Tư Duy Nhanh Và Chậm - Daniel Kehlmann

Thảo luận trong 'Tổng Hợp' bắt đầu bởi Thanh Bình, 23 Tháng sáu 2018.

  1. Thanh Bình

    Bài viết:
    111
    Tác giả : Daniel Kehlmann
    Thể loại: Tâm lý - Kỹ năng sống
    Nguồn: sachvui.com

    [​IMG]
    Chúng ta thường tự cho rằng con người là sinh vật có lý trí mạnh mẽ, khi quyết định hay đánh giá vấn đề luôn kĩ lưỡng và lý tính. Nhưng sự thật là, dù bạn có cẩn trọng tới mức nào, thì trong cuộc sống hàng ngày hay trong vấn đề liên quan đến kinh tế, bạn vẫn có những quyết định dựa trên cảm tính chủ quan của mình. Tư duy nhanh và chậm, cuốn sách nổi tiếng tổng hợp tất cả nghiên cứu được tiến hành qua nhiều thập kỷ của nhà tâm lý học từng đạt giải Nobel Kinh tế Daniel Kahneman sẽ cho bạn thấy những sư hợp lý và phi lý trong tư duy của chính bạn. Cuốn sách được đánh giá là “kiệt tác” trong việc thay đổi hành vi của con người, Tư duy nhanh và chậm đã dành được vô số giải thưởng danh giá, lọt vào Top 11 cuốn sách kinh doanh hấp dẫn nhất năm 2011. Alpha Books đã mua bản quyền và sẽ xuất bản cuốn sách trong Quý 1 năm nay. Tư duy nhanh và chậm dù là cuốn sách có tính hàn lâm cao nhưng vô cùng bổ ích với tất cả mọi người và đặc biệt rất dễ hiểu và vui nhộn.

    Đã có rất nhiều cuốn sách nói về tính hợp lý và phi lý của con người trong tư duy, trong việc đánh giá và ra quyết định, nhưng Tư duy nhanh và chậm được Tạp chí Tài chính Mỹ đánh giá là “kiệt tác”.

    Bạn nghĩ rằng bạn tư duy nhanh, hay chậm? Bạn tư duy và suy nghĩ theo lối “trông mặt bắt hình dong”, đánh giá mọi vật nhanh chóng bằng cảm quan, quyết định dựa theo cảm xúc hay tư duy một cách cẩn thận, chậm rãi nhưng logic hợp lý về một vấn đề. Tư duy nhanh và chậm sẽ đưa ra và lý giải hai hệ thống tư duy tác động đến con đường nhận thức của bạn. Kahneman gọi đó là: hệ thống 1 và hệ thống 2. Hệ thống 1, còn gọi là cơ chế nghĩ nhanh, tự động, thường xuyên được sử dụng, cảm tính, rập khuôn và tiềm thức. Hệ thống 2, còn gọi là cơ chế nghĩ chậm, đòi hỏi ít nỗ lực, ít được sử dụng, dùng logic có tính toán và ý thức. Trong một loạt thí nghiệm tâm lý mang tính tiên phong, Kahneman và Tversky chứng minh rằng, con người chúng ta thường đi đến quyết định theo cơ chế nghĩ nhanh hơn là ghĩ chậm. Phần lớn nội dung của cuốn sách chỉ ra những sai lầm của con người khi suy nghĩ theo hệ thống 1. Kahneman chứng minh rằng chúng ta tệ hơn những gì chúng ta tưởng: đó là chúng ta không biết những gì chúng ta không biết!

    Cuốn sách đặc biệt đã dành được vô số giải thưởng danh giá: Sách khoa học hay nhất của Học viện Khoa học Quốc gia năm 2012, được tạp chí The New York Times bình chọn là sách hay nhất năm 2011, một trong những cuốn sách kinh tế xuất sắc năm 2011, chiến thắng giải thưởng cuốn sách được quan tâm nhất năm 2011 của tạp chí Los Algeles… Tư duy nhanh và chậm đáp ứng hai tiêu chí của một cuốn sách hay, thứ nhất nó thách thức quan điểm của người đọc, thứ hai, nó không phải là những trang sách với những con chữ khô cứng mà nó vô cùng vui nhộn và hấp dẫn. Không nghi ngờ gì nữa, đây là cuốn sách hàn lâm dành cho tất cả mọi người.!

    Thông tin tác giả

    Daniel Kahneman, sinh năm 1934, nhà tâm lý học người Mỹ gốc Israel đã dành giải Nobel Kinh tế năm 2002. Ông dành cả cuộc đời của mình để nghiên cứu về tâm lý học hành vi con người. Cùng với người cộng sự đã qua đời Amos Tversky, hai ông đã có được những nghiên cứu sâu sắc về con đường tư duy và nhận thức của con người.
     
    Chỉnh sửa cuối: 2 Tháng bảy 2018
  2. Đăng ký Binance
  3. Thanh Bình

    Bài viết:
    111
    Lời giới thiệu
    Bấm để xem
    Đóng lại

    Nguyễn Văn Tuấn
    - Giáo sư y khoa, Viện nghiên cứu y khoa và Đại học New South Wales, Sydney, Australia.

    Bạn đọc đang cầm trên tay một cuốn sách hay. Hay từ nội dung, hàm lượng thông tin học thuật, đến văn phong. Nếu có một tác phẩm nào giúp cho chúng ta – bạn và tôi – hiểu hơn về chính mình, thì đây là một tác phẩm như thế. Bằng một văn phong đơn giản, trong sáng và có khi dí dỏm, Giáo sư Daniel Kahneman dẫn dắt bạn qua hàng loạt thí nghiệm tâm lý xã hội mà ông và đồng nghiệp đã thực hiện trong suốt bốn thập niên qua. Kết quả của những thí nghiệm được đúc kết trong quyển sách này. Những kết quả thí nghiệm đó sẽ thách thức suy nghĩ của bạn, đồng thời cung cấp những kiến thức uyên bác để bạn có thể hiểu về hành vi của mình và của những người xung quanh. Cái hay của quyển sách không chỉ là hàm lượng tri thức học thuật mà còn mang tính giải trí. Đọc đến chương cuối cùng và gấp quyển sách lại, bạn đọc sẽ cảm thấy tiếc nuối rằng tại sao mình không biết những thông tin này sớm hơn!

    Nói đến sách mà không đề cập đến tác giả là một thiếu sót lớn. Tác giả Daniel Kahneman là giáo sư tâm lý học thuộc Đại học Princeton. Ông được xem là một nhà tâm lý học vĩ đại nhất trên thế giới còn sống. Ông là người gốc Do Thái, tốt nghiệp tâm lý học từ Đại học Jerusalem (1954), và phục vụ trong quân đội Do Thái như một chuyên gia tâm lý. Năm 1958 ông sang Mỹ học và tốt nghiệp tiến sĩ tâm lý học ở Đại học California, Berkeley (1958). Cùng với người đồng nghiệp thân thiết là Giáo sư Amos Tversky (Đại học Stanford), ông đã thực hiện hàng loạt thí nghiệm tâm lý và có nhiều phát hiện rất quan trọng về hành vi con người. Nhờ những công trình đột phá đó, năm 2002, ông được trao giải thưởng Nobel về kinh tế vì những phát kiến về lý thuyết viễn cảnh (Prospect Theory). Giáo sư Tversky không may mắn qua đời vào năm 1996, nên không có “duyên” với giải Nobel mà đáng lẽ ra ông đã cùng Kahneman chia sẻ. Có thể nói không ngoa rằng cuốn sách bạn đang cầm trên tay là một đúc kết những nghiên cứu đẳng cấp Nobel.

    Người viết bài này “làm quen” với những công trình nghiên cứu của Kahneman và Tversky từ đầu thập niên 2000. Lúc đó, tôi mới bắt đầu một dự án nghiên cứu về nguy cơ gãy xương theo nguyên lý cá nhân hoá điều trị (personalized medicine). Vấn đề được đặt ra là truyền đạt thông tin về nguy cơ đến bệnh nhân như thế nào để có hiệu quả nhất, và tại sao dù có nhiều thuốc điều trị loãng xương rất có hiệu quả và an toàn, nhưng bệnh nhân không chịu dùng thuốc. Những thí nghiệm cực kỳ sáng tạo và lý thú của Kahneman và Tversky đã soi sáng và cung cấp cho tôi rất nhiều câu trả lời. Đọc những gì Kahneman viết, tôi thấy hình như ông biết rất nhiều về tôi! Do đó, khi cuốn sách được ấn hành, tôi đã viết bài điểm sách trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn vào tháng 11 năm 2012, và nay tôi rất hân hạnh giới thiệu cuốn sách này đến bạn đọc.

    Cuốn sách có tựa đề là Tư duy nhanh và chậm (Thinking, fast and slow). Tuy là sách dành cho đại chúng, nhưng trong đó tác giả thuật lại những nghiên cứu tâm lý và xã hội học được thiết kế một cách thông minh và kết quả làm cho bạn phải suy nghĩ lại chính mình. Chẳng hạn như chúng ta vẫn tưởng rằng con người vốn đầy lý trí, quyết định có suy tính cẩn thận, nhưng Daniel Kahneman và Amos Tversky đã chứng minh trong cuộc sống hàng ngày và cả đời sống kinh tế, chúng ta thường quyết định một cách thiếu nhất quán, cảm tính, và chủ quan. Kahneman chứng minh rằng chúng ta tệ hơn những gì chúng ta tưởng: đó là chúng ta không biết những gì chúng ta không biết!

    Trong tác phẩm Tư duy nhanh và chậm, Kahneman mô tả hai cách thức (hay nói đúng hơn là hai hệ thống) mà não chúng ta vận hành. Ông gọi đó là Hệ thống 1 và Hệ thống 2. Hệ thống 1, còn gọi là cơ chế nghĩ nhanh, tự động, thường xuyên được sử dụng, cảm tính, rập khuôn, và tiềm thức. Hệ thống 2, còn gọi là cơ chế nghĩ chậm, đòi hỏi nỗ lực, ít được sử dụng, dùng logic, có tính toán, và ý thức. Trong một loạt thí nghiệm tâm lý, Kahneman và Tversky chứng minh rằng con người chúng ta thường đi đến quyết định theo cơ chế nghĩ nhanh hơn là nghĩ chậm. Phần lớn nội dung của cuốn sách là để chỉ ra những sai lầm trong hệ thống 1.

    Suy nghĩ nhanh, theo cách nói ví von của người Việt chúng ta, là trông mặt mà bắt hình dong. Tức là một cơ chế suy nghĩ dựa vào những tín hiệu sơ khởi, thay vì tính toán cẩn thận và suy đoán dựa vào logic. Có thể liên tưởng về cơ chế nghĩ nhanh qua vài ví dụ cụ thể. Khi lái xe gắn máy đến một ngã tư, chúng ta có khi chỉ cần nhìn vào ánh mắt người lái xe đối diện để quyết định có băng qua đường hay không. Hoặc trước thông tin rằng tỷ lệ mắc bệnh ung thư ở vùng nông thôn cao hơn vùng thành thị, chúng ta có thể nghĩ ngay rằng vì dịch vụ y tế ở vùng nông thôn kém hơn vùng thành thị. Nhưng nếu có thông tin cho rằng tỷ lệ mắc bệnh ung thư vùng nông thôn thấp hơn vùng thành thị, có lẽ chúng ta nghĩ rằng cư dân nông thôn không sống trong môi trường ô nhiễm như cư dân thành thị, nên cư dân nông thôn có nguy cơ ung thư thấp hơn thành thị. Việc người dân di tản khỏi khu vực Sông Tranh II có lẽ là một quyết định theo cơ chế nghĩ nhanh. Chính cơ chế suy nghĩ nhanh này giúp cho con người tồn tại qua hàng triệu năm, dù trong thực tế cũng sai lầm rất nhiều.

    Những sai lầm trong cơ chế 1 được “chứng minh” qua hàng loạt thí nghiệm rất nổi tiếng. Có lẽ thí nghiệm nổi tiếng nhất là Vấn đề Linda. Trong thí nghiệm này, các đối tượng tham gia nghiên cứu được cung cấp thông tin về một phụ nữ (hư cấu) tên là Linda, 31 tuổi, độc thân, tính tình thẳng thắn, rất thông minh, và thời còn là sinh viên triết ở đại học cô thường hay quan tâm đến những vấn đề kỳ thị chủng tộc và bất bình đẳng xã hội. Những người tham gia nghiên cứu được hỏi rằng Linda là:

    (a) một nhân viên phục vụ khách hàng ở ngân hàng (bank teller);

    hay

    (b) là một bank teller và đấu tranh cho nữ quyền (feminist).

    Phần lớn (85%) người tham gia nghiên cứu chọn câu trả lời (b) là khả năng cao nhất. Nhưng câu trả lời đó vi phạm quy luật xác suất! Kahneman và Tversky gọi sai lầm này là nghịch lý liên hợp (Conjunction fallacy).

    Trong một thí nghiệm khác, Kahneman và Tversky tiến hành với một nhóm bác sĩ có kinh nghiệm trên 15 năm về một vấn đề rất đơn giản như sau. Trong một cộng đồng có 1% nữ bị bệnh ung thư. Các nhà khoa học có một phương pháp xét nghiệm rất chính xác để phát hiện ung thư. Với phương pháp này đối với những người mắc bệnh, xét nghiệm sẽ cho ra kết quả dương tính 95%; đối với những người không mắc bệnh, xét nghiệm sẽ cho ra kết quả âm tính 80%. Nếu một phụ nữ trong cộng đồng đó đi xét nghiệm và có kết quả dương tính, khả năng mà người phụ nữ đó mắc bệnh ung thư là bao nhiêu? Đại đa số các bác sĩ cho rằng khả năng mắc bệnh là 90%. Nhưng câu trả lời đó sai. Sai là vì bác sĩ (hay chúng ta nói chung) lẫn lộn giữa xác suất mắc bệnh nếu kết quả dương tính với xác suất có kết quả dương tính nếu cá nhân mắc bệnh. Kahneman gọi đây là nghịch lý tỷ suất nền, và hệ quả là nhiều bệnh nhân bị chẩn đoán sai, vì bác sĩ dùng cơ chế suy nghĩ nhanh.

    Trong một thí nghiệm nổi tiếng, Kahneman và Tversky cho các đối tượng chọn một trong hai bao thư. Bao thư thứ nhất có chắc chắn 200 đô-la; và bao thư thứ hai đòi hỏi đối tượng phải tung một đồng xu, nếu mặt sấp xuất hiện thì được 400 đô-la, mặt ngửa thì không có đồng nào. Kết quả cho thấy phần lớn đối tượng tham gia nghiên cứu lựa chọn bao thư thứ nhất (dù hai lựa chọn này thật ra có giá trị kỳ vọng y chang nhau)! Kết quả này cho thấy chúng ta thích sự chắc chắn. Xu hướng này dẫn Kahneman và Tversky phát triển lý thuyết viễn cảnh, và là một công trình được trao giải Nobel Kinh tế năm 2002.

    Một thí nghiệm cực kỳ độc đáo cho thấy chúng ta rất dễ bị chi phối bởi con số lớn. Đối tượng nghiên cứu được đưa cho 2 lựa chọn: (a) với phẫu thuật A, 90% sống sót; (b) với phẫu thuật B, 10% tử vong. Phần lớn đối tượng chọn phẫu thuật A. Một thí nghiệm tương tự, mà theo đó một nhóm đối tượng được cho biết rằng xác suất mà họ mắc bệnh là 1 trên 10, một nhóm khác được cho biết xác suất mắc bệnh là 100 trên 1000. Kết quả cho thấy nhóm thứ hai có xu hướng chấp nhận điều trị hơn nhóm thứ nhất, dù nguy cơ mắc bệnh của hai nhóm y chang nhau! Kahneman và Tversky gọi đó là hiệu ứng khung (framing effect).

    Chúng ta thường đánh giá vấn đề qua việc tham khảo kinh nghiệm nổi bật vào thời điểm gần nhất, chứ không phải xem xét đến toàn bộ quá trình theo thời gian. Viết đến đây tôi chợt nhớ đến một nhận xét của Nhạc sĩ Đức Huy rằng người ca sĩ có thể bắt đầu bài hát không đạt, nhưng khi đoạn cuối bài hát được diễn tả thành công thì khán giả sẽ xem đó là một trình diễn thành công. Kahneman xem đây là điểm mà chúng ta rất giống… chuột.

    Nếu một nhà khoa học rất giỏi về một lĩnh vực nào đó (như được trao giải Nobel y học), người ta thường giả định rằng nhà khoa học đó cũng am hiểu tất cả những vấn đề khác, dù bản thân nhà khoa học không nghĩ vậy. Điều này giải thích tại sao khi cần tranh thủ vận động một vấn đề xã hội nào đó, người ta thường tìm đến những ngôi sao điện ảnh, khoa học, thể thao,... Kahneman gọi đó là hiệu ứng hào quang (halo effect) cũng là một cơ chế suy nghĩ theo hệ thống 1.

    Cuốn sách hay công trình nghiên cứu của Kahneman có nhiều ý nghĩa cho các nhà hoạch định chính sách. Bài học là khi ra chính sách hay những quy định có ảnh hưởng đến nhiều người trong cộng đồng, cần phải vận dụng chứng cứ một cách cẩn thận, chứ không nên cảm tính và bồng bột (theo hệ thống suy nghĩ nhanh) vì dễ dẫn đến sai lầm. Chúng ta còn nhớ vụ cấm buôn bán mắm tôm chỉ vì niềm tin rằng nhiều bệnh nhân tả từng ăn mắm tôm trước đó, và kết luận rằng mắm tôm là nguyên nhân gây dịch tả. Có thể xem đó là một suy nghĩ theo hệ thống 1.

    Không chỉ có ý nghĩa cho các nhà hoạch định chính sách, cuốn sách còn có ích cho những người hành pháp. Ý nghĩa từ những hiệu ứng Linda, hiệu ứng khung, nghịch lý tỉ suất nền,... là không thể và không nên trông mặt mà bắt hình dong, hay chỉ dựa vào tín hiệu bề ngoài mà đi đến kết án hay kì thị một cá nhân. Có trường hợp người ta lí giải rằng 60% những ca tội phạm thiếu niên xuất phát từ những gia đình ly dị hay đổ vỡ, và đi đến kết luận rằng ly dị là một nguyên nhân hay nguồn gốc của tội phạm thiếu niên. Nhưng kết luận đó không logic và rất có thể sai. Đó cũng là một nguỵ biện rất phổ biến (prosecutor fallacy). Ngụy biện xảy ra là vì người ta lười suy nghĩ, và vì lười biếng suy nghĩ nên người ta chỉ sử dụng hệ thống 1 (mà không sử dụng hệ thống 2).

    Ngày nay, ra nhà sách, chúng ta dễ dàng thấy khá nhiều sách về hành vi con người. Nhiều sách hay với những ví dụ rất sống động kèm theo những thí nghiệm được xem là tiên phong, rồi lý giải đòi thay đổi chính sách, luật pháp, và cách kinh doanh. Nhưng cuốn Tư duy nhanh và chậm thì khác, vì đây là cuốn sách chỉ tập trung vào khoa học, với những trải nghiệm cá nhân của tác giả. Mục tiêu của cuốn sách, như Kahneman viết, là “làm giàu ngữ vựng cho mọi người” khi đi đến một quyết định trong cuộc sống. Tác giả còn viết rằng ông kỳ vọng cuốn sách sẽ giúp ích cho độc giả trong những câu chuyện phiếm và trao đổi – hay nói theo Nguyễn Du là mua vui cũng được một vài trống canh. Tôi nghĩ tác giả đã vượt ra mục tiêu khiêm tốn đó. Đây là cuốn sách mà bất kỳ ai đọc cũng sẽ thấy hào hứng ngay từ chương đầu, và kết thúc với sự sảng khoái, làm cho chúng ta hiểu về chính mình nhiều hơn. Một cuốn sách như thế nên được có mặt trên giá sách của những ai quan tâm đến hành vi và kinh tế.

    Xin trân trọng giới thiệu!
    Còn nữa
     
    Chỉnh sửa cuối: 26 Tháng sáu 2018
  4. Thanh Bình

    Bài viết:
    111
    Mở đầu
    Bấm để xem
    Đóng lại

    Tôi cho rằng bất kỳ tác giả nào, khi viết một cuốn sách đều hình dung sẵn trong đầu những lợi ích mà độc giả sẽ lĩnh hội được sau khi đọc nó. Với tôi, lợi ích của việc đọc sách được ẩn dụ dưới hình ảnh chiếc bàn uống nước được đặt trong các văn phòng - nơi mọi người thường ngồi trao đổi ý kiến, hay truyền tai nhau những câu chuyện phiếm. Tôi hy vọng, cuốn sách này sẽ làm giàu vốn ngữ vựng cho độc giả mỗi khi đi đến một vài quyết định nhanh trong cuộc sống như: Khi chúng ta bàn về những phán đoán và lựa chọn của người khác, hoặc những chính sách mới của công ty, hay những quyết định đầu tư của một đồng nghiệp. Tại sao chúng ta lại quan tâm đến những câu chuyện phiếm? Bởi “kể tội” hay “nói xấu” người khác bao giờ cũng dễ dàng và thích thú hơn là tự nhận ra lỗi lầm của chính mình. Ngay cả trong những điều kiện thuận lợi nhất, đặt câu hỏi đối với những gì ta hằng tin tưởng và ham muốn là vô cùng khó khăn nhưng may mắn là chúng ta có thể tiếp thu được những ý kiến từ người khác. Rất nhiều người trong số chúng ta, tự nhiên đoán trước được phản ứng và dự đoán của bạn bè, đồng nghiệp về các lựa chọn của mình; vì vậy giá trị và nội dung của những câu chuyện phiếm lại trở thành những chủ đề “nóng” xoay quanh chiếc bàn uống nước. Những câu chuyện phiếm hữu ích là động cơ thúc đẩy con người ta tự phê bình và nhìn nhận bản thân một cách nghiêm túc hơn, đôi khi lợi ích mà những câu chuyện phiếm này mang lại còn có tác dụng hơn cả bản kế hoạch đánh giá hàng năm của mỗi chúng ta.

