính để kiểm soát việc chi tiêu của bản thân, như lập một khoản ngân sách chi tiêu trong gia đình, giới hạn lượng cà phê tiêu tốn hàng ngày hoặc tăng thời gian dành cho việc rèn luyện thể lực. Thông thường, chúng ta chi trả một khoản cho việc kiểm soát bản thân, ví dụ cùng một lúc gửi tiền vào một tài khoản tiết kiệm và gia hạn nợ trên thẻ credit. Tính kinh tế của hình mẫu tác nhân hợp lý không viện đến sự tính toán trực giác: Chúng có một cái nhìn toàn diện về các kết quả và được định hướng bởi những động cơ bên ngoài. Đối với con người, các giá trị tinh thần là một dạng của cấu trúc hẹp; chúng duy trì mọi thứ dưới sự kiểm soát và có thể điều khiển được bởi một ý nghĩ có hạn. Các giá trị tinh thần được sử dụng rộng rãi nhằm bám vững mục tiêu. Hãy nhớ lại rằng: Các tay gôn chuyên nghiệp có cú đánh nhẹ vào lỗ thành công hơn nhiều khi sắp đặt để tránh một cú bogey hơn là đánh thành công một cú birdie. Một kết luận mà chúng tôi có thể rút ra đó là các tay gôn cự phách nhất tạo ra một giá trị riêng biệt cho từng lỗ gôn, họ không chỉ duy trì một giá trị duy nhất cho thành công toàn diện của mình. Một ví dụ mỉa mai mà Thaler đã thuật lại trong một bản báo cáo trước đó vẫn là một trong những ví dụ minh họa xuất sắc nhất về sự giải thích bằng tâm lý ảnh hưởng tới hành vi như thế nào: Hai người hâm mộ thể thao cuồng nhiệt dự định 40 dặm để xem một trận đấu bóng rổ. Một người trong số họ đã trả tiền cho tấm vé của mình; người kia đang mua vé thì nhận được một vé miễn phí khác từ một người bạn. Một trận bão tuyết được dự báo là sẽ xuất hiện vào đêm diễn ra trận đấu. Ai trong số hai người có khả năng đương đầu với bão tuyết hơn để tới xem trận đấu? Câu trả lời đã có ngay tức khắc: Chúng ta biết rằng người đã trả tiền cho tấm vé của mình có khả năng lái xe tới xem nhiều hơn. Lời giải đáp đưa ra dựa trên tâm lý. Chúng ta giả định rằng cả hai người hâm mộ này lập ra một giá trị cho trận đấu mà họ đã mong đợi được xem, việc bỏ lỡ trận đấu sẽ khép lại các giá trị với một bản cân đối tiêu cực. Không chú ý tới việc họ đã tới với tấm vé như thế nào, cả hai đều sẽ bị làm cho thất vọng – nhưng sai ngạch rõ ràng là tiêu cực hơn đối với người đã mua vé và giờ đây rỗng túi cũng như là thua thiệt vì trận đấu. Vì ở nhà thì thật tồi tệ đối với cá nhân này, anh ta được thúc đẩy để vượt bão tuyết tới xem trận đấu nhiều hơn. Có những sự tính toán ngầm về trạng thái của bảng cân đối cảm xúc, theo như kiểu mà Hệ thống 1 thực thi mà không hề có sự cân nhắc kỹ càng. Các cảm xúc mà con người gắn với các giá trị tinh thần của họ không được thừa nhận trong lý thuyết kinh tế chuẩn. Một con người kinh tế có thể nhận ra rằng tấm vé đã thực sự được thanh toán và không thể hoàn trả. Đó là chi phí “chìm” và con người kinh tế có thể sẽ không quan tâm xem liệu rằng anh ta đã mua tấm vé để tới trận đấu hay là có được nhờ một người bạn (nếu kinh tế có những người bạn). Để thực thi hành vi dựa trên lý trí này, Hệ thống 2 sẽ phải ý thức được về khả năng đối nghịch với thực tế: “Tôi sẽ vẫn lái xe dưới bão tuyết nếu tôi được nhận vé miễn phí từ một người bạn chứ?” Cần phải vận dụng tới một đầu óc lanh lợi và có kỷ luật để nêu lên một câu hỏi khó như vậy. Một nhầm lẫn có liên quan gây ưu phiền cho các nhà đầu tư cá nhân khi họ bán các cổ phần từ danh mục đầu tư của mình: Bạn cần có tiền để trang trải các chi phí đám cưới của con gái bạn và sẽ phải nhượng lại vài cổ phần. Bạn nhớ mức giá ở thời điểm bạn mua vào trên mỗi đầu cổ phần và có thể xác định nó như là một “cổ phần thành công”, giá trị hiện tại nhiều hơn so với mức bạn đã trả để mua nó, hoặc như là một người mất của. Trong số các cổ phần mà bạn sở hữu, Blueberry Tiles là một cổ phần thành công, nếu bạn nhượng lại nó vào ngày hôm nay bạn sẽ thu được một khoản lợi ích là 5.000 đô-la. Bạn nắm giữ một khoản đầu tư tương tự ở Tiffany Motor, hiện tại nó có giá là 5.000 đô-la, thấp hơn so với mức giá bạn đã trả để mua nó. Giá trị của cả hai cổ phần đều đã ổn định trong nhiều tuần gần đây. Bạn có khả năng nhượng lại cổ phần nào nhiều hơn? Một cách hợp lý để trình bày hệ thống sự chọn lựa này đó là: “Tôi có thể kết toán khóa sổ cổ phần Blueberry và đạt được thắng lợi cho mục đích của tôi như một nhà đầu tư. Như một sự lựa chọn, tôi có thể kết toán khóa sổ cổ phần Tiffany Motor và thêm vào thành tích của mình một thất bại. Tôi sẽ thích cái nào hơn?” Nếu vấn đề được dựng lên như là một sự lựa chọn giữa việc mang lại niềm vui cho bản thân và tự làm tổn thương mình, bạn chắc chắn sẽ nhượng lại cổ phần Blueberry Tiles và tận hưởng năng lực đầu tư của bạn. Như có thể đã được dự tính, nghiên cứu tài chính đã ghi nhận một sự ưu ái lớn dành cho các cổ phiếu chuyển nhượng thành công hơn là những cổ phiếu thua lỗ - một khuynh hướng đã bị gán cho một nhãn mù mờ: Hiệu ứng sắp đặt. Hiệu ứng sắp đặt là một ví dụ về Cấu trúc hẹp. Nhà đầu tư đã chuẩn bị một tài khoản cho từng cổ phiếu mà mình đã mua mong muốn kết toán mọi tài khoản với một lợi ích. Tác nhân lý trí có thể có một cái nhìn bao quát đối với danh mục đầu tư và chuyển nhượng cổ phần ít có khả năng sinh lời trong tương lai hơn mà không cần cân nhắc xem liệu đó là một cổ phiếu thành công hay thua lỗ. Amos đã kể cho tôi về một cuộc đối thoại với nhà cố vấn tài chính và đã đề nghị ông này cung cấp một bản danh sách hoàn chỉnh về các cổ phần trong danh mục đầu tư của mình, bao gồm cả mức giá mua vào ở từng thời điểm. Khi Amos ôn tồn hỏi: “Đó không được cho là quan trọng hay sao?”, vị cố vấn đã nhìn với vẻ đầy kinh ngạc. Hình như ông ta luôn tin tưởng rằng trạng thái giá trị tinh thần là một lý do hợp lệ. Phỏng đoán của Amos về những niềm tin của vị cố vấn tài chính chắc hẳn đúng, nhưng ông này đã sai khi coi mức giá mua như là điều không liên quan. Giá mua là vấn đề và nên được xem xét. Hiệu ứng sắp đặt là một khuynh hướng tốn kém bởi câu hỏi về việc liệu chuyển nhượng các cổ phiếu thành công hay thua lỗ có một câu trả lời rõ ràng và nó không phải là không tạo ra sự khác biệt nào. Nếu bạn quan tâm tới tài sản của mình hơn là những cảm xúc ngay trước mắt mình, bạn sẽ nhượng bán cổ phiếu thua lỗ Tiffany Motor và giữ lại cổ phiếu đang lên Blueberry Tiles. Chí ít là ở nước Mỹ, các khoản thuế đưa ra một động cơ mạnh mẽ: Việc thừa nhận những khoản lỗ làm giảm các khoản thuế của bạn, trong khi việc nhượng bán những cổ phiếu thành công vạch trần bạn trước thuế vụ. Thực tế cơ bản về hoạt động tài chính trên thực tế được phổ cập tới tất cả các nhà đầu tư Mỹ, và nó xác định các quyết định họ đưa ra trong suốt một tháng của năm – các nhà đầu tư nhượng bán các cổ phiếu thất bại nhiều hơn vào tháng 12, khi các khoản thuế xuất hiện trong đầu họ. Tất nhiên, lợi thế về thuế luôn tồn tại trong cả năm, nhưng đối với 11 tháng của năm, sự tính toán về tinh thần chiếm ưu thế hơn ý nghĩa tài chính thông thường. Một lý lẽ khác phản đối việc nhượng bán các cổ phiếu thành công đó là sự dị thường của thị trường đã được chứng minh hiệu quả mà các cổ phiếu gần đây đã đạt tới giá trị có khả năng tiếp tục tăng tốc ít nhất trong một khoảng thời gian ngắn. Hiệu ứng mạng lưới khá lớn: Lợi tức cộng thêm sau có thể dự tính của việc nhượng bán Tiffany nhiều hơn Blueberry 3.4% trên cả năm. Việc kết toán một giá trị tinh thần với một lợi ích là một sự thú vị, nhưng sự thú vị đó bạn phải trả tiền. Sai lầm này không chỉ có ở con người chúng ta nói chung mà ngay con người kinh tế có thể từng phạm phải. Nhà đầu tư giàu kinh nghiệm, những người đang vận dụng Hệ thống 2 của họ, ít mắc phải lỗi này hơn là những người mới. Một nhà lập định dựa trên lý trí chỉ quan tâm tới các kết quả trong tương lai của các khoản đầu tư hiện tại. Việc điều chỉnh các sai phạm ban đầu này không nằm trong những mối quan tâm của kinh tế. Quyết định đầu tư các nguồn lực bổ sung cho một giá trị sụt giảm, khi các khoản đầu tư tốt hơn có sẵn, được hiểu như là sự lầm tưởng về chi phí chìm, một sai lầm tốn kém được quan sát trong các quyết định lớn nhỏ. Hãy tưởng tượng một công ty đã tiêu tốn 50 triệu đô-la vào một dự án. Dự án đó giờ đây chậm tiến độ và những dự đoán về các khoản lợi nhuận cuối cùng ít hứa hẹn hơn so với giai đoạn lập kế hoạch ban đầu. Một khoản đầu tư bổ sung 60 triệu đô-la được yêu cầu để mang tới cho dự án một cơ hội. Một đề án để lựa chọn là đầu tư cùng số lượng tiền như vậy vào một dự án mới mà hiện tại có vẻ có khả năng mang lại các khoản lợi nhuận cao hơn. Công ty sẽ làm gì? Tất cả đều diễn ra quá thường xuyên khiến một công ty bị ảnh hưởng bởi những chi phí chìm giống như việc lái xe trong cơn bão tuyết, ném vào một khoản tiền chắc chắn sinh lời sau khi đã thất bại hơn là chịu bẽ mặt qua việc kết toán khóa sổ một thất bại tốn kém. Tình thế này nằm trong góc trên bên phải trong mô hình bốn phần, nơi mà sự lựa chọn nằm giữa một tổn thất chắc chắn và một trò may rủi không có lợi, đây thường là sự ưu tiên không khôn ngoan. Sự leo thang của điều ràng buộc với những nỗ lực thất bại là một sai lầm từ viễn cảnh của doanh nghiệp, nhưng không nhất thiết từ viễn cảnh của thành viên ban quản trị - người “sở hữu” một dự án nhầm lẫn. Việc hủy bỏ dự án sẽ để lại một vết nhơ vĩnh viễn lên bản lý lịch của thành viên ban quản trị và những lợi ích cá nhân của anh ta có lẽ được đáp ứng một cách tốt nhất qua việc mạo hiểm hơn nữa với các nguồn lực của tổ chức trong sự hy vọng thu hồi lại khoản đầu tư ban đầu – hoặc ít nhất là trì hoãn ngày thanh toán. Với sự hiện diện của các khoản chi phí chìm, các động cơ của nhà quản lý chệch hướng với mục tiêu của doanh nghiệp và các cổ đông, một dạng tương tự của thứ được biết tới như là bài toán của doanh nghiệp. Hội đồng quản trị cũng ý thức được những xung đột này và thường thay thế một vị CEO vốn bị trở ngại bởi các quyết định trước đó và miễn cưỡng thực thi những thiệt hại. Các thành viên Hội đồng quản trị không nhất thiết tin rằng vị CEO mới giỏi hơn so với người mà ông ta thay thế. Họ chỉ biết rằng ông ta không mang lại các giá trị tinh thần tương tự và bởi vậy tốt hơn là có khả năng bỏ qua các chi phí chìm của các khoản đầu tư trong quá khứ trong việc đánh giá các cơ hội hiện tại. Sự lầm tưởng về chi phí chìm giữ chân người ta quá lâu trong những công việc kém hiệu quả, các cuộc hôn nhân không hạnh phúc, và các dự án nghiên cứu không hứa hẹn. Tôi thường quan sát các nhà khoa học trẻ vật lộn để cứu vãn một dự án sụp đổ, khi họ được khuyên can nên chấp nhận thực tế và bắt tay vào một dự án mới. May thay, nghiên cứu chỉ ra rằng chí ít trong một số bối cảnh thì sự lầm tưởng có thể được vượt qua. Sự lầm tưởng về chi phí chìm được nhận diện và giảng dạy như là một sai sót trong cả các khóa học kinh tế lẫn kinh doanh, rõ ràng là mang lại hiệu ứng tốt: Đây là căn cứ mà các sinh viên tốt nghiệp trong các lĩnh vực này luôn mong muốn thoát khỏi một dự án thất bại. HỐI TIẾC Hối tiếc là một cảm xúc và nó cũng là một sự trừng phạt mà chính chúng ta tự “tuyên án” cho chính mình. Nỗi sợ phải hối tiếc là một trong số những quyết định mà con người đưa ra (“Đừng có làm như vậy, bạn sẽ hối tiếc vì điều đó” là một lời cảnh báo thường thấy), và sự trải nghiệm thực tế về sự hối tiếc rất đỗi quen thuộc với mỗi chúng ta. Trạng thái cảm xúc được mô tả chân thực bởi hai nhà tâm lý học người Hà Lan, họ đã ghi chép rằng hối tiếc được “đi kèm với cảm giác rằng ai đó nên được biết nhiều hơn, bởi một cảm giác lún sâu, bởi những suy nghĩ về lỗi lầm mà ai đó đã phạm phải và các cơ hội bị bỏ lỡ, bởi một xu hướng khó chịu với chính mình và sửa lỗi của một người nào đó, và bởi mong muốn xóa bỏ biến cố đó và nắm lấy cơ hội thứ hai.” Niềm hối tiếc sâu sắc là điều mà bạn trải nghiệm khi bạn có thể hoàn toàn tự mình hình dung ra một cách dễ dàng đang làm điều gì đó hơn là điều mà bạn đã làm. Hối tiếc là một trong những cảm xúc trái với thực tế được gây ra bởi sự sẵn có của các lựa chọn thay thế thực tế. Sau mỗi vụ tai nạn máy bay có những câu chuyện đặc biệt về những hành khách “không nên” có mặt ở chuyến bay nhưng đã có mặt trên chuyến bay bị tai nạn đó, những hành khách ngồi hàng ghế cuối cùng của chuyến bay vì được chuyển giao từ một hãng hàng không khác vào đêm hôm trước. Đặc trưng chung của những câu chuyện đau lòng này chính là họ đã dính líu vào các biến cố khác thường và các biến cố khác thường này dễ dàng xóa bỏ hơn so với các biến cố thông thường trong sự tưởng tượng. Ký ức liên tưởng bao gồm một sự hình dung về thế giới và các quy luật của nó. Một biến cố dị thường thu hút sự chú ý và nó cũng kích thích ý niệm về biến cố mà lẽ ra sẽ diễn ra thông thường trong những tình huống tương tự. Để đánh giá đúng mối liên kết giữa sự hối tiếc với trạng thái thông thường, xem xét kịch bản sau đây: Ông Brown gần như chưa từng cho ai đi nhờ xe. Ngày hôm qua ông đã cho một người đàn ông quá giang và đã bị cướp. Ông Smith thường xuyên cho đi nhờ xe. Ngày hôm qua ông đã cho một người đàn ông quá giang và đã bị cướp. Ai trong số hai người sẽ trải nghiệm sự hối tiếc lớn hơn trong tình tiết này? Các kết quả không hề gây ngạc nhiên: 88% người tham gia trả lời đã nói là ông Brown, 12% nói ông Smith. Hối tiếc không giống như sự đáng trách. Những người tham gia phỏng vấn khác đã được hỏi câu hỏi này về tình tiết tương tự: Ai sẽ bị chỉ trích nặng nề nhất bởi