    Muốn trở thành một bác sĩ giỏi thì người thầy thuốc phải hiểu rõ rất nhiều loại bệnh với những triệu chứng kèm theo trước và sau khi phát bệnh, cũng như phải phán đoán được nguyên nhân và hậu quả của bệnh, thậm chí có thể đưa ra cả phác đồ điều trị cho bệnh đó. Học nghề thuốc đòi hỏi người thầy thuốc phải học cả thuật ngữ của y khoa. Càng hiểu sâu về các phán đoán và lựa chọn sẽ càng đòi hỏi chúng ta phải sử dụng vốn từ vựng phong phú hơn so với ngôn ngữ thường ngày. Mặt tích cực của những câu chuyện phiếm là nó giúp chúng ta nhận biết được những sai lầm mà con người thường mắc phải. Chúng chính là những lỗi sai hệ thống và được lặp đi lặp lại một cách có chủ đích trong một số hoàn cảnh nhất định. Ví dụ, khi một diễn giả điển trai và tự tin bước lên sân khấu, bạn có thể dự đoán được rằng khán giả sẽ dành cho bài diễn thuyết của anh ta nhiều cảm tình hơn so với tài năng diễn thuyết của anh ta. Khả năng chẩn đoán những sai lệch này còn gọi là Hiệu ứng hào quang và nhờ có Hiệu ứng hào quang, những bàn luận và những trao đổi xung quanh câu chuyện phiếm của chúng ta sẽ trở nên dễ đoán, dễ nhận ra và dễ hiểu hơn.

    Nếu có ai hỏi bạn đang nghĩ gì, bạn sẽ trả lời được câu hỏi đó một cách dễ dàng. Bạn tin rằng bạn biết được trí não của mình được vận hành bằng một ý nghĩ chủ đạo, tuần tự dẫn dắt bạn đi từ suy nghĩ này sang suy nghĩ khác. Tuy nhiên, đó không phải là cách hoạt động duy nhất, càng không phải là cách hoạt động điển hình của trí não. Hầu hết mọi ấn tượng và suy nghĩ của bạn thường diễn ra trong trí não theo cách mà bạn không sao biết được. Bạn không thể lý giải được vì sao bạn lại tin là trên mặt bàn có một chiếc đèn, hoặc làm sao bạn lại cảm thấy giọng nói của người bạn đời trên điện thoại có thoáng chút hờn ghen, hoặc xoay xở thế nào bạn có thể tránh một tai nạn trên đường đi khi nó chưa thực sự xảy ra mà chỉ bằng linh cảm của bạn. Rất nhiều những quyết định được hình thành một cách lặng lẽ bên trong đầu óc của bạn và khi trí óc của bạn hoạt động sẽ sinh ra những cảm xúc và những trực giác.

    Cuốn sách này bàn rất nhiều về sự sai lệch của trực giác trong trí óc của con người. Tuy vậy, tập trung vào sự sai lệch không nhằm mục đích bôi nhọ nhận thức của loài người, giống như các nghiên cứu y học, sự quan tâm nghiên cứu các căn bệnh không nằm ngoài mục đích mang lại sức khỏe tốt hơn cho loài người. Thông thường hầu hết chúng ta đều khỏe mạnh và hầu hết những phán đoán và hành động của chúng ta đều đúng đắn. Chúng ta làm chủ cuộc sống của mình, nên tự thân chúng ta tuân theo những ấn tượng và cảm xúc của cá nhân và tự tin rằng niềm tin bản năng, cũng như sở thích của bản thân thường là đúng đắn. Nhưng không hẳn thế, chúng ta vẫn tự tin ngay cả khi mắc sai lầm và thường những người khác dễ phát hiện ra sai lầm đó hơn là bản thân chúng ta.

    Những phát hiện này chính là mục đích của tôi khi đề cập tới câu chuyện phiếm ở trên, nhằm nâng cao khả năng nhận thức của bản thân khi đưa ra các dự đoán và lựa chọn của người khác bằng việc cung cấp một thứ ngôn ngữ phong phú hơn, chính xác hơn khi thảo luận. Bởi vì ít nhất trong một vài trường hợp, một chẩn đoán chính xác có thể đưa ra một giải pháp để giảm thiểu thiệt hại do những phán đoán và lựa chọn sai lầm của chúng ta gây ra.

    NGUỒN GỐC

    Cuốn sách này trình bày những hiểu biết của tôi về sự phán đoán và ra quyết định, vốn là những lĩnh vực đã được các nhà tâm lý học nghiên cứu sâu trong vài thập kỷ trở lại đây. Tuy nhiên, tôi bắt đầu theo đuổi ý tưởng nghiên cứu này vào một ngày may mắn của năm 1969, khi tôi mời Amos - một đồng nghiệp của tôi đến nói chuyện ở buổi thảo luận, tại khoa Tâm lý học của trường Đại học Hebrew ở Jerusalem - nơi tôi dạy học khi đó. Amos Tversky khi ấy được đánh giá là ngôi sao mới nổi chuyên nghiên cứu về việc ra quyết định, mà thực ra tôi nghĩ ông ấy là ngôi sao trong mọi lĩnh vực nghiên cứu mà ông tham gia thì đúng hơn, vì thế tôi hình dung chúng tôi sẽ có một buổi nói chuyện rất thú vị. Nhiều người biết Amos đều nghĩ ông là người thông minh nhất mà họ từng gặp. Ông xuất sắc, linh hoạt và cuốn hút. Ông được ban tặng một trí nhớ tuyệt vời, cùng với cách nói chuyện hài hước và khả năng sử dụng chúng một cách nhuần nhuyễn; sẽ không bao giờ cảm thấy buồn chán khi có Amos ở bên cạnh. Vào thời điểm này Amos mới 32 tuổi, còn tôi 35 tuổi.

    Bài giảng của Amos hôm đó trình bày về một chương trình nghiên cứu đang được tiến hành ở Đại học Michigan, nhằm trả lời cho câu hỏi: Con người có phải là những nhà thống kê trực quan tài ba? Như các bạn biết đấy, chúng ta vốn đều là những nhà ngôn ngữ học tự nhiên: Một đứa trẻ bốn tuổi không cần cố gắng cũng có thể tự thiết lập được những cấu trúc ngữ pháp khi nói, mặc dù chúng chẳng có ý niệm gì về sự tồn tại của những cấu trúc ngữ pháp ấy cả. Liệu con người có bản năng trực giác tương tự đối với những nguyên tắc cơ bản của các phép tính thống kê? Amos đã trả lời rằng, chắc chắn con người có khả năng đó. Sau buổi hội thảo này, chúng tôi kết luận lại không có câu trả lời nào hợp lý hơn câu trả lời trên, rằng con người có khả năng làm phép tính thống kê.

    Amos và tôi đều hứng thú với buổi thảo luận và kết luận rằng thống kê trực quan là một chủ đề hấp dẫn và rất tuyệt nếu cả hai cùng tiếp tục nghiên cứu. Thứ Sáu của tuần ấy, chúng tôi ăn trưa tại quán Cafe Rimon - nơi gặp gỡ yêu thích của giới nghệ sĩ và các giáo sư ở Jerusalem. Tại đây chúng tôi đã lên kế hoạch nghiên cứu về khả năng thống kê trực quan của một số nhà nghiên cứu thực nghiệm điển hình. Kết luận trong lần thảo luận trước đó (tại buổi thảo luận ở Đại học Hebrew) chỉ bằng trực giác của chúng tôi thôi là chưa đủ. Cho dù đã có nhiều năm kinh nghiệm nghiên cứu và làm việc với các số liệu, chúng tôi vẫn chưa có được nhạy cảm bản năng để đưa ra phán đoán chuẩn xác cho những kết quả thống kê được quan sát dựa trên nhóm mẫu quá nhỏ. Vẫn còn rất nhiều những sai lệch trong những nhận định chủ quan của chúng tôi. Khi mà chúng tôi quá hào hứng tin tưởng vào các kết quả nghiên cứu dựa trên những chứng cứ không đầy đủ và quá đề cao hoạt động thu thập dữ liệu dựa trên những quan sát của những nhóm mẫu quá nhỏ. Mục tiêu của nghiên cứu này là để kiểm chứng xem liệu những nhà nghiên cứu khác có chung những suy nghĩ như chúng tôi không?

    Chúng tôi đã chuẩn bị một cuộc điều tra trong đó đã phác thảo bộ khung cho những vấn đề thường xuất hiện trong các nghiên cứu. Amos đi thu thập các câu trả lời của một nhóm chuyên gia trong một cuộc họp của Hiệp hội Tâm lý Toán học, trong đó có cả hai nhà viết sách giáo khoa thống kê. Đúng như mong đợi, chúng tôi phát hiện ra rằng những chuyên gia này cũng như chúng tôi, đã phóng đại quá mức xác suất đúng các kết quả gốc của một thí nghiệm chỉ dựa trên lượng mẫu quá nhỏ, mà ngay cả khi nhân lên nhiều lần kết quả ấy cũng không thay đổi. Các nhà khoa học này cũng khuyến cáo đến sinh viên cần phải phân tích đủ mức tối thiểu lượng mẫu được quan sát trong thí nghiệm, bởi vì ngay cả những chuyên gia của ngành Thống kê học cũng không phải là những nhà thống kê trực quan tài ba.

    Trong khi viết báo cáo về phát hiện này, cả Amos và tôi đều cảm nhận là thật thú vị khi được làm việc cùng nhau. Amos luôn hài hước và nhờ sự có mặt của ông, tôi cũng trở nên vui tính hơn, vì thế chúng tôi đã có nhiều thời gian làm việc nghiêm túc trong bầu không khí vui nhộn. Chính niềm vui mà chúng tôi tìm thấy trong việc hợp tác khiến cả hai trở nên kiên nhẫn hơn; bạn cũng vậy - sẽ dễ dàng đặt toàn tâm vào công việc hơn khi không bao giờ cảm thấy buồn chán. Cũng có thể, điều quan trọng nhất là chúng tôi đã khám phá ra vũ khí bí mật, chính là tính cách của cả hai đã hỗ trợ rất tốt cho nhau trong công việc. Cả Amos và tôi cùng là những người vô cùng hiếu thắng và hay lý lẽ, thậm chí ông ấy còn cực đoan hơn cả tôi nhưng trong suốt những năm cộng tác, chưa bao giờ người này bác bỏ bất cứ ý kiến nào của người kia. Thực vậy, một trong những niềm hạnh phúc nhất mà tôi có được khi làm việc cùng Amos, đó là những gì chúng tôi thu được đã trở thành tài sản quý giá nhất mà cả hai cùng tích luỹ được.

    Nghiên cứu của chúng tôi dưới dạng những cuộc đối thoại, trong đó chúng tôi tạo ra những câu hỏi và cùng nhau kiểm chứng chúng bằng những câu trả lời dựa trên trực giác. Mỗi câu hỏi là một thí nghiệm nhỏ và mỗi ngày chúng tôi thực hiện rất nhiều thí nghiệm như thế. Chúng tôi không thực sự đi tìm đáp án đúng cho những câu hỏi thống kê mà mình đặt ra đó. Mục tiêu của chúng tôi là nhận dạng và phân tích các câu trả lời bằng trực giác - ập đến tức thì trong đầu, những đáp án nảy sinh ngay lập tức, ngay cả khi chúng tôi biết đó là một đáp án sai. Chúng tôi tin tưởng tuyệt đối rằng một khi có bất cứ đáp án trực giác nào bật ra trong trí não của cả hai chúng tôi, thì hẳn là cũng sẽ có rất nhiều người khác có chung những suy nghĩ đó và từ kết luận này, sẽ dễ dàng chỉ ra những ảnh hưởng của trực giác lên các phán đoán của chúng ta như thế nào.

    Một lần, chúng tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận ra rằng, cả hai cùng có những suy nghĩ ngốc nghếch liên quan đến nghề nghiệp tương lai của những em bé mà cả hai cùng biết, như là cả hai cùng nhận ra một “luật sư ba tuổi hay lý luận,” hoặc một “giáo sư mọt sách,” hay một “nhà tâm lý học cảm thông và dịu dàng”. Tất nhiên, những tiên đoán này rất ngớ ngẩn nhưng chúng tôi vẫn thấy chúng thật hấp dẫn. Rõ ràng trực giác của chúng ta đã bị dẫn dắt bởi tập hợp những khuôn mẫu về một nghề nghiệp nhất định nào đó. Bài tập thú vị này đã giúp chúng tôi phát triển một giả thuyết về vai trò của sự tương đồng trong các dự đoán ở mỗi thực nghiệm mà chúng tôi tiến hành. Chúng tôi quyết định kiểm tra và thử nghiệm giả thuyết ấy bằng cách chia nhỏ giả thuyết ấy thành hàng tá những thí nghiệm nhỏ, sau đây là một ví dụ:

    Giả thuyết là cậu bé Steve được lựa chọn ngẫu nhiên trong số những mẫu thí nghiệm:

    Cậu bé được một người hàng xóm mô tả như sau: “Steve rất bẽn lẽn và khép kín, sẵn lòng giúp đỡ người khác nhưng không mấy quan tâm tới mọi người hay thế giới xung quanh.” Vậy sau này Steve sẽ trở thành một anh thủ thư hay một anh nông dân?

    Những đặc điểm tương đồng trong tính cách của Steve khiến mọi người lập tức nghĩ rằng cậu sẽ làm nghề thủ thư, dự đoán này không hề dựa trên số liệu thống kê thực tế. Đã bao giờ bạn quan tâm kết quả thống kê thực tế trên toàn nước Mỹ là tỷ lệ những người nông dân là nam giới nhiều gấp 20 lần so với tỷ lệ những người nam giới làm nghề thủ thư? Và bởi vì số người làm nông dân nhiều hơn rất nhiều số người làm thủ thư, nên chắc chắn những người “nhu mì và gọn ghẽ” ngồi trong xe kéo được mô phỏng ở ví dụ trên sẽ nhiều hơn số người ngồi sau bàn thủ thư. Tuy vậy, chúng tôi nhận thấy những người tham gia thí nghiệm đều phớt lờ các con số thống kê thực tế và lệ thuộc hoàn toàn vào các yếu tố tương đồng trong các dự đoán. Chúng tôi đưa ra giả thuyết là họ đã biến sự tương đồng thành một suy nghiệm đơn giản hóa (nói ngắn gọn là suy đoán dựa theo kinh nghiệm) khi đưa ra một phán đoán khó khăn nhằm chỉ ra các dự đoán của họ. Việc phụ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân chính là nguyên nhân tạo ra những sai lệch có thể đoán trước (những lỗi sai hệ thống) trong các phỏng đoán của họ.

    Trong một lần khác, Amos và tôi đặt vấn đề về tỷ lệ ly hôn giữa các giảng viên trong trường Đại học của chúng tôi. Khi đặt ra câu hỏi này chúng tôi bắt đầu rà soát trong trí nhớ về những giảng viên đã ly hôn mà mình biết hoặc nghe nói tới, từ đó dự đoán xem số lượng này có lớn không. Chúng tôi gọi sự phụ thuộc vào khả năng rà soát của trí nhớ là một suy nghiệm thực tế. Ở một số nghiên cứu khác, chúng tôi để người tham gia trả lời một câu hỏi đơn giản về từ vựng trong một đoạn ngữ văn Anh điển hình như sau:

    Hãy nghĩ về chữ cái K.

    Chữ cái K thường xuất hiện ở vị trí đầu tiên HAY vị trí thứ ba trong một từ?

    Bất cứ người nào hay chơi trò sắp chữ Scrabble đều biết, để tìm một từ bắt đầu bằng một chữ cái bao giờ cũng dễ hơn tìm một từ có một chữ cái nằm ở vị trí thứ ba. Điều này đúng với mọi chữ trong bảng chữ cái. Từ đó chúng ta cho rằng các câu trả lời sẽ phóng đại mức độ thường xuyên xuất hiện của các chữ cái ở vị trí đầu tiên, thậm chí cả với những chữ cái (như K, L, N, R, V) trong khi trên thực tế, thì những chữ cái ấy lại xuất hiện với tần suất cao hơn ở vị trí thứ ba. Một lần nữa, phụ thuộc vào suy nghiệm lại sinh ra những sai lệch có thể đoán được trong các dự báo. Ví dụ, gần đây tôi bỗng nghi ngờ điều mà lâu nay vẫn đinh ninh, ấy là hiện tượng ngoại tình ở các chính trị gia phổ biến hơn so với hiện tượng ngoại tình của bác sĩ hay luật sư. Thậm chí tôi còn đưa ra những lý giải cho “thực tế” này, trong đó phân tích cả các yếu tố như đam mê quyền lực và cạm bẫy của cuộc sống xa gia đình là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng ngoại tình này. Cuối cùng tôi lại nhận ra rằng chẳng qua vì giới truyền thông thích soi mói vào các cuộc tình vụng trộm của những chính trị gia nhiều hơn so với những cuộc tình vụng trộm của những người làm nghề luật sư hay bác sĩ. Rất có thể ấn tượng trực giác của tôi hoàn toàn phụ thuộc vào đề tài mà các nhà báo lựa chọn khai thác và đi đến những suy nghiệm cá nhân về hiện tượng ly hôn này.

    Amos và tôi đã dành nhiều năm để nghiên cứu và thu thập tài liệu về những sai lệch trong tư duy trực giác, với công việc cụ thể như là dự trù khả năng cho các sự kiện, tiên đoán tương lai và đặt ra các giả thuyết và ước lượng tần suất. Đến năm thứ năm hợp tác, chúng tôi trình bày những phát hiện chính của mình trên tạp chí Khoa học, một ấn phẩm dành cho các học giả ở rất nhiều ngành khoa học. Bài báo có tên là “Phán đoán dưới sự thiếu chắc chắn: Suy nghiệm và Sai lệch.” Nó mô tả những đường tắt rút gọn của tư duy trực giác và giải thích khoảng chừng 20 sự sai lệch là những cách thể hiện của suy nghiệm, đồng thời là những minh chứng cho thấy vai trò của những suy nghiệm trong các dự đoán.

    Các sử gia cũng thường xuyên ghi nhận rằng ở bất cứ thời điểm nào, trong bất cứ ngành nào, các học giả cũng có xu hướng đưa ra những phỏng đoán về đối tượng trong các nghiên cứu của mình. Các nhà khoa học xã hội cũng không phải là ngoại lệ, họ dựa vào bản tính tự nhiên của loài người để làm cơ sở cho hầu hết những cuộc tranh luận về các hành vi ứng xử đặc biệt của con người nhưng rất hiếm khi đặt câu hỏi trở lại cho các phán đoán này. Các nhà khoa học xã hội trong những năm 1970 hầu như công nhận hai ý tưởng về bản tính con người. Thứ nhất, đó là con người lý trí và tư duy của họ là những ấn tượng về tinh thần rất thông thường. Thứ hai, các xúc cảm như sợ hãi, nhân ái và thù hận xuất hiện hầu hết khi con người không kiểm soát được lý trí (hay còn gọi là con người duy lý trí). Bài báo của chúng tôi ngầm thách thức cả hai giả thuyết ấy mà không tranh luận trực tiếp vào chúng. Chúng tôi thu thập những lỗi sai hệ thống trong tư duy của con người và dựa trên dấu vết của những lỗi sai hệ thống ấy để phác thảo ra cách vận hành của nhận thức mà không đơn thuần chỉ đổ lỗi cho cảm xúc.

    Bài báo của chúng tôi thu hút được sự chú ý hơn so với kỳ vọng ban đầu và đến giờ nó vẫn là một trong “những từ khóa” được nhắc đến nhiều nhất trong ngành khoa học xã hội (hơn 200 bài báo học thuật đã dùng bài báo đó để tham chiếu trong năm 2010). Các nhà nghiên cứu trong những lĩnh vực khác cũng nhận thấy bài báo đó hữu ích, đồng thời các ý tưởng về suy nghiệm và sai lệch đã được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, trong đó có chẩn đoán y học, triết học, tài chính, thống kê và chiến lược chiến tranh.

    Ví dụ, các sinh viên chuyên ngành Chính sách đã nhận ra rằng chính nhờ dựa trên sự suy nghiệm đã giải thích vì sao một số vấn đề thu hút được sự chú ý của công chúng nhiều hơn so với một số vấn đề khác. Con người có xu hướng chú tâm vào những vấn đề quan trọng mà họ dễ dàng truy cập trong trí nhớ của mình hơn là những vấn đề khó khăn phức tạp. Điều này càng được kiểm định là đúng đắn thông qua việc quan sát những trang nhất các báo thường được công chúng ghi nhớ nhanh hơn. Những chủ đề được các phương tiện truyền thông đặc biệt quan tâm phản ánh, đã ăn sâu vào đầu óc chúng ta, khiến những chủ đề khác dễ bị chúng ta lãng quên. Ngược lại, những gì giới truyền thông lựa chọn đưa tin lại phản ánh quan điểm của họ sao cho phù hợp với những gì hiện hữu trong đầu óc của công chúng. Không phải ngẫu nhiên mà các thể chế độc tài áp đặt đối với tự do truyền thông (thông tin không được phản ánh trung thực mà bị bóp méo, định hướng theo chủ trương chính sách của chế độ độc tài đó). Vì công chúng rất dễ bị thu hút bởi những tin tức giật gân, những sự kiện giải trí và thông tin liên quan đến người nổi tiếng, truyền thông ăn theo những sự kiện như vậy cũng là chuyện dễ hiểu. Ví dụ, vài tuần sau khi Michael Jackson qua đời, những kênh truyền hình đưa tin về các chủ đề khác ngoài thông tin về Michael Jackson quả là rất ít. Truyền thông đề cập rất ít những vấn đề thiết yếu trong cuộc sống nhưng những tin tức này cũng được truyền tải kém hấp dẫn, như là cung cấp những chi tiết ít kịch tính, từ chối những chuẩn mực giáo dục hay chi quá nhiều tiền cho thuốc men vào những năm cuối đời. (Khi viết như vậy, tôi phải ghi chú thêm là những ví dụ về những đề tài “ít được đưa tin” cũng vẫn được dẫn dắt bởi những thông tin có sẵn. Những chủ đề không được tôi chọn làm ví dụ cũng vẫn được giới truyền thông đề cập thường xuyên, nghĩa là sẽ còn có những vấn đề quan trọng khác nữa nhưng không hề xuất hiện trong đầu óc của tôi.)

    Chúng tôi không hoàn toàn nhận thức được điều này nhưng có một lý do đó là một chi tiết phụ trong công việc của chúng tôi đã khiến chủ đề “suy nghiệm và sai lệch” hấp dẫn hơn bên cạnh các yếu tố tâm lý: Chúng tôi thường đính toàn bộ bài báo với những bảng câu hỏi mà chúng tôi tự đặt ra cho bản thân, cũng như để những người tham gia thí nghiệm cùng trả lời. Những câu hỏi này nhằm mục đích chứng minh cho độc giả thấy những suy nghĩ của họ đã bị ảnh hưởng bởi những sai lệch của nhận thức như thế nào. Tôi hy vọng bạn cũng có được trải nghiệm tương tự khi đọc các câu hỏi về thủ thư Steve, mục đích là giúp bạn đánh giá đầy đủ sức mạnh của sự tương đồng, như là một đầu mối mà bạn thấy chúng ta đã dễ dàng bỏ qua những dữ liệu thống kê thực tế ấy và chúng có mối liên quan với nhau như thế nào.