những người khác? Kết quả là: Ông Brown 23%, ông Smith 77%. Hối tiếc và đáng trách đều được gợi ra bởi một so sánh với một quy phạm, nhưng các quy phạm có liên quan lại khác nhau. Các cảm xúc được trải nghiệm bởi ông Brown và ông Smith bị chi phối bởi điều mà họ thường làm đối với những người xin đi nhờ xe. Việc cho một người đi nhờ xe là một biến cố bất thường đối với ông Brown và do vậy hầu hết mọi người dự tính ông trải nghiệm nỗi hối tiếc sâu sắc hơn. Tuy nhiên, một người quan sát hoạt động phán xét sẽ so sánh cả hai người đàn ông với các quy phạm theo quy ước của hành vi hợp lý và có khả năng trách cứ ông Smith vì hành động chấp nhận những rủi ro vô lý một cách thường xuyên. Chúng ta bị xui khiến để nói rằng ông Smith xứng đáng với điều không thể tránh khỏi này và ông Brown đã không may. Nhưng nhiều khả năng ông Brown sẽ tỏ ra khó chịu với chính bản thân mình, bởi ông đã hành động vượt khỏi đặc tính của mình trong trường hợp này. Các nhà lập định biết được rằng họ dễ hối tiếc và trạng thái đề phòng cảm xúc đau đớn ấy chiếm một phần trong nhiều quyết định. Các trực giác về sự hối tiếc khá giống nhau và thôi thúc, giống như ví dụ minh họa tiếp theo đây. Paul sở hữu một số cổ phiếu ở công ty A. Trong năm qua, anh đã xem xét việc chuyển đổi sang cổ phần ở công ty B, nhưng anh đã quyết định ngược lại. Giờ đây anh biết được rằng lẽ ra mình sẽ kiếm được món tiền nhiều hơn 1.200 đô-la nếu anh chuyển sang cổ phần của công ty B. George đã sở hữu cổ phiếu tại công ty B. Trong suốt năm qua, anh đã chuyển sang cổ phần tại công ty A. Anh ta giờ đây biết được rằng mình lẽ ra có thể kiếm được món tiền nhiều hơn 1.200 đô-la nếu anh vẫn giữ cổ phần của mình ở công ty B. Ai cảm thấy hối tiếc nhiều hơn? Các kết quả khá rõ ràng: 8% người tham gia phỏng vấn nói là Paul, 92% nói là George. Điều này thật kỳ lạ, các tình huống của hai nhà đầu tư về khách quan mà nói thì giống hệt nhau. Họ giờ đây cùng sở hữu cổ phần A và cùng có thể khấm khá hơn với số tiền như nhau nếu họ sở hữu được cổ phần B. Điều khác biệt duy nhất đó là George ở trong tình huống hiện tại vì đã hành động, trong khi Paul rơi vào tình huống tương tự vì không hành động. Ví dụ ngắn này minh họa cho một câu chuyện khái quát: Người ta dự tính có được những phản ứng cảm xúc mãnh liệt hơn (bao gồm cả hối tiếc) trước một kết quả mà được tạo ra bởi hành động hơn là cùng một kết quả khi nó được tạo ra bởi sự thụ động. Điều này đã được kiểm định trong tình huống mạo hiểm: Người ta mong chờ được may mắn nếu họ mạo hiểm và chiến thắng hơn nếu họ tự kiềm chế mạo hiểm và nhận lấy số tiền tương tự. Chí ít sự bất cân xứng là rõ ràng đối với những tổn thất và nó gắn với sự trách cứ cũng như với sự hối tiếc. Điểm mấu chốt không phải là sự khác biệt giữa mệnh lệnh với thiếu sót mà là sự khác biệt giữa các phương án mặc định với những hành động lệch khỏi sự ngầm định. Khi bạn đi chệch khỏi sự ngầm định, bạn có thể dễ dàng mường tượng ra quy phạm và nếu sự mặc định được liên kết với những kết quả xấu, sự trái ngược giữa hai thứ này có thể là nguồn gốc của những cảm xúc đau đớn. Phương án ngầm định khi bạn sở hữu một cổ phần là không nhượng bán nó, nhưng phương án ngầm định khi bạn gặp đồng sự của mình vào buổi sáng là để chào anh ta. Việc bán một cổ phần và quên không chào đồng nghiệp của bạn cùng là những sự chệch hướng khỏi phương án ngầm định và những mặc định tự nhiên cho sự hối tiếc hay trách cứ. Với một minh chứng thuyết phục cho sức mạnh của các phương án ngầm định, những người tham gia đã chơi một ván bài xì-dzách mô phỏng trên máy tính. Một số người chơi đã được hỏi: “Bạn có muốn được chia thêm bài không?” trong khi số khác được hỏi: “Bạn có muốn không rút nữa và bắt đầu lượt của nhà cái?” Bất chấp câu hỏi đó, việc nói có được liên hệ với sự hối tiếc nhiều hơn so với việc nói không nếu như có một kết quả xấu! Câu hỏi hiển nhiên gợi ra một phản ứng ngầm định, đó là: “Tôi không có một thôi thúc mãnh liệt để làm điều đó.” Đó chính là sự chệch hướng so với sự ngầm định và sản sinh ra sự hối tiếc. Một tình thế khác ở đó hành động là sự ngầm định thuộc về một vị huấn luyện viên mà đội của ông đã thua thảm hại trong trận đấu trước đó. Vị huấn luyện viên được kỳ vọng tạo ra một sự thay đổi về nhân sự hoặc chiến thuật, và một thất bại đối với việc làm như vậy sẽ sản sinh ra sự khiển trách và hối tiếc. Sự bất cân xứng trong mối rủi ro của sự hối tiếc thiên về những lựa chọn theo thông lệ và mối ác cảm rủi ro. Khuynh hướng này xuất hiện trong nhiều bối cảnh. Những người tiêu dùng được nhắc nhở rằng họ có thể cảm thấy hối tiếc khi một kết quả của các chọn lựa của họ cho thấy một sự ưu ái gia tăng đối với các phương án dựa theo thông lệ, những thương hiệu yêu thích qua các đặc thù chung. Hành vi của các nhà quản lý các quỹ tài chính vào cuối năm cũng cho thấy một hiệu ứng của sự đánh giá được tính toán trước: Họ có xu hướng làm sạch các danh mục đầu tư của mình trái với thông lệ và có vấn đề khác. Ngay cả các quyết định sinh - tử cũng có thể bị ảnh hưởng. Hãy tưởng tượng một bác sĩ với một bệnh nhân mắc bệnh nan y. Một pháp đồ điều trị hợp với chuẩn điều trị thông thường; một pháp đồ khác bất thường. Vị bác sĩ có một vài lý do để tin rằng pháp đồ điều trị trái với thông lệ gia tăng các cơ hội của người bệnh, nhưng căn cứ đưa ra không hề thuyết phục. Vị bác sĩ kê toa khác thường này sẽ đối mặt với một mối rủi ro đáng kể về sự hối tiếc, khiển trách và có thể là kiện tụng. Trong sự nhận thức muộn, sẽ dễ dàng hơn khi có sự chọn lựa thông thường; sự chọn lựa dị thường sẽ dễ dàng bị hủy bỏ. Sự thực là, một kết quả tốt đẹp sẽ thêm phần danh tiếng cho vị bác sĩ đã dám làm, nhưng mối lợi tiềm tàng này nhỏ hơn nhiều so với chi phí tiềm ẩn bởi sự thành công nói chung là một kết quả bình thường hơn là sự thất bại. TRÁCH NHIỆM Những tổn thất được làm cho nặng thêm khoảng gấp hai lần so với những lợi ích trong một vài phạm vi: Sự chọn lựa giữa các trò may rủi, hiệu ứng sở hữu và các phản ứng trước sự thay đổi giá cả. Hệ số ác cảm mất mát cao hơn nhiều trong một số trường hợp. Nói chung, bạn có thể trở nên ác cảm với mất mát nhiều hơn đối với các khía cạnh của cuộc sống của bạn, chúng quan trọng hơn nhiều so với tiền bạc, ví dụ như sức khỏe. Hơn thế nữa, sự miễn cưỡng “bán” những tài sản sở hữu quan trọng gia tăng đột ngột khi việc thực thi hành động đó có thể khiến bạn phải chịu trách nhiệm về một kết quả tồi tệ nào đó. Tác phẩm kinh điển trước đó của Richard Thaler bàn về hành vi người tiêu dùng bao gồm một ví dụ hấp dẫn, được biến đổi một chút trong câu hỏi sau đây: Bạn vừa bị nhiễm một dịch bệnh mà một khi mắc phải sẽ dẫn tới cái chết nhanh chóng và không đau đớn trong vòng một tuần. Xác suất cho việc bạn mang mầm bệnh là 1/1.000. Có một liều vắc-xin mà chỉ có hiệu quả trước khi bất cứ triệu chứng bệnh nào xuất hiện. Bạn sẽ sẵn lòng chi trả cho liều vắc-xin đó nhiều nhất là bao nhiêu? Hầu hết mọi người đều sẵn lòng chi trả một lượng tiền đáng kể nhưng có giới hạn. Việc đối mặt với khả năng tử vong thật chẳng lấy gì làm dễ chịu, nhưng rủi ro là rất nhỏ và có vẻ như thật vô lý khi tự làm khánh kiệt bản thân để tránh nó. Giờ hãy xem xét một sự biến đổi nhỏ: Các tình nguyện viên được cần tới cho nghiên cứu về dịch bệnh ở trên. Tất cả những gì được yêu cầu đó là bạn đặt bản thân vào 1/1.000 khả năng nhiễm phải dịch bệnh. Mức tối thiểu mà bạn có thể sẽ đòi trả để làm tình nguyện viên cho chương trình này là bao nhiêu? Như bạn có thể dự tính, mức giá mà các tình nguyện viên đặt ra cao hơn rất nhiều so với mức giá mà họ sẵn sàng chi trả cho liều vắc-xin. Thaler đã báo cáo một cách không chính thức tỷ lệ điển hình là khoảng 50:1. Mức giá bán cực cao phản ánh hai đặc thù của vấn đề này. Điểm thứ nhất, bạn không được đòi hỏi để bán sức khỏe của mình. Điểm thứ hai, giao dịch không được coi là hợp pháp và sự miễn cưỡng tham gia được biểu thị ở một mức giá cao hơn. Có lẽ quan trọng hơn cả là bạn sẽ phải chịu trách nhiệm với kết quả nếu nó không tốt. Bạn biết được rằng nếu bạn thức giấc vào một buổi sáng nào đó với những triệu chứng cho thấy rằng bạn sẽ sớm lìa đời, bạn sẽ cảm thấy hối tiếc với trường hợp thứ hai nhiều hơn so với trường hợp đầu, bởi bạn có thể từ chối ý nghĩ về việc bán sức khỏe của mình thậm chí còn không dừng lại để cân nhắc cái giá của nó. Bạn có thể ở yên với phương án ngầm định chẳng làm gì cả và giờ đây sự giả định này sẽ ám ảnh bạn suốt phần đời còn lại. Bản thăm dò các phản ứng của các bậc cha mẹ trước một loại thuốc trừ sâu nguy hiểm tiềm ẩn đã đề cập tới trước đó cũng bao gồm một câu hỏi về sự sẵn sàng chấp thuận rủi ro tăng thêm. Những người tham gia thí nghiệm được yêu cầu hình dung ra rằng họ đã sử dụng một liều thuốc trừ sâu mà khiến số trẻ em nhiễm độc là 15 trên 10.000 chai thuốc. Một loại thuốc trừ sâu rẻ hơn đang có bán, theo đó rủi ro tăng từ 15 lên 16 trên 10.000 chai. Các bậc phụ huynh được hỏi về mức giảm giá sẽ thuyết phục được họ chuyển sang loại sản phẩm rẻ hơn (và ít an toàn hơn). Hơn hai phần ba số bậc phụ huynh trong cuộc điều tra đã trả lời rằng họ sẽ không mua sản phẩm mới dù với bất cứ giá nào! Rõ ràng họ đã bị làm cho ghê sợ bởi rất nhiều ý nghĩ về việc đánh đổi sự an toàn của con cái để lấy tiền bạc. Một số ít đã tìm được một khoản giảm giá mà họ có thể chấp nhận. Họ đòi hỏi một khoản tiền cao hơn nhiều so với khoản tiền mà họ sẽ sẵn sàng chi trả cho sự cải thiện an toàn hơn nhiều đối với sản phẩm. Bất cứ ai cũng có thể hiểu và cảm thông với sự miễn cưỡng đánh đổi của các bậc cha mẹ ngay cả với một chút nguy hiểm với con cái họ vì tiền. Tuy nhiên, điều đó chẳng có giá trị gì khi quan điểm này không rõ ràng và tổn hại tiềm ẩn đối với sự an toàn của những gì chúng ta muốn được bảo vệ. Ngay cả khi các bậc cha mẹ yêu thương con cái nhất, họ cũng có những hạn chế về thời gian và tiền bạc để bảo vệ con cái của mình (giá trị tinh thần của việc giữ-cho-con-tôi-an-toàn cũng có một ngân sách bị hạn chế), và điều này có vẻ hợp lý để triển khai những xoay xở theo cách là đặt chúng vào cách sử dụng tốt nhất. Tiền bạc có thể được tiết kiệm bởi việc chấp thuận một chút gia tăng rủi ro tổn hại từ một loại thuốc trừ sâu chắc chắn có thể được đưa vào sử dụng tốt hơn trong việc giảm thiểu sự tiếp xúc của trẻ em với những tổn hại khác, có lẽ bằng việc mua một chiếc ghế ngồi xe an toàn hơn hoặc che chắn cho những ổ điện. Sự thỏa hiệp tinh thần chống lại việc chấp thuận bất cứ sự tăng thêm rủi ro nào không phải là một cách có hiệu quả để sử dụng nguồn ngân sách hiệu quả. Thực tế, sự kháng cự có thể được thúc đẩy bởi một nỗi sợ hãi ích kỷ của sự hối tiếc hơn là bởi một mong ước nhìn nhận lạc quan sự an toàn của trẻ nhỏ. Suy nghĩ “nếu-thì sao?” xảy đến với bất kỳ sự đánh đổi nào của các vị phụ huynh tiến hành một cách thận trọng, như vậy là một hình ảnh về sự hối tiếc và hổ thẹn mà họ sẽ cảm thấy trong biến cố thuốc trừ sâu gây ra tổn hại. Mối ác cảm ghê gớm trước việc đánh đổi rủi ro gia tăng lấy một số lợi ích khác diễn ra trên một quy mô lớn về phương diện luật pháp và những quy định về quản trị rủi ro. Xu hướng này diễn ra đặc biệt mạnh mẽ ở châu Âu, nơi nguyên lý cẩn trọng, ngăn chặn bất cứ hành động nào có thể gây ra tổn hại, là một học thuyết được chấp nhận rộng rãi. Trong bối cảnh quy định, nguyên lý cẩn trọng đặt toàn bộ gánh nặng của việc chứng thực an toàn lên bất cứ ai đảm nhận những hành vi có thể gây tổn hại cho người hoặc môi trường. Nhiều cơ quan quốc tế đã chỉ ra rõ rằng sự thiếu vắng căn cứ khoa học đối với tổn hại tiềm ẩn không đủ biện minh cho việc chấp nhận những rủi ro. Như nhà luật học Cass Sunstein chỉ ra rằng: Nguyên lý cẩn trọng là đáng giá và khi được làm sáng tỏ hoàn toàn, nó có thể bị làm cho tê liệt. Ông đề cập tới một danh sách ấn tượng các bước tiến có thể không vượt qua đuợc bài kiểm tra, bao gồm “máy bay, máy điều hòa không khí, thuốc kháng sinh, ô tô, chất clour, vắc-xin phòng sởi, phẫu thuật mở lồng ngực, sóng vô tuyến, tủ lạnh, vắc-xin đậu mùa và tia X.” Lối giải thích mạnh bạo của nguyên lý cẩn trọng rõ ràng là không đứng vững được. Nhưng Mối ác cảm mất mát nâng cao được gắn vào một khả năng trực giác về đạo đức được chia sẻ rộng khắp và bền vững; nó khởi sinh từ Hệ thống 1. Sự tiến thoái lưỡng nan giữa những quan điểm đạo đức với ác cảm mất mát và quản lý rủi ro hiệu quả không có một giải pháp đơn giản và thuyết phục. Chúng tôi đã dành nhiều ngày cho việc lường trước và cố gắng tránh những nỗi đau cảm xúc mà chúng tôi gây ra cho chính mình. Chúng tôi sẽ nhận lấy những kết quả mơ hồ, những án phạt tự đặt ra (và các phần thưởng không thường xuyên) mà chúng tôi trải nghiệm trong cuộc đời của mình là như thế nào? Kinh tế không được cho là có được những điều đó và chúng chỉ đáng giá với con người. Chúng dẫn tới các hành động gây bất lợi đối với tài sản của các cá nhân, sự hợp lý của chính sách và sự phồn thịnh của xã hội. Nhưng các cảm xúc về sự hối tiếc và trách nhiệm đạo đức là có thực và thực tế là kinh tế không có chúng có thể là không thích đáng. Đặc biệt là, liệu nó có hợp lý khi để các chọn lựa của bạn bị chi phối bởi sự phòng ngừa sự hối tiếc hay không? Sự mẫn cảm với hối tiếc, giống như những tình trạng dễ ngất xỉu, là một thực tế của cuộc sống mà