    Việc sử dụng các luận chứng cung cấp cho các học giả ở nhiều chuyên ngành, đặc biệt là các nhà triết học và kinh tế học, là một cơ hội hiếm có để tập trung chú ý đến các lỗi sai có thể xảy ra trong dòng chảy tư duy của chính mình. Khi chứng kiến sự thất bại của bản thân, các nhà khoa học càng trở nên tha thiết với câu hỏi của những giả thuyết võ đoán về nhận thức của con người, đặc biệt là trong thời kỳ mà tâm lý con người được cho là lý trí và logic. Lựa chọn phương pháp đã quyết định việc: Nếu chúng tôi đưa ra những kết quả chỉ dựa trên các thí nghiệm thông thường, bài báo sẽ kém độ tin cậy và ít được nhớ tới. Hơn thế nữa, những độc giả khó tính có thể nhận ra kết quả thu thập trong thí nghiệm thông thường này không phản ánh đúng con người họ, bởi họ cho rằng những lỗi sai trong dự đoán ấy thuộc về những người có học vấn trung bình vốn là những đối tượng phổ biến được ngành Tâm lý học quan tâm nghiên cứu. Tất nhiên, chúng tôi không chọn các luận chứng nằm ngoài tiêu chuẩn chung của thí nghiệm mà chọn các luận chứng được ưu tiên hơn trong các thí nghiệm của mình, bởi vì chúng tôi kỳ vọng nghiên cứu này sẽ ảnh hưởng đến cả các triết gia hay các nhà kinh tế học. Và chúng tôi đã may mắn lựa chọn phương pháp này, cũng như may mắn ở nhiều vấn đề khác nữa trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu này. Một chủ đề thường xuyên xuất hiện trong cuốn sách này đó là sự may mắn đóng vai trò rất lớn trong mọi câu chuyện thành công của mỗi chúng ta; người ta có thể thường xuyên và dễ dàng nhận diện một sự thay đổi nhỏ trong toàn bộ câu chuyện, có thể trở thành một trong những động lực cho một thay đổi lớn hơn. Câu chuyện của chúng tôi cũng không nằm ngoài ngoại lệ thông thường đó.

    Phản hồi đối với nghiên cứu của chúng tôi không chỉ toàn là những đánh giá tích cực, đặc biệt phần tập trung vào sự sai lệch bị chỉ trích là đưa ra các quan điểm rất tiêu cực và không công bằng. Đúng như mong đợi của chúng tôi, trong các ngành khoa học thông thường, một vài nhà nghiên cứu đã đánh giá cao ý tưởng của chúng tôi nhưng cũng có người lại đưa ra những giải pháp nhằm thay thế ý tưởng đó. Tuy vậy, điều thành công nhất là nhìn chung mọi người đã chấp nhận ý tưởng cho rằng trí não của con người có thể mắc phải những lỗi sai hệ thống. Nghiên cứu của chúng tôi về sự dự đoán đã có tác động đến giới khoa học hơn nhiều so với mong đợi ban đầu.

    Ngay sau khi hoàn thành nghiên cứu tổng quan về sự sai lệch, chúng tôi lập tức chuyển sự quan tâm của mình đến nghiên cứu về việc ra quyết định trong những điều kiện không chắc chắn. Mục tiêu của chúng tôi là phát triển một học thuyết Tâm lý học, trong đó nghiên cứu xem con người đưa ra những quyết định như thế nào. Bạn có thể hình dung về lý thuyết ấy thông qua một trò chơi đơn giản sau: Ví dụ, bạn có đồng ý đánh cược để tung đồng xu, nếu tung được mặt số, bạn thắng và giành được 130 đô-la, còn nếu ra mặt người, bạn thua và mất 100 đô-la? Những lựa chọn cơ bản như thế từ lâu đã được sử dụng để kiểm chứng cho những câu hỏi bao quát hơn về việc ra quyết định, ví dụ mối liên hệ tương đối khi con người quyết định tham gia vào những việc mà họ chắc chắn mang lại kết quả tốt nhưng cuối cùng kết quả lại không tốt như mong đợi của họ. Phương pháp của chúng tôi không thay đổi: chúng tôi dành nhiều ngày để xem xét tình huống để lựa chọn và kiểm nghiệm xem trực giác của chúng ta có ảnh hưởng như thế nào đối với sự lựa chọn logic. Một lần nữa, như trong một dự đoán, chúng tôi để ý đến những sai lệch hệ thống trong các quyết định của cá nhân, các tham chiếu trực giác hình thành nên những nguyên tắc thiết yếu trong các lựa chọn lý trí. 5 năm sau khi bài báo được đăng tải trên tạp chí Khoa học, chúng tôi xuất bản cuốn “Lý thuyết viễn cảnh”. Đây là cuốn sách phân tích về “quyết định trong nguy cơ,” một học thuyết về chọn lựa trong đó tính đến các yếu tố ảnh hưởng hơn đến nghiên cứu của chúng tôi về dự báo và nó là một trong những nghiên cứu đã làm nền móng cho sự hình thành và phát triển của kinh tế học hành vi sau này.

    Ngay cả khi chúng tôi gặp cản trở vì khoảng cách địa lý, Amos và tôi vẫn cùng nhau tận hưởng niềm hạnh phúc tuyệt vời được chia sẻ những suy nghĩ cùng nhau và niềm hạnh phúc cùng sự may mắn khi có được từ mối quan hệ bằng hữu, giúp chúng tôi làm việc vui vẻ và hiệu quả hơn. Sự hợp tác của chúng tôi trong quá trình nghiên cứu về dự báo và ra quyết định đã mang lại cho tôi giải Nobel vào năm 2002, đáng lẽ Amos cũng sẽ cùng tôi chia sẻ niềm hạnh phúc được bước lên bục nhận giải Nobel này nếu ông không qua đời ở tuổi 59, vào năm 1996.

    CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU?

    Cuốn sách này không nhằm mục đích trình bày những nghiên cứu của tôi và Amos, vấn đề này đã được rất nhiều tác giả đề cập đến trong rất nhiều năm qua. Mục tiêu chính của tôi khi viết cuốn sách này nhằm giới thiệu đến độc giả một góc nhìn về cách thức hoạt động của trí não, mà cách nhìn này đã đánh dấu những phát triển gần đây của nghiên cứu về nhận thức và tâm lý xã hội. Chúng là một trong số những phát triển quan trọng, hơn nữa là giờ đây chúng ta hiểu được sự kỳ diệu cũng như những sai lầm trong cách vận hành của tư duy trực giác của chúng ta.

    Amos và tôi không có ý định nhằm thẳng tới những trực giác thường được hiểu như là những “phỏng đoán suy nghiệm khá hữu ích nhưng đôi khi cũng dẫn đến những lỗi sai nghiêm trọng và lỗi sai hệ thống.” Chúng tôi tập trung vào nghiên cứu những sai lệch, đầu tiên là vì cả hai cùng nhận thấy tự thân những sai lệch này là một đề tài nghiên cứu rất hấp dẫn và bởi vì hiển nhiên chúng cung cấp bằng chứng cho những phỏng đoán suy nghiệm. Chúng tôi tự hỏi rằng, liệu mọi phỏng đoán trực giác trong những tình huống không rõ ràng đều được sinh ra nhờ những suy nghiệm mà chúng tôi nghiên cứu hay không; giờ thì tôi có thể kết luận là không. Đặc biệt, chúng ta có thể giải thích việc “các chuyên gia có trực giác chính xác” một cách hợp lý hơn, đó là kết quả của việc chúng được thực hành nhiều lần, chứ không phải là nhờ vào khả năng suy nghiệm của các chuyên gia này. Giờ đây chúng ta có thể phác thảo lên một bức tranh về các tình huống phong phú hơn, cân bằng hơn, trong đó, một số kỹ năng và suy nghiệm là nguồn lực thay thế cho các phán đoán và lựa chọn dựa trên trực giác.

    Nhà tâm lý học Gary Klein kể câu chuyện về một đội cứu hỏa trong lần giải cứu một ngôi nhà bị cháy ở gian bếp. Ngay khi bắt đầu lắp vòi nước, bỗng nhiên người chỉ huy dường như nghe thấy một tiếng nói vang lên từ bên trong: “Rút khỏi đây, mau!” Toàn bộ sàn nhà dưới chân gần như sập xuống ngay khi đội cứu hỏa vừa rút khỏi căn nhà. Tất cả chỉ dựa trên thực tế là khi vừa có mặt tại hiện trường, người đội trưởng bỗng cảm nhận được sự im ắng lạ thường của ngọn lửa và cảm thấy tai của mình phải chịu sức nóng bất thường. Cùng lúc, tất cả những cảm nhận ấy tạo thành một ấn tượng mà ông gọi là “giác quan thứ sáu đối với sự nguy hiểm”. Ông không biết cụ thể chúng là gì, mà chỉ biết chắc chắn rằng có điều gì đó bất ổn sắp xảy ra. Sau này người ta mới biết được tâm của ngọn lửa không nằm ở gian bếp mà nằm ở ngay tầng hầm bên dưới chỗ đội cứu hoả đã đứng.

    Hẳn chúng ta cũng đã từng nghe những chuyện tương tự như vậy về trực giác của các chuyên gia, như là: Một cao thủ của môn cờ vua có thể chỉ cần đi ngang qua, liếc mắt vào một bàn cờ trên đường phố là có thể tuyên bố “quân trắng, 3 nước, chiếu tướng” mà không cần đứng lại, hoặc một bác sĩ chỉ cần liếc mắt nhìn bệnh nhân là có thể đưa ra những chẩn đoán phức tạp của một căn bệnh. Đối với chúng ta, trực giác chuẩn xác của các chuyên gia là một khả năng kỳ diệu, nhưng thực tế không phải như vậy. Mỗi chúng ta cũng có thể có được trực giác chính xác như thế nhờ luyện tập mỗi ngày. Trong một số tình huống, hầu hết chúng ta đều dễ dàng nhận thấy sự nguy hiểm ngay từ lần đầu tiên nghe tiếng của kẻ ác trong điện thoại, hay dễ dàng nhận ra ta chính là nhân vật chính của câu chuyện phiếm ngay khi bước chân vào một căn phòng, và có khả năng phản ứng tức thời với những dấu hiệu nguy hiểm tiềm ẩn rất tinh tế khi nhìn thấy gã tài xế ở làn xe bên cạnh. Khả năng trực giác của chúng ta cũng không hề kém độ tinh anh so với trực giác của một anh lính cứu hỏa kỳ cựu hay của một bác sĩ nhiều năm kinh nghiệm, mà do họ được luyện tập thường xuyên hơn chúng ta mà thôi.

    Yếu tố tâm lý của trực giác chuẩn xác cũng không phải là một phép màu bí ẩn. Có lẽ cách lý giải ngắn gọn nhất đã được Herbert Simon vĩ đại, một kỳ thủ cao cường đã giải thích rằng sau hàng ngàn giờ luyện tập khiến cho các kỳ thủ có được khả năng nhìn từng ô vuông trên bàn cờ khác hẳn so với khả năng của mỗi chúng ta. Bạn có thể cảm thấy Simone nôn nóng khi phân tích yếu tố thần thoại của trực giác chuyên gia khi ông viết: “Chính hoàn cảnh là điểm mấu chốt, nó giúp các cao thủ xâm nhập được vào kho lưu trữ thông tin trong bộ nhớ và những thông tin này cung cấp câu trả lời. Trực giác chính là sự nhận thức, không hơn, không kém.”

    Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi một đứa trẻ hai tuổi nhìn một con chó và nói: “Chó ơi!” bởi vì chúng ta đã quá quen với khả năng học hỏi kỳ diệu của trẻ em khi nhận diện và đặt tên cho các sự vật. Quan điểm của Simon về những điều kỳ diệu trong trực giác chuyên gia cũng tương tự như vậy. Những trực giác chuẩn xác phát triển khi các chuyên gia học được cách nhận diện những yếu tố quen thuộc trong một hoàn cảnh mới và xử lý theo những cách phù hợp với nó. Những phán đoán trực giác chuẩn xác cũng lập tức xuất hiện trong đầu óc con người như hiện tượng nói “Chó ơi!” của em bé hai tuổi vậy.

    Đáng tiếc là không phải mọi trực giác nghề nghiệp đều có ở các chuyên gia thật sự. Cách đây nhiều năm, tôi gặp một giám đốc đầu tư của một công ty tài chính lớn, ông nói với tôi rằng ông mới đầu tư vài chục triệu đô-la vào cổ phiếu của hãng ô tô Ford. Khi tôi hỏi vì sao ông lại đưa ra quyết định đầu tư này, ông trả lời là gần đây ông có tham dự một buổi trình diễn ô tô của hãng xe này, ông rất thích và rất ấn tượng với buổi trình diễn đó. “Cậu ạ, họ quả là những tay biết làm xe hơi đấy!” là lời giải thích của ông. Ông tin vào cảm giác của mình và ông hoàn toàn hài lòng với cảm giác đó cũng như việc quyết định mua cổ phiếu của bản thân. Tôi nhận ra một điều là ông ta hầu như không hề quan tâm tới một câu hỏi mà đáng lẽ một giám đốc tài chính như ông phải hỏi: “Liệu cổ phiếu của hãng xe Ford hiện thời có bị định giá thấp hơn so với giá trị thực tế của nó không?” Ngược lại, ông chỉ nghe theo trực giác của mình, ông thích xe hơi, ông thích công ty này và ông thích ý tưởng sở hữu cổ phiếu của nó. Với những hiểu biết của chúng ta về thị trường cổ phiếu, thì có thể tin rằng nhà đầu tư này không biết mình đang làm gì.

    Những suy nghiệm đặc biệt mà Amos và tôi đã nghiên cứu có thể lý giải được ít nhiều lý do vì sao nhà đầu tư kia lại quyết định đầu tư vào cổ phiếu của hãng xe Ford, nhưng với hiểu biết và nhận thức rộng hơn về suy nghiệm thì giờ đây chúng ta có thể giải thích hợp lý cho ví dụ đó. Một bước tiến quan trọng là giờ đây ta đã hiểu ra rằng: Cảm xúc có ảnh hưởng rõ nét trong mọi phán đoán và lựa chọn của trực giác của mỗi chúng ta, giờ đây chúng ta có hiểu biết về trực giác hơn trước kia rất nhiều. Quyết định của các chuyên gia ngày nay có thể mô tả như một ví dụ điển hình về hiệu ứng suy nghiệm, ở đó những phỏng đoán và quyết định được dẫn dắt trực tiếp bởi cảm giác thích hay không thích, với rất ít cân nhắc và lý lẽ.

    Khi đối mặt với một vấn đề, dù chỉ là đi một nước cờ hay quyết định đầu tư vào cổ phiếu, thì bộ máy tư duy trực giác vẫn chạy hết tốc lực của nó. Nếu một người có những kinh nghiệm phù hợp, sẽ nhận định được tình hình và có khả năng đưa ra các giải pháp trực giác chuẩn xác rất cao. Đó chính xác là những gì diễn ra, khi một kỳ thủ nhìn vào một bàn cờ rối rắm: Những nước cờ lập tức xâm chiếm lấy anh ta. Khi câu hỏi đặt ra khó hơn và một giải pháp khả thi không xuất hiện, trực giác lúc này vẫn còn là một ý tưởng mơ hồ. Câu trả lời có thể xuất hiện nhanh chóng trong đầu nhưng đó không phải là câu trả lời cho câu hỏi gốc - câu hỏi mà vị chuyên gia phải đối mặt (liệu tôi có nên đầu tư vào cổ phiếu của Ford?) quá khó nhưng câu trả lời cho một câu hỏi dễ hơn và có liên quan (liệu tôi có thích xe Ford không?) xuất hiện rõ rệt trong đầu và dẫn đến quyết định lựa chọn của ông. Đây chính là điểm cốt yếu của suy nghiệm trực giác: Khi đối mặt với một câu hỏi khó, thay vì trả lời trực tiếp vào câu hỏi đó, chúng ta lại thường trả lời vào câu hỏi dễ hơn và thường là chúng ta không nhận ra sự hoán đổi này.

    Đôi khi bạn không thể lập tức tìm ra một giải pháp trực giác nào, ngay cả giải pháp của chuyên gia lẫn đáp án suy nghiệm đều không xuất hiện. Trong những trường hợp này, chúng ta sẽ nhận thấy bản thân tư duy của chúng ta sẽ chuyển qua một dạng thức tư duy chậm rãi hơn, chính xác hơn và đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn. Đó chính là cách tư duy chậm mà tôi đề cập đến ở tiêu đề của cuốn sách này. Tư duy nhanh lại bao gồm hai dạng thức là tư duy trực giác của các chuyên gia và suy nghiệm trực giác đơn thuần, cũng như toàn bộ hoạt động trí não tự động đưa nhận thức vào bộ nhớ, những hoạt động đó cho phép bạn nhận thức rằng có một chiếc đèn trên mặt bàn hay nhớ ra tên thủ đô của nước Nga.

    Sự khác biệt giữa tư duy nhanh và tư duy chậm đã được các nhà tâm lý học khám phá từ hơn 25 năm qua. Tôi sẽ giải thích đầy đủ hơn trong chương sau, tôi đã mô tả hoạt động trí não bằng hình ảnh ẩn dụ của hai nhân tố, được gọi là Hệ thống 1 và Hệ thống 2, trong đó mỗi hệ thống đại diện cho một quá trình là tư duy nhanh và tư duy chậm. Tôi nhắc đến các yếu tố này như là nét đặc trưng của nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, cũng như là những đặc điểm và thiên hướng tư duy của hai tính cách trong bộ não của chúng ta. Nhìn tổng thể bức tranh nghiên cứu trong thời gian gần đây, Hệ thống 1 ảnh hưởng tới chúng ta nhiều hơn so với trải nghiệm của chúng ta và đó là tác nhân bí ẩn của rất nhiều lựa chọn và phỏng đoán mà bạn đã đưa ra. Cuốn sách này dành phần lớn để nghiên cứu về cách thức hoạt động của Hệ thống 1 và sự ảnh hưởng qua lại giữa nó với Hệ thống 2.

    Chuyện gì tiếp theo

    Cuốn sách được chia thành năm phần. Phần 1 giới thiệu những yếu tố cơ bản của cách tiếp cận hai hệ thống, khi đưa ra các phỏng đoán và các lựa chọn. Nó mô tả chi tiết sự khác biệt giữa việc tổ chức tự động của Hệ thống 1 và việc tổ chức có kiểm soát của Hệ thống 2, đồng thời cho thấy bộ nhớ liên kết, Hệ thống 1 liên tục diễn dịch xem chuyện gì đang diễn ra trong thế giới của chúng ta, tại bất cứ thời điểm nào. Tôi sẽ nỗ lực chứng minh cho thấy sự phức tạp và phong phú của quá trình hoạt động tự động và thường là vô thức nằm ẩn sâu trong tư duy trực giác của mỗi chúng ta. Và quá trình tự động này giải thích cho những phán đoán suy nghiệm được diễn ra như thế nào. Mục đích của tôi là giới thiệu một thứ ngôn ngữ của tư duy và tiếng nói của trí óc đến bạn đọc.

    Phần 2 cập nhật những nghiên cứu về những phán đoán suy nghiệm và khám phá một vấn đề cơ bản là: Tại sao con người lại khó khăn để tư duy dựa trên những hiện thực thống kê? Chúng ta dễ dàng để tư duy liên tưởng, tư duy ẩn dụ, hay tư duy nguyên nhân – hệ quả nhưng chúng ta lại thấy khó khăn để tư duy dựa trên hiện thực thống kê, bởi sự tư duy này đòi hỏi bộ não của chúng ta phải tư duy về rất nhiều thứ xảy ra cùng một lúc, đó chính là điều mà Hệ thống 1 không được thiết kế để đảm nhiệm.

    Những điểm khó của tư duy dựa trên hiện thực thống kê là chủ đề chính của Phần 3, trong đó mô tả những giới hạn của đầu óc chúng ta như: Niềm tin thái quá vào những gì chúng ta tin là mình hiểu biết và hiển nhiên đó chính là sự bất lực của chúng ta trong việc nhận ra sự “vô tri” của chính mình ở cấp độ cao nhất của quá trình nhận thức, và sự thiếu chắc chắn của thế giới mà chúng ta đang sống. Chúng ta dễ dãi đánh giá quá cao sự hiểu biết của mình về thế giới, bên cạnh đó lại đánh giá quá thấp vai trò của các cơ hội trong mỗi sự kiện diễn ra hàng ngày. Đây chính là sự tự tin thái quá được chính ảo tưởng giá trị về sự “nhận thức muộn” nuôi nấng. Quan điểm của tôi về chủ đề này bị ảnh hưởng bởi Nassim Taleb, tác giả của học thuyết The Black Swan (Thiên nga đen). Tôi hy vọng những câu chuyện phiếm bên bàn uống nước ở văn phòng mở ra cho chúng ta những bài học hữu ích mà mỗi người có thể học tập từ quá khứ trong khi cưỡng lại với sức quyến rũ của “nhận thức muộn” và “ảo tưởng về giá trị”.

    Phần 4 tập trung vào trao đổi giữa các nguyên tắc của ngành Kinh tế học về bản chất của việc ra quyết định với giả định các nhân tố kinh tế học là lý trí. Phần này của cuốn sách tôi trình bày một góc nhìn hiện nay về những khái niệm chính trong “học thuyết viễn cảnh” được hình thành bởi một mô hình hai hệ thống, một mô hình của sự lựa chọn mà Amos và tôi đã xuất bản năm 1979. Các chương tiếp theo chỉ ra một vài lựa chọn sai lệch của con người so với các nguyên tắc chung của “tư duy phi duy lý”. Tôi đã rất khó khăn để có thể tách biệt các vấn đề của nguyên tắc “tư duy phi duy lý” đó, đi kèm với các hệ quả, nơi các quyết định được đưa ra dựa trên những yếu tố bất hợp lý. Những quan sát như vậy, hoàn toàn có thể được giải thích bằng Hệ thống 1, trở thành một thách thức lớn đối với giả định các yếu tố chuẩn trong Kinh tế học đều lý trí vốn rất được ưa chuộng.

    Phần 5 mô tả các nghiên cứu gần đây mà trong nghiên cứu đó chúng tôi giới thiệu đến bạn đọc sự khác biệt giữa hai cái tôi, một cái tôi kinh nghiệm và một cái tôi ghi nhớ, cả hai có những mối quan tâm riêng. Ví dụ, chúng ta có thể thấy con người có hai kiểu trải nghiệm không mấy dễ chịu. Một số trải nghiệm của chúng ta diễn ra trong một thời gian dài, do đó chắc chắn nó là trải nghiệm tệ hại hơn những trải nghiệm còn lại. Nhưng chức năng tự động của bộ nhớ - một tính năng của Hệ thống 1 - có những nguyên tắc, mà chúng ta có thể lợi dụng sao cho những ký ức tệ hơn được ghi nhớ tốt hơn. Sau này, khi con người lựa chọn những hồi ức để nhớ lại, một cách tự nhiên, họ sẽ được dẫn dắt bởi sự ghi nhớ bản thân và nhờ vào đó (cái tôi kinh nghiệm) đã gợi đến những ký ức không cần thiết. Sự phân biệt giữa hai cái tôi được ứng dụng để kiểm nghiệm hành vi, ở đó chúng ta lại một lần nữa nhận thấy cái gì khiến cho cái tôi kinh nghiệm hạnh phúc hoá ra không hoàn toàn là cái làm thoả mãn cho cái tôi ghi nhớ. Làm thế nào để hai cái tôi này trong cùng một cơ thể, có thể theo đuổi hạnh phúc là một câu hỏi khó trả lời đối với cả cá nhân và cả xã hội, trong đó hành xử đúng đắn của đại đa số mọi người đã trở thành một chuẩn mực chung được quy ước và công nhận là cách xử sự khách quan, đa số hành xử đúng đắn sẽ là tham chiếu chung để đánh giá hành động của từng cá nhân riêng lẻ.

    Chương kết luận phát hiện ra các ứng dụng của ba nỗ lực khác nhau trong cuốn sách để lý giải: Giữa cái tôi kinh nghiệm và cái tôi ghi nhớ, giữa khái niệm về các nhân tố trong ngành Kinh tế học cổ điển và Kinh tế học hành vi (có sự vay mượn từ ngành Tâm lý học) và giữa Hệ thống tự động 1 và Hệ thống nỗ lực 2. Tôi trở lại vấn đề về câu chuyện phiếm xoay quay bàn uống nước trong một tổ chức, được định hướng và mở ra bài học để tổ chức này có thể cải thiện được khả năng phán đoán cũng như đưa ra quyết định cho tổ chức mình.
    Còn nữa
     
    Chỉnh sửa cuối: 26 Tháng sáu 2018
  5. Thanh Bình

    Bài viết:
    111
    Phần 1. Hai hệ thống
    Chương 1. Những nét tính cách

    Bấm để xem
    Đóng lại

    Để có thể khám phá trí óc của bạn khi nó vận hành ở chế độ tự động ra sao, xin mời liếc mắt nhìn xuống bức hình dưới đây.

    Kinh nghiệm của bạn khi nhìn vào khuôn mặt của người phụ nữ này dựa trên sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa quan sát và tư duy trực giác. Rất nhanh và rất rõ ràng, vừa thoạt nhìn bạn đã nhận ra người phụ nữ này có mái tóc tối màu và cô ta đang rất giận dữ. Hơn thế nữa, những gì quan sát còn được bạn liên tưởng đến tương lai. Bạn cảm nhận rằng người phụ nữ này sắp sửa “phun ra” những lời độc địa với rất nhiều khả năng là bằng một chất giọng lảnh lót đến xuyên thấu màng nhĩ người nghe. Linh cảm về hành động tiếp theo của người phụ nữ này xuất hiện trong trí óc của bạn một cách tự động mà chẳng cần tiêu tốn một chút nỗ lực nào để cảm nhận được nó. Bạn tuyệt nhiên không có chủ ý thấu hiểu tâm trạng của cô ta, cũng như không hề cố gắng dự đoán những gì mà cô ta sẽ làm; phản ứng của bạn đối với hình ảnh này hoàn toàn không mang lại cảm giác như bạn vừa thực hiện một hành động nào đó. Chỉ đơn giản là nó đã diễn ra một cách vô thức như thế trong trí óc của bạn. Đó chính là một ví dụ điển hình để có thể hiểu được về cơ chế tư duy nhanh.

    Giờ thì bạn hãy xem xét vấn đề tiếp theo:

    17 x 24

    Ngay lập tức, bạn biết đây là một phép tính nhân của toán học, có thể bạn có bút chì và giấy, hoặc không có gì đi chăng nữa thì bạn cũng thừa khả năng để giải được phép tính này. Trong trí óc của bạn cũng xuất hiện một vài phán đoán lờ mờ của trực giác về một dải những đáp án gần đúng cho phép tính nhân này. Có thể rất nhanh bạn nhận thấy cả hai đáp án 12.609 hay 123 đều không đúng. Tuy vậy, nếu không dành thời gian ngồi tính toán, có thể bạn cũng không dám chắc 568 cũng không phải là một đáp án đúng. Một đáp án đúng đã không xuất hiện trong đầu óc bạn và bạn cảm thấy tốt hơn hết là mình nên lựa chọn chiếc máy tính để làm phép tính nhân này. Nếu bạn vẫn không muốn nhờ đến chiếc máy tính ấy, thì giờ bạn thử cố ngồi tính phép tính nhân này xem nào.

    Bạn đã trải nghiệm tiến trình tư duy chậm khi các công đoạn như trên tuần tự diễn ra trong đầu. Đầu tiên, bạn cố gắng khôi phục trí nhớ của mình và lập trình lại chương trình nhận thức liên quan đến phép nhân mà bạn đã được học khi ngồi trên ghế nhà trường, sau đó bạn thử áp dụng nó vào phép nhân này. Hành động lôi máy tính ra là một khuynh hướng của quá trình khôi phục trí nhớ. Bạn cảm thấy khó khăn khi phải huy động quá nhiều dữ liệu trong bộ nhớ, trong khi đó bạn vẫn cần giữ cân bằng để nhận thức xem mình đang ở đâu và sẽ đi đâu, trong khi vẫn phải chú tâm tới việc tìm ngay ra đáp án. Đây chính là tiến trình hoạt động của trí não, đó là: Cân nhắc, nỗ lực, tuần tự và là một bản mẫu của tư duy chậm. Cái máy tính không phải là sự kiện duy nhất nhảy ra trong đầu óc của bạn, thậm chí ngay cả cơ thể bạn cũng tham gia vào tiến trình tư duy này. Các cơ của bạn gồng lên; huyết áp tăng cao và nhịp tim đập nhanh hơn. Nếu có ai đó nhìn sâu vào mắt bạn trong khi bạn đang xử lý vấn đề này, họ sẽ thấy đồng tử của bạn giãn ra. Đôi đồng tử đó sẽ trở lại trạng thái bình thường ngay sau khi bạn tìm ra đáp án (nhân tiện, cho bạn biết đáp án đúng là 408) hoặc ngay khi bạn từ bỏ phép toán này.

    Hai hệ thống

    Vài thập kỷ trở lại đây, các nhà tâm lý học đã dành rất nhiều công sức để nghiên cứu về hai hình thức thức tư duy của con người, thông qua ví dụ về bức hình một người phụ nữ giận dữ và ví dụ về một phép tính nhân mà họ đã gán cho chúng rất nhiều dấu hiệu. Tôi tiếp thu những thuật ngữ vốn được hai nhà tâm lý học Keith Stanovich và Richard West đề xuất và sẽ đưa chúng vào hai hệ thống tư duy là Hệ thống 1 và Hệ thống 2.

    • Hệ thống 1 hoạt động theo cơ chế tự động và mau lẹ, với rất ít hoặc hầu như không cần cố gắng và không tự động kiểm soát.
    • Hệ thống 2 huy động sự chú ý đến những hoạt động tư duy đòi hỏi sự nỗ lực, bao gồm những phép tính phức tạp. Cơ chế hoạt động của Hệ thống 2 thường gắn với những kinh nghiệm chủ quan, sự lựa chọn và tập trung của chủ thể.
    Thuật ngữ Hệ thống 1 và Hệ thống 2 đã được sử dụng rộng rãi trong ngành Tâm lý học nhưng trong cuốn sách này, tôi sẽ tiếp tục đào sâu vấn đề này, bạn đọc có thể đọc sách như xem một vở kịch tâm lý với hai nhân vật chính là hai hệ thống này.

    Khi nghĩ về bản thân, chúng ta thường nhận ra mình gần với Hệ thống 2, là một con người ý thức và duy lý, có đức tin, luôn suy nghĩ chín chắn trong từng hành động khi phải đưa ra những quyết định và lựa chọn. Hệ thống 2 luôn nghĩ rằng nó chính là nguồn gốc của hành động, tuy nhiên, Hệ thống tự động 1 mới là “người hùng” của vở kịch tâm lý này. Tôi mô tả Hệ thống 1 như là những ấn tượng và cảm xúc thụ động ban đầu là nguồn gốc chính hình thành những niềm tin và lựa chọn cẩn trọng của Hệ thống 2. Cơ chế tự động của Hệ thống 1 hình thành lên những ý tưởng với những khía cạnh phức tạp đáng kinh ngạc nhưng Hệ thống 2 chậm chạp mới có khả năng cấu trúc lại những suy nghĩ đó tuần tự theo từng bước. Tôi cũng mô tả những tình huống mà Hệ thống 2 giành quyền kiểm soát, thắng thế và tự do thúc đẩy, liên kết với Hệ thống 1. Bạn đọc cũng sẽ thử suy nghĩ về hai hệ thống như những nhân vật với những khả năng, hạn chế và những chức năng riêng biệt.

    Chính bởi sự phức tạp đó, xin giới thiệu một số ví dụ về những hoạt động tự động làm nên Hệ thống 1:

    • Phát hiện ra một đồ vật nằm xa hơn so với các đồ vật khác.
    • Định hướng nơi phát ra một âm thanh lạ.
    • Hoàn thành câu “bánh mì và…”
    • Nhăn mặt khi xem một bức ảnh gớm ghiếc.
    • Nhận ra sự thù nghịch trong một giọng nói.
    • Trả lời câu hỏi 2 + 2 = ?
    • Đọc chữ trên những tấm biển hiệu lớn.
    • Lái xe trên một con đường vắng.
    • Đi một nước cờ đỉnh cao (nếu bạn là một kỳ thủ lão luyện).
    • Hiểu nghĩa những câu đơn giản.
    • Nhận ra cụm từ “một người nhu mì và gọn ghẽ," ám chỉ người thuộc loại nghề nghiệp nào.
    Tất cả những hiện tượng trí não này đi kèm với hình ảnh người phụ nữ giận dữ, đều diễn ra một cách tự động và không đòi hỏi phải nỗ lực. Khả năng Hệ thống 1 còn bao gồm cả những kỹ năng bẩm sinh của loài người cũng như của các loài động vật khác. Chúng ta sinh ra đều được chuẩn bị để nhận thức về thế giới xung quanh, nhận biết các đồ vật, định hướng sự chú ý, lảng tránh sự mất mát và khiếp sợ những con nhện chân đầy lông. Những hoạt động trí não khác trở nên nhanh và tự động nhờ việc chúng thường xuyên được luyện tập. Hệ thống 1 còn học cách liên kết các ý tưởng (ví dụ: "Thủ đô của nước Pháp là gì?"), nó cũng học được những kỹ năng như đọc và hiểu những sắc thái khác nhau trong những tình huống xã hội khác nhau. Một vài kỹ năng như tìm ra những nước cờ “độc” chỉ có thể có ở những kỳ thủ cao cường. Những kỹ năng chơi cờ cơ bản còn lại thì ai cũng có thể có cả. Khả năng phát hiện một sự tương đồng với một khuôn mẫu nghề nghiệp đòi hỏi sự hiểu biết rộng rãi về ngôn ngữ, văn hóa và may mắn là hầu hết chúng ta cũng đều có những khả năng này. Tri thức được lưu trữ trong bộ nhớ và chúng ta truy cập vào nó mà không cần huy động sự cố gắng cũng như phải có sự tập trung cao độ.

    Một vài hoạt động trí não trong danh sách trên diễn ra một cách hoàn toàn tự động không cần bất cứ sự tập trung nào. Bạn không thể ngăn việc mình có thể hiểu những câu nói đơn giản bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình hay nhận ra âm thanh lạ bất chợt xuất hiện phát ra từ nơi nào, cũng như bạn không thể ngăn cản bản thân biết được phép cộng 2 + 2 = 4 hay nghĩ đến Paris khi có ai đó nhắc đến thủ đô của nước Pháp. Những hoạt động khác, ví dụ như nhai kẹo cao su dễ bị quy là hành động có chủ ý của chúng ta nhưng thông thường đây lại là hành động theo hướng tự động. Việc kiểm soát sự tập trung, chủ động bị chi phối bởi hai hệ thống. Định hướng nơi phát ra âm thanh thông thường là thao tác không chủ ý của Hệ thống 1, nhưng ngay sau đó lập tức dịch chuyển thành sự tập trung có chủ đích của Hệ thống 2. Có thể bạn sẽ chủ ý ngăn cản mình hướng sự tập trung về phía âm thanh ầm ĩ phát ra hoặc một lời nhận xét ác ý trong một bữa tiệc đông người, nhưng dù cho bạn không quay đầu lại, thì sự chú ý của bạn ngay từ đầu đã bị hướng về phía đó, ít nhất là trong chốc lát. Tuy nhiên, bạn có thể chuyển hướng sự chú ý khỏi một mục tiêu không mong muốn, trước hết là bằng việc bạn sẽ hướng sự tập trung của mình sang một mục tiêu khác.

    Các hoạt động của Hệ thống 2 rất đa dạng nhưng chúng có một điểm chung: Chúng đều đòi hỏi sự chú ý và sẽ kết thúc khi bạn không còn tập trung nữa. Dưới đây là vài hoạt động thuộc cơ chế hoạt động của Hệ thống 2:

    • Dỏng tai lên đợi tiếng súng ra hiệu bắt đầu một cuộc đua.
    • Tập trung chú ý vào những chú hề trên sân khấu xiếc.
    • Tập trung để lắng nghe tiếng nói của một người nhất định trong một căn phòng đông đúc và ồn ào.
    • Tìm kiếm một phụ nữ tóc bạc.
    • Lục trong trí nhớ tên của một ca khúc được truyền tải bởi một giọng hát hay rất cuốn hút.
    • Duy trì tốc độ đi bộ nhanh hơn tốc độ đi bộ bình thường của bạn.
    • Điều chỉnh hành vi ứng xử sao cho phù hợp với tình huống xã hội cụ thể.
    • Đếm số lần xuất hiện của chữ cái a trong một trang dày đặc chữ.
    • Cho ai đó biết số điện thoại của bạn.
    • Đậu xe trong một ô hẹp (dành cho hầu hết mọi người trừ nhân viên gara).
    • So sánh hai chiếc máy giặt dựa trên giá trị sử dụng của chúng.
    • Điền bảng kê khai thuế.
    • Kiểm tra tính hợp lý của một lập luận logic phức tạp.
    Trong tất cả những tình huống trên, bạn buộc phải tập trung chú ý và hiệu quả thường kém, thậm chí là tệ hại nếu bạn không sẵn sàng hoặc sự chú ý của bạn bị chuyển hướng sang các chủ đề không thích hợp. Hệ thống 2 có khả năng thay đổi cách thức hoạt động của Hệ thống 1, bằng cách lập trình tự động những chức năng chú ý và ghi nhớ thông thường. Ví dụ, trong khi đang chờ đợi một người họ hàng ở một nhà ga đông đúc, bạn có xu hướng chỉ nhìn vào những người phụ nữ tóc bạc hoặc những người đàn ông rậm râu, đó là cách nâng cao khả năng phát hiện được người bạn đang chờ đón từ khoảng cách xa. Bạn cũng có thể hướng bộ nhớ của mình tìm kiếm tên của những thủ đô bắt đầu bằng chữ cái N hoặc tên của những cuốn tiểu thuyết hiện thực của Pháp. Và khi bạn thuê một chiếc xe hơi của sân bay Heathrow ở London, người lái xe có thể nhắc bạn nhớ rằng: “Ở̉ đây chúng tôi lái xe bên phía trái đường.” Trong tất cả những tình huống ấy, bạn được yêu cầu làm một điều gì đó khác so với cách thông thường mà bạn vẫn hay làm và bạn sẽ nhận thấy rằng sự cố gắng duy trì hàng loạt những yêu cầu như vậy đòi hỏi bạn phải nỗ lực hơn bình thường.

    Cụm từ hay được sử dụng “tập trung chú ý” là để chỉ một năng lượng: Bạn phải sử dụng sự chú ý tạm thời của bản thân, đổi lại bạn có thể phán đoán được các hoạt động và nếu bạn cố gắng sử dụng vượt quá khả năng chú ý của mình, bạn sẽ thất bại. Đó chính là dấu hiệu của những hoạt động đòi hỏi sự chú ý mà chúng có sự tương tác qua lại lẫn nhau, đó là lý do vì sao bạn rất khó hoặc không thể xử lý vài vấn đề phức tạp diễn ra cùng một lúc. Bạn không thể vừa tính nhẩm phép nhân 17 x 24 trong lúc cố rẽ trái khi đang lái xe trên một con đường đông người qua lại, thực tế là bạn cũng không nên thử. Bạn có thể làm vài việc cùng một lúc nhưng chỉ là những việc đơn giản và không bị thúc ép. Có thể sẽ vẫn an toàn khi bạn góp chuyện vài câu với hành khách khi đang lái xe trên một đoạn cao tốc vắng và rất nhiều bậc phụ huynh thú nhận với đôi chút hối lỗi rằng họ có thể vừa đọc truyện cho con nghe vừa nghĩ đến một vấn đề khác.

    Tất cả mọi người đều được cảnh báo về khả năng tập trung sự chú ý tạm thời, xét về hành vi xã hội, khả năng của chúng ta tương thích với những giới hạn này. Ví dụ, khi một người tài xế đang lái xe vượt một chiếc xe tải trên một đoạn đường hẹp, những hành khách nhạy cảm nhận ra và lập tức ngừng trò chuyện. Họ hiểu rằng làm phân tán sự chú ý của tài xế vào lúc này không phải là việc làm đúng đắn và đồng thời mong rằng bác tài xế tạm thời không nghe thấy những gì họ nói.

    Tập trung cao độ vào một nhiệm vụ có thể khiến người ta tạm thời thực sự đui mù, ngay cả với những tác nhân mà bình thường vẫn thu hút được sự chú ý của họ. Bằng chứng gây kinh ngạc nhất đã được Christopher và Daniel Simons chỉ ra trong cuốn sách The Invisible Gorilla (Tạm dịch: Chú khỉ đột vô hình) của mình. Họ tiến hành sản xuất một đoạn phim ngắn về trận đấu của hai đội bóng chày, một đội mặc áo trắng và một đội mặc áo đen. Sau đó, yêu cầu người xem đếm số vận động viên mặc áo trắng mà không cần để ý đến những vận động viên mặc áo đen đang đi lại trên sân thi đấu. Nhiệm vụ này rất khó khăn và cực kỳ cuốn hút. Đến giữa đoạn phim, một người phụ nữ mang trên mình bộ đồ của một con khỉ đột xuất hiện, chạy ngang qua sân vận động, vừa đi vừa đấm thùm thụp vào ngực. Người phụ nữ mặc bộ đồ khỉ đột xuất hiện trong vòng 9 giây. Hàng ngàn người xem đoạn phim và khoảng một nửa trong số đó không hề phát hiện ra điều gì bất thường. Nhiệm vụ đếm và đặc biệt là yêu cầu đếm các cầu thủ của một đội và phớt lờ các cầu thủ đội còn lại đã tạo ra sự mù quáng tạm thời. Không một ai không bị gắn vào nhiệm vụ kia khi xem đoạn phim mà không phát hiện ra người phụ nữ mặc bộ đồ con khỉ đột. Nhìn và định hướng là những chức năng tự động của Hệ thống 1 nhưng chúng bị phụ thuộc vào sự định vị của một số sự chú ý đối với các kích thích có liên quan. Các tác giả nhấn mạnh rằng quan sát có giá trị nhất trong nghiên cứu của mình đó là ai cũng nhận thấy kết quả này thực sự đáng kinh ngạc. Thực tế thì tất cả những người không nhìn thấy người phụ nữ mặc bộ đồ khỉ đột lúc đầu đều chắc chắn là không hề có người phụ nữ mặc bộ đồ khỉ đột nào hết, họ không thể tưởng tượng nổi rằng, mình đã bỏ qua một sự kiện độc đáo đến vậy. Nghiên cứu “Chú khỉ đột vô hình” đã minh họa cho hai thực tế quan trọng về đầu óc của chúng ta: Chúng ta có thể mù trước sự thật hiển nhiên và chúng ta cũng mù trước sự mù quáng của chính bản thân mình.

    Tóm tắt dàn ý:

    Sự tương tác của hai hệ thống là chủ đề lặp đi lặp lại trong cuốn sách này và thực hiện một bản tóm tắt về nó là một yêu cầu cần thiết. Trong câu chuyện mà tôi sẽ kể tới đây, Hệ thống 1 và Hệ thống 2 đều được kích hoạt mỗi khi chúng ta thức dậy. Hệ thống 1 hoạt động tự động và Hệ thống 2 thì thường hoạt động ở chế độ thoải mái không đòi hỏi nhiều nỗ lực. Hệ thống 1 liên tục phát đi những tín hiệu gợi ý cho Hệ thống 2 như là: Ấn tượng, trực giác, sự chú ý và cảm xúc. Nếu chúng được Hệ thống 2 xác nhận, ấn tượng và trực giác sẽ chuyển thành niềm tin và thúc đẩy chúng trở thành những hành động tự động. Khi mọi thứ hoạt động nhuần nhuyễn, vốn thường ăn ý trong hầu hết thời gian, Hệ thống 2 sẽ tiếp nhận sự gợi ý của Hệ thống 1 mà rất ít thay đổi hoặc không thay đổi gì. Thông thường bạn tin tưởng vào những ấn tượng của mình và hành động theo ý thích, điều đó thường là tốt. Khi Hệ thống 1 gặp một tình huống khó khăn, nó sẽ gọi Hệ thống 2 ra hỗ trợ thực hiện những tiến trình chi tiết và đặc thù hơn để có thể xử lý các vấn đề tại thời điểm đó. Hệ thống 2 sẽ được huy động khi nảy sinh một vấn đề mà Hệ thống 1 không thể đưa ra được lời giải đáp, đó có thể là tình huống khó khăn khi bạn phải trả lời 17 x 24 bằng bao nhiêu ngay lập tức. Hoặc khi ngạc nhiên trước điều gì đó, bạn cũng sẽ nhận ra sự xuất hiện một cảm giác của chú ý tiềm thức. Hệ thống 2 được kích hoạt khi một sự kiện bị phát hiện và đe dọa đến hình mẫu thế giới mà Hệ thống 1 đã duy trì. Trong thế giới mà Hệ thống 1 đã quy ước đó, đèn bàn không nhảy nhót và chó không sủa, cũng như khỉ đột không chạy qua chạy lại ở sân bóng chày. Thí nghiệm “Chú khỉ đột vô hình” chứng minh rằng một vài sự chú ý là điều cần thiết để phát hiện ra những tương tác gây kinh ngạc. Sau đó, sự kinh ngạc kích hoạt và định hướng đến sự chú ý của bạn; bạn sẽ tập trung, rồi bạn sẽ lục tìm trong ký ức một câu chuyện sao cho thích hợp để lý giải cho sự kiện gây kinh ngạc ấy. Hệ thống 2 cũng đồng thời ghi nhận sự định hướng tiếp diễn trong hành vi của chính bạn, như là sự kiểm soát giúp bạn giữ lịch sự khi đang giận dữ và cảnh báo khi bạn đang lái xe trong đêm tối.