một người buộc phải điều chỉnh. Nếu bạn là một nhà đầu tư, đủ giàu có và cẩn trọng hết sức, bạn có thể có khả năng chi trả cho sự tốn kém của một danh mục đầu tư làm giảm thiểu sự hối tiếc dự tính dẫu cho nó không tối đa hóa sự tích lũy tài sản. Bạn cũng có thể thực hiện những biện pháp phòng ngừa sẽ miễn nhiễm cho bạn trước sự hối tiếc. Có lẽ, hữu dụng nhất là trở nên rõ ràng với việc đề phòng sự hối tiếc. Nếu bạn có thể nhớ thời điểm mọi sự trở nên tồi tệ mà bạn đã xem xét tới khả năng hối tiếc một cách cẩn trọng trước khi đưa ra quyết định, bạn có thể sẽ trải nghiệm nó ít hơn. Bạn cũng nên biết được rằng sự hối tiếc và khuynh hướng nhận thức sau biến cố sẽ đến cùng lúc, bởi vậy bất cứ điều gì bạn có thể làm để ngăn ngừa sự nhận thức muộn có thể sẽ trở nên hữu ích. Cách giải quyết tránh sự nhận thức muộn của cá nhân tôi là hoặc suy nghĩ cực kỳ cẩn trọng hoặc hoàn toàn tự nhiên khi đưa ra một quyết định với những kết quả về dài hạn. Nhận thức sau biến cố trở thành tồi tệ khi bạn nghĩ ngắn, chỉ đủ để tự nhủ với bản thân sau đó: “Mình gần như đã đưa ra một sự chọn lựa tốt hơn.” Daniel Gilbert và các đồng sự của mình đã thách thức một cách khiêu khích rằng: Con người thường lường trước sự hối tiếc nhiều hơn so với những gì họ sẽ thực sự trải nghiệm, bởi họ đánh giá thấp tính hiệu quả của những phòng bị tâm lý mà họ sẽ khai triển – thứ họ đã gán cho là “hệ thống miễn dịch tâm lý”. Khuyến cáo của họ đó là bạn không nên đặt quá nhiều gánh nặng lên sự hối tiếc, dù cho bạn có một chút hối tiếc đi nữa, nó sẽ tổn hại ít hơn những gì bạn nghĩ tới tại thời điểm hiện tại. PHÁT NGÔN VỀ VIỆC GIỮ VỮNG MỤC TIÊU “Anh ta có những giá trị tinh thần riêng biệt dành cho những thương vụ bằng tiền mặt và chuyển khoản. Tôi đã liên tục nhắc nhở anh ta rằng tiền cũng chỉ là tiền.” “Chúng tôi đang bám sát mã cổ phiếu đó chỉ để tránh việc kết toán tài khoản tinh thần của chúng tôi tại một thất bại. Đó chính là tác động tâm lý.” “Chúng tôi đã khám phá ra một món ăn tuyệt vời tại nhà hàng đó và chúng tôi chưa từng thử bất cứ món ăn nào khác, để tránh sự hối tiếc.” “Nhân viên bán hàng đã chỉ cho tôi thấy chiếc ghế xe hơi đắt nhất và nói rằng nó là chiếc ghế an toàn nhất và tôi đã không thể mua một mẫu rẻ hơn. Có cảm giác như một thương nhân thần thánh vậy.” Còn nữa
Phần 4 - Chương 33: Những sự đảo lộn Bấm để xem Bạn có nhiệm vụ lập kế hoạch bồi thường cho những nạn nhân của tội phạm bạo lực. Bạn phải xem xét trường hợp một người đàn ông bị bắn khiến cánh tay phải không thể kiểm soát được sau một vụ cướp ở cửa hàng bách hóa trong khu phố của mình. Có hai cửa hàng cạnh nhà của nạn nhân. Ông thường xuyên lui tới mua sắm ở một cửa hàng nhiều hơn cửa hàng còn lại. Hãy xem xét hai kịch bản sau: Vụ cướp diễn ra tại cửa hàng người đàn ông thường lui tới. Cửa hàng người đàn ông thường lui tới đã đóng cửa vì việc riêng, bởi vậy ông ta đã đi mua sắm tại cửa hàng khác, chính là cửa hàng nơi ông bị bắn. Người đàn ông bị bắn trong cửa hàng nào sẽ tạo ra sự khác biệt cho sự bù đắp của ông ta? Bạn đưa ra phán quyết của mình dựa trên sự đánh giá cùng lúc, nơi bạn xem xét hai trường hợp cùng lúc và đưa ra đối chiếu. Bạn có thể áp dụng một quy tắc. Nếu bạn nghĩ rằng kịch bản thứ hai xứng đáng nhận được sự đền bù lớn hơn, bạn sẽ áp dụng cho nó một trị giá đô-la lớn hơn. Ở đây gần như có sự đồng ý chung về câu trả lời: Sự bù đắp nên giống nhau trong cả hai trường hợp. Sự bù đắp là dành cho vết thương gây liệt cánh tay, vậy tại sao địa điểm nơi xảy ra vụ việc lại tạo sự khác biệt? Đánh giá cùng lúc về hai kịch bản mang tới cho bạn cơ hội để kiểm định những nguyên tắc đạo đức về những yếu tố có liên quan tới sự bồi thường thiệt hại cho nạn nhân. Đối với hầu hết mọi người, địa điểm không phải là một trong những yếu tố liên quan đến quyết định này. Trong một số trường hợp đòi hỏi cần thiết phải có sự so sánh thì có sự tư duy sẽ diễn ra rất chậm và Hệ thống 2 được viện đến để thực hiện. Hai nhà tâm lý học Dale Miller và Cathy McFarland, những người đã tạo ra hai kịch bản gốc này, đã trình bày kịch bản về chúng cho những người khác nhau để có thể đạt được sự đánh giá riêng của từng người. Những người tham gia trong thực nghiệm chỉ thấy được một kịch bản và đã gán một giá trị đô-la cho kết quả đó. Họ phát hiện ra rằng, khi bạn dự đoán chắc chắn rằng, nạn nhân được hưởng một khoản tiền lớn hơn rất nhiều trong một cửa hiệu mà ông ta hiếm khi lui tới so với nếu ông ta bị bắn trong cửa hàng ông thường xuyên lui tới. Ân hận (một “người anh em gần” của hối tiếc) là một thứ cảm giác không thực, nó được gợi ra bởi suy nghĩ “giá như ông ấy chỉ đi mua hàng ở cửa hàng quen thuộc của mình …” xuất hiện một cách dễ dàng trong đầu bạn. Các cơ chế quen thuộc của Hệ thống 1 về sự hoán đổi và sự mãnh liệt chuyển đổi ăn khớp với cường độ của phản ứng cảm xúc trước câu chuyện trên một mức tiền tệ, tạo ra một sự khác biệt lớn trong các khoản đô-la mà ông ta được thụ hưởng. Sự đối chiếu hai thí nghiệm này biểu lộ một sự tương phản rõ ràng. Gần như tất cả những người thấy được cả hai kịch bản cùng một lúc (bên trong chủ thể người thực hiện thí nghiệm) tán thành nguyên tắc rằng ân hận không phải là một sự suy xét chính đáng. Thật không may, nguyên tắc này có liên quan chỉ khi hai kịch bản được quan sát cùng một lúc và đây không phải là cách mà cuộc sống thường diễn ra. Chúng ta thường trải nghiệm cuộc sống trong hình thái giữa các chủ thể, tại đó những sự chọn lựa tương phản nhau có thể biến đổi suy nghĩ của bạn không hề tồn tại, và dĩ nhiên điều bạn trông thấy là tất cả. Như là một hệ quả, những niềm tin mà bạn ghi nhận khi bạn phản ánh về giáo lý không nhất thiết phải chi phối những phản ứng cảm xúc của bạn và những trực giác đạo đức xuất hiện trong đầu bạn trong các trường hợp khác nhau không nhất quán nội tại. Sự không nhất quán giữa sự đánh giá riêng lẻ và đánh giá chung về kịch bản tai nạn thuộc về một họ phổ quát của những sự đảo chiều phán quyết và lựa chọn. Những sự đảo chiều ưu tiên lần đầu tiên được phát hiện vào đầu những năm 1970 và nhiều sự đảo chiều thuộc các thể loại khác đã được báo cáo qua các năm. THÁCH THỨC KINH TẾ Những đảo chiều ưu tiên có một vị trí quan trọng trong lịch sử tranh luận giữa các nhà tâm lý học và kinh tế học. Chúng thu hút được sự chú ý đã được báo cáo bởi Sarah Lichtenstein và Paul Slovic, hai nhà tâm lý học đã hoàn tất khóa luận tốt nghiệp của mình tại trường Đại học Michigan cùng thời điểm với Amos. Họ đã tiến hành một thí nghiệm về những sự ưu ái giữa các trò cá cược, mà tôi miêu tả đơn giản hơn như sau: Bạn được đề nghị chọn lựa giữa hai trò cá độ, chúng được tiến hành trên vòng quay Rulet với 36 ô. Cược A: 11/36 thắng 160 đô-la, 25/36 thua 15 đô-la. Cược B: 35/36 thắng 40 đô-la, 1/36 thua 10 đô-la. Bạn được đề nghị chọn giữa một bên là cược an toàn với một bên là cá cược rủi ro hơn: Một chiến thắng gần như chắc chắn với một khoản tiền khiêm tốn, hoặc một cơ may nho nhỏ để thắng được một khoản tiền đủ lớn và một xác suất thua cược cao. Sự an toàn chiếm ưu thế, và B rõ ràng là lựa chọn phổ biến hơn. Giờ hãy xem xét từng bàn cược một cách riêng lẻ: Nếu bạn sở hữu cược đó, mức giá thấp nhất mà ở đó bạn sẽ bán là bao nhiêu? Hãy nhớ rằng bạn đang không mặc cả với bất cứ ai - nhiệm vụ của bạn là xác định mức giá thấp nhất mà ở đó bạn sẽ thực sự muốn từ bỏ trò cá cược này. Hãy thử! Bạn có thể phát hiện ra rằng phần thưởng có thể thắng được thật đáng chú ý trong nhiệm vụ này và rằng sự đánh giá của bạn về việc trò cá cược này đáng giá ra sao được gắn chặt với giá trị đó. Các kết quả xác minh cho sự phỏng đoán này, và mức giá bán đối với vụ cá cược A lớn hơn so với vụ cá cược B. Đây quả là một sự đảo ngược ưu tiên: Người ta chọn B trên A, nhưng nếu họ hình dung ra việc chỉ được sở hữu một trong số đó, họ đặt ra giá trị cho A cao hơn so với giá trị cho B. Giống như trong hai kịch bản vụ cướp, sự đảo chiều ưu tiên xảy ra bởi sự đánh giá cùng lúc tập trung sự chú ý vào một khía cạnh của tình huống – thực tế là cược A ít an toàn hơn nhiều so với cược B – ít nổi bật hơn trong sự đánh giá riêng lẻ. Các đặc trưng dẫn đến sự khác biệt giữa những phán quyết về các lựa chọn trong sự đánh giá riêng lẻ - mối ân hận của nạn nhân về việc xuất hiện trong cửa hàng tạp hóa sai và việc bám chặt lấy giải thưởng – bị chặn lại hoặc không có liên quan khi các phương án được đánh giá cùng lúc. Những phản ứng cảm xúc của Hệ thống 1 có khả năng định rõ sự đánh giá riêng lẻ nhiều hơn, sự đối chiếu diễn ra trong sự đánh giá cùng lúc luôn luôn đòi hỏi hành động đánh giá cẩn trọng và nỗ lực hơn, điều này viện tới Hệ thống 2. Đảo ngược sự ưu tiên có thể được củng cố trong một thí nghiệm với chủ thể, tại đó các chủ thể đặt các mức giá lên cả hai ván như là một phần của một bản danh sách dài và cũng chọn lựa giữa chúng. Những người tham gia không có ý thức về sự trái ngược và những phản ứng của họ khi phải đối mặt với nó có thể trở nên thú vị. Một cuộc phỏng vấn vào năm 1968 của một người tham gia vào thí nghiệm này, được thực hiện bởi Sarah Lichtenstein, là một tác phẩm kinh điển có giá trị lâu bền của lĩnh vực này. Nhà thực nghiệm nói chuyện chi tiết với một người tham gia thí nghiệm bối rối, người này chọn lựa một cược ngược lại với những người khác nhưng sau đó lại sẵn sàng trả tiền để trao đổi món hàng mà anh ta vừa mới lựa chọn lấy một cái khác mà anh ta vừa mới từ chối và đi hết chu kỳ lặp lại nhiều lần. Kinh tế dựa trên lý trí chắc chắn sẽ không dễ bị ảnh hưởng từ những sự đảo chiều ưu tiên và do vậy hiện tượng này là một thách thức với mô hình tác nhân lý trí và với lý thuyết kinh tế được xây dựng trên chính mô hình này. Thách thức này có thể đã bị lờ đi, nhưng điều đó đã không diễn ra. Một vài năm sau khi những đảo chiều ưu tiên được công bố, hai nhà Kinh tế học được nể trọng, David Grether và Charles Plott, đã ra mắt một bài viết trên tập san uy tín American Economic Review, trong đó họ đã thông cáo các nghiên cứu của riêng họ về hiện tượng mà Lichtenstein và Slovic đã mô tả. Đó chắc hẳn là phát hiện đầu tiên của các nhà tâm lý học thực nghiệm đã từng thu hút được sự quan tâm của các nhà kinh tế. Đoạn mở đầu trong bài báo của Grether và Plott gây ấn tượng bất thường đối với một tờ báo học thuật và ý đồ của họ đã rõ ràng: “Một số lượng lớn dữ liệu và lý thuyết đang được phát triển trong giới hạn tâm lý sẽ trở nên đáng chú ý đối với các nhà kinh tế học. Được tiến hành trên bề mặt giá trị dữ liệu này đơn thuần trái ngược với lý thuyết ưu tiên và có những hàm ý rộng về chủ đề nghiên cứu các quyền ưu tiên trong phạm vi kinh tế. Tờ báo này công bố các kết quả của một chuỗi các thí nghiệm được dự tính sẽ làm mất uy tín các nghiên cứu của các nhà tâm lý học khi được áp dụng vào kinh tế.” Grether và Plott đã liệt kê 13 lý thuyết có thể lý giải những phát hiện ban đầu và đã tuyên bố một cách cẩn thận các thí nghiệm có mục đích mà đã thử thách những lý thuyết này. Một trong những giả thuyết của họ, điều mà – không cần thiết nói ra – các nhà tâm lý học thấy kẻ cả, là các kết quả rút ra được nhờ vào thí nghiệm được tiến hành bởi các nhà tâm lý học! Cuối cùng, chỉ một giả thuyết còn lại với thời gian: Các nhà tâm lý học đã đúng! Grether và Plott đã thừa nhận rằng giả thuyết này ít nhất là thỏa đáng từ quan điểm về lý thuyết chuẩn về sự ưu tiên, bởi “nó cho phép cá nhân lựa chọn việc phụ thuộc vào bối cảnh mà ở đó các chọn lựa được đưa ra” – một sự vi phạm rõ ràng học thuyết gắn kết. Bạn có thể nghĩ rằng kết quả đáng ngạc nhiên này sẽ gây ra sự tự vấn lương tâm gây đau khổ trong số các nhà kinh tế học, như thể một sự giả định căn bản về lý thuyết của họ đã được thử thách thành công. Nhưng đây không phải là cách mọi thứ vận hành trong khoa học xã hội, bao gồm cả tâm lý học lẫn kinh tế học. Những niềm tin mang tính lý thuyết là thiết thực, và nó mang đến nhiều hơn một phát hiện gây hổ thẹn dành cho những lý thuyết đã được xác minh bị nghi ngờ một cách nghiêm trọng. Trong thực tế, bản báo cáo thẳng thắn đáng ngưỡng mộ của Grether và Plott có một chút ảnh hưởng trực tiếp lên những lý lẽ của các nhà kinh tế, chắc hẳn gồm cả Grether và Plott. Tuy nhiên, nó đã góp phần vào thiện ý cao cả hơn của cộng đồng các nhà kinh tế học nhằm tiến hành nghiên cứu tâm lý học một cách nghiêm túc và theo cách đó đã thúc đẩy một cách đáng kể cuộc đàm luận vượt qua ranh giới của các ngành. CÁC PHẠM TRÙ “John cao bao nhiêu?” Nếu John cao 1.5 mét, câu trả lời của bạn sẽ phụ thuộc vào tuổi của cậu bé. Hệ thống 1 của bạn gọi ra một cách tự động quy phạm có liên quan, và ý nghĩa của tỷ lệ chiều cao được điều chỉnh một cách tự động. Bạn cũng có thể ghép các cường độ đan xen với các phạm trù và trả lời câu hỏi: “Một bữa ăn ở nhà hàng đắt đỏ được làm cho phù hợp với chiều cao của John như thế nào?” Câu trả lời của bạn sẽ phụ thuộc vào độ tuổi của John: Nếu cậu 16 tuổi, bữa ăn sẽ tốn kém ít hơn so với cậu 6 tuổi. Nhưng giờ hãy nhìn vào điều này: John 6 tuổi. Cậu bé cao 1.5 mét. Jim 16 tuổi. Cậu bé cao 1.56 mét. Với những đánh giá đơn lẻ, mọi người sẽ đồng ý rằng John rất cao còn Jim thì không cao, bởi chúng được so sánh với những quy phạm. Nếu bạn được hỏi một câu hỏi so sánh trực tiếp: “John có cao bằng Jim không?” bạn sẽ trả lời