    Hệ thống 2 được huy động để tăng cường sự cố gắng khi nó phát hiện ra một lỗi sai có thể xảy ra. Hãy nhớ lúc bạn bất ngờ buột miệng thốt ra một lời nhận xét ác ý và nhớ xem bạn đã phải cố gắng nhường nào để khôi phục lại sự kiểm soát của bản thân. Tóm lại là, hầu hết những gì bạn (tức Hệ thống 2 của bạn), nghĩ và làm đều có nguồn gốc từ Hệ thống 1 nhưng Hệ thống 2 nhận trách nhiệm xử lý khi mọi việc trở nên khó khăn và nó thường chịu trách nhiệm ra quyết định cuối cùng.

    Sự phân công lao động giữa Hệ thống 1 và Hệ thống 2 cực kỳ hiệu quả: Nó giảm thiểu tối đa sự nỗ lực của chúng ta và điều chỉnh kết quả theo cách mà chúng ta muốn. Sự sắp xếp hoạt động hiệu quả trong hầu hết thời gian bởi vì Hệ thống 1 thực hiện tốt vai trò của mình: Các mô hình về các tình huống quen thuộc của nó rất chính xác, những dự báo ngắn hạn và những phản ứng ban đầu rất mau lẹ của nó trước các thách thức cũng thường chuẩn xác và thường thích đáng. Tuy vậy, Hệ thống 1 có sự sai lệch với những lỗi sai hệ thống có thiên hướng nảy sinh trong những tình huống đặc thù. Chúng ta có thể thấy, đôi khi có những câu trả lời lại dễ hiểu hơn là câu hỏi và bởi vì câu hỏi thể hiện sự không logic và thống kê. Một hạn chế nữa của Hệ thống 1 là nó không thể bị gián đoạn. Nếu trước mắt bạn xuất hiện một bảng hiệu được viết thứ tiếng mà bạn biết, bạn sẽ dễ dàng đọc nó, trừ khi sự chú ý của bạn khi ấy hoàn toàn tập trung vào chỗ khác.

    MÂU THUẪN

    Mô tả một hình biến thể của một thí nghiệm cổ điển trình bày sự mâu thuẫn giữa hai hệ thống. Bạn nên làm bài tập này trước khi đọc tiếp.

    Trong cả hai nhiệm vụ, hầu hết mọi người đều đọc đúng các từ, và hẳn là các bạn cũng nhận thấy trong mỗi nhiệm vụ thì có một số chỗ dễ đọc hơn rất nhiều so với chỗ khác. Xác định các chữ viết in hoa và in thường ở cột bên trái dễ hơn, còn cột bên phải khiến bạn phải đọc chậm lại và có khi bạn còn nói lắp hoặc nói vấp. Khi bạn xác định vị trí của các từ, cột bên trái lại khó hơn và cột bên phải lại dễ hơn nhiều.



    Nhiệm vụ đầu tiên của bạn là hãy đọc từ trên xuống dưới cả hai cột, đọc to lên xem từ nào được viết in thường, từ nào được viết in hoa. Khi kết thúc nhiệm vụ đầu tiên, tiếp tục đọc từ trên xuống dưới các cột lại một lần nữa, lần này đọc xem từ nào được căn lề trái và từ nào được căn lề phải, bằng cách đọc lên (hoặc nói thầm với bản thân) “TRÁI” hay “PHẢI”.

    [​IMG]

    Những nhiệm vụ này thuộc về Hệ thống 2, bởi hành động nói to lên từ viết “hoa/thường” hoặc từ nằm “phải/trái” không phải là hoạt động thông thường khi nhìn một cột từ trên xuống dưới. Một trong số những điều mà phải cố gắng làm khi thực hiện nhiệm vụ này, đó là lập trình trí nhớ của mình sao cho việc phát ra những từ có liên quan (in hoa và in thường đối với nhiệm vụ 1) trở thành phản xạ của miệng. Khi đọc cột đầu tiên, việc ưu tiên đối với một số từ được chọn khá hiệu quả và việc cưỡng lại không đọc những từ còn lại là một nhiệm vụ tương đối dễ dàng nhưng đến cột thứ hai bao gồm những từ mà bạn lựa chọn được theo quy luật và bạn có thể lờ đi ý nghĩa của chúng. Hầu hết mọi người đều có thể thực hiện chính xác nhiệm vụ này nhưng để lặp đi lặp lại các câu trả lời đúng là rất khó và làm bạn căng thẳng, nó khiến tốc độ trả lời của bạn chậm lại. Vậy là bạn đã phải đối mặt với mâu thuẫn giữa việc bạn phải cố gắng thực hiện một yêu cầu, trong khi có một câu trả lời khác cứ tự động xen vào.

    Sự mâu thuẫn giữa một phản ứng tự động và một nỗ lực kiểm soát diễn ra rất phổ biến trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta đều biết cảm giác cố gắng không nhìn chằm chằm vào một cặp đôi ăn vận kỳ cục ở bàn kế bên trong một nhà hàng. Chúng ta cũng biết cảm giác cố gắng tập trung để đọc một cuốn sách tẻ nhạt, đôi khi bạn phải đọc lại cả một đoạn văn vì bạn chẳng hiểu nó viết về cái gì. Ở những vùng có mùa đông khắc nghiệt, rất nhiều tài xế nhớ cảm giác khi xe của họ mất phanh trên đường băng tuyết và phải cố gắng giữ lái để làm theo chỉ dẫn vốn đi ngược lại với những gì mà thông thường họ vẫn làm: “Đánh lái theo hướng ngược lại, dù có làm gì đi nữa, chớ có động vào má phanh!” Hay tất cả mọi người sống trên đời này nhận thức rằng đừng nên nguyền rủa ai đó cút xuống địa ngục. Một trong những nhiệm vụ của Hệ thống 2 là vượt qua những thôi thúc của Hệ thống 1. Nói cách khác, Hệ thống 2 đảm nhiệm phần tự chủ trong mỗi chúng ta.

    ẢO GIÁC

    Để hiểu rõ giá trị độc lập của Hệ thống 1, cũng như phân biệt sự khác nhau giữa ấn tượng và niềm tin, mời bạn hãy nhìn kỹ hình số 3.

    Hình ảnh này không có gì đặc biệt: Hai đoạn thẳng với độ dài khác nhau, có gắn thêm “vây”, chỉ về hai phía khác nhau. Đoạn thẳng bên dưới rõ ràng là dài hơn đoạn thẳng bên trên. Đó là những gì tất cả chúng ta đều nhìn ra rất tự nhiên, chúng ta tin tưởng những gì mình vừa trông thấy. Tuy nhiên, nếu bạn đã từng biết hình ảnh này trước đó, bạn sẽ dễ dàng nhận ra đây chính là minh họa nổi tiếng về ảo giác của Muller-Lyer. Và bằng cách dùng thước đo, bạn có thể dễ dàng đo và biết được độ dài của chúng là bằng nhau.

    [​IMG]

    Giờ thì bạn đã đo đạc hẳn hoi, bạn - tức Hệ thống 2 của bạn, cái con người lý trí mà bạn gọi là “tôi” ấy - giờ đã có một niềm tin mới: Bạn hay Hệ thống 2 biết rằng hai đoạn thẳng trên có chiều dài bằng nhau. Nếu có hỏi bạn về độ dài của chúng, bạn sẽ nói điều mà bạn vừa mới biết. Nhưng nếu chỉ nhìn thì bạn vẫn thấy đoạn thẳng phía dưới dài hơn đoạn thẳng phía trên. Bạn buộc phải tin vào sự đo đạc, nhưng bạn không thể ngăn cản Hệ thống 1 làm nhiệm vụ của nó, bạn không thể bắt mắt mình – Hệ thống 1 nhìn thấy hai đường thẳng đó dài bằng nhau, mặc dù bạn – Hệ thống 2 biết chắc chắn điều đó. Để chống lại ảo giác, chỉ có một cách duy nhất: Bạn phải học cách hoài nghi chính cảm giác của mình về chiều dài của các đoạn thẳng khi chúng được gắn thêm “vây”. Để áp dụng được nguyên tắc đó, bạn có thể nhận ra những ảo giác và nhớ lại những gì bạn đã được biết là chính xác. Nếu bạn có thể làm được điều này, bạn sẽ không bao giờ bị “lừa” bởi những minh họa của Muller-Lyer. Nhưng dù thế nào đi nữa, bạn – Hệ thống 1 sẽ vẫn thấy một đoạn thẳng dài hơn đoạn thẳng còn lại.

    Không phải mọi ảo giác đều có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Có cả những ảo giác trong suy nghĩ, mà người ta gọi nó là ảo giác nhận thức. Khi vừa tốt nghiệp đại học, tôi đã tham gia vài khóa học về nghệ thuật và tâm lý. Trong một bài giảng, thầy giáo của chúng tôi đã giảng cho chúng tôi một mẩu truyện ngụ ngôn. Đây là những gì thầy đã kể: “Rồi sẽ có lúc các bạn gặp phải một bệnh nhân, anh ta chia sẻ với bạn vô số những sai lầm mà anh ta phải chịu đựng trong những lần điều trị trước. Bệnh nhân này miêu tả một cách rành rọt chuyện các nhà trị liệu đã hiểu sai về anh ta như thế nào, anh ta nhận ra rằng bạn khác những bác sĩ trước. Bạn đồng cảm với anh ta, bạn bị thuyết phục rằng bạn hiểu anh ta và bạn chính là người có khả năng giúp đỡ anh ta.” Đến đoạn này, thầy giáo cất cao giọng: “Đừng bao giờ nghĩ đến chuyện chữa trị cho bệnh nhân này! Hãy tống anh ta ra khỏi phòng khám! Đây là loại bệnh nhân tâm thần nhất và không bao giờ các bạn có thể giúp được anh ta.”

    Rất nhiều năm sau này tôi mới học được rằng những gì thầy giáo đã cảnh báo chúng tôi chính là sự chống lại sức hấp dẫn của tâm lý và khi đã trở thành chuyên gia đầu ngành nghiên cứu về Tâm lý trị liệu tôi mới thấy những lời khuyên của ông thầy kia là đúng đắn. Hiện tượng này tương thích với ảo giác mà Muller Lyer đã trình bày là những gì chúng tôi được dạy không phải là cảm thấy thế nào về bệnh nhân đó. Hiển nhiên là thầy giáo cho rằng cảm giác cảm thông của chúng tôi sẽ bị mất kiểm soát; nó trỗi dậy từ Hệ thống 1. Hơn nữa, thông thường không ai dạy chúng tôi phải nghi ngờ cảm xúc của mình đối với bệnh nhân. Việc bị hấp dẫn bởi một bệnh nhân - người cứ lặp đi lặp lại tiền sử điều trị bị thất bại của mình là một dấu hiệu nguy hiểm - giống như những chiếc “vây” gắn vào hai đoạn thẳng song song, chúng đánh lạc hướng sự chú ý của chúng ta. Đó chính là một ảo giác – được gọi tên là một ảo giác nhận thức - và tôi (hay Hệ thống 2 của tôi) được dạy cách làm thế nào để nhận ra nó và được khuyên là đừng có tin tưởng vào nó cũng như hành động dựa trên nó.

    Câu hỏi đặt ra là: Có khi nào chúng ta có thể chống lại được sức hấp dẫn của nó không. Thông điệp trong những ví dụ này không phải điển hình. Trong khi Hệ thống 1 hoạt động một cách tự động và không thể chủ động “ngắt mạch” thì thường rất khó phát hiện để ngăn chặn các lỗi sai của suy nghĩ tiềm thức. Không phải lúc nào cũng có thể tránh được các sai lệch trong hoạt động tư duy này, bởi vì Hệ thống 2 không có bất cứ một đầu mối nào liên hệ với các lỗi sai. Ngay cả khi các đầu mối liên kết với lỗi sai dường như rất rõ ràng, các lỗi sai chỉ có thể được ngăn ngừa khi có sự hỗ trợ giám sát và những hoạt động rất nỗ lực của Hệ thống 2. Tuy nhiên, “không ai có thể nắm tay suốt từ tối đến sáng”, tuy nhiên, việc liên tục đề cao cảnh giác không hẳn đã tốt và thực tế là cách đó chắc chắn không khả thi. Bởi vì liên tục đặt câu hỏi với chính những suy nghĩ của mình sẽ khiến bạn trở nên rất mệt mỏi và cơ chế vận hành của Hệ thống 2 thì quá chậm, không hiệu quả khi nó phải đảm nhận vai trò của Hệ thống 1 trong việc phải ra quyết định liên tục. Điều tốt nhất bạn có thể làm là thỏa hiệp: Hãy học cách nhận biết các tình huống dễ nảy sinh sai lầm và cố gắng tránh các sai lầm hiển nhiên hết mức có thể trong các tình huống đã được báo động khẩn cấp. Cuốn sách này được viết với tiền đề là bao giờ người ta cũng dễ nhận ra lỗi lầm của người khác hơn là nhận ra lỗi lầm của bản thân mình.

    HƯ CẤU HỮU ÍCH

    Vậy là bạn đã được giới thiệu về hai hệ thống như hai nhân tố trong một trí não với những phẩm chất, khả năng và giới hạn rất riêng. Tôi thường sử dụng các câu văn, trong đó các hệ thống được coi như những chủ ngữ, như “Hệ thống 2 suy tính hệ quả.”

    Việc sử dụng ngôn ngữ này bị coi là một lỗi sai và thường không được giới khoa học chấp nhận, bởi vì nó dường như lý giải rằng các suy nghĩ và hành động của một con người lại bị chi phối bởi suy nghĩ và hành động của những “nhân vật tí hon” sống bên trong đầu óc của anh ta. Về mặt ngữ pháp, thì câu này có cấu trúc giống như “Người quản gia hay ăn cắp vặt.” Các đồng nghiệp của tôi sẽ chỉ ra rằng hành động của người quản gia, trên thực tế, đã giải thích cho sự biến mất của món tiền và họ có quyền đặt câu hỏi về việc liệu Hệ thống 2 giải thích thế nào về hệ quả tính toán. Câu trả lời của tôi là ý nghĩa của câu chủ động ngắn gọn đó là thuộc tính tính toán của Hệ thống 2 có giá trị như một sự mô tả, chứ không phải một lời giải thích. Nó là câu nói giản lược của câu này: “Tính nhẩm là một hành động tự nhiên đòi hỏi sự nỗ lực, mà ta không nên thực hiện khi đang cố rẽ trái và có liên hệ với sự giãn nở đồng tử và tăng nhịp tim.”

    Tương tự như vậy, câu tuyên bố kiểu “lái xe bon bon trên đường vắng thuộc về Hệ thống 1 nghĩa là điều khiển một chiếc xe vào ngã rẽ là một hành động mang tính tự động và hầu như không cần đến sự nỗ lực nào. Nó cũng ngụ ý rằng một tài xế kinh nghiệm có thể lái xe trên một đoạn đường cao tốc vắng vẻ mà vẫn có thể tham gia đồng thời vào một cuộc trò chuyện. Cuối cùng, “Hệ thống 2 cảnh báo James khỏi phản ứng ngu ngốc để tránh bị ăn chửi” nghĩa là James có thể hành xử điên dại hơn nếu như nỗ lực kiểm soát của anh ta bị thất bại (như khi anh ta đã say bí tỉ).

    Hệ thống 1 và Hệ thống 2 là nhân vật chính trong câu chuyện mà tôi sẽ kể trong cuốn sách này, tôi chắc hẳn phải làm rõ một điều, rằng chúng là những nhân vật hư cấu trong một câu chuyện tưởng tượng mà tôi muốn lý giải về cách vận hành trí não của con người. Hệ thống 1 và Hệ thống 2 không phải là những thực thể điển hình có các bộ phận của một cơ thể với lục phủ ngũ tạng. Và cũng không có phần nào trong não bộ hay bất cứ hệ thống nào được gọi là đầu não chỉ huy. Rất có thể bạn sẽ hỏi: Vậy thì giới thiệu các nhân vật hư cấu với những cái tên xấu xí làm gì trong cuốn sách nghiên cứu này? Câu trả lời là cuốn sách này cần có các nhân vật này, bởi vì nó đại diện cho một số thói quen trong đầu óc của chúng ta, cả của bạn và của tôi. Người ta có thể dễ dàng hiểu về một câu văn nếu nó được miêu tả dưới dạng một nhân tố (Hệ thống 2) hơn là một cái gì đó, một phẩm chất nào đó. Nói cách khác “Hệ thống 2” sẽ là chủ ngữ cho một câu tốt hơn là một “phép tính nhẩm.” Trí óc - đặc biệt là Hệ thống 1 - dường như có một khuynh hướng đặc biệt để xây dựng và diễn giải những câu chuyện về các nhân tố tích cực, với cá tính, thói quen và khả năng hẳn hoi. Bạn sẽ nhanh chóng định hình những quan điểm xấu về một lão quản gia ăn cắp vặt, bạn sẽ nghĩ lão có nhiều hành vi xấu và bạn sẽ nhớ về lão, dù chỉ là trong một khoảnh khắc. Đó cũng là hy vọng của tôi khi sử dụng ngôn ngữ của hệ thống bằng lối hành văn này để giúp các bạn sẽ hiểu hơn về hai hệ thống.

    Tại sao lại gọi chúng là Hệ thống 1 và Hệ thống 2 chứ không phải là miêu tả kỹ như “Hệ thống tự động” và “Hệ thống nỗ lực”? Lý do rất đơn giản: Nói “Hệ thống tự động” dài hơn so với “Hệ thống 1” và chiếm nhiều diện tích trong bộ nhớ của bạn hơn. Điều này có ảnh hưởng đấy, bởi vì bất cứ thứ gì chiếm nhiều diện tích bộ nhớ của bạn đều làm giảm thiểu khả năng suy nghĩ của bạn. Bạn nên coi “Hệ thống 1” và “Hệ thống 2” như những cái tên thân mật, kiểu như Bob và Joe, việc đặt tên cho các nhân vật sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về chúng khi đọc cuốn sách này. Khi phải đưa ra các phán đoán và lựa chọn, các hệ thống hư cấu này giúp tôi dễ dàng suy nghĩ hơn và giúp các bạn dễ hiểu hơn đối với những gì tôi viết.

    PHÁT NGÔN CỦA HAI NHÂN VẬT: HỆ THỐNG 1 VÀ HỆ THỐNG 2

    “Anh ta là người 'rất dễ gây ấn tượng', một vài ấn tượng của anh ta chỉ là ảo giác.”

    “Đó chỉ đơn thuần là phản ứng của Hệ thống 1. Cô ta đã phản ứng với mối đe dọa trước khi kịp nhận ra nó.”

    “Hệ thống 1 của bạn lên tiếng đấy. Chậm lại và để Hệ thống 2 của bạn chỉ huy đi.”
    Còn nữa
     
    Chỉnh sửa cuối: 26 Tháng sáu 2018
  6. Thanh Bình

    Bài viết:
    111
    Phần 1 - Chương 2: Chú ý và nỗ lực
    Bấm để xem
    Đóng lại

    Nếu bỗng nhiên có cơ hội biến cuốn sách này thành một bộ phim thì hẳn Hệ thống 2 sẽ vào vai một diễn viên phụ, song lại cứ đinh ninh rằng mình là vai nam chính. Trong bộ phim này, điểm hạn chế của diễn viên phụ - Hệ thống 2 này là nó được vận hành bằng cơ chế nỗ lực và một trong những tính cách điển hình của nhân vật này là lười biếng, nó miễn cưỡng đầu tư thêm nỗ lực khi rơi vào những tình huống bắt buộc. Hệ quả là, những tư duy và hành động mà Hệ thống 2 tin chọn lại thường bị nhân vật nam chính thực sự (Hệ thống 1) của bộ phim chỉ đạo. Tuy vậy, có những nhiệm vụ quan trọng mà chỉ mình Hệ thống 2 có thể thực hiện được, bởi vì chúng đòi hỏi nỗ lực và hành động tự kiểm soát mà bản năng và sự bốc đồng của Hệ thống 1 không thể nào làm được.

    NỖ LỰC TINH THẦN

    Nếu bạn muốn thử nghiệm xem Hệ thống 2 của bạn khi hoạt động hết công suất sẽ như thế nào, thì bạn thử làm bài tập sau đây, bài tập này huy động nỗ lực nhận thức tối đa của bạn trong vòng năm giây. Nào, bạn hãy bắt đầu viết một loạt những dãy số gồm bố con số khác nhau và viết mỗi dãy số vào một tấm thẻ. Úp mặt viết các dãy số đó xuống mặt bàn. Nhiệm vụ dành cho bạn được gọi là Cộng 1. Quy luật này như sau:

    Bắt đầu đánh nhịp một cách đều đặn (lý tưởng nhất là theo nhịp 1 phách/1 giây). Lật mặt có số và đọc to 4 con số lên. Đợi hai nhịp, sau đó đọc lên một dãy số gồm 4 con số mới theo thứ tự là tổng của 4 con số gốc cộng thêm 1. Nếu dãy số trên tấm thẻ là 5294, thì đáp án đúng sẽ phải là 6305. Quan trọng là bạn phải duy trì nhịp phách.

    Một số ít người có thể giải quyết được bài tập này với nhiều hơn 4 con số trong nhiệm vụ Cộng 1, nhưng nếu bạn muốn đối đầu với một nhiệm vụ thách thức hơn, hãy thử với nhiệm vụ Cộng 3.

    Nếu bạn muốn biết cơ thể mình làm gì trong khi đầu óc đang hoạt động căng thẳng, hãy xếp hai chồng sách lên một chiếc bàn vững, đặt một máy quay lên một chồng sách và kê cằm của bạn lên chồng còn lại, để cho máy quay tiếp tục ghi hình và bắt đầu nhìn thẳng vào ống kính máy quay trong khi bạn thực hành bài tập Cộng 1 hoặc Cộng 3. Sau đó, bạn sẽ phát hiện ra rằng đồng tử của mình có sự thay đổi khi xem lại toàn bộ đoạn ghi hình quá trình làm việc căng thẳng của bạn.

    Tôi có một trải nghiệm riêng với bài tập Cộng 1. Khi còn là một sinh viên kiến tập chuyên ngành Tâm lý học tại Đại học Michigan, trong lúc tìm kiếm một đề tài nghiên cứu phù hợp, tôi đọc được một bài báo trên tờ Khoa học Hoa Kỳ (Scientific American) trong đó nhà tâm lý học Eckhard Hess mô tả đồng tử của mắt giống như cánh cửa sổ của tâm hồn. Gần đây, khi đọc lại bài báo này, tôi vẫn thấy nó vô cùng thú vị. Bài báo bắt đầu bằng việc nhà tâm lý học Hess kể chuyện vợ của ông nhận ra đồng tử của ông mở to hơn khi ông nhìn ngắm những bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp và dừng lại trước hai tấm ảnh đối lập về hai người phụ nữ ưa nhìn nhưng trong đó một người trông hấp dẫn hơn người còn lại. Chỉ có một sự khác biệt: Cặp đồng tử của mắt đã mở rộng hơn khi nhìn thấy tấm ảnh hấp dẫn và thu hẹp lại khi nhìn thấy bức ảnh còn lại. Trong bài báo đó, Hess còn viết về loài cây cà độc dược, một vật liệu làm giãn nở đồng tử trước đây thường được dùng làm mỹ phẩm và về những tín đồ mua sắm phải đeo cặp kính đen khi đi mua sắm nhằm che đi vẻ thèm muốn đối với những món hàng.

    Một trong những phát hiện của Hess đặc biệt thu hút sự chú ý của tôi, khi ông nhấn mạnh rằng đồng tử mắt của người là những nhà tiên tri cực kỳ nhạy cảm với các nỗ lực tinh thần - chúng mở rộng hơn khi con người phải làm phép tính nhân cặp số có hai chữ số và chúng mở rộng hơn khi họ phải đối mặt với những vấn đề khó hơn so với khi gặp một bài toán đơn giản. Các quan sát này của ông chỉ ra rằng phản ứng của nỗ lực tinh thần khác biệt so với những xúc cảm thường trực trong mỗi chúng ta. Nghiên cứu của Hess không liên quan nhiều đến ngành Tâm lý học nhưng tôi rút ra được một kết luận rằng, đó là dấu hiệu thực tế của nỗ lực trí não, cũng có thể là một chủ đề nghiên cứu tiềm năng. Jackson Beatty, một sinh viên tốt nghiệp làm cùng phòng thí nghiệm với tôi cũng có chung niềm say mê với chủ đề ấy và chúng tôi quyết định thực hiện thí nghiệm này cùng nhau.

    Beatty và tôi đã thiết kế một phòng thí nghiệm tương tự như phòng khám mắt, trong đó những người tham gia thí nghiệm sẽ kê đầu lên một cái máy có giá đỡ ở cằm và trán rồi nhìn thẳng vào máy quay trong khi lắng nghe một đoạn thông tin được ghi âm sẵn và trả lời các câu hỏi theo nhịp phách của một chiếc máy ghi âm đặt sẵn. Cứ mỗi nhịp phách ứng với một giây là một tia chớp hồng ngoại lóe sáng và chụp ra một tấm hình. Kết thúc mỗi lượt thí nghiệm, chúng tôi hào hứng theo dõi những tấm hình được chụp, sau đó, chúng tôi chiếu những bức ảnh của đồng tử lên trên màn hình và dùng thước để đo đạc. Phương pháp này hoàn toàn thích hợp với các nhà nghiên cứu trẻ và thiếu kiên nhẫn: Chúng tôi gần như biết kết quả ngay lập tức và chúng luôn cho những kết quả hết sức rõ ràng.

    Beatty và tôi tập trung vào những bài tập nhanh, ví dụ như bài tập Cộng 1, mà mình biết chắc là cái gì đang diễn ra trong đầu óc chủ thể vào bất cứ thời điểm nào. Chúng tôi ghi lại các dãy số theo tiếng nhịp phách và đưa cho đối tượng nhắc lại hoặc biến đổi chúng theo quy tắc, trong khi vẫn giữ nguyên nhịp phách. Rất nhanh chóng chúng tôi nhận thấy kích cỡ đồng tử thay đổi từ giây này qua giây khác, phản ánh những yêu cầu thay đổi của nhiệm vụ. Câu trả lời cho biểu đồ hình chữ V ngược. Nếu bạn đã từng thử bài tập Cộng 1 hoặc Cộng 3, nỗ lực xuất hiện khi bạn cố gắng bắt kịp với từng con số, rồi nó gần đạt đến đỉnh điểm khi bạn cố gắng tìm ra đáp án cho dãy số mới ngay lập tức sau hai nhịp nghỉ, và lại dần thả lỏng khi bạn “trút bỏ” những dãy số đã hoàn thành khỏi bộ nhớ ngắn hạn. Dữ liệu đồng tử tương ứng với trải nghiệm của chủ thể: Dãy số càng dài thì đương nhiên là khiến đồng tử mở rộng hơn, sự biến đổi nhiệm vụ tạo thành nỗ lực và kích cỡ đồng tử giãn hết mức tương ứng với những nỗ lực cao nhất. Cộng 1 với 4 con số khiến đồng tử giãn ra hơn so với nhiệm vụ nhắc lại 7 con số thông thường. Cộng 3, vốn khó hơn, đòi hỏi sự nỗ lực cao nhất mà tôi từng quan sát thấy. Trong 5 giây đầu tiên, đồng tử giãn nở khoảng 50% so với thông thường và nhịp tim tăng lên 7 nhịp một phút. Đó là nhiệm vụ khó khăn mà con người có thể thực hiện - họ sẽ chịu chết nếu bị yêu cầu cao hơn nữa. Khi chúng ta đưa ra cho các đối tượng số lượng con số nhiều hơn mức mà họ có thể nhớ, đồng tử của họ ngừng giãn nở hoặc thậm chí là co lại.

    Chúng tôi thực hiện thí nghiệm này trong vài tháng ở một tầng hầm rộng, ở đó chúng tôi lắp đặt một hệ thống khép kín, cho phép trình chiếu hình ảnh đồng tử của chủ thể lên một màn hình ở dọc hành lang, chúng tôi cũng có thể nghe thấy tiếng nói phía trong phòng thí nghiệm. Máy đo đồng tử được trình chiếu cao khoảng 0,3 mét; quan sát đồng tử mở rộng hoặc thu hẹp khi các đối tượng đang làm thí nghiệm quả là rất thú và thu hút sự chú ý đối với khách tham quan phòng thí nghiệm. Chúng tôi tự cảm thấy vui sướng và gây ấn tượng được với khách khứa bởi khả năng có thể đoán xem khi nào thì đối tượng nghiên cứu của thí nghiệm sẽ từ bỏ một nhiệm vụ. Trong một phép tính nhẩm, thường thì đồng tử sẽ mở rộng trong vài giây và cứ giữ nguyên như vậy trong lúc đối tượng nghiên cứu của thí nghiệm thực hiện phép tính, nó lập tức thu hẹp lại khi đối tượng này tìm ra một đáp án hoặc từ bỏ nhiệm vụ được yêu cầu làm. Khi nhìn từ hành lang, đôi khi cả chủ nhân của đồng tử cũng như khách tham quan không khỏi ngạc nhiên khi nghe chúng tôi hỏi: “Tại sao bạn lại không suy nghĩ tiếp?” Câu trả lời từ bên trong phòng thí nghiệm luôn là: “Làm thế nào bạn biết được?” và câu trả lời của chúng tôi sẽ là: “Bởi chúng tôi đang nhìn vào cửa sổ tâm hồn bạn.”

    Đôi khi những quan sát ngẫu hứng từ hành lang lại có giá trị thông tin không kém gì những kết quả thu được từ thí nghiệm nghiêm chỉnh. Tôi khám phá được một chuyện rất hay khi vô tình quan sát đồng tử của một phụ nữ trong khoảng thời gian nghỉ ngơi giữa hai nhiệm vụ của thí nghiệm. Cô ấy vẫn giữ nguyên vị trí kê cằm, vì vậy tôi có thể nhìn thấy hình ảnh con mắt của cô ấy khi cô ta tiếp tục trò chuyện với những người cũng đang thực hiện thí nghiệm. Tôi ngạc nhiên khi thấy đồng tử của cô vẫn nhỏ và không hề cảm nhận được sự giãn nở đồng tử khi cô trò chuyện và lắng nghe mọi người. Không giống như những thí nghiệm mà chúng tôi đã thực hiện, những câu chuyện phiếm rõ ràng đòi hỏi rất ít hoặc không đòi hỏi sự nỗ lực nào - cùng lắm chỉ bằng việc nhắc lại hai hay ba con số. Đó chính là khoảnh khắc tôi chợt nhận ra rằng những nhiệm vụ mà chúng tôi đã chọn cho thí nghiệm này thực sự đòi hỏi một nỗ lực đặc biệt. Một hình ảnh vụt qua trong óc: Đời sống trí óc - ý tôi là đời sống của Hệ thống 2 - bình thường được ví như một cuộc tản bộ nhẹ nhàng, đôi khi bị ngắt quãng bởi những đoạn chạy bộ và thi thoảng bởi những vòng đua nước rút. Và các bài tập Cộng 1 hay Cộng 3 chính là những quãng đua xe nước rút, còn những cuộc trò chuyện phiếm thông thường được coi là một cuộc dạo bộ.

    Chúng ta nhận thấy con người khi tham gia vào những cuộc đua xe nước rút trong trí óc, có thể trở nên mù lòa ở một vài điểm. Các tác giả của Chú Khỉ đột vô hình (The Invisible Gorilla) đã khiến chú khỉ đột trở nên “vô hình” bằng cách khiến những người quan sát bận tối tăm đầu óc đếm các cầu thủ đang chạy qua chạy lại trên sân đấu. Chúng tôi phát hiện ra một ví dụ ít kịch tính hơn về sự mù lòa trong nhiệm vụ Cộng 1. Các đối tượng được trình chiếu một loạt những chữ cái xuất hiện chóng vánh khi họ đang làm việc. Họ được yêu cầu đặt nhiệm vụ lên hàng đầu, nhưng đồng thời họ cũng được yêu cầu phải báo cáo lại xem có chữ cái K nào hiện ra trong suốt thời gian họ làm nhiệm vụ hay không. Phát hiện chính là khả năng nhận ra và báo cáo về mục tiêu chữ cái thay đổi trong vòng 10 giây của bài tập. Người quan sát hầu như không bao giờ bỏ qua chữ K nào được trình chiếu ở đầu hoặc khi gần kết thúc nhiệm vụ Cộng 1, nhưng hầu hết bọn họ bỏ qua mục tiêu vào khoảng giữa của nhiệm vụ khi trí óc họ đang nỗ lực ở mức cao nhất, mặc dù con mắt của họ mở to hết mức, nhìn chằm chằm vào những bức hình. Thất bại trong việc phát hiện đối tượng chữ cái cũng vẽ ra sơ đồ hình chữ V ngược giống với độ mở của đồng tử. Sự tương đồng vẫn lặp lại: Độ mở của đồng tử phù hợp với mức độ nỗ lực của chủ thể và chúng ta có thể tiếp tục đi theo cách này để hiểu cách hoạt động của trí não.

    Giống như những chiếc đồng hồ điện đặt ngoài ngôi nhà hay căn hộ của bạn, các đồng tử cũng cho phép đo các chỉ số năng lượng tinh thần bạn đang sử dụng ở thời điểm hiện tại. Hai ví dụ này rất tương thích với nhau. Điện năng bạn tiêu tốn tùy thuộc vào việc bạn sử dụng thiết bị điện nào, đèn thắp sáng hay máy nướng bánh mì. Khi bạn bật một bóng đèn hay lò nướng bánh, nó sẽ chỉ mức điện năng nó cần dùng, không hơn không kém. Tương tự, khi chúng ta quyết định làm gì, chúng ta cũng đặt ra giới hạn nỗ lực kiểm soát hành động đó. Ví dụ, người ta đưa cho bạn dãy số gồm 4 con số, chẳng hạn 9462, và nói cuộc sống của bạn phụ thuộc vào việc bạn có thể nhớ được nó trong vòng 10 giây hay không. Dù bạn có yêu cuộc sống của mình đến mức nào đi nữa, thì bạn cũng không thể sản sinh ra nỗ lực đối với nhiệm vụ này nhiều hơn nỗ lực cần thiết mà bạn phải sử dụng để đưa ra đáp án cho nhiệm vụ Cộng 3, cũng với 4 con số này được.

    Cả Hệ thống 2 và hệ thống điện năng trong nhà bạn đều có giới hạn của nó, tuy nhiên chúng phản ứng khác nhau đối với nguy cơ bị hoạt động quá tải. Khi nhu cầu điện năng vượt mức tải cho phép, tất cả các thiết bị sẽ đồng loạt tắt cùng một lúc. Ngược lại, phản ứng của trí não trong trường hợp quá tải lại có tính chọn lọc và chính xác hơn: Hệ thống 2 bảo vệ những hoạt động quan trọng nhất, cho nên nó vẫn nhận được “điện năng” mà nó cần; “khả năng chịu tải” sẽ được phân phối, giây này qua giây khác cho các nhiệm vụ khác nhau. Trong phiên bản thí nghiệm khỉ đột, chúng ta đã khiến cho những người tham gia tập trung ưu tiên vào nhiệm vụ các con số. Chúng ta biết họ sẽ làm theo hướng dẫn bởi vì thời gian quan sát đối tượng không ảnh hưởng đến nhiệm vụ chính. Nếu chữ cái đặc biệt xuất hiện vào đúng lúc đòi hỏi sự tập trung cao, chủ thể đơn giản là không nhìn thấy nó. Khi nhiệm vụ thay đổi, ít đòi hỏi sự tập trung hơn, thì khả năng phát hiện chữ cái sẽ trở nên dễ dàng hơn.

    Khả năng định vị sự chú ý đã được tôi luyện qua cả một tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại. Xác định phương hướng và phản ứng nhanh với những mối nguy hại nghiêm trọng nhất hay những cơ hội tiềm năng nhất đã cải thiện cơ hội sống sót của loài người chúng ta và khả năng này chắc chắn không chỉ thuộc về loài người mà có ở muôn loài. Ngay cả đối với loài người hiện đại, Hệ thống 1 vẫn chịu trách nhiệm trong những trường hợp khẩn cấp, ấn định mức độ ưu tiên cho những hành vi bảo vệ sự an toàn của bản thân. Thử tưởng tượng bạn đang điều khiển một chiếc xe hơi, đột nhiên bạn phát hiện má phanh bị hỏng mà xe thì vừa đi vào đoạn đường trơn tràn dầu. Bạn sẽ thấy bản thân phản ứng với nguy cơ nguy hiểm trước mắt hơn cả việc bạn thực sự ý thức đầy đủ được tình hình.

    Beatty và tôi chỉ làm việc chung có một năm thôi nhưng sự hợp tác mà chúng tôi có được đã tác động rất lớn tới sự nghiệp về sau của cả đôi bên. Sau này Beatty trở thành chuyên gia đầu ngành của “phép đo đồng tử nhận thức” còn tôi thì viết được một cuốn sách có tựa đề là Chú ý và Nỗ lực, phần lớn nội dung cuốn sách này dựa trên những gì chúng tôi đã thu được trong quá trình làm việc cùng nhau và cả kiến thức khi tôi theo đuổi những nghiên cứu đã làm tại Đại học Harvard vài năm tiếp sau đó. Chúng tôi học được một điều kỳ diệu về hoạt động của trí não - mà giờ tôi gọi nó là Hệ thống 2 - từ việc sử dụng phép đo đồng tử khi thực hiện các nhiệm vụ khác nhau.

    Khi bạn đã thành thục với một nhiệm vụ nào đó, nó sẽ đòi hỏi ở bạn ít năng lượng hơn để hoàn thành nhiệm vụ đó. Nghiên cứu não bộ cho thấy những thành phần trong não bộ tham gia vào các hoạt động liên quan tới một hành động thay đổi khi kỹ năng của bạn tăng lên, với ít khu vực não bộ tham dự vào việc xử lý hành động đó hơn. Hiện tượng tương tự như vậy cũng xuất hiện ở những thiên tài. Những cá nhân càng xuất chúng thì không cần nỗ lực nhiều khi xử lý cùng một số vấn đề, điều này đã được chứng minh qua độ giãn nở đồng tử cũng như hoạt động khác của não bộ. Quy luật phổ biến về việc “huy động ít sự nỗ lực” áp dụng được trong cả lĩnh vực nhận thức lẫn hoạt động thể chất. Quy luật này chứng minh nếu có nhiều cách khác nhau để cùng đạt một mục tiêu, con người thường có xu hướng sử dụng cách thức ít phải huy động nỗ lực nhất. Trong ngành Kinh tế học, nỗ lực ứng với giá thành, còn kỹ năng được tạo ra từ sự cân bằng giữa lợi nhuận và chi phí. Còn sự lười biếng đã hình thành từ bản năng sâu thẳm của loài người.

    Chúng tôi đã làm thí nghiệm về những hiệu ứng tương đối khác nhau của nỗ lực nhờ thước đo co giãn đồng tử. Ngay từ đầu, các đối tượng tham gia thí nghiệm này đều biết, nhận thức đầy đủ và chuẩn bị tâm thế để tham gia thí nghiệm của chúng tôi - thậm chí còn liên tục ý thức và sẵn sàng hơn mức mà nghiên cứu này yêu cầu. Lúc đầu, khi phải nhớ một hoặc hai con số hay học cách liên tưởng một từ với các con số (ví dụ số 3 ứng với từ “cánh cửa”) thì não bộ sản sinh ra một số hiệu ứng vừa đủ trong bộ nhớ gây căng thẳng ở mức trên trung bình, nhưng cũng chỉ ở mức tối thiểu, đồng tử giãn nở khoảng 5% so với khi thực hiện nhiệm vụ Cộng 3. Nhiệm vụ khác đòi hỏi bạn phải ước lượng khoảng hai tấn nông sản lớn chừng nào rõ ràng sẽ khiến đồng tử của bạn phải mở rộng hơn. Nghiên cứu gần đây đã cho thấy việc kiềm chế xu hướng đọc hai từ rời rạc (như trong Hình 2 của chương trước) chỉ đòi hỏi rất ít nỗ lực. Các thí nghiệm ghi nhớ nhanh 6 hoặc 7 chữ số đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn. Hẳn các bạn đã từng trải nghiệm việc - khi được yêu cầu đọc to số điện thoại của bạn hay ngày sinh nhật của người bạn đời, bạn sẽ chỉ phải ngừng lại đôi chút nhưng cũng phải bỏ ra kha khá nỗ lực để làm nó, bởi vì nó đòi hỏi bạn phải lục trong trí nhớ một chuỗi những con số và trả lời theo đúng thứ tự. Yêu cầu nhân nhẩm trong đầu giữa hai số có 2 chữ số hay nhiệm vụ Cộng 3 là những nhiệm vụ gần đạt mức giới hạn mà hầu hết mọi người có thể làm được.

    Vậy điều gì khiến một số hoạt động nhận thức lại đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn những hoạt động khác? Điều gì sinh ra khi chúng ta phải sử dụng sự chú ý tạm thời? Hệ thống 2 có thể làm được những gì mà Hệ thống 1 không thể làm được? Giờ chúng ta sẽ cùng thử đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi này.

    Nỗ lực được sinh ra khi bạn phải duy trì liên tục trong trí nhớ vài ý tưởng, mỗi ý tưởng lại đòi hỏi những hành động khác nhau, hoặc cần phải kết hợp chúng lại theo một nguyên tắc nào đó - ví dụ như nhớ lại những vật dụng bạn cần mua sắm khi đến cửa siêu thị, chọn ăn món cá hay thịt bê khi ở trong nhà hàng, hoặc phân tích những kết quả thú vị từ một cuộc khảo sát với lượng thông tin từ các mẫu thử rất nhỏ. Chỉ có Hệ thống 2 mới có thể hoạt động tuân theo các nguyên tắc, so sánh các đối tượng trên vài tiêu chí khác nhau và đưa ra những lựa chọn hợp lý nhất giữa các phương án. Hệ thống tự động 1 không hề có các khả năng này. Hệ thống 1 chỉ đơn giản là phát hiện ra mối liên hệ (“tất cả bọn chúng đều giống nhau,” “cậu con trai cao hơn ông bố rất nhiều”) và nổi trội hơn ở khoản phân tích thông tin về một vấn đề, nhưng nó “bó tay” khi phải xử lý nhiều chủ đề khác nhau vào cùng một lúc, cũng như không phải là “chuyên gia” phân tích dữ liệu thống kê thông tin đơn thuần. Hệ thống 1 sẽ phát hiện ra một người nào đó được mô tả kiểu như “lành tính và rất gọn ghẽ, yêu thích sự ngăn nắp, gọn gàng và có niềm đam mê với các chi tiết” thì gần giống với một thủ thư thứ thiệt, nhưng nếu phải kết hợp bản năng phán đoán này với sự hiểu biết về một lượng nhỏ những người thủ thư thì chỉ có Hệ thống 2 là xử lý được - nếu Hệ thống 2 biết cái gì là phù hợp với một số người.