rằng cậu bé không cao hơn. Không hề có chút ngạc nhiên nào ở đây và mơ hồ. Tuy nhiên, trong các tình huống khác, thông qua quá trình này các chủ thể và biến cố khôi phục lại bối cảnh so sánh của riêng chúng có thể dẫn tới các chọn lựa không gắn kết về các vấn đề quan trọng. Bạn không nên định hình ấn tượng rằng những đánh giá đơn lẻ và cùng lúc luôn mâu thuẫn nhau, hoặc rằng các phán quyết hoàn toàn lộn xộn. Thế giới của chúng ta bị chia nhỏ thành các phạm trù, theo đó chúng ta có các quy phạm, ví dụ như những cậu bé 6 tuổi hay những chiếc bàn. Những phán quyết và những sự ưu ái cố kết với nhau trong giới hạn các phạm trù nhưng tiềm ẩn sự rời rạc khi các chủ thể bị đánh giá thuộc về các phạm trù khác nhau. Ví dụ, trả lời ba câu hỏi sau: Bạn thích thứ nào hơn, những quả táo hay những quả đào? Bạn thích thứ nào hơn, món bít tết hay hầm? Bạn thích thứ nào hơn, những quả táo hay món hầm? Câu hỏi thứ nhất và thứ hai nhắc đến những khái niệm thuộc về cùng một phạm trù, và bạn ngay lập tức biết được rằng thứ nào mình thích hơn. Hơn thế, bạn đã có thể khôi phục lại thứ bậc tương tự từ sự đánh giá đơn lẻ (“Bạn thích táo nhiều tới đâu?” và “Bạn thích đào nhiều tới mức nào?”) bởi những quả táo và đào đều là hoa quả. Sẽ không có sự đảo chiều ưu tiên nào bởi những loại hoa quả khác nhau được so sánh với cùng một quy phạm giống nhau và hoàn toàn được so sánh với từng thứ khác trong sự đánh giá đơn lẻ cũng như trong sự đánh giá cùng lúc. Ngược lại với những câu hỏi nằm trong phạm trù, không có câu hỏi cân bằng nào đối với sự so sánh giữa những quả táo và món bít tết. Không giống như những quả táo và đào, táo và món bít tết không phải là những vật thay thế về bản chất và chúng không thỏa mãn cùng một nhu cầu. Bạn đôi lúc muốn ăn món bít tết và đôi lúc muốn một quả táo, nhưng bạn hiếm khi nào nói rằng một trong hai thứ sẽ thực hiện chức năng giống như thứ còn lại. Hãy tưởng tượng việc nhận được e-mail từ một tổ chức bạn khá tin tưởng, đề nghị đóng góp vì một nguyên nhân: Loài cá heo có thể bị đe dọa và bị suy giảm một số lượng lớn ở nhiều nơi môi trường sinh sống của chúng bị ô nhiễm. Một quỹ đã được thành lập từ những đóng góp cá nhân nhằm mang lại những môi trường nhằm cải thiện điều kiện sống cho cá heo. Những liên tưởng nào đã đưa ra trong câu hỏi này? Liệu rằng bạn hoàn toàn có thể nhận thức được về chúng, những ý niệm và ký ức của những nguyên nhân có liên quan dẫn đến sự suy giảm của loài cá heo kia xuất hiện trong đầu bạn. Các dự án đã được lên kế hoạch đặc biệt nhằm bảo vệ những loài có nguy cơ bị tuyệt chủng có thể được bạn hồi tưởng. Sự đánh giá dựa trên khía cạnh tốt - xấu là một cơ chế tự động của Hệ thống 1 và bạn đã định hình một ấn tượng ban đầu về thứ hạng của loài cá heo trong số các loài vật có nguy cơ bị tuyệt chủng xuất hiện trong đầu bạn. Cá heo đẹp đẽ hơn nhiều so với loài chồn sương, ốc sên, hoặc cá chép, chúng có một thứ hạng có triển vọng cao trong chuỗi các loài mà theo đó nó được so sánh một cách tự nhiên. Câu hỏi mà bạn cần phải trả lời không phải là liệu rằng bạn thích cá heo hơn cá chép không; bạn đã từng được đề nghị đặt ra một giá trị bằng đô-la. Dĩ nhiên, bạn có thể biết được từ sự trải nghiệm của những thôi thúc trước đó rằng bạn chưa từng hưởng ứng những đề nghị kiểu này. Trong vài phút, hãy tưởng tượng bản thân bạn là một người quyên góp cho những yêu cầu giúp đỡ giống như vậy. Giống như nhiều câu hỏi phức tạp khác, hành động đánh giá về giá trị đồng đô-la có thể được giải quyết bằng sự thay thế và bù trừ cường độ. Vấn đề đồng đô-la thật phức tạp nhưng một câu hỏi dễ hơn đã luôn sẵn sàng ở trong đầu bạn. Bởi bạn thích cá heo, chắc hẳn bạn sẽ nhận thấy rằng việc cứu vớt chúng là một lý do tốt. Bước tiếp theo, cũng diễn ra tự động, đưa ra một số tiền bằng việc chuyển đổi cường độ yêu thích cá heo của bạn sang một mức đóng góp. Bạn có một ý thức về mức quyên góp của những lần trước đó của bạn vì những lý do mang yếu tố môi trường, chúng có thể khác với các mức đóng góp của bạn cho các hoạt động chính trị hoặc cho đội bóng đá của trường cũ. Bạn biết được khoản tiền nào sẽ là một khoản đóng góp “rất lớn” đối với bạn và những khoản tiền nào “lớn”, “khiêm tốn”, và “nhỏ”. Bạn cũng có những phạm vi đối với thái độ của bạn trước các loài (từ “thích mê mệt” tới “không chút nào”). Bởi vậy bạn có khả năng chuyển đổi thái độ của mình sang phạm vi đồng đô-la, dịch chuyển một cách tự động từ “thích rất nhiều” sang “khoản quyên góp khá lớn” và từ đó sang một số tiền. Vào một dịp khác, bạn được tiếp cận với một yêu cầu giúp đỡ khác: Những người nông dân, đang phải phơi nắng trong nhiều giờ, có tỷ lệ mắc bệnh ung thư da cao hơn so với dân số nói chung. Những hoạt động khám bệnh thường xuyên có thể giảm thiểu rủi ro. Một quỹ sẽ được thành lập nhằm hỗ trợ các hoạt động khám bệnh cho nhóm bị đe dọa này. Đây có phải là một vấn đề cấp bách không? Nó đã gợi ra phạm trù nào như là một quy phạm khi bạn đánh giá là cấp bách? Nếu bạn đã tự động phân loại bài toán là một vấn đề sức khỏe cộng đồng, chắc hẳn bạn đã phát hiện ra rằng mối đe dọa ung thư da ở những người nông dân không xếp hạng cao lắm trong số các vấn đề - gần như chắc chắn thấp hơn thứ hạng của loài cá heo trong số các loài có nguy cơ tuyệt chủng. Khi bạn đã chuyển ấn tượng của bạn về tầm quan trọng tương đối của vấn đề ung tư da sang một số lượng tiền, bạn cũng có thể đưa ra một sự quyên góp nhỏ hơn so với số bạn đã quyên nhằm bảo vệ một loài động vật yêu mến. Trong các cuộc thử nghiệm, cá heo đã thu hút được những khoản quyên góp lớn hơn một chút so với những người nông dân trong sự đánh giá đơn lẻ. Tiếp đó, xem xét hai lý do trong sự đánh giá cùng lúc, cái nào trong hai sự việc, những con cá heo và những người nông dân, xứng đáng với một khoản quyên góp bằng tiền lớn hơn? Sự đánh giá cùng lúc nêu bật một đặc tính đã không được chú ý trong sự đánh giá đơn lẻ nhưng nó mang tính quyết định khi nhận thấy: Những người nông dân là con người, cá heo chỉ là loài vật. Dĩ nhiên, bạn đã biết điều đó nhưng nó không liên quan tới sự phán quyết mà bạn đưa ra trong sự đánh giá từng trường hợp. Sự thực những con cá heo không phải là con người đã không nảy sinh bởi tất cả các vấn đề được kích hoạt trong bộ nhớ của bạn đã chia tách đặc tính đó. Sự thực những người nông dân là con người đã không xuất hiện trong suy nghĩ bởi tất cả các vấn đề sức khỏe cộng đồng đều có liên quan tới con người. Cấu trúc hẹp của sự đánh giá đơn lẻ đã để cho những con cá heo có một căn cứ có cường độ cao hơn, dẫn tới tỷ lệ quyên góp cao bởi sự bù trừ cường độ. Sự đánh giá cùng lúc thay đổi sự hình dung đối với các vấn đề: Đặc tính “con người và động vật” trở nên nổi bật chỉ khi cả hai cùng được xem xét cùng lúc. Trong sự đánh giá cùng lúc người ta chỉ ra một sự ưu ái có cơ sở dành cho những người nông dân và một thiện ý đóng góp nhiều hơn về cơ bản cho phúc lợi của họ hơn là cho sự bảo vệ một loài không phải con người được yêu thích. Ở đây thêm một lần nữa, giống như trong các trường hợp bàn về các trò cược và vụ cướp nã súng, những phán quyết được đưa ra dưới sự đánh giá đơn lẻ và cùng lúc sẽ không nhất quán. Christopher Hsee, đến từ Đại học Chicago, đã đóng góp ví dụ sau đây về sự đảo chiều ưu tiên, giữa nhiều thứ khác nhau của cùng một loại. Đối tượng được đánh giá là những quyển từ điển âm nhạc đã qua sử dụng. Khi những quyển từ điển được đánh giá đơn lẻ, cuốn từ điển A được định giá cao hơn nhưng dĩ nhiên sự ưu tiên thay đổi dưới sự đánh giá cùng lúc. Kết quả này minh chứng cho giả thuyết khả năng đánh giá của Hsee: Số lượng từ được cho không có trọng số trong sự đánh giá đơn lẻ, bởi các con số tự chúng không “thể định giá”. Ngược lại, trong sự đánh giá cùng lúc ngay lập tức có thể thấy rõ ràng rằng cuốn từ điển B vượt trội hơn với thuộc tính này và cũng hiển nhiên là số lượng từ là quan trọng hơn rất nhiều so với tình trạng bìa. NHỮNG SỰ ĐẢO CHIỀU PHI LÝ Đây là một lý do thích đáng để tin rằng hoạt động thực thi công lý bị tiêm nhiễm bởi những dự báo rời rạc trong một vài lĩnh vực. Căn cứ này được suy ra một phần từ các thí nghiệm, bao gồm cả những nghiên cứu của các ban bồi thẩm mô phỏng và một phần từ quan sát về những mô hình trong quá trình lập pháp, điều chỉnh và tranh chấp. Trong một thí nghiệm, các thành viên ban bồi thẩm giả định được tập hợp từ các danh sách bồi thẩm đoàn tại Texas đã được đề nghị ước định những thiệt hại nặng nề trong một vài vụ án dân sự. Các vụ án được sắp theo các cặp, mỗi cặp gồm có một đòi hỏi bồi thường cho chấn thương về thể chất và một vì tổn thất tài chính. Các thành viên bồi thẩm giả định trước tiên đã ước định một trong số các kịch bản và sau đó họ được cho xem vụ án sẽ được gắn cặp và được đề nghị so sánh hai vụ án với nhau. Dưới đây là bản tóm lược của một cặp trong số các vụ án: Vụ thứ nhất: Một đứa trẻ bị bỏng vừa phải khi bộ áo ngủ của cậu bé bắt lửa trong lúc đang nghịch diêm. Công ty sản xuất bộ đồ ngủ đó đã không làm ra những bộ đồ chịu lửa một cách thỏa đáng. Vụ thứ hai: Những giao dịch lừa đảo của một ngân hàng gây ra tổn thất cho một ngân hàng khác là 10 triệu đô-la. Một nửa số người tham gia thử nghiệm đã xét đoán vụ thứ nhất trước (với sự đánh giá đơn lẻ) trước khi so sánh cả hai vụ với sự đánh giá cùng lúc. Trình tự đó đã được đảo ngược đối với những người tham gia còn lại. Với sự đánh giá đơn lẻ, các thành viên bồi thẩm đoàn đã quyết định bồi thường cho ngân hàng bị lừa đảo mức phạt cao hơn so với đứa trẻ bị bỏng, có lẽ vì mức độ tổn thất tài chính đã đưa ra một nguồn đáng tin cậy. Tuy nhiên, khi hai vụ án được xem xét cùng lúc, mối cảm thương dành cho nạn nhân cá nhân đã chiếm ưu thế trước tác động tin cậy và các thành viên bồi thẩm đã tăng mức bồi thường cho đứa trẻ trội hơn mức bồi thường dành cho ngân hàng. Tính trung bình trên một vài cặp vụ án tương tự, với sự đánh giá cùng lúc các mức bồi thường cho các nạn nhân bị chấn thương thể chất lớn hơn gấp đôi so với sự đánh giá đơn lẻ. Các thành viên bồi thẩm đã xem vụ án của đứa trẻ bị bỏng dựa trên đánh giá phù hợp với cường độ cảm xúc của họ. Họ đã không thể lường trước được rằng mức bồi thường cho đứa trẻ có thể hóa ra không tương xứng trong bối cảnh của một mức phạt lớn dành cho một thể chế tài chính. Với sự đánh giá cùng lúc, mức phạt bồi thường cho ngân hàng vẫn bám vào tổn thất nó đã gánh chịu, nhưng mức đền bù cho đứa trẻ bị bỏng đã tăng lên, phản ánh sự giận dữ đã được gợi lên bởi sự sơ suất dẫn tới tổn thương cho một đứa trẻ. Như chúng ta đã thấy, sự hợp lý thông thường được đáp ứng bởi những cấu trúc phổ quát hơn và toàn diện hơn và sự đánh giá cùng lúc rõ ràng phổ quát hơn sự đánh giá đơn lẻ. Dĩ nhiên, bạn nên thận trọng với sự đánh giá cùng lúc khi một số người kiểm soát những gì bạn thấy mong được hưởng lợi từ điều mà bạn chọn lựa. Những người làm nghề bán hàng nhanh chóng lĩnh hội được rằng sự thôi thúc của bối cảnh mà trong đó những người tiêu dùng nhận thấy một loại hàng hóa có thể ảnh hưởng một cách sâu sắc tới những sự ưu tiên. Ngoại trừ những trường hợp thôi thúc có chủ tâm tương tự, đó là một giả định rằng sự phán quyết tương đối, thứ nhất định có liên quan tới Hệ thống 2, có nhiều khả năng ổn định hơn so với những sự đánh giá đơn lẻ, nó thường phản ánh cường độ của những câu trả lời mang tính cảm xúc trong Hệ thống 1. Chúng ta có thể kỳ vọng rằng bất cứ tổ chức nào có mong muốn gợi ra được những phán quyết thận trọng sẽ mưu toan cung cấp cho những người phân xử một bối cảnh rộng với những hành động đánh giá về những vụ kiện cá nhân. Tôi đã ngạc nhiên khi được biết từ Cass Sunstein rằng các thành viên bồi thẩm đoàn áp định mức phạt bồi thường dứt khoát bị cấm xem xét các vụ kiện khác. Hệ thống luật pháp, trái ngược với cảm giác tâm lý nói chung, thiên về sự đánh giá đơn lẻ. Trong một nghiên cứu khác về sự không đồng nhất trong hệ thống pháp lý, Sunstein đã so sánh những xử phạt hành chính có thể bị áp đặt bởi các cơ quan Chính phủ Mỹ khác nhau bao gồm Tổ chức Sức khoẻ và An toàn nghề nghiệp OSHA (Mỹ) và Trung tâm Bảo vệ Môi trường. Ông đã kết luận rằng: “Trong các phạm trù, các mức phạt dường như rất hợp lý, ít nhất nhận thức rằng những tổn hại càng nghiêm trọng càng bị trừng phạt khắt khe. Đối với những hành vi vi phạm an toàn lao động và sức khỏe, những hình phạt lớn nhất là dành cho những hành vi vi phạm lặp lại nhiều lần, kế tiếp là dành cho các vi phạm có chủ ý lẫn hành vi phạm tội nghiêm trọng và hình phạt ít nghiêm trọng nhất dành cho không tham gia vào đòi hỏi bảo tồn di tích.” Tuy nhiên, điều này bạn sẽ không ngạc nhiên về các hình phạt khác nhau nhiều giữa các đơn vị đã phản ánh các chính sách và lịch sử hơn là bất cứ mối quan tâm bao trùm lên sự công bằng. Một “vi phạm nghiêm trọng” các quy định liên quan đến an toàn lao động bị phạt ở hạn mức 7.000 đô-la, trong khi một vi phạm đạo luật bảo tồn chim hoang dã có thể dẫn đến một khoản phạt tiền lên tới 25.000 đô-la. Các khoản tiền phạt là hợp lý trong bối cảnh các hình phạt khác được đặt ra bởi từng cơ quan, nhưng chúng có vẻ không cân xứng khi được so sánh với nhau. Như trong các ví dụ khác trong chương này, bạn có thể thấy được sự vô lý chỉ khi cả hai trường hợp được xem xét cùng lúc trong một cấu trúc rộng. Hệ thống các hình phạt hành chính cố kết với nhau trong các tổ chức, nhưng rời rạc về tổng thể. PHÁT NGÔN VỀ NHỮNG SỰ ĐẢO LỘN “Các đơn vị BTU chẳng có ý nghĩa gì cả cho tới khi tôi thấy được các đơn vị máy điều hòa không khí khác nhau tới đâu. Sự đánh giá tổng thể là cần thiết.” “Bạn bảo rằng đây là một bài phát biểu vượt trội bởi bạn đã so sánh nó với những bài phát biểu khác của cô ấy. Đem so sánh với những người khác, cô ấy vẫn còn non kém lắm.” Còn nữa