    Khả năng sống còn của Hệ thống 2 đó là sự tiếp nhận “một lố những nhiệm vụ”: Nó có thể lập trình bộ nhớ để tuân thủ một chỉ dẫn nào đó, cho phép trí óc vượt lên những phản ứng theo thói quen. Hãy thử làm thí nghiệm sau đây: Đếm tất cả số chữ cái “p” xuất hiện trong trang này. Đây có thể là một nhiệm vụ mà bạn chưa từng được biết và hiếm khi bạn được yêu cầu làm, nhưng Hệ thống 2 vẫn có thể đảm nhiệm nhiệm vụ này. Sẽ cần sự nỗ lực để ép bản thân thực hiện nỗ lực để làm bài tập này, mặc dù bạn chắc chắn rằng bản thân sẽ dần tiến bộ trong nhiệm vụ này nếu như được luyện tập thường xuyên. Các nhà tâm lý học gọi nó là “kiểm soát điều hành” để mô tả sự tiếp nhận và kết thúc một loạt các nhiệm vụ, còn các chuyên gia Thần kinh học thì xác định được từng khu vực trong não bộ sẽ đảm trách những hoạt động nào. Một trong số những khu vực này sẽ tham gia vào hoạt động bất cứ khi nào một mâu thuẫn cần được giải quyết. Một khu vực khác nằm ở phần trước của bộ não phát triển ở người mạnh mẽ hơn so với các loài động vật khác và cũng tham gia vào quá trình xử lý thông tin, mà chúng ta liên hệ chúng với trí thông minh.

    Giờ thì giả sử như cuối trang này, bạn sẽ nhận được một hướng dẫn khác: Hãy đếm tất cả dấu phẩy trong trang tiếp theo. Nhiệm vụ này khó hơn, bởi vì bạn vừa mới làm quen được khả năng tập trung sự chú ý vào tất cả các chữ “p” trong nhiệm vụ trước. Một trong những khám phá có giá trị của các nhà tâm lý học nhận thức trong mấy thập kỷ trở lại đây đó là việc chuyển đổi từ một nhiệm vụ này sang một nhiệm vụ khác đòi hỏi rất nhiều cố gắng, đặc biệt là khi bị hạn chế về mặt thời gian. Yêu cầu chuyển đổi nhanh là một trong những lý do khiến nhiệm vụ Cộng 3 và nhiệm vụ nhân nhẩm trở thành những nhiệm vụ rất khó. Để hoàn thành được nhiệm vụ Cộng 3, bạn phải nhớ vài con số cùng một lúc, liên kết mỗi con số với một phép tính riêng: Vài con số đang “xếp hàng” chờ được biến đổi, một con số thì đang trong quá trình ấy và những con số khác đã thay đổi sau phép tính Cộng 3, tất cả đều phải được lưu giữ để cho ra kết quả cuối cùng. Các bài kiểm tra hiện đại về sức làm việc của bộ nhớ yêu cầu các đối tượng liên tục biến đổi giữa hai nhiệm vụ khác nhau, lưu giữ các kết quả của một nhiệm vụ trong khi tiếp tục xử lý nhiệm vụ còn lại. Những người làm tốt mấy loại thí nghiệm này thường có xu hướng làm tốt bài kiểm tra trí tuệ thông thường. Tuy nhiên, khả năng kiểm soát sự tập trung không đơn thuần là một phương pháp để kiểm tra trí tuệ; các phương pháp kiểm tra khả năng kiểm soát sự chú ý hiệu quả dự báo ai đó có khả năng trở thành nhà kiểm soát điều hành không lưu và ai có đủ điều kiện trở thành phi công cho Không quân Israel còn đòi hỏi rất nhiều yếu tố hơn là chỉ dựa vào trí thông minh thông thường.

    Áp lực thời gian cũng là một nhân tố nữa đòi hỏi sự nỗ lực. Nếu bạn đã từng thực hành nhiệm vụ Cộng 3, thì sẽ thấy sự gấp gáp tạo ra áp lực, một phần lên nhịp độ và một phần lên khả năng tải dữ liệu. Giống như nghệ sĩ tung hứng với vài trái bóng trên không, bạn không được phép làm chậm lại, tốc độ xử lý dữ liệu trong bộ nhớ quyết định nhịp độ, khiến bạn phải liên tục tiếp nhận xử lý thông tin mới và lưu giữ các thông tin cũ trước khi biến mất. Bất cứ nhiệm vụ nào đòi hỏi bạn phải xử lý cùng lúc vài ý tưởng đều có chung nhân tố gấp gáp này. Trừ khi bạn có một bộ nhớ khủng khiếp, thì may ra bạn không phải chịu áp lực phải làm việc quá căng thẳng. Những dạng thức tư duy chậm đòi hỏi nhiều nỗ lực nhất lại đòi hỏi bạn phải suy nghĩ nhanh nhất.

    Chắc chắn là khi tham gia nhiệm vụ Cộng 3, bạn đã tự thấy đầu óc mình phải hoạt động căng thẳng bất bình thường đến mức nào. Ngay cả khi bạn suy nghĩ để kiếm sống, một vài nhiệm vụ ghi nhớ trong thời gian bạn làm việc cũng đòi hỏi nỗ lực như nhiệm vụ Cộng 3, thậm chí kể cả yêu cầu nhớ 6 con số cho một cuộc gọi khẩn cấp. Chúng ta thường tránh không để trí óc quá tải bằng cách chia các nhiệm vụ của mình thành nhiều bước dễ dàng hơn, đưa các kết quả tức thời vào bộ nhớ dài hạn hoặc viết lên giấy hơn là chịu cảnh quá tải bộ nhớ. Chúng ta dành nhiều thời gian cho một nhiệm vụ hơn và huy động quy luật nỗ lực tối thiểu điều khiển đời sống tinh thần của mình.

    CHÚ Ý VÀ NỖ LỰC LÊN TIẾNG

    “Tôi sẽ không thử xử lý vấn đề này trong lúc đang lái xe. Đó là một nhiệm vụ liên quan đến giãn nở đồng tử. Nó đòi hỏi những nỗ lực trí óc”

    “Quy luật nỗ lực tối thiểu” đang hiện hữu. Anh ta càng nghĩ ít càng tốt”.

    “Cô ta không quên cuộc họp. Chỉ là cô ấy hoàn toàn tập trung vào một vấn đề khác khi người ta chốt thời điểm họp và chẳng nghe thấy cậu nói gì hết”.

    “Cái gì đột nhiên xuất hiện trong óc tôi thì đó là bản năng của Hệ thống 1. Tôi sẽ phải bắt đầu lại từ đầu và tìm kiếm nó trong bộ nhớ của mình”.
    Còn nữa
     
    Chỉnh sửa cuối: 26 Tháng sáu 2018
  7. Thanh Bình

    Bài viết:
    111
    Phần 1 - Chương 3: Gã kiểm soát lười biếng
    Bấm để xem
    Đóng lại

    Mỗi năm, tôi sống vài tháng ở Berkely và một trong số những niềm vui khi sống ở đây là quãng đường đi bộ bốn dặm mỗi ngày theo lộ trình định sẵn qua các ngọn đồi, với quang cảnh tuyệt vời của vịnh San Francisco. Tôi thường xuyên theo dõi xem mình đi mất bao nhiêu thời gian và cần tốn bao nhiêu sức lực cho hoạt động này. Tôi còn biết được vận tốc của mình là khoảng 17 phút đi bộ được một dặm, với tốc độ này thì việc đi bộ khá giống một cuộc dạo chơi nhẹ nhàng. Tôi chắc chắn rằng nỗ lực thể chất mà mình phải bỏ ra cũng như lượng calo bị đốt cháy khi đi ở tốc độ ấy phải cao hơn nếu tôi ngồi thư giãn trên ghế bành nhưng tôi thực sự không cảm thấy căng thẳng, không hỗn loạn và cũng không cần phải ráng sức. Tôi còn có khả năng suy nghĩ và làm vài việc trong khi đi bộ ở vận tốc ấy nữa. Thực tế tôi còn hy vọng việc chịu khó đi bộ mỗi ngày như vậy có thể giúp mình thư thái đầu óc hơn.

    Hệ thống 2 cũng có một vận tốc tự nhiên như thế. Bạn tiêu tốn năng lượng thần kinh cho một số hoạt động tư duy và nhận thức chuyện gì đang diễn ra xung quanh, ngay cả khi trí óc của bạn không có hoạt động gì cụ thể nhưng nó vẫn sẽ hơi căng thẳng một chút. Trừ khi bạn đang ở trong một tình thế cảm thấy cần phải cẩn trọng hoặc kiểm soát bản thân một cách bất thường, còn thì việc nhận thức chuyện gì đang diễn ra xung quanh hoặc trong đầu óc bạn sẽ không làm bạn tốn nhiều sức lực. Bạn có thể ra rất nhiều quyết định nhỏ khi vẫn đang lái xe, hay tiếp thu một số thông tin khi bạn đang đọc báo và trao đổi một vài câu chuyện vu vơ với bạn đời hoặc đồng nghiệp, tất cả đều tốn rất ít sức lực và bạn không hề cảm thấy căng thẳng. Những hoạt động này nhẹ nhàng giống hệt một cuộc tản bộ.

    Thông thường thì vừa đi bộ vừa suy nghĩ vu vơ là chuyện bình thường và thực tế là còn khá dễ chịu nữa, nhưng nếu những hoạt động này bị đẩy lên một mức căng thẳng nào đó thì sẽ là thách thức đối với nguồn lực có hạn của Hệ thống 2. Bạn có thể kiểm chứng kết luận này bằng một thí nghiệm đơn giản. Trong lúc đang dạo chơi thoải mái với một người bạn, hãy bảo anh ta ngay lập tức tính nhẩm phép nhân 23 x 78, gần như chắc chắn người bạn này sẽ dừng lại tức thì. Kinh nghiệm của tôi cho thấy ta có thể suy nghĩ trong lúc đi dạo, nhưng không thể tham gia vào một công việc trí não đòi hỏi phải tải một lượng dữ liệu lớn trong bộ nhớ ngắn hạn. Nếu tôi phải suy nghĩ một lập luận phức tạp trong thời gian ngắn, chắc chắn tôi sẽ muốn đứng lại, hoặc tốt hơn là ngồi xuống thay vì đứng im. Tất nhiên, không phải mọi hình thức tư duy chậm đều đòi hỏi sự tập trung căng thẳng và với thí nghiệm nỗ lực tính nhẩm khi đi dạo bộ, tôi đã nghĩ ra được những thứ tuyệt vời nhất trong cuộc đời chính nhờ những cuộc đi dạo với Amos.

    Tăng tốc độ lên so với tốc độ đi bộ thường nhật của mình đã làm thay đổi hoàn toàn kinh nghiệm đi bộ của tôi, bởi vì sự thay đổi tốc độ đã phá hủy khả năng suy nghĩ mạch lạc của tôi. Khi tăng tốc, sự tập trung bị giảm sút để nhường chỗ cho việc làm quen dần với tốc độ mới và chăm chú duy trì tốc độ mới này. Khả năng suy nghĩ và đưa ra một kết luận gấp rút cho một vấn đề cũng vì thế trở nên khó thực hiện. Khi tôi leo đồi ở tốc độ trung bình khoảng 14 dặm/giờ, thì tôi không thể nghĩ được đến bất cứ điều gì. Bên cạnh nỗ lực thể chất để di chuyển với tốc độ nhanh trên suốt chặng đường, tôi còn phải có nỗ lực tinh thần để cố gắng kiểm soát bản thân ngăn chặn ham muốn đi với tốc độ chậm lại. Rõ ràng là cả sự tự chủ và tư duy đều là những hoạt động đòi hỏi cùng một sự nỗ lực như nhau.

    Đối với hầu hết chúng ta, theo đuổi một mạch suy nghĩ đôi lúc làm chúng ta cau mày nhăn trán, hay trăn trở về một vấn đề gì đó đều đòi hỏi sự tự kiểm soát. Mặc dù tôi chưa từng thực hiện một khảo sát có hệ thống nào, nhưng tôi cho rằng thường xuyên hoán đổi các nhiệm vụ và tăng tốc trong công việc trí óc về bản chất không hề dễ chịu chút nào và mọi người thường cố gắng tránh đối mặt với điều này khi có thể. Đó chính là lý do vì sao “sự nỗ lực tối thiểu” lại trở thành một quy luật. Ngay cả khi không bị thúc ép về mặt thời gian, duy trì một dòng suy nghĩ mạch lạc đã đòi hỏi một kỷ luật khắt khe. Chỉ khi quan sát số lần tôi kiểm tra email hay lục xem trong tủ lạnh còn những đồ gì trong khoảng một giờ đồng hồ viết lách đã cho thấy hành động đó hàm chứa nhu cầu bức thiết được thoát ra khỏi tốc độ làm việc và đi đến kết luận rằng để duy trì một hoạt động liên tục đòi hỏi sự nỗ lực tự chủ hơn nhiều so với khả năng tôi có thể tập trung làm việc.

    May sao, hoạt động trí não không phải lúc nào cũng đáng ghét và đôi khi con người ta còn tận hưởng sự nỗ lực trong một khoảng thời gian dài mà không cần sử dụng đến những “chiêu bài” nghỉ ngơi. Nhà tâm lý học Mihaly Csikszentmihalyi đã làm việc chăm chỉ hơn bất cứ ai để nghiên cứu hiện tượng làm gì đó liên tục không biết mệt mỏi và đặt tên cho hiện tượng đó là flow (dòng chảy – đây là một thuật ngữ của tâm lý học) mà sau này đã trở thành một phần của ngôn ngữ học. Những người từng trải nghiệm dòng chảy được mô tả như thể “ở trong trạng thái tập trung cao độ không biết mệt mỏi khiến họ đánh mất cảm giác về thời gian, về bản thân, về cả các vấn đề cá nhân,” và những người này mô tả niềm vui sướng của mình khi ở trong tình trạng ấy là rất hấp dẫn, khiến Csikszentmihalyi gọi đó là một “trải nghiệm sung sướng nhất”. Rất nhiều hoạt động có thể tạo ra cảm giác dòng chảy này, từ vẽ tranh cho đến đua xe mô tô - và đối với một số tác giả mà tôi biết, viết một cuốn sách cũng được coi là “một trải nghiệm sung sướng”. Dòng chảy khác biệt hẳn so với hai dạng nỗ lực: Tập trung vào một nhiệm vụ hay duy trì hoạt động chú ý. Đua xe mô tô với tốc độ 150 dặm/giờ và chơi một ván cờ căng thẳng rõ ràng đòi hỏi rất nhiều nỗ lực. Tuy vậy, trong tình trạng dòng chảy, duy trì sự tập trung vào những hoạt động lý thú đó không đòi hỏi người ta phải tự kiểm soát, mà ngược lại, năng lượng được giải phóng trực tiếp từ chính nhiệm vụ đó, thông qua đôi tay.

    Hệ thống 2 – Bận rộn và suy yếu

    Giờ thì mệnh đề đã được xác lập rõ ràng về các dạng thức của hoạt động trí óc bao gồm cả sự tự kiểm soát và sự nỗ lực nhận thức. Vài nghiên cứu Tâm lý học đã chứng minh con người đồng thời cảm thấy bị thử thách trước một yêu cầu phải nhận thức trong khi phải cố gắng chống lại sự cám dỗ. Hãy tưởng tượng bạn được yêu cầu ghi nhớ một dãy số gồm 7 con số trong vòng một hoặc hai phút và bạn phải dành ưu tiên cao nhất cho nhiệm vụ ghi nhớ các con số ấy. Trong khi bạn đang tập trung sự chú ý vào các con số, bạn được mời lựa chọn một trong hai món tráng miệng: Một chiếc bánh sô cô la ngon “chết người” và một món sa-lát rau quả bổ dưỡng. Hiển nhiên khả năng cao là bạn sẽ lựa chọn sự cám dỗ “chết người” của món bánh sô cô la trong khi đầu óc vẫn bận rộn với việc phải ghi nhớ các con số. Khi Hệ thống 2 đang bận rộn, Hệ thống 1 sẽ tác động đến hành vi của chúng ta nhiều hơn, nhất là khi bạn là người hảo ngọt.

    Những người đang bận rộn về nhận thức sẽ có xu hướng đưa ra những lựa chọn ích kỷ, sử dụng ngôn ngữ nhạy cảm nhất và đưa ra những nhận định hời hợt trong một vài tình huống thực tế. Hệ thống 2 bận rộn với nhiệm vụ ghi nhớ và lặp lại các con số, khiến nó lơ là về nhận thức nhưng tất nhiên gánh nặng nhận thức không phải là nguyên nhân duy nhất làm suy yếu khả năng tự chủ của con người. Một vài thức uống có cồn hay mất ngủ vào ban đêm cũng tạo ra hiệu ứng tương tự. Khả năng tự chủ của những người sống ban ngày bị suy yếu đi vào ban đêm và khả năng này sẽ theo chiều ngược đối với người sống về đêm thì khả năng tự chủ ấy lại suy yếu vào ban ngày. Lo lắng thái quá về việc phải hoàn thành tốt một nhiệm vụ nào đó đôi khi cũng cản trở kết quả, bởi vì bộ nhớ ngắn hạn phải liên tục tải những luồng suy nghĩ căng thẳng vô ích. Kết luận rất rõ ràng: Tự kiểm soát đòi hỏi sự tập trung và nỗ lực. Nói cách khác, kiểm soát suy nghĩ và hành vi là một trong những nhiệm vụ do Hệ thống 2 đảm nhiệm.

    Nhà tâm lý học Roy Baumeister và các đồng nghiệp đã thực hiện một loạt những thí nghiệm gây kinh ngạc khi chứng minh một cách thuyết phục rằng tất cả các dạng thức của nỗ lực tự chủ như nhận thức, cảm xúc, hay thể chất đều chiếm ít nhất một phần trong bể năng lượng tinh thần của con người. Các thí nghiệm của họ nghiên cứu các nhiệm vụ liên tiếp chứ không nghiêng về các loại nhiệm vụ khác nhau.

    Nhóm của Baumeister lặp đi lặp lại phát hiện rằng sự cố gắng nỗ lực hoặc tự chủ rất mệt mỏi, nếu bạn ép bản thân phải làm một việc gì đấy, bạn sẽ bớt háo hức hoặc khó có khả năng tự chủ hơn khi đối mặt với những thử thách kế tiếp. Hiện tượng này được đặt tên là ego depletion (Tạm dịch: Sự suy yếu của cái tôi). Trong một minh chứng điển hình, những người tham gia thí nghiệm được hướng dẫn hãy kiềm chế cảm xúc trước một bộ phim vô cùng xúc động, nhưng sau đó họ lại diễn xuất rất chán, trong một thí nghiệm đo sức chịu đựng về thể chất, thí nghiệm này để xem những người tham gia thí nghiệm giữ được một chiếc lực kế nặng trong khoảng thời gian bao lâu. Những nỗ lực cảm xúc ở giai đoạn đầu của thí nghiệm làm giảm đi khả năng chịu đựng đau đớn do bị căng cơ, vì thế cái tôi bị suy yếu trong mỗi chúng ta chẳng mấy chốc mà phải đầu hàng nhiệm vụ. Trong một thí nghiệm khác, đầu tiên mọi người bị vắt kiệt sức trong một nhiệm vụ, yêu cầu phải ăn cho bằng hết những đồ ăn có lợi cho sức khỏe như tỏi hoặc cần tây, trong khi đó, họ lại phải cưỡng lại ham muốn trước những chiếc bánh sô cô la hoặc bánh quy giàu dưỡng chất. Chẳng mấy chốc, những người này sẽ đầu hàng nhanh hơn thông thường khi phải đối mặt với một nhiệm vụ tư duy khó khăn nào đó.

    Cho đến nay, đã có một danh sách dài và đa dạng những tình huống và nhiệm vụ được cho là có khả năng rút kiệt sự tự chủ của con người. Tất cả đều liên quan đến mâu thuẫn và nhu cầu đi ngược lại xu hướng tự nhiên. Bao gồm:

    • Tránh xa những con gấu trắng.
    • Kiềm chế cảm xúc khi xem một bộ phim kịch tính.
    • Đưa ra một loạt những lựa chọn gây tranh cãi.
    • Cố gắng gây ấn tượng với người khác.
    • Phản ứng tử tế trước một hành động xấu của bạn đời.
    • Giao tiếp với một người khác chủng tộc (đối với những người thành kiến).
    • Danh sách những chỉ dẫn suy yếu cũng cực kỳ đa dạng:
    • Lên thực đơn ăn kiêng.
    • “Vung tay quá trán” trong cơn cuồng mua sắm.
    • Phản ứng thái quá khi bị khiêu khích.
    • “Cố đấm ăn xôi” thêm một chút trong nhiệm vụ nắm chặt tay.
    • Thể hiện kém trong các nhiệm vụ tư duy và khi phải đưa ra những quyết định logic.
    Bằng chứng rất thuyết phục: Các hoạt động phức tạp đòi hỏi sự tự kiểm soát thuộc về Hệ thống 2 và quá trình tự kiểm soát ấy khiến ta cảm thấy kiệt sức và không mấy dễ chịu. Không giống quá trình tư duy, cái tôi suy yếu bị mất ít nhất một phần động lực sau mỗi nhiệm vụ tự kiểm soát. Sau khi hoàn thành các nhiệm vụ như thế, bạn có cảm giác không muốn cố gắng trong các nhiệm vụ tiếp theo, mặc dù nếu như bắt buộc thì bạn cũng có thể thực hiện được. Trong vài thí nghiệm, con người có thể chống cự với các hiệu ứng của cái tôi suy yếu khi được khích lệ đủ mạnh để thực hiện hành động đó. Ngược lại, khi bạn phải nhớ 6 con số trong bộ nhớ ngắn hạn, cùng lúc đó lại phải thực hiện một nhiệm vụ nào đó thì dù có muốn nỗ lực hơn bạn cũng không làm được. Cái tôi suy yếu không giống như tình trạng bận rộn của tâm lý nhận thức.

    Khám phá đáng kinh ngạc nhất mà nhóm của nhà tâm lý học Baumeister công bố, đó là ông cho rằng quan niệm của sức mạnh tinh thần chỉ là phép ẩn dụ không hơn không kém. Hệ thống thần kinh tiêu thụ nhiều glucose hơn hầu hết các bộ phận khác trong cơ thể và các nỗ lực của hoạt động tinh thần dường như là kẻ ngốn lượng glucose khủng khiếp. Khi bạn tập trung đưa ra một quyết định trí óc khó khăn hay tham gia vào một nhiệm vụ đòi hỏi phải kiểm soát bản thân cao độ, lượng glucose trong máu của bạn cũng sẽ tụt xuống. Hiện tượng tương tự cũng xảy ra đối với một vận động viên điền kinh khi chạy ở giai đoạn nước rút, lượng glucose trong cơ bắp của vận động viên này cũng tụt xuống. Hệ quả rõ nét của quan niệm này đó là các phản ứng của cái tôi suy yếu có thể bị gián đoạn do hấp thụ lượng glucose và Baumeister cùng với các đồng nghiệp đã khẳng định giả thuyết này thông qua vài thí nghiệm.