Phần 5 - Chương 34: Các cấu trúc và thực tế Bấm để xem Đội tuyển Ý và đội tuyển Pháp đã giáp mặt nhau trong trận chung kết World Cup 2006. Hai câu tiếp theo đây đều mô tả kết quả: “Ý thắng”, “Pháp thua.” Những câu này có cùng chung ý nghĩa không? Câu trả lời phụ thuộc hoàn toàn vào việc bạn định nghĩa ý nghĩa là gì trong trường hợp này. Nhằm mục đích đưa ra lập luận hợp lý, hai mô tả về kết quả của trận đấu này có thể hoán đổi cho nhau bởi chúng chỉ rõ cùng một trạng thái của sự việc. Như các nhà triết học nói, tình trạng thật sự của họ giống hệt nhau: Nếu một trong hai câu này đúng, thì câu còn lại cũng đúng. Đó là cách mà kinh tế nhận thức mọi thứ. Những niềm tin và sự ưu ái của họ là sự giới hạn thực tế. Nói cụ thể thì những chủ thể của các chọn lựa của họ là những trạng thái của vật chất, chúng không bị tác động bởi các từ ngữ được chọn để mô tả chúng. Có một ý nghĩa khác của từ ý nghĩa, tại đó “Ý thắng” và “Pháp thua” không có chung một chút ý nghĩa nào. Theo hướng này, ý nghĩa của một câu là điều xảy ra trong cơ chế liên kết của bạn khi bạn lĩnh hội nó. Hai câu này gợi ra những liên tưởng khác biệt rõ rệt. “Ý đã thắng” gợi ra những suy nghĩ về đội tuyển Ý và họ đã làm gì để chiến thắng. “Pháp đã thua” gợi ra suy nghĩ về đội tuyển Pháp và họ đã làm gì để dẫn tới thất bại, bao gồm cả cú “đánh đầu” đáng nhớ của cầu thủ ngôi sao người Pháp Zidane vào một cầu thủ người Ý. Trong mối quan hệ với những liên tưởng xuất hiện trong đầu – Hệ thống 1 tác động trở lại như thế nào – cả hai câu thực sự “ám chỉ” những việc khác nhau. Sự thực là những trạng thái tương đương gợi ra một cách hợp lý những phản ứng khác nhau làm cho nó không thể khiến con người có được lý trí hợp lý như kinh tế. CẤU TRÚC CẢM XÚC Amos và tôi đã ứng dụng chiêu bài các hiệu ứng cấu trúc lên những tác động không được lý giải về việc cái gì tạo ra công thức dựa trên những niềm tin và sự ưu ái. Đây là một trong những ví dụ chúng tôi đã sử dụng: Bạn sẽ chấp nhận một trò may rủi đặt ra 10% cơ may thắng 95 đô-la và 90% khả năng thua 5 đô-la chứ? Bạn sẽ bỏ ra 5% để tham gia vào một trò xổ số đặt ra 10% thắng được 100 đô-la và 90% nguy cơ chẳng được gì chứ? Trước hết, hãy dành ra chút thời gian để thuyết phục bản thân rằng hai vấn đề này là khác biệt. Đối với cả hai trường hợp bạn cần phải quyết định xem liệu có chấp nhận một viễn cảnh không chắc chắn mà bạn hoặc có thêm 95 đô-la hoặc mất đi 5 đô-la. Ưu tiên của một số người dựa trên giới hạn hiểu biết của họ sẽ đưa ra cùng một câu trả lời cho cả hai câu hỏi đó, tuy nhiên trên thực tế, những cá nhân như vậy rất hiếm. Một số người ưu tiên việc giới hạn đưa ra cùng câu trả lời cho cả hai câu hỏi nhưng những người như vậy rất hiếm. Thực tế, cách giải thích thu hút được nhiều câu trả lời tích cực đó là: Câu thứ hai. Một kết quả tồi sẽ trở nên dễ chấp nhận nếu nó được mô tả đơn giản như thể thua một trò may rủi. Chúng ta sẽ không ngạc nhiên: Những tổn thất gợi ra những cảm giác tiêu cực mạnh hơn những chi phí. Các chọn lựa không có giới hạn thực tế, bởi vậy Hệ thống 1 không có giới hạn thực tế. Vấn đề mà chúng tôi đã lập ra bị ảnh hưởng bởi điều chúng tôi đã học được từ Richard Thaler, người đã nói với chúng tôi rằng khi ông còn là một sinh viên mới tốt nghiệp, ông đã đính lên bảng của mình một tấm thiệp nói rằng CHI PHÍ KHÔNG PHẢI LÀ NHỮNG MẤT MÁT. Trong bài luận đầu tiên của mình bàn về hành vi người tiêu dùng, Thaler đã mô tả cuộc thảo luận về việc liệu các trạm xăng dầu được phép tính các mức giá khác nhau đối với việc mua xăng được trả bằng tiền mặt hoặc bằng thẻ tín dụng không. Nhóm vận động cho việc mua xăng trả bằng thẻ tín dụng đã rất nỗ lực biến việc chênh lệch giá thành trái luật nhưng nó đã có một quan điểm dự phòng: Sự khác biệt, nếu được phép, sẽ được ghi nhận là một khoản chiết khấu tiền mặt, không phải một phụ phí tín dụng. Tâm lý của họ là có cơ sở: Người ta sẽ dễ dàng từ bỏ một khoản chiết khấu hơn là phải trả thêm một khoản phụ phí. Cả hai có thể là tương đương về mặt kinh tế, nhưng chúng không tương đương về mặt tâm lý. Trong một thí nghiệm sâu hơn, một nhóm các nhà thần kinh học tại trường Đại học chuyên nghiệp London đã kết hợp với một nghiên cứu về các hiệu ứng cấu trúc với những ghi chép về phạm vi hoạt động tại các vùng khác nhau của não bộ. Để nhằm đưa ra những thước đo chính xác về phản ứng của não bộ, thí nghiệm tiến hành với nhiều thử nghiệm. Hình 14 minh họa cho hai giai đoạn của một trong những thử nghiệm này. Trước tiên, chủ thể được đề nghị hình dung rằng cô nhận được một khoản tiền, trong ví dụ này là 50 bảng. Chủ thể sau đó được đề nghị lựa chọn giữa một kết quả chắn chắn với một trò may rủi trên một vòng quay cơ hội: Nếu vòng quay dừng lại ở màu trắng cô, “nhận được” toàn bộ số tiền; nếu nó dừng lại ở màu đen cô chẳng có gì cả. Kết quả chắc chắn đơn giản là giá trị dự tính của trò may rủi này là một khoản lời 20 bảng. Như được chỉ ra, kết quả chắc chắn tương tự có thể được đóng khung theo hai cách: Giống như Giữ 20 Bảng hoặc như Thua 30 Bảng. Các kết quả khách quan hoàn toàn giống hệt với hai khung và một giới hạn thực tế có thể phản ứng trước cả hai theo cùng một cách – lựa chọn điều chắc chắn hoặc không chú ý tới trò may rủi theo cấu trúc – nhưng chúng ta đều biết rằng trí óc con người không bị giới hạn trước thực tế. Các xu hướng tiếp cận hoặc né tránh được gợi ra bởi các từ ngữ, và chúng ta dự tính Hệ thống 1 có xu hướng thiên về phương án chắc chắn khi nó được định rõ như là Giữ và chống lại phương án tương tự khi nó được định rõ như là Thua. Thí nghiệm này bao gồm nhiều thử nghiệm và từng người tham gia gặp phải một vài vấn đề lựa chọn trong cả trạng thái Giữ lẫn Thua. Như đã dự tính, mỗi người trong số 20 chủ thể đã cho thấy một hiệu ứng cấu trúc: Họ có nhiều khả năng lựa chọn điều chắc chắn trong khung Giữ và nhiều khả năng chấp nhận trò may rủi trong khung Thua. Nhưng các chủ thể đều không giống nhau. Một số rất dễ nhạy cảm với cấu trúc của vấn đề. Số khác hầu như đã đưa ra lựa chọn giống nhau bất chấp khung – như là một cá nhân giới hạn thực tế nên làm. Các tác giả đã xếp hạng 20 chủ thể một cách phù hợp và đặt cho bảng xếp hạng một nhãn ấn tượng: Chỉ số hợp lý. Phạm vi hoạt động của não bộ đã được ghi lại khi các chủ thể đưa ra từng quyết định. Sau đó, các thử nghiệm đã bị phân tách thành hai nhóm: 1. Các thử nghiệm theo đó lựa chọn của chủ thể thích ứng với cấu trúc. Đã ưu tiên điều chắc chắn trong lối diễn đạt Giữ. Đã ưu tiên trò may rủi trong lối diễn đạt Thua. 2. Các thử nghiệm trong đó sự lựa chọn đã không thích ứng với cấu trúc. Các kết quả khác thường minh chứng cho khả năng của phương pháp rèn luyện mới của các nhà thần kinh học – nghiên cứu về não bộ của một người làm gì trong lúc anh ta phải đưa ra các quyết định. Các nhà thần kinh học đã tiến hành hàng ngàn thí nghiệm như vậy, và họ đã nhận biết được để dự đoán các vùng cụ thể của não bộ “sáng lên” – cho thấy lưu lượng oxy tăng lên, nó cho thấy phạm vi hoạt động của thần kinh được nâng cao và phụ thuộc vào mục tiêu của nhiệm vụ. Các vùng khác nhau hoạt động khi cá nhân chú tâm tới một vật thể thị giác, tưởng tượng tâng một quả bóng, nhận diện một khuôn mặt hoặc nghĩ về một ngôi nhà. Các vùng khác sáng lên khi cá nhân bị khuấy động cảm xúc, trong một cuộc xung đột hoặc tập trung vào việc giải quyết một vấn đề. Mặc dù các nhà thần kinh học né tránh một cách cẩn trọng ngôn ngữ “phần này của não bộ như thế này và thế này...” họ đã lĩnh hội được nhiều về “những cá tính” của các vùng não bộ khác nhau và sự đóng góp của những phép phân tích phạm vi hoạt động của não bộ cho sự giải thích về tâm lý đã được cải thiện một cách đáng kể. Nghiên cứu cấu trúc đã mang lại ba phát hiện chính: Phân khu được liên kết với sự khuấy động cảm xúc (hạch hạnh) hầu như có thể chủ động khi các chọn lựa của chủ thể tương thích với cấu trúc. Điều này chỉ giống như điều chúng ta có thể dự tính nếu những từ chứa đựng cảm xúc Giữ và Thua tạo ra một xu hướng tức thì nhằm tiếp cận với điều chắc chắn (khi chúng được cấu trúc như là một lợi ích) hoặc né tránh nó (khi nó bị cấu trúc như là một tổn thất). Hạch hạnh được truy nhập rất nhanh bởi các tác nhân kích thích cảm xúc – và nó là một nghi vấn thích hợp đối với sự rắc rối trong Phương thức số 1. Một phân khu não bộ được biết là có liên quan tới sự xung đột và tự kiểm soát (vùng vỏ não vành đai trước) linh lợi hơn khi các chủ thể đã không thực thi điều đến một cách tự nhiên – khi họ lựa chọn điều chắc chắn, mặc dù nó đang bị gán cho là Thua. Việc cưỡng lại sự nghiêng về Hệ thống 1 dường như bao gồm cả sự xung đột. Những chủ thể “có lý trí” nhất – những người ít bị ảnh hưởng trước các hiệu ứng cấu trúc nhất – đã chỉ ra phạm vi hoạt động nâng cao tại một vùng trán của não bộ có liên quan trong việc kết hợp cảm xúc và lập luận để đi đến các quyết định. Đáng chú ý là: Những cá nhân “có lý trí” đã không phải là những người chỉ ra được dấu hiệu thần kinh mạnh nhất của sự xung đột. Nó cho thấy những người tham gia cao nhất này đã (thường là không luôn luôn) bị giới hạn thực tế bởi sự xung đột nhỏ. Bằng việc tham gia vào những quan sát về các chọn lựa trong thực tế với một bản đồ khu vực hoạt động thần kinh, nghiên cứu này đã cung cấp một sự minh chứng thuyết phục về việc cảm xúc được gợi ra bởi một từ có thể “hé lộ” sự chọn lựa sau cùng như thế nào. Một thí nghiệm mà Amos đã tiến hành cùng với các đồng sự ở Trường Y Harvard là ví dụ tiêu biểu về cấu trúc cảm xúc. Những người tham gia là bác sĩ được cung cấp những số liệu về các kết quả của hai pháp đồ dành cho bệnh ung thư phổi: Phẫu thuật và xạ trị. Tỷ lệ sống sót trong 5 năm rõ ràng thiên về phương pháp phẫu thuật, nhưng trong ngắn hạn phẫu thuật rủi ro hơn xạ trị. Một nửa số người tham gia đọc các số liệu về những tỷ lệ sống sót, số còn lại nhận được cùng một thông tin trong mối tương quan với tỷ lệ tử vong. Cả hai mô tả về các kết quả trong ngắn hạn của phương pháp phẫu thuật là: Tỷ lệ sống sót trong một tháng là 90%. Có 10% số bệnh nhân tử vong trong tháng đầu tiên. Bạn ngay từ đầu biết được các kết quả là: Phương pháp phẫu thuật trong cấu trúc trước đây (84% các bác sĩ chọn nó) phổ biến hơn nhiều so với sau này (với 50% thiên về xạ trị). Sự tương đương theo logic về hai mô tả là rõ ràng và một người lập định giới hạn thực tế sẽ đưa ra quyết định giống như vậy bất chấp sự diễn đạt mà cô đã thấy. Nhưng Phương thức số 1, như chúng ta đã từng biết tới, hiếm khi bỏ qua những từ ngữ hàm xúc: Tử vong là tồi tệ, sống sót là tốt, và 90% sống sóng nghe có vẻ khích lệ nhưng ngược lại 10% tử vong thật khủng khiếp. Một phát hiện quan trọng của nghiên cứu đó là các bác sĩ cũng dễ bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng cấu trúc giống như những người không có kiến thức y khoa (các bệnh nhân tại bệnh viện và sinh viên tốt nghiệp tại một trường kinh doanh). Rõ ràng, sự đào tạo về y khoa không có sự phòng vệ chống lại sức mạnh của cấu trúc. Nghiên cứu Giữ - Thua và thí nghiệm sống sót - tử vong khác nhau ở một khía cạnh quan trọng. Những người tham gia trong nghiên cứu mô tả sinh động não bộ đã có nhiều thử nghiệm, trong đó họ gặp phải những cấu trúc khác nhau. Họ đã có cơ hội để nhận diện các hiệu ứng làm rối trí của các khung và đơn giản hóa nhiệm vụ của mình bằng việc chấp nhận một cấu trúc phổ biến, có lẽ bằng việc chuyển đổi số tiền Thua sang khoản Giữ tương đương. Sẽ cần phải viện tới một người nhanh trí (và một Hệ thống 2 - cảnh giác) để biết cách thực hiện điều này và một vài người tham gia mà đã làm chủ được sự thành thạo hầu như chắc chắn nằm trong số những tác nhân “có lý trí” mà các nhà thực nghiệm đã nhận ra. Ngược lại, các bác sĩ đọc các số liệu về hai liệu pháp trong cấu trúc phẫu thuật đã không có lý do gì để nghi ngờ rằng họ sẽ đưa ra một sự chọn lựa khác biệt nếu họ đã được nghe những số liệu giống nhau được cấu trúc trong mối liên quan với sự tử vong. Việc tái cấu trúc là kết quả của sự nỗ lực và Hệ thống 2 như thường lệ tỏ ra lười biếng. Trừ khi có một lý do rõ ràng để hành động khác đi, hầu hết chúng ta thụ động chấp nhận những vấn đề quyết định khi chúng được cấu trúc và bởi vậy hiếm khi có một cơ hội để khám phá ra phạm vi mà theo đó những ưu tiên của chúng ta là giới hạn khung thay vì giới hạn thực tế. NHỮNG TRỰC GIÁC RỖNG Amos và tôi đã trình bày thảo luận của chúng tôi về hoạt động cấu trúc qua một ví dụ được biết tới như là “vấn đề dịch bệnh từ châu Á”: Hãy tưởng tượng rằng nước Mỹ đang chuẩn bị cho sự bùng nổ một dịch bệnh từ châu Á bất thường, dự kiến giết chết 600 người. Hai chương trình chọn lựa nhằm chống lại dịch bệnh đã được đệ trình. Cho rằng các căn cứ khoa học chính xác về các kết quả của hai chương trình như dưới đây: Nếu chương trình A được chấp thuận, 200 người sẽ được cứu sống. Nếu chương trình B được chấp nhận, một phần ba khả năng là 600 người sẽ được cứu sống và hai phần ba khả năng là không có ai được cứu cả. Đại đa số những người tham gia chọn chương trình A: Họ thích phương án chắc chắn hơn là trò may rủi. Các kết quả của hai chương trình được cấu trúc khác đi như sau: Nếu chương trình A’ được thông qua, 400 người sẽ chết. Nếu chương trình B’ được thông qua, có một phần ba khả năng là không có ai chết cả và hai phần ba khả năng là 600 người sẽ chết. Hãy nhìn nhận tỉ̉ mỉ và so sánh hai lối diễn đạt: Các kết quả của hai chương trình A và A’ là như nhau; tương tự như vậy với các kết quả của hai chương trình B và B’. Tuy nhiên, ở cấu trúc thứ hai, một lượng lớn người tham gia chọn trò may rủi. Các sự chọn lựa khác nhau trong hai cấu trúc ăn khớp với lý thuyết triển vọng, tại đó các chọn lựa giữa những trò may rủi và những điều chắc chắn được giải quyết khác nhau, phụ thuộc vào việc liệu rằng các kết quả là tốt hay xấu. Những người đưa ra quyết định có xu hướng thích điều chắc chắn hơn trò may rủi (họ ác cảm với rủi ro) khi các kết quả là tốt. Họ có xu hướng từ bỏ điều chắc chắn và chấp nhận trò may rủi (họ đang tìm kiếm rủi ro) khi cả hai kết quả đều tiêu cực. Những kết luận này đã được củng cố vững chắc đối với những chọn lựa giữa những trò may rủi và những thứ chắc chắn trong lĩnh vực tiền tệ. Vấn đề dịch bệnh chỉ ra rằng quy tắc tương tự được áp dụng khi các kết quả được đo lường bằng những mạng sống được cứu hoặc mất đi. Trong bối cảnh này, thí nghiệm cấu trúc gợi ra rằng những ưu tiên mối ác cảm rủi ro và tìm kiếm rủi ro không phải là giới hạn thực tế. Những ưu tiên giữa các kết quả khách quan giống nhau đảo ngược bởi những sự làm thành công thức khác nhau. Một trải nghiệm mà Amos đã cùng chung với tôi thêm một ghi chú dứt khoát vào câu chuyện. Amos được đề nghị có một bài phát biểu trước một nhóm các chuyên gia sức khỏe cộng đồng – những người đưa ra các quyết định về các liều vắc-xin và các chương trình khác. Ông đã tận dụng cơ hội để thuyết trình với họ về vấn đề dịch bệnh châu Á: Một nửa đã thấy được sự diễn đạt “cứu mạng”, số còn lại đã trả lời câu hỏi “thiệt mạng”. Giống như nhiều người khác, các chuyên gia này dễ bị ảnh hưởng bởi những hiệu ứng cấu trúc. Có một chút lo lắng rằng những viên chức đưa ra các quyết định có ảnh hưởng tới sức khỏe của mọi người có thể bị gây ảnh hưởng bởi sự lôi kéo bề ngoài nhưng chúng ta buộc phải quen với ý niệm rằng ngay cả các quyết định quan trọng cũng bị chi phối, nếu không phải là điều chỉnh, bởi Hệ thống 1. Thậm chí điều lo lắng hơn là điều gì xảy ra khi người ta phải đương đầu với mâu thuẫn của mình: “Bạn chọn chắc chắn cứu được 200 mạng sống và bạn chọn mạo hiểm hơn là chấp nhận 400 cái chết. Giờ đây bạn biết được những chọn lựa này là mâu thuẫn, bạn quyết định như thế nào?”. Câu trả lời thường là sự im lặng bối rối. Những khả năng trực giác đã xác định chọn lựa ban đầu đến từ Hệ thống 1 và không có nền tảng đạo đức nhiều hơn so với sự ưu tiên giữ lại 20 bảng hay là mối ác cảm để mất 30 bảng. Chắc chắn cứu được các mạng sống là điều tốt, những cái chết là xấu. Hầu hết mọi người thấy được rằng Hệ thống 2 của họ không có những khả năng trực giác mang tính đạo đức của riêng nó để trả lời câu hỏi. Tôi vô cùng biết ơn nhà kinh tế học đại tài Thomas Schelling về ví dụ ưa thích của tôi liên quan đến một hiệu ứng cấu trúc, thứ mà ông đã miêu tả trong cuốn sách của mình Choice and Consequence (Tạm dịch: Chọn lựa và Kết quả). Cuốn sách của Schelling được viết trước khi nghiên cứu về hoạt động cấu trúc của chúng tôi được công bố, và hoạt động cấu trúc không phải là vấn đề quan tâm chính của ông. Ông đã tường thuật lại từ kinh nghiệm giảng dạy một lớp học tại Trường Kennedy tại Harvard của mình, trong đó chủ đề là những sự miễn trừ gia cảnh trong mã số thuế. Schelling nói với các sinh viên của mình rằng một mức miễn trừ được thừa nhận đối với từng đứa trẻ và số lượng tiền miễn trừ độc lập với thu nhập của người nộp thuế. Ông hỏi ý kiến của họ về định đề sau: Sự miễn trừ gia cảnh đối với người giàu có nên lớn hơn so với người nghèo hay không? Các khả năng trực giác của bản thân bạn có thể rất giống với những sinh viên của Schelling: Họ nhận thấy rằng ý nghĩ thiên về việc người giàu nhận được một khoản miễn trừ lớn hơn là hoàn toàn không chấp nhận được. Schelling sau đó đã chỉ ra rằng luật thuế là tùy chỉnh. Nó giả định một gia đình không có con như là trường hợp ngầm định và giảm thuế theo số lượng giảm trừ đối với từng đứa trẻ. Luật thuế dĩ nhiên có thể được làm lại với một trường hợp ngầm định khác: Một gia đình có hai đứa trẻ. Trong sự làm thành công thức này, các gia đình có số lượng trẻ nhỏ ít hơn so với số lượng trẻ ngầm định sẽ nộp thêm một khoản phí. Schelling giờ đây yêu cầu sinh viên của mình nói lên quan điểm của họ về một định đề khác: Gia đình nghèo không con có nên nộp thêm phí nhiều bằng gia đình giàu có không con hay không? Ở đây thêm một lần nữa bạn chắc hẳn đồng ý với phản ứng của các sinh viên với ý nghĩ này: Họ bác bỏ với cường độ mạnh mẽ tương đương như lần đầu. Nhưng Schelling đã chỉ cho lớp học của mình thấy được rằng họ không thể bác bỏ hợp lý cả hai đề xuất. Đặt cả hai sự làm thành công thức đứng cạnh nhau. Sự khác biệt giữa các mức thuế bởi một gia đình không có con với một gia đình có hai con được miêu tả như là một sự miễn trừ thuế trong sự diễn đạt đầu tiên và như một sự gia tăng trong cái thứ hai. Nếu trong lối diễn đạt đầu tiên bạn muốn người nghèo nhận được lợi ích giống (hoặc lớn hơn) như người giàu bởi việc có con, thì bạn bắt buộc phải muốn người nghèo chịu mức thiệt thòi ít nhất là giống với người giàu bởi không có con. Chúng ta có thể nhận ra Hệ thống 1 đang vận hành. Nó sản sinh ra một phản ứng tức thì trước bất cứ câu hỏi nào về giàu và nghèo: Khi lưỡng lự, nó thiên về người nghèo. Khía cạnh gây ngạc nhiên trong vấn đề của Schelling đó là quy tắc đạo đức giản đơn bề ngoài không vận hành chắc chắn. Nó tạo ra những câu trả lời trái ngược cho cùng một vấn đề, phụ thuộc vào việc vấn đề đó được cấu trúc như thế nào. Và dĩ nhiên bạn đã biết rõ câu hỏi kế tiếp. Giờ đây khi bạn đã thấy được rằng những phản ứng của bạn trước vấn đề bị ảnh hưởng bởi cấu trúc, đâu là câu trả lời của bạn cho câu hỏi: Việc đánh thuế nên giải quyết như thế nào với trẻ em nhà giàu và nghèo? Ở đây thêm một lần nữa, bạn bị chết lặng bởi chính bản thân mình. Bạn có những trực giác tinh thần về những khác biệt giữa giàu và nghèo, nhưng những trực giác này phụ thuộc vào một điểm tham chiếu tùy biến, và chúng không phản ánh vấn đề thực tế. Vấn đề này – câu hỏi về những trạng thái thực của thế giới quan – là các gia đình đơn lẻ phải đóng bao nhiêu thuế, phải điền vào các ô trong bảng kê mã số thuế như thế nào. Bạn không có những trực giác tâm lý thuyết phục nào để dẫn dắt bạn trong việc giải quyết vấn đề này. Những cảm giác tâm lý của bạn bị bó chặt vào các cấu trúc, vào những mô tả về thực tại hơn là với thực chất của bản thân vấn đề. Thông điệp về bản chất của hoạt động cấu trúc đơn giản là: Việc cấu trúc không nên được nhìn nhận như là một sự can thiệp che giấu hoặc bóp méo một sự ưu tiên cơ bản. Chí ít trong thí dụ này – và cũng trong các vấn đề về dịch bệnh châu Á và về phương pháp phẫu thuật so với xạ trị đối với bệnh ung thư phổi – không có sự ưu tiên cơ bản nào bị che giấu hoặc bóp méo bởi cấu trúc. Các ưu tiên của chúng ta bàn về những vấn đề bị cấu trúc và những trực giác tâm lý của chúng ta hướng về những miêu tả, không phải về thực thể. NHỮNG CẤU TRÚC CÓ LỢI Không phải tất cả các cấu trúc là như nhau và một số cấu trúc rõ ràng tốt hơn so với các cách thức chọn lựa để miêu tả (hoặc để nghĩ đến) điều tương tự. Xem xét cặp vấn đề sau: Một người phụ nữ đã mua hai tấm vé giá 80 đô-la để vào rạp. Khi đến rạp, cô mở ví ra và phát hiện hai tấm vé đã rơi mất. Liệu cô sẽ mua hai tấm vé khác để xem vở kịch? Một người phụ nữ đi tới rạp, có ý định mua hai tấm vé với giá 80 đô-la một chiếc. Cô tới rạp, mở ví ra và hốt hoảng phát hiện ra rằng 160 đô-la mà cô dự định dùng để mua vé đã biến mất. Cô có thể sử dụng thẻ tín dụng. Liệu cô sẽ mua vé? Những người tham gia chỉ được trông thấy một mô tả của vấn đề này đi đến những kết luận khác nhau, phụ thuộc vào cấu trúc đó. Hầu hết tin rằng người phụ nữ trong câu chuyện thứ nhất sẽ trở về nhà mà không xem buổi biểu diễn nếu cô đã mất hai tấm vé, và hầu hết tin rằng cô sẽ chi trả phí tổn cho những tấm vé để xem buổi biểu diễn nếu cô đánh mất tiền. Sự lý giải có thể hoàn toàn tương tự - vấn đề này bao gồm giá trị tinh thần và sự lầm tưởng về chi phí đã đầu tư. Các cấu trúc khác nhau gợi ra những giá trị tinh thần khác nhau và ý nghĩa của sự tổn hại phụ thuộc vào trương mục mà theo đó nó được vào kết toán vào sổ. Khi các tấm vé dành cho một buổi biểu diễn đặc biệt bị mất, người ta tự nhiên liệt chúng vào chương mục có liên quan với vở kịch. Chi phí có vẻ như bị nhân đôi và có thể giờ đây lớn hơn giá trị trải nghiệm. Ngược lại, việc mất một số tiền mặt được tính vào trương mục “thu nhập thông thường” – khán giả thường xuyên của rạp hát nghèo hơn một chút so với cô đã từng nghĩ, và câu hỏi mà cô có thể tự hỏi bản thân là liệu mức giảm nhỏ trong số tài sản hiện có của cô sẽ thay đổi quyết định của cô về việc chi trả cho những tấm vé hay không. Hầu hết người tham gia nghĩ là không. Tiền mặt bị mất dẫn tới hai quyết định hợp lý hơn. Đây là một cấu trúc có lợi hơn bởi tổn thất, ngay cả những tấm vé đã mất, bị “chìm” và các chi phí chìm nên được lờ đi. Việc đã xảy ra không có liên quan và kết quả duy nhất quan trọng, ví dụ này thể hiện rằng có một chuỗi các chọn lựa khán giả thường xuyên của rạp có hiện tại, và các kết quả có thể xảy ra của chúng. Bất kể thứ gì cô bị mất, thực tế có liên quan đó là cô bớt dư dả hơn so với cô từng có, trước khi cô mở ví của mình ra. Nếu những người từng bị mất những tấm vé hỏi xin lời khuyên của tôi, đây là điều tôi sẽ nói: “Liệu bạn sẽ mua những tấm vé nếu bạn đã đánh mất một khoản tiền mặt tương đương? Nếu có, hãy tiến về phía trước và mua lấy một cặp mới.” Những cấu trúc phổ quát hơn và những giá trị toàn bộ thường dẫn tới những quyết định có lý trí hơn. Trong ví dụ tiếp theo, hai cấu trúc chọn lựa gợi ra những trực giác chính xác khác nhau và một cái hoàn hảo hơn cái còn lại. Trong một bài báo có tựa đề “Ảo tưởng MPG,” được đăng trên tạp chí Science (Khoa học) năm 2008, các nhà tâm lý học Richard Larrick và Jack Soll đã chỉ ra một trường hợp, trong đó sự chấp thuận thụ động một cấu trúc sai lạc dẫn tới những chi phí đáng kể và những hệ quả chính sách nghiêm trọng. Hầu hết những người mua xe ô tô liệt kê mức hao tốn nhiên liệu trên mỗi dặm như là một trong những yếu tố quyết định lựa chọn của họ, họ biết được rằng những chiếc xe có lợi ích cao có mức chi phí vận hành thấp hơn. Nhưng cấu trúc đã được sử dụng theo một cách truyền thống tại nước Mỹ – dặm trên mỗi ga-lông – đưa ra chỉ dẫn vô cùng nghèo nàn đối với những quyết định cho cả các cá nhân lẫn những người đưa ra chính sách. Xem xét hai chủ xe đang tìm cách giảm các chi phí sau: Adam chuyển từ một xe ngốn nhiên liệu mức 12 mpg sang một xe ngốn ít hơn một chút chạy ở mức 14 mpg. Về phương diện bảo vệ môi trường, Beth chuyển từ một xe chạy 30 mpg sang một chiếc khác chạy ở mức 40 mpg. Giả định rằng cả hai tài xế di chuyển với khoảng cách bằng nhau trong một năm. Người nào sẽ tiết kiệm nhiên liệu nhiều hơn khi chuyển đổi? Bạn gần như chắc chắn rằng hành động của Beth đáng kể đến hơn hành động của Adam: Cô đã giảm chỉ số mpg được 10 dặm hơn là một phần hai, và bằng một phần ba (từ 30 lên 40) hơn là một phần sáu (từ 12 lên 14). Giờ hãy buộc Hệ thống 2 của bạn phải làm việc. Nếu hai chủ xe đều lái 10.000 dặm, Adam sẽ giảm mức tiêu thụ của mình từ mức 833 ga-lông xuống một mức 714 ga-lông vẫn gây sốc, để tiết kiệm được 119 ga-lông. Mức sử dụng nhiên liệu của Beth sẽ rơi từ mức 333 ga-lông xuống còn 250, chỉ tiết kiệm được 83 ga-lông. Cấu trúc mpg ở đây đã sai, và nó sẽ bị thay thế bởi cấu trúc ga-lông trên một dặm (hoặc lít trên 100km, chỉ số này được sử dụng ở nhiều nước khác). Như Larrick và Soll đã chỉ ra, các trực giác sai lạc được thúc đẩy bởi cấu trúc mpg có khả năng làm cho những người đưa ra chính sách hiểu sai cũng như những người mua xe. Dưới thời Tổng thống Obama, Cass Sunstein phụng sự với vai trò Chánh văn phòng Thông tin và Quy định nội bộ. Cùng với Richard Thaler, Sunstein đã đồng sáng tạo ra Cú hích, đây là cuốn sổ tay cơ bản dành cho việc áp dụng Kinh tế học hành vi vào chính sách. Không phải ngẫu nhiên mà dòng chữ “tiết kiệm nhiên liệu và bảo vệ môi trường” sẽ phải hiển thị trên từng chiếc xe mới sử dụng lần đầu tiên bắt đầu vào năm 2013 tại nước Mỹ, bao gồm cả thông tin ga-lông trên mỗi dặm. Thật không may, công thức chính xác này sẽ được in chữ nhỏ, cùng với thông tin giống với mpg nhiều hơn với chữ lớn, nhưng biện pháp này đang đi đúng hướng. Khoảng thời gian năm năm giữa sự công bố về “Ảo tưởng MPG” và sự thi hành sự sửa sai một phần chắc hẳn là một thành tích mau chóng đối với một ứng dụng quan trọng của khoa học tâm lý tới chính sách công. Một chỉ lệnh về hiến xác trong trường hợp chết do tai nạn được ghi chú trên giấy phép lái xe của cá nhân tại nhiều nước. Sự làm thành công thức đối với chỉ lệnh này là một trường hợp khác mà trong đó một cấu trúc rõ ràng vượt trội hơn cái khác. Một vài người sẽ biện luận rằng quyết định liệu có nên hay không nên hiến xác của một ai đó là không quan trọng, nhưng đó là căn cứ rõ ràng để hầu hết mọi người đưa ra sự chọn lựa của mình mà không suy nghĩ gì. Căn cứ này đến từ một sự so sánh về tỷ lệ hiến xác tại các nước châu Âu, nó cho thấy những khác biệt đáng chú ý giữa các quốc gia láng giềng và có sự tương đồng về văn hóa. Một bản báo cáo được công bố năm 2003 đã lưu ý rằng tỷ lệ hiến xác đạt gần 100% tại Áo nhưng chỉ đạt 12% tại Đức, 86% tại Thụy Điển nhưng chỉ 4% tại Đan Mạch. Những khác biệt lớn này là một hiệu ứng cấu trúc, nó được gây ra bởi dạng thức của câu hỏi then chốt. Các nước có tỷ lệ hiến xác cao có dạng thức chọn lựa không tham gia, nơi các cá nhân không sẵn lòng hiến bắt buộc phải đánh dấu vào một ô tương ứng. Trừ khi họ thực hiện công việc đơn giản này, họ sẽ được coi là người hiến xác tự nguyện. Các nước có tỷ lệ hiến xác thấp có một dạng thức lựa chọn tham gia: Bạn cần phải đánh dấu vào một ô để trở thành một người hiến tặng. Tất cả chỉ có vậy. Sự dự đoán chuẩn nhất về việc liệu có hay không những người sẽ hiến các bộ phận cơ thể của mình là sự chọn lựa từ phương án ngầm định rằng sẽ chấp thuận mà không cần đánh dấu một ô nào. Không giống như những hiệu ứng cấu trúc khác đã được tìm thấy ở những đặc trưng của Hệ thống 1, tác động của việc hiến xác được lý giải chính xác qua sự biếng nhác của Hệ thống 2. Người ta sẽ đánh dấu vào ô trống nếu họ đã thực sự quyết định điều họ mong muốn thực hiện. Nếu họ chưa sẵn sàng cho câu hỏi này, họ phải nỗ lực suy nghĩ liệu họ có muốn đánh dấu vào ô trống hay không. Tôi hình dung ra một mẫu biểu hiến xác trong đó người ta được yêu cầu giải quyết một bài toán trong ô trống tương ứng với quyết định của họ. Một trong những ô trống gồm có bài toán 2 + 2 = ? Bài toán trong một ô trống khác đó là 13 x 37 = ? Tỷ lệ hiến tặng sẽ chắc chắn thay đổi. Khi vai trò của việc làm thành công thức được biết đến, một câu hỏi khôn khéo nảy sinh: Công thức nào sẽ được chấp thuận? Trong trường hợp này, câu trả lời thật dễ hiểu. Nếu bạn tin rằng một nguồn cung cấp lớn các bộ phận cơ thể được hiến tặng là tốt cho xã hội, bạn sẽ không đứng giữa một công thức mang lại gần như 100% sự hiến tặng với một công thức khác đưa ra sự hiến tặng từ 4% số tài xế. Như chúng ta đã xem đi xem lại, một sự chọn lựa quan trọng bị kiểm soát bởi một đặc tính hoàn toàn không logic của tình huống. Điều này thật khiến chúng ta lúng túng – đây không phải cách mà chúng ta có thể mong muốn để đưa ra những quyết định quan trọng. Hơn thế nữa, đây không phải cách chúng ta trải nghiệm những vận động của trí não, nhưng dấu hiệu của những ảo tưởng nhận thức này không thể phủ nhận được. Kể đến như là một quan điểm chống lại lý thuyết tác nhân lý trí. Một lý thuyết xứng với cái tên khẳng định rằng các biến cố chắc chắn không thể xảy ra được, chúng sẽ không được diễn ra nếu lý thuyết này đúng. Khi một biến cố “không thể xảy ra” được trông thấy, lý thuyết này bị làm cho sai lệch. Các lý thuyết có thể tồn tại trong một khoảng thời gian dài sau khi căn cứ xác định được làm sai lệch chúng, và hình mẫu tác nhân lý trí đã tồn tại một cách chắc chắn căn cứ mà chúng ta đã thấy và cũng như nhiều căn cứ khác. Những người hoài nghi về sự hợp lý không bị làm cho ngạc nhiên. Họ được đào tạo để trở nên nhạy cảm với sức mạnh của những yếu tố không logic như là những định thức của sự ưu tiên - mong mỏi của tôi đó là độc giả của cuốn sách này có thể đạt được độ nhạy ấy. PHÁT NGÔN VỀ CẤU TRÚC VÀ THỰC TẾ “Họ sẽ cảm nhận tốt hơn về điều đã xảy ra nếu họ có thể cấu trúc được kết quả trong mối liên hệ với việc họ giữ được bao nhiêu tiền hơn là họ mất đi bao nhiêu.” “Hãy tái cấu trúc vấn đề bằng việc thay đổi điểm tham chiếu. Hình dung rằng chúng ta đã không sở hữu nó. Chúng ta có thể nghĩ nó trị giá bao nhiêu?” “Chuyển đổi tổn thất sang tài khoản tinh thần ‘thu nhập chung’ của bạn – bạn sẽ cảm thấy tốt hơn!” Còn nữa
Phần 5 . Hai bản thể - Chương 35: Hai bản chất Bấm để xem Thuật ngữ thỏa dụng có hai ý nghĩa riêng biệt theo suốt chiều dài lịch sử của nó. Jeremy Bentham đã mở đầu Bài giới thiệu về các Nguyên tắc đạo đức và pháp luật của mình với một đoạn nổi tiếng “Tạo hóa đã đặt nhân loại dưới sự cai trị của hai bậc thầy tối thượng: Nỗi đau và niềm hoan lạc. Tạo hóa để cho chúng đứng riêng lẻ để chỉ ra những gì chúng ta cần phải làm, cũng như để xác định những gì chúng ta sẽ làm.” Trong lời chú thích khó xử, Bentham đã lấy làm tiếc vì việc sử dụng từ thỏa dụng cho những trải nghiệm này, ông nói rằng ông đã không thể tìm ra một từ chuẩn hơn. Để phân biệt cách hiểu của Bentham về thuật ngữ này, tôi sẽ gọi đó là độ thỏa dụng trải nghiệm. Trong suốt 100 năm qua, các nhà kinh tế học đã sử dụng cùng một từ để ám chỉ cả những thứ khác nữa. Như cách các lý thuyết kinh tế và lý thuyết ra quyết định áp dụng thuật ngữ, nó có ý rằng “khả năng mong muốn” và tôi gọi đó là độ thỏa dụng quyết định. Ví dụ, lý thuyết thỏa dụng kỳ vọng là tất cả về các quy luật về sự hợp lý chịu ảnh hưởng từ thỏa dụng quyết định; không có gì để bàn về những trải nghiệm hưởng lạc cả. Dĩ nhiên, hai khái niệm về độ thỏa dụng này sẽ trùng khớp nhau nếu người ta muốn mình sẽ tận hưởng điều gì và tận hưởng điều mà họ lựa chọn cho bản thân mình – và giả định về sự trùng khớp này tiềm ẩn trong ý niệm chung, khiến các tác nhân kinh tế có lý. Các tác nhân có lý trí được kỳ vọng nắm được những thị hiếu của mình, cả ở hiện tại lẫn tương lai và chúng có nhiệm vụ đưa ra các quyết định hợp lý tối đa hóa lợi ích. ĐỘ THỎA DỤNG TRẢI NGHIỆM Niềm đam mê của tôi với những khác biệt có thể giữa độ thỏa dụng trải nghiệm với độ thỏa dụng quyết định truy nguyên lại một quãng đường dài. Khi Amos và tôi vẫn còn đang nghiên cứu về lý thuyết triển vọng, tôi đã dựng lên một bài toán, bài toán đó như thế này: Hãy tưởng tượng một cá nhân bị một mũi tiêm gây đau đớn mỗi ngày. Ở đây không hề có sự điều chỉnh nào; nỗi đau ngày nào cũng giống ngày nào. Liệu người ta sẽ gắn cùng một giá trị cho việc giảm số lượng các mũi tiêm dự kiến từ 20 xuống 18 như thể từ 6 xuống 4 hay không? Có bất kỳ sự giải thích nào cho một khác biệt như vậy ở đây không? Tôi đã không thu thập dữ liệu, bởi kết quả quá rõ ràng. Bạn có thể tự mình xác nhận rằng bạn sẽ trả tiền nhiều hơn để giảm số mũi tiêm đi 1/3 (từ 6 xuống 4) so với giảm 1/10 (từ 20 xuống 18). Độ thỏa dụng quyết định về việc tránh được hai mũi tiêm trong trường hợp thứ nhất cao hơn so với trường hợp thứ hai và mọi người sẽ trả cho sự giảm thứ nhất nhiều hơn so với lần thứ hai. Nhưng sự khác biệt này lại thật ngớ ngẩn. Nếu nỗi đau không hề thay đổi từ ngày này sang ngày khác, cái gì có thể giải thích cho việc áp đặt những thỏa dụng khác nhau lên một sự giảm bớt của nỗi đau gộp tổng từ hai mũi tiêm, cho việc phụ thuộc vào số lượng các mũi tiêm trước đó? Trong các thuật ngữ mà chúng ta sử dụng ngày nay, bài toán gợi ra ý niệm rằng độ thỏa dụng trải nghiệm có thể được đo lường bởi số lượng các mũi tiêm. Nó cũng chỉ ra rằng, chí ít trong một số trường hợp, độ thỏa dụng trải nghiệm chính là tiêu chuẩn mà theo đó một quyết định nên được ấn định. Một người lập định trả những khoản tiền khác nhau để đạt được cùng một lợi ích của độ thỏa dụng trải nghiệm (hoặc được dung thứ cho cùng một mất mát) đang phạm phải một sai lầm. Bạn có thể thấy lời nhận xét này là hiển nhiên, nhưng trong lý thuyết quyết định, nền tảng duy nhất để đánh giá quyết định đó là sai lại mâu thuẫn với những sự ưu tiên khác. Amos và tôi đã tranh luận về vấn đề này nhưng chúng tôi đã không theo đuổi nó. Rất nhiều năm về sau, tôi đã lật lại vấn đề này. SỰ TRẢI NGHIỆM VÀ KÝ ỨC Độ thỏa dụng trải nghiệm có thể được đo lường như thế nào? Chúng ta nên trả lời các câu hỏi kiểu như: “Helen đã phải trải qua đau đớn trong suốt quá trình điều trị y tế nhiều như thế nào?” hoặc “Cô ấy đã tận hưởng sự khoan khoái nhờ 20 phút vui chơi ở trên bãi biển nhiều chừng nào?” Nhà kinh tế học người Anh Francis Edgeworth đã nghiên cứu về chủ đề này vào thế kỷ XIX và đã đưa ra ý niệm về một “máy đo niềm hoan lạc”, một công cụ tưởng tượng tương tự với dụng cụ được sử dụng tại các trạm quan trắc thời tiết, nó sẽ đo lường cấp độ niềm vui hay nỗi đau mà một cá nhân trải qua tại bất cứ thời điểm nào. Độ thỏa dụng trải nghiệm có thể biến đổi, nhiều như thời tiết trong ngày hoặc như áp suất khí áp và các kết quả sẽ được vẽ thành biểu đồ giống như một hàm số thời gian. Câu trả lời cho câu hỏi về việc Helen đã trải nghiệm nỗi đau hoặc niềm vui nhiều như thế nào trong suốt quá trình trị liệu hoặc kỳ nghỉ của mình có thể coi là “khu vực dưới đường cong”. Thời gian đóng một vai trò quyết định trong ý niệm của Edgeworth. Nếu Helen ở trên bãi biển 40 phút thay vì 20 phút và khả năng hưởng thụ của cô vẫn ở mức cao, thì tổng độ thỏa dụng trải nghiệm của tình huống này nhân đôi, cũng như việc nhân đôi số lượng mũi tiêm khiến cho một loạt các mũi tiêm tồi tệ gấp đôi. Đó là lý thuyết của Edgeworth và giờ đây chúng ta có được một sự hiểu biết chính xác về những hoàn cảnh để đưa ra lý thuyết của ông. Biểu đồ trong hình 15 mô tả sơ lược về những trải nghiệm của hai bệnh nhân đang chịu đựng một cuộc nội soi ruột kết đau đớn, được rút ra từ một nghiên cứu mà Don Redelmeier và tôi đã cùng nhau phác họa. Redelmeier, một bác sĩ và nhà nghiên cứu tại Đại học Toronto, đã tiến hành thí nghiệm này vào đầu những năm 1990. Quá trình này giờ đây được thực hiện thường xuyên với sự gây mê cũng như là một loại thuốc gây mất trí nhớ, nhưng những liều thuốc này không được phổ biến rộng như khi chúng tôi tiến hành thu thập dự liệu. Cứ 60 giây các bệnh nhân được nhắc nhở ra dấu về mức độ đau đớn mà họ phải chịu đựng ở thời điểm đó. Dữ liệu được chỉ ra nằm trên một hệ thống chia độ tại đó điểm 0 là “không hề đau đớn” và 10 là “đau không thể chịu đựng nổi”. Như bạn có thể thấy, sự trải nghiệm của mỗi bệnh nhân đã biến đổi đáng kể trong suốt quá trình, nó kéo dài 8 phút đối với bệnh nhân A và 24 phút đối với bệnh nhân B (số 0 cuối cùng đã được ghi lại sau khi quá trình này kết thúc). Tổng số 154 bệnh nhân đã tham gia vào thí nghiệm này; quá trình ngắn nhất kéo dài trong 4 phút, dài nhất trong 69 phút. Kế tiếp, xem xét một câu hỏi dễ: Cho rằng hai bệnh nhân đã sử dụng hệ thống đo lường nỗi đau tương tự nhau, bệnh nhân nào đã chịu đựng nhiều hơn? Không có tranh luận nào. Có một sự đồng thuận tổng thể rằng bệnh nhân B đã có khoảng thời gian tệ hơn. Bệnh nhân B ít nhất đã trải qua quãng thời gian giống như bệnh nhân A ở bất cứ cấp độ đau đớn nào, và “khu vực dưới đường cong” rõ ràng đối với B lớn hơn so với A. Dĩ nhiên yếu tố mấu chốt đó là quá trình của B diễn ra lâu hơn nhiều. Tôi sẽ gọi những thước đo dựa trên những báo cáo về nỗi đau tạm thời là những tổng lượng đo lường khoái lạc. Khi quá trình này kết thúc, tất cả những người tham gia được đề nghị xếp hạng “tổng lượng nỗi đau” mà họ đã trải nghiệm trong suốt quá trình. Các diễn đạt nhằm để khuyến khích họ tư duy về toàn bộ nỗi đau mà họ đã thông báo, mô phỏng lại tổng lượng đo lường khoái lạc. Thật ngạc nhiên, những bệnh nhân này đã không hề làm điều gì theo kiểu đó. Các con số thống kê hé lộ hai phát hiện, chúng minh chứng cho một mô hình mà chúng tôi đã từng thấy được trong các thí nghiệm khác: Quy tắc đỉnh - đáy: Sự đánh giá hồi tưởng bao trùm được dự đoán đúng bởi số trung bình của mức độ đau đớn được báo cáo tại thời điểm tồi tệ nhất của sự trải nghiệm và tại điểm kết thúc. Bỏ qua khoảng thời gian: Khoảng thời gian thực hiện thủ thuật không có bất cứ tác động gì lên những đánh giá về tổng lượng nỗi đau. Giờ đây bạn có thể áp dụng những quy tắc này cho những mô tả sơ lược của bệnh nhân A và B. Đánh giá tệ nhất (8 trên hệ số điểm 10) là như nhau đối với cả hai bệnh nhân, nhưng đánh giá sau cùng trước khi kết thúc quá trình là 7 đối với bệnh nhân A và chỉ 1 đối với bệnh nhân B. Do đó trị số trung bình đỉnh - đáy là 7.5 đối với bệnh nhân A và chỉ là 4.5 đối với bệnh nhân B. Như đã dự tính, bệnh nhân A nhớ được đoạn ký ức về tình huống này tồi tệ hơn nhiều so với bệnh nhân B. Đó là vận rủi của bệnh nhân A khi mà quá trình kết thúc tại thời điểm tồi tệ, để lại trong anh ta một ký ức không lấy gì làm dễ chịu. Giờ đây chúng ta có một tình huống rối trí với tài sản: Hai thước đo độ thỏa dụng trải nghiệm – tổng lượng đo lường khoái lạc và đánh giá hồi tưởng – khác biệt về hệ thống. Các tổng lượng đo lường khoái lạc được tính toán bởi một người quan sát từ một báo cáo của cá nhân về sự trải nghiệm ở các thời điểm. Chúng tôi gọi những sự đánh giá này là khoảng thời gian ảnh hưởng, bởi sự tính toán của “khu vực dưới đường cong” phân phát các ảnh hưởng đồng đều lên tất cả các thời điểm: Hai phút đau đớn tồi tệ gấp hai lần so với một phút ở cùng cấp độ 9. Tuy nhiên, những phát hiện về sự trải nghiệm này và những điều khác cho thấy rằng những đánh giá hồi tưởng có độ nhạy với thời gian và ảnh hưởng từ hai thời điểm khác thường, đỉnh và đáy, nhiều hơn so với những thứ khác. Vậy đâu là điều quan trọng? Bác sĩ nên làm gì? Sự chọn lựa có những ý nghĩa đối với việc hành nghề y. Chúng tôi đã lưu ý rằng: Nếu mục tiêu là giảm ký ức của bệnh nhân về nỗi đau, việc giảm cường độ đỉnh của nỗi đau có thể quan trọng hơn so với việc giảm thiểu thời gian diễn ra liệu pháp. Với lý lẽ tương tự, sự giảm nhẹ từ từ có thể thích hợp hơn so với giảm đột ngột nếu muốn bệnh nhân nhớ được một ký ức đẹp khi cơn đau tại thời điểm kết thúc liệu trình là khá nhẹ nhàng. Nếu mục đích là giảm số lượng cơn đau đã trải nghiệm thực, việc thực hiện liệu trình nhanh chóng có thể thích hợp dù cho việc làm như vậy sẽ làm tăng cơn đau lên đỉnh điểm cường độ và để lại cho bệnh nhân một ký ức kinh hãi. Bạn thấy trong hai mục tiêu này cái nào là hấp dẫn nhất? Tôi chưa từng tiến hành một cuộc khảo sát thích hợp, nhưng ấn tượng của tôi chính là đại đa số sẽ có xu hướng thiên về việc giảm thiểu ký ức về cơn đau. Tôi nhận thấy sự hữu ích khi nghĩ về tình thế tiến thoái lưỡng nan này như là một mối xung đột về lợi ích giữa hai bản thể (mà không tương tự với hai phương thức quen thuộc). Bản thể trải nghiệm trả lời cho câu hỏi: “Bây giờ có đau không?” Bản thể hồi tưởng trả lời cho câu hỏi: “Nó như thế nào, về tổng thể?” Những ký ức là tất cả những gì chúng ta thu nhận để lưu giữ từ sự trải nghiệm của chúng ta về cuộc sống và sự hồi tưởng duy nhất mà chúng ta có thể chấp nhận khi chúng ta nghĩ về cuộc sống của mình chính là bản thể hồi tưởng. Một lời nhận xét mà tôi đã nghe được từ một thính giả sau buổi diễn thuyết chứng minh sự phức tạp của việc phân biệt các ký ức từ những sự trải nghiệm. Ông ấy kể về việc lắng nghe một cách say mê một bản nhạc giao hưởng dài trên một đĩa nhạc đã bị xước ở đoạn gần kết, sinh ra một âm thanh khó nghe và ông đã tuyên bố rằng cái kết tồi “đã hủy hoại toàn bộ sự trải nghiệm”. Nhưng sự trải nghiệm đó trên thực tế không bị hủy hoại, chỉ có ký ức về nó là có. Bản thể trải nghiệm đã có một sự trải nghiệm gần như là hoàn hảo và cái kết tồi đã không thể xóa đi điều đó, bởi nó đã thực sự diễn ra. Người chất vấn của tôi đã áp định toàn bộ tình tiết này là cấp độ thất bại, bởi nó đã kết thúc một cách rất tồi tệ, nhưng mức đó thực tế đã bỏ qua 40 phút tận hưởng âm nhạc vui thú nhất. Có phải sự trải nghiệm trong thực tế không hề có giá trị gì? Sự trải nghiệm khó hiểu với ký ức về điều đó là một ảo tưởng về nhận thức thú vị - và đây là một sự thay thế khiến chúng ta tin rằng một sự trải nghiệm đã qua có thể bị hủy hoại. Bản thể trải nghiệm không hề có tiếng nói. Bản thể hồi tưởng đôi khi sai, nhưng nó là thứ duy nhất đeo bám được mục tiêu và kiểm soát điều chúng ta lĩnh hội được từ đời sống, và nó là thứ duy nhất đưa ra các quyết định. Điều mà chúng ta lĩnh hội được trong quá khứ là để tối đa hóa những đặc trưng của các ký ức trong tương lai của chúng ta, chứ không nhất thiết cho sự trải nghiệm trong tương lai của chúng ta. Đó chính là sự chuyên quyền của bản thể hồi tưởng. BẢN THỂ NÀO ĐÁNG ĐƯỢC QUAN TÂM? Để làm sáng tỏ sức mạnh trong việc ra quyết định của bản thể hồi tưởng, tôi cùng với các đồng sự của mình đã phác thảo ra một thí nghiệm, sử dụng một hình thức tra khảo nhẹ mà tôi sẽ gọi là tình huống can đảm (tên chuyên ngành khó nghe của nó là co mạch máu/tăng áp suất máu). Những người tham gia được yêu cầu để cho nước lạnh buốt ngập tới cổ tay của mình cho tới khi họ được đề nghị rút ra và đưa cho một chiếc khăn ấm. Các chủ thể trong thí nghiệm của chúng tôi đã sử dụng bàn tay tự do còn lại của mình để điều khiển các mũi tên lên xuống trên một bàn phím nhằm cung cấp một bản ghi chép liên tục về sự đau đớn mà họ đang chịu đựng, một sự truyền đạt trực tiếp từ bản thể đang trải nghiệm. Chúng tôi chọn một mức nhiệt độ để gây ra cơn đau đáng kể nhưng vẫn có thể chịu đựng được: Những người tình nguyện tham gia dĩ nhiên có thể tự do rút tay của mình ra ở bất cứ thời điểm nào nhưng đã không có ai lựa chọn làm như vậy. Mỗi người đã chịu đựng hai tình thế can đảm khác nhau: Tình huống ngắn gồm có 60 giây nhúng trong nước ở mức 14°C, được trải nghiệm như là lạnh buốt, nhưng không phải không thể chịu đựng được. Vào cuối thời điểm 60 giây, người thực nghiệm đã chỉ dẫn người tham gia rút tay của mình ra khỏi nước và đưa ra một chiếc khăn ấm. Tình huống dài, trong 90 giây. 60 giây đầu giống với tình huống ngắn. Người thực nghiệm không nói gì cả tại thời điểm hết 60 giây. Thay vào đó anh đã mở một cái van để cho dòng nước ấm hơn một chút chảy vào trong chậu. Trong suốt quãng 30 giây tiếp theo, nhiệt độ của nước tăng lên xấp xỉ 1°C, vừa đủ cho hầu hết các chủ thể nhận ra một sự giảm nhẹ trong cường độ của cơn đau. Những người tham gia của chúng tôi đã được thông báo rằng họ sẽ có ba cuộc thử nghiệm can đảm như vậy, nhưng trong thực tế họ chỉ trải nghiệm tình huống ngắn và dài, mỗi tình huống với một tay khác nhau. Các thử nghiệm được thực hiện cách nhau bảy phút. Bảy phút sau cuộc thử nghiệm thứ hai, những người tham gia được đưa tới một lựa chọn về thử nghiệm thứ ba. Họ được thông báo rằng một trong những trải nghiệm của họ sẽ được làm lại y như cũ và được tự do chọn lựa liệu có làm lại thí nghiệm mà họ đã làm với tay trái hoặc tay phải của mình hay không. Dĩ nhiên, một nửa số người tham gia đã thực hiện thử nghiệm ngắn với tay trái, một nửa còn lại với tay phải; một nửa đã thực hiện thử nghiệm ngắn trước, một nửa đã khởi đầu với thử nghiệm dài... Đây là một thí nghiệm được kiểm soát hết sức cẩn trọng. Thí nghiệm này được lập ra nhằm tạo nên một sự xung khắc giữa những lợi ích của bản thể đang trải nghiệm với bản thể đang hồi tưởng, và cũng là giữa độ thỏa dụng trải nghiệm với độ thỏa dụng quyết định. Từ viễn cảnh của bản thể đang trải nghiệm, thử nghiệm dài rõ ràng là tệ hơn. Chúng tôi đã dự tính bản thể hồi tưởng sẽ đưa ra một ý kiến khác. Quy tắc đỉnh - đáy dự đoán một ký ức tệ hại dành cho thử nghiệm ngắn hơn là cho thử nghiệm dài và bỏ qua khoảng thời gian dự đoán rằng sự khác biệt giữa cơn đau 90 giây với 60 giây sẽ bị lờ đi. Bởi vậy chúng tôi đã dự đoán rằng những người tham gia có thể có một ký ức có lợi (hoặc ít bất lợi) hơn về thử nghiệm dài và lựa chọn lặp lại thử nghiệm này. Họ đã làm vậy, đúng 80% số người tham gia thông báo rằng cơn đau của họ giảm dần trong suốt giai đoạn cuối của tình huống dài đã lựa chọn lặp lại nó. Họ tự mình tuyên bố sẵn lòng chịu đựng cơn đau không cần thiết thêm 30 giây trong thử nghiệm dự kiến thứ ba. Những chủ thể ưu tiên tình huống dài không phải là những người khổ dâm và đã không lựa chọn một cách kỹ càng mà đặt bản thân vào sự trải nghiệm tồi tệ, họ đã phạm phải một sai lầm. Nếu chúng tôi đã đề nghị họ: “Bạn sẽ thích một sự ngâm mình 90 giây hay chỉ phần đầu của nó?” họ sẽ chắc chắn lựa chọn phương án ngắn. Tuy nhiên, chúng tôi đã không sử dụng cụm từ đó và các chủ thể đã hành động một cách tự nhiên: Họ lựa chọn lặp lại tình huống mà theo đó họ có ký ức chống chọi lại ít hơn. Các chủ thể đã biết được khá rõ hành động nào kéo dài hơn - chúng tôi đã hỏi họ - nhưng họ đã không sử dụng kiến thức đó. Quyết định của họ đã bị chi phối bởi một quy tắc đơn giản của sự chọn lựa trực giác: Lựa lấy phương án mà bạn thích nhất, hoặc ít không thích nhất. Các quy tắc về ký ức đã xác định họ không thích hai lựa chọn nhiều ra sao, điều đó lần lượt xác định sự lựa chọn của họ. Thí nghiệm can đảm, giống như bài toán về những mũi tiêm cũ của tôi, đã gợi ra một sự không thống nhất giữa độ thỏa dụng quyết định với độ thỏa dụng trải nghiệm. Những sự ưu tiên mà chúng ta đã thấy được trong thí nghiệm này là một ví dụ khác về hiệu ứng càng ít càng tốt mà chúng ta đã từng bắt gặp trong một vài dịp trước đó. Một là nghiên cứu của Christopher Hsee, trong đó việc thêm những chiếc đĩa vào chuỗi 24 chiếc đĩa làm giảm tổng giá trị bởi một vài chiếc đĩa được thêm vào đã vỡ. Một ví dụ khác là của Linda, một phụ nữ năng động được đánh giá có nhiều khả năng là một nhà hoạt động vì nữ quyền hơn là một kế toán ngân hàng. Sự tương đồng ở đây không có gì là bất ngờ. Đặc trưng vận hành tương tự của Hệ thống 1 giải thích cho cả ba trường hợp: Hệ thống 1 đại diện cho các tập hợp gồm các giá trị trung bình, các quy phạm và các nguyên mẫu, không bao gồm những nội dung tổng quát. Từng tình huống can đảm là một chuỗi những khoảng thời gian ngắn mà bản thể hồi tưởng lưu giữ như là một khoảnh khắc nguyên mẫu. Chính điều này dẫn tới một sự xung đột. Đối với một người quan sát khách quan, việc đánh giá tình huống từ những thông báo của bản thể đang trải nghiệm, với giá trị là “khu vực dưới đường cong” tích tụ cơn đau theo thời gian; nó có tính chất của một hàm tổng. Ký ức mà bản thể đang hồi tưởng lưu giữ, ngược lại, là một khoảnh khắc tiêu biểu, bị tác động mạnh bởi đỉnh và đáy. Tất nhiên, sự tiến hóa có thể đã lập ra bộ nhớ của động vật nhằm lưu trữ những cái tổng thể, giống như nó đã thực hiện một cách chắc chắn trong một số trường hợp. Điều này là quan trọng đối với một con sóc để “biết được” tổng lượng thức ăn nó đã tích trữ được và một hình dung về số trung bình các quả hạch có thể không phải là một sự thay thế đúng đắn. Tuy nhiên, số nguyên của nỗi đau hay niềm hưng phấn theo thời gian có thể ít quan trọng về mặt sinh học hơn. Ví dụ, chúng ta biết rằng những con chuột cho thấy sự bỏ qua khoảng thời gian đối với cả sự hưng phấn lẫn cơn đau. Trong một thí nghiệm, những con chuột liên tiếp bị đặt vào một chuỗi hành động, trong đó phát một luồng sáng báo hiệu rằng một cú sốc điện sẽ nhanh chóng được phóng ra. Những con chuột đã nhanh chóng nhận biết để sợ hãi luồng sáng, và cường độ nỗi sợ có thể được đo lường bởi một vài phản ứng sinh lý. Phát hiện đó là quãng thời gian diễn ra cú sốc có ít hoặc không có ảnh hưởng lên nỗi sợ - tất cả mọi vấn đề đó là cường độ đau của những tác nhân kích thích. Những nghiên cứu kinh điển khác đã chỉ ra rằng sự kích thích bằng điện từ lên những vùng chuyên biệt trên não của chuột (và những vùng tương ứng trên não người) sinh ra một cảm giác về sự hưng phấn tột bậc, quá mạnh đến nỗi trong một số trường hợp mà có thể kích thích não những con chuột của qua việc ghì chặt một cái đòn bẩy sẽ chết đói mà không dừng lại để tự nạp thêm thức ăn. Sự kích thích hưng phấn bằng điện từ có thể được sinh ra trong sự bùng phát biến đổi về cường độ và thời gian diễn ra. Ở đây thêm một lần nữa, cường độ mới là vấn đề. Không vượt quá một điểm/có thể so sánh với một điểm, việc tăng thời lượng của một sự bùng phát kích thích không xuất hiện để làm tăng sự hăm hở của động vật nhằm đạt được nó. Các quy tắc chi phối bản thể đang hồi tưởng của con người có một lịch sử phát triển lâu dài. SINH VẬT HỌC ĐỐI CHỌI VỚI SỰ HỢP LÝ Ý tưởng hữu ích nhất trong bài toán về những mũi tiêm đã ám ảnh tôi nhiều năm trước đây, đó là độ thỏa dụng trải nghiệm của một chuỗi các mũi tiêm gây đau đớn ngang bằng có thể được đo lường, bởi việc tính toán một cách đơn giản các mũi tiêm. Nếu tất cả các mũi tiêm đều gây sợ hãi như nhau, thì cả 20 mũi sẽ tồi tệ gấp đôi 10 mũi, sự sụt giảm từ 20 xuống 18 và một sự giảm từ 6 xuống 4 có trị giá ngang nhau. Nếu độ thỏa dụng quyết định không tương đương với độ thỏa dụng trải nghiệm, thì có cái gì đó sai khác với quyết định. Logic tương tự diễn ra trong thí nghiệm can đảm: Một tình huống đau đớn kéo dài 90 giây tồi tệ hơn so với 60 giây đầu tiên trong tình huống đó. Nếu người ta tự nguyện lựa chọn chịu đựng tình huống dài hơn, có cái gì đó sai khác với quyết định của họ. Trong bài toán ban đầu của tôi, sự sai khác giữa quyết định và trải nghiệm được khởi đầu từ độ nhạy giảm dần: Sự khác biệt giữa 18 và 20 ít lôi cuốn hơn, và có vẻ ít giá trị hơn, so với sự khác biệt giữa 6 và 4 mũi tiêm. Trong thí nghiệm can đảm, sự sai sót phản ánh hai nguyên tắc của ký ức: Sự bỏ qua thời gian diễn ra và quy tắc đỉnh - đáy. Các cơ chế là khác nhau nhưng kết quả thì tương tự: Một quyết định không hòa hợp chính xác với sự trải nghiệm. Các quyết định không tạo ra sự trải nghiệm hợp lý nhất và những dự báo sai lầm về những cảm giác trong tương lai – cả hai đều là những tin xấu dành cho những người tin tưởng vào tính hợp lý của sự chọn lựa. Nghiên cứu về sự can đảm đã chỉ ra rằng: Chúng ta không thể tin tưởng hoàn toàn vào những ưu ái của mình để phản ánh những lợi ích của chúng ta, dù cho chúng có dựa trên sự trải nghiệm cá nhân, và dù cho ký ức về sự trải nghiệm đó vừa mới diễn ra trong vòng 15 phút! Những nếm trải và quyết định được định hình bởi ký ức và ký ức có thể sai. Căn cứ này đưa ra một thách thức có tầm ảnh hưởng tới ý niệm rằng con người có những ưu ái nhất quán và biết cách để tối đa hóa chúng, một nền tảng của mô hình tác nhân lý trí. Một mâu thuẫn được nhen nhóm trong sự định hình trí óc của chúng ta. Chúng ta có sự thiên vị mạnh mẽ đối với thời gian xảy ra những trải nghiệm về nỗi đau và sự hưng phấn. Chúng ta muốn nỗi đau bị rút ngắn và sự hưng phấn kéo dài. Nhưng ký ức của chúng ta, một đặc trưng của Hệ thống 1, đã được phát triển để hình dung ra thời khắc căng thẳng nhất của một tình huống đau khổ hay phấn khích (đỉnh) và những cảm giác khi tình huống ấy đạt tới điểm kết của nó. Một ký ức bỏ qua khoảng thời gian diễn ra sẽ không hậu thuẫn cho sự thiên vị của chúng ta dành cho sự hưng phấn kéo dài hay những đau đớn ngắn ngủi. Còn nữa