    Các tình nguyện viên trong một nghiên cứu được xem một đoạn phim câm ngắn, trong đó có một phụ nữ đang trả lời phỏng vấn bằng ngôn ngữ cơ thể. Trong khi họ đang xem, một loạt các từ liên tiếp được trình chiếu với tốc độ chậm. Những người tham gia thí nghiệm được yêu cầu phớt lờ các từ ấy đi và phải tập trung vào nhiệm vụ chính là quan sát hành vi của người phụ nữ. Hành động tự kiểm soát bản thân này mà chúng ta đã được biết trước đó, chính là nguyên nhân gây ra cái tôi suy yếu. Tất cả những tình nguyện viên đều được uống nước chanh trước khi tham gia vào nhiệm vụ số 2. Một nửa số nước chanh được pha ngọt với đường glucose và một nửa được pha với Splenda. Sau đó tất cả các tình nguyện viên được tham gia vào một nhiệm vụ, trong đó họ cần phải vượt qua được sai lầm của trực giác để tìm ra đáp án đúng. Những sai lầm do trực giác xuất hiện thường xuyên hơn ở những cá nhân có “cái tôi suy yếu” và những người uống nước Splenda cho thấy họ dễ bị ảnh hưởng bởi “cái tôi suy yếu” đúng như các nhà khoa học đã dự đoán. Ngược lại, những người uống nước đường cho kết quả ngược lại. Dự trữ một lượng đường phù hợp trong não bộ đã ngăn sự suy yếu. Hẳn là sẽ phải đầu tư thêm thời gian và tiến hành nhiều nghiên cứu khác để khẳng định được lượng đường glucose có tác động thế nào đối với sự suy yếu cũng như đối với những phản ứng nhất thời, mà biểu hiện của nó được thể hiện qua việc giãn nở đồng tử và thay đổi nhịp tim.

    Gần đây, một luận chứng về tác động của suy yếu trong xử án đã được đăng tải trên Tạp chí Proceeding of the National Academy of Sciences (Học viện Khoa học Tố tụng Quốc gia ). Trong một nghiên cứu, tám vị thẩm phán xét duyệt ân xá ở Israel đã vô tình trở thành những người tham gia vào thí nghiệm này. Công việc hàng ngày của họ là xem xét những hồ sơ xin ân xá. Các hồ sơ được gửi lên theo thứ tự ngẫu nhiên và các thẩm phán sẽ xem xét từng hồ sơ một, trung bình một hồ sơ được xem trong một thời gian ngắn khoảng sáu phút. (́Trong số hồ sơ xin ân xá, chỉ có khoảng 35% hồ sơ được chấp nhận ân xá. Thời gian chính xác cho mỗi quyết định được ghi lại và thời gian làm việc một ngày của các thẩm phán được chia ra làm 3 lần nghỉ - bữa sáng, bữa trưa và bữa giữa chiều). Các tác giả của nghiên cứu đã theo dõi tỷ lệ những hồ sơ được chấp thuận ân xá dựa vào thời gian sau các lần nghỉ. Tỷ lệ này tăng đột ngột sau mỗi bữa ăn, với khoảng 65% hồ sơ được chấp thuận. Trong vòng hai giờ hoặc hơn cho đến lần nghỉ tiếp theo, tỷ lệ chấp thuận ân xá giảm đều, cho tới 0% trước bữa ăn tiếp theo. Như bạn có thể hình dung, đây là một kết quả không mong muốn và các tác giả đã cẩn thận đưa ra rất nhiều giả thuyết loại trừ. Lượng dữ liệu nhiều nhất có thể chỉ mang đến tin xấu: Khi đói và khát, những vị thẩm phán có xu hướng ra những quyết định dễ dãi hơn, đó là mặc định từ chối các hồ sơ xin ân xá. Khả năng là cả đói khát và mệt mỏi đều đóng vai trò vào quyết định ở đây của các thẩm phán.

    HỆ THỐNG 2 LƯỜI BIẾNG

    Một trong những chức năng chính của Hệ thống 2 là điều khiển và kiểm soát các suy nghĩ và hành động “được gợi ý” bởi Hệ thống 1, cho phép một số suy nghĩ và hành động được thể hiện trực tiếp thông qua hành vi, ngăn chặn hoặc điều chỉnh một số hành vi khác.

    Ví dụ, hãy xem câu đố đơn giản này. Đừng cố gắng giải đố, mà hãy nghe theo trực giác của bạn nhé:

    Tổng giá của một chiếc gậy bóng chày và quả bóng là 1.10 đô-la

    Chiếc gậy có giá cao hơn quả bóng 1 đô-la.

    Đố bạn biết quả bóng có giá bao nhiêu?

    Một con số xuất hiện trong đầu bạn. Con số, tất nhiên là 10: 10 xu. Điểm thú vị của câu đố đơn giản đó là nó gợi ra một đáp án hiển nhiên đầy tính trực giác hấp dẫn và… sai. Chỉ cần làm một phép tính, bạn sẽ thấy. Nếu quả bóng trị giá 10 xu, thì tổng tiền phải trả cho cả gậy và bóng phải là 1.20 đô-la (10 xu cho quả bóng và 1.10 đô-la cho chiếc gậy), chứ không phải là 1.10 đô-la. Đáp án đúng phải là 5 xu. Để chắc chắn thì có thể nói thế này, đáp án bản năng cũng có xuất hiện trong đầu óc của những người đưa ra đáp án đúng – chỉ có điều, bằng một cách nào đó, những người này đã điều khiển để chống lại tiếng gọi của trực giác.

    Shane Frederick và tôi cùng nhau nghiên cứu giả thuyết về sự phỏng đoán dựa trên hai hệ thống và ông thường dùng câu đố “gậy và bóng” để nghiên cứu một câu hỏi chủ đạo: Hệ thống 2 điều khiển những gợi ý từ Hệ thống 1 như thế nào? Ông đưa ra lý lẽ là chúng ta biết một sự thật hiển nhiên về những người đưa ra đáp án quả bóng trị giá 10 xu là: Người đó đã không cố gắng kiểm chứng xem đáp án của mình đã đúng chưa, Hệ thống 2 đã chấp thuận một đáp án trực giác mà đáng ra nó phải bị loại bỏ, nếu chỉ cần bỏ ra một chút nỗ lực là có thể biết được đáp án đúng. Hơn thế nữa, chúng ta cũng biết rằng những người đưa ra câu trả lời trực giác đã bỏ qua một đầu mối quan trọng rất phổ biến, đáng lẽ họ phải đặt câu hỏi tại sao người ta lại có thể đưa ra một câu đố đơn giản với một đáp án hiển nhiên đến vậy. Thất bại trong việc kiểm chứng này rất đáng để ý bởi vì chỉ cần bỏ ra một chút xíu công sức để kiểm tra thôi, chỉ mất một hai giây tư duy (vấn đề này tương đối đơn giản), chỉ cần một chút căng cơ và hơi giãn nở đồng tử là đã có thể tránh được một sai lầm đáng xấu hổ. Những người đưa ra đáp án 10 xu dường như là những tín đồ cuồng nhiệt của “quy luật nỗ lực tối thiểu”. Những người tránh được đáp án sai dường như có đầu óc nhạy bén hơn.

    Hàng ngàn sinh viên đại học đã tham gia trả lời câu đố về “gậy và bóng”, kết quả thật đáng kinh ngạc, hơn 50% sinh viên ở Đại học Harvard, MIT và Princeton đã đưa ra đáp án trực giác, tất nhiên đáp án này sai. Tỷ lệ sinh viên ở các trường đại học nằm ở top dưới các trường trên, đã đưa ra đáp án sai là 80%. Vấn đề về “gậy và bóng” là cuộc chạm trán đầu tiên của chúng tôi với nhận định mà sau này sẽ trở thành chủ đề được nhắc đến nhiều lần trong cuốn sách này: Có nhiều người tự tin thái quá, tôn vinh trực giác của mình quá mức cần thiết. Rõ ràng là họ cho rằng nỗ lực tư duy, dù ở mức độ tối thiểu không phải là điều thú vị và cố tránh đụng độ với nó càng ít càng tốt.

    Giờ thì tôi sẽ chỉ cho bạn thấy một lập luận logic - hai mệnh đề và một kết luận. Hãy cố gắng xác định, càng nhanh càng tốt, nếu bạn thấy lập luận này là hợp logic. Từ hai mệnh đề này thì kết luận thế này có hợp lý không?

    Hoa hồng là một loài hoa.

    Vài loài hoa chóng tàn.

    Cho nên có vài loại hoa hồng chóng tàn.

    Đa số các sinh viên đại học được hỏi đều chấp thuận tam đoạn luận này là hợp logic mà không chút nghi ngờ. Thực tế, lập luận này không chặt, bởi vì có thể xảy ra khả năng hoa hồng không nằm trong số những loài hoa chóng tàn. Cũng giống như “cái bẫy” của "gậy và bóng", một đáp án có vẻ hợp lý lập tức xuất hiện trong đầu bạn. Tránh được “cái bẫy” này đòi hỏi đầu óc phải làm việc căng thẳng để chống lại “tiếng nói” khe khẽ cất lên trong đầu: “Đúng rồi, đúng rồi!” khiến bạn khó có thể kiểm tra tính chuẩn xác của vấn đề và hầu hết mọi người ngại suy nghĩ thấu đáo cho một vấn đề nào đó.

    Thí nghiệm này cho thấy trong cuộc sống hàng ngày, việc truy đến cùng một suy luận luôn bị cản trở. Nó đưa ra giả thuyết là khi con người ta đặt lòng tin rằng một kết luận là đúng, họ cũng sẽ có xu hướng tin tưởng vào những ý kiến bổ trợ cho kết luận đó, ngay cả khi những lập luận này không có căn cứ. Khi Hệ thống 1 tham gia vào quá trình suy luận, kết luận xuất hiện trước tiên, rồi mới đến các lập luận.

    Tiếp theo, bạn hãy trả lời câu hỏi này và trả lời nhanh trước khi đọc tiếp:

    Một năm ở bang Michigan có bao nhiêu kẻ sát nhân?

    Câu hỏi này, được thiết kế bởi Shen Frederick, một lần nữa lại thách đố Hệ thống 2. “Cái bẫy” ở đây nằm ở chỗ liệu bạn có nhớ ra được Detroit là thành phố có tỷ lệ tội phạm cao thuộc bang Michigan hay không. Các sinh viên Mỹ biết điều này và cũng sẽ xác định được chính xác là Detroit là thành phố lớn nhất ở bang Michigan. Nhưng nhận thức được thực thế này chẳng nói lên điều gì hết. Không phải tất cả những gì chúng ta biết đều xuất hiện trong trí óc của chúng ta vào đúng thời điểm khi chúng ta cần đến chúng. Số người nhớ được rằng Detroit nằm ở Michigan và là thành phố có tỷ lệ tội phạm cao nhất nhiều hơn số người không biết điều này, nhưng phần lớn những người trả lời câu hỏi này đều không nghĩ đến thành phố này khi được đặt câu hỏi về bang này. Thực vậy, tỷ lệ trung bình những người đoán về tình trạng tội phạm ở Michigan thấp hơn so với những người được hỏi về thành phố Detroit.

    Có thể đổ lỗi cho cả Hệ thống 1 và Hệ thống 2 trong việc không nghĩ đến thành phố Detroit. Khi nhắc đến một bang nào đó, thì việc bạn nghĩ đến thành phố nào nằm trong bang đó phụ thuộc một phần vào chức năng tự động của bộ nhớ. Về phương diện này thì không ai giống ai. Nhắc đến bang Michigan, thường mỗi người sẽ có những ấn tượng và hình dung khác nhau về địa danh này: Thường những người sống tại bang này sẽ có cảm giác gần gũi, thân thiện, nhiều kỷ niệm, ấn tượng hơn là những người sống ở nơi khác chỉ biết sơ về nó; những người bản địa sinh sống tại địa phương, đương nhiên sẽ biết nhiều về nơi mình sinh sống hơn là những người khác kể cả những người nhanh nhẹn, thông minh, có thói quen tìm hiểu kỹ lưỡng về một số địa danh nào đó mà họ thích. Trí thông minh không chỉ liên quan đến khả năng suy luận, nó còn là khả năng tìm ra những “nguyên liệu” thích hợp trong bộ nhớ và sản sinh sự chú ý khi cần thiết. Chức năng ghi nhớ là thuộc tính của Hệ thống 1. Tuy nhiên, tất cả mọi người đều có quyền làm chậm lại mỗi khi lục tìm trong bộ nhớ tất cả những hiện thực liên quan đến vấn đề, cũng như họ có thể chậm lại khi kiểm tra một câu trả lời trực giác trong ví dụ bóng và gậy. Mở rộng, thận trọng khi kiểm tra và tìm kiếm là một đặc tính của Hệ thống 2, bên cạnh đó thuộc tính này thể hiện ở mỗi cá nhân lại khác nhau.

    Cả 3 vấn đề “gậy và bóng”, tam đoạn luận hoa tàn và ví dụ về tội phạm ở Michigan/Detroit đều có một điểm chung: Có vẻ như, ít nhất thì thất bại trong những bài kiểm tra nhỏ này đã chỉ ra người tham gia trả lời bài kiểm tra này thiếu động lực và không suy nghĩ kỹ lưỡng.

    Bất cứ người nào đỗ vào các trường đại học danh tiếng đều có thể trả lời hai câu hỏi đầu tiên và suy nghĩ cẩn thận về Michigan là có thể nhớ ra thành phố lớn nhất của bang và các vấn đề liên quan đến tội phạm của thành phố này. Những sinh viên này có thể giải quyết những bài toán khó hơn thế này rất nhiều, nhất là khi họ không dễ dàng đưa ra một đáp án mơ hồ bất chợt xuất hiện trong đầu óc. Việc dễ dàng thỏa mãn là nguyên nhân ngăn cản họ, tư duy mới chính là vấn đề rắc rối. “Lười biếng” có thể là lời phán xét nặng nề đối với khả năng tự kiểm soát bản thân của những thanh niên này cũng như với Hệ thống 2 của họ, nhưng dường như lời phán xét này hơi thiếu công bằng cho họ. Những người tránh được “lỗi lười suy nghĩ” có thể gọi là những người “bận rộn”. Họ cảnh giác hơn hay động não hơn, không dễ hài lòng với những câu trả lời nông nổi vội vã, đồng thời hoài nghi trực giác của chính mình. Nhà tâm lý học Keith Stanovich thì gọi họ là những con người lý trí hơn.

    TRÍ TUỆ, KIỂM SOÁT, LÝ TRÍ

    Các nhà nghiên cứu đã áp dụng rất nhiều phương pháp để kiểm tra mối liên hệ giữa tư duy và sự tự kiểm soát. Một số người đã đặt ra câu hỏi so sánh như sau: Nếu một người được xếp hạng bởi khả năng tự kiểm soát và trực giác của mình, thì liệu người đó có thể đạt đến cùng một vị trí ở cả hai bảng xếp hạng hay không?

    Một trong những thí nghiệm nổi tiếng nhất của lịch sử ngành Tâm lý học là của Walter Mischel và các sinh viên của mình. Họ nghiên cứu dựa trên một tình huống điển hình đối với những đứa trẻ bốn tuổi. Chúng được lựa chọn, hoặc là nhận một phần thưởng nhỏ (một chiếc bánh Oreo) luôn, hoặc một phần thưởng lớn hơn (hai chiếc bánh) nếu chúng chịu khó đợi 15 phút. Cụ thể là lũ trẻ sẽ ở một mình trong một căn phòng, trước mặt là một chiếc bàn với hai vật

    Một chiếc bánh và một cái chuông dùng để gọi các nhân viên làm thí nghiệm. Thí nghiệm được mô tả như sau: “Trong phòng không có đồ chơi, không có sách, tranh hay bất cứ thứ gì có khả năng làm phân tán bọn nhóc. Những người thực hiện thí nghiệm bỏ ra ngoài và chỉ quay trở lại sau 15 phút, hoặc khi đứa trẻ rung chuông, ăn bánh, đứng dậy, hoặc khi trẻ có biểu hiện mệt mỏi.”

    Những đứa trẻ tham gia thí nghiệm được quan sát qua chiếc gương một chiều, đoạn phim quay lại những hành vi của chúng trong suốt thời gian chờ đợi ấy luôn khiến người xem phải bật cười. Khoảng một nửa số trẻ em tham gia thí nghiệm có khả năng đánh bại sự nôn nóng, chờ đủ 15 phút, chủ yếu là vì các em biết hướng sự chú ý của mình khỏi ham muốn có được phần thưởng. 10 đến 15 năm sau, khoảng cách giữa những đứa trẻ cưỡng lại được sự ham muốn và những đứa trẻ không có khả năng ấy là rất lớn. Những em cưỡng lại được sự ham muốn có khả năng kiểm soát nhận thức tốt hơn, đặc biệt là có khả năng định hướng sự chú ý của bản thân một cách hiệu quả. Khi trưởng thành, tỷ lệ các em này dùng ma túy cũng thấp hơn. Một sự khác biệt đáng kể trong khuynh hướng trí tuệ cũng xuất hiện: Những đứa trẻ thể hiện khả năng kiềm chế bản thân tốt hơn khi mới chỉ bốn tuổi về cơ bản sẽ đạt được những thành tích cao hơn trong các bài kiểm tra trí tuệ.

    Một nhóm nghiên cứu của Đại học Oregon đã khám phá ra mối liên hệ giữa kiểm soát nhận thức và trí tuệ theo nhiều cách khác nhau, trong đó bao gồm cả nỗ lực nuôi dưỡng trí tuệ bằng cách nâng cao khả năng kiểm soát sự tự chủ. Trong năm phiên học, mỗi phiên kéo dài 40 phút, họ trình chiếu cho trẻ em từ bốn đến sáu tuổi vài chương trình trò chơi điện tử được thiết kế đặc biệt, đòi hỏi sự tập trung và kiểm soát. Một trong số những bài tập, đó là các em sử dụng một chiếc cần lái để điều khiển một chú mèo hoạt hình, di chuyển chú mèo này đến khu vực bãi cỏ và tránh những bãi sình lầy. Những người hướng dẫn nhận thấy rèn luyện sự tập trung không chỉ nâng cao khả năng kiểm soát; các điểm số ghi được trong những bài thi trí tuệ cũng được nâng cao và sự tiến bộ này được duy trì trong vài tháng. Một nghiên cứu khác cũng do nhóm này thực hiện đã xác định được những gen đặc biệt tham gia vào quá trình kiểm soát này, cho thấy các kỹ năng nuôi dạy con cái cũng bị ảnh hưởng rất lớn đến khả năng này, nghiên cứu cũng cho thấy có mối liên hệ mật thiết giữa khả năng kiểm soát sự chú ý của trẻ và khả năng kiểm soát tâm trạng của chúng.

    Shane Frederick tiến hành một thí nghiệm “Phản chiếu nhận thức”, trong đó cũng đặt ra vấn đề “gậy và bóng” và hai câu hỏi khác được lựa chọn bởi chúng cũng là những thứ dễ làm nảy sinh những câu trả lời trực giác có vẻ rất đúng nhưng thực tế lại sai (câu hỏi sẽ xuất hiện ở chương 5). Ông nghiên cứu tính cách của các sinh viên đạt điểm rất thấp trong thí nghiệm này, ở những người này, chức năng giám sát của Hệ thống 2 rất yếu và nhận thấy họ có thiên hướng trả lời các câu hỏi bằng các đáp án đầu tiên xuất hiện trong đầu óc, họ cũng không sẵn lòng đầu tư thêm công sức để kiểm tra xem trực giác của mình có đúng hay không. Những người đi theo tiếng nói của trực giác không suy tính trong các câu hỏi đó cũng thường có xu hướng chấp nhận những gợi ý khác từ Hệ thống 1. Đặc biệt, họ thường bốc đồng, thiếu kiên nhẫn và thích nhận được thành quả ngay tức khắc. Ví dụ, 64% những người trả lời phương án trực giác nói họ thích nhận luôn 34.000 đô-la ngay trong tháng hơn là chờ đến tháng sau để nhận được 38.000 đô-la. Chỉ 37% những người trả lời đúng cả ba câu chọn phương án nhận được khoản tiền nhỏ hơn ngay lập tức, thay vì chờ đợi để nhận được khoản tiền lớn hơn. Khi được hỏi họ sẵn lòng chi bao nhiêu tiền để có một cuốn sách ngay trong ngày mà họ vừa đặt hàng, những người điểm thấp trong thí nghiệm “Phản chiếu nhận thức” (Cognitive reflection test) sẵn lòng trả gấp đôi so với những người điểm cao. Phát hiện của Frederick cho thấy trong vở kịch tâm lý này, các nhân vật có những “cá tính” khác nhau. Hệ thống 1 thì bốc đồng và trực giác; Hệ thống 2 thì có khả năng lý trí và rất thận trọng, nhưng ở một số người thì hệ thống này rất lười biếng. Chúng ta nhận thấy sự khác biệt liên quan giữa các cá nhân: Một số người thích Hệ thống 2 của mình hơn, một số người khác lại gần gũi với Hệ thống 1 của mình hơn. Bài thí nghiệm đơn giản này nổi lên như một nhà dự báo chuẩn xác nhất về thói quen lười tư duy ở loài người.

    Keith Stanovich và người cộng sự lâu năm của mình, Richard West ban đầu cũng đã nhắc đến khái niệm Hệ thống 1 và Hệ thống 2 (sau đó họ thích gọi là các quá trình Kiểu 1 và Kiểu 2 hơn). Stanovich và đồng sự đã nghiên cứu trong nhiều thập kỷ về sự khác biệt giữa các cá thể khi phải đối diện với một số vấn đề mà cuốn sách này đề cập tới. Họ hỏi một câu hỏi cơ bản theo nhiều cách khác nhau: Điều gì khiến một số người dễ dàng tin tưởng vào các dự đoán sai lệch hơn những người khác? Stanovick đã rút ra kết luận trong một cuốn sách đã được xuất bản có tựa đề “Lý trí và Đầu óc phản chiếu” (Rationality and Reflective Mind), trong đó đề xuất một cách tiếp cận táo bạo và khác biệt đối với chủ đề của chương này. Ông vẽ ra một hình minh hoạ thể hiện sự khác biệt giữa hai phần của Hệ thống 2 - thực tế, sự khác biệt đó sắc bén đến mức ông gọi chúng là những “trí óc” khác biệt. Một trong những trí óc đó (mà ông gọi nó là thuật toán) sẽ đàm phán với sự tư duy chậm và yêu cầu sự tính toán. Một số người giỏi hơn những người khác trong những nhiệm vụ trí óc như thế này, họ thường là những cá nhân xuất sắc trong những bài kiểm tra trí tuệ và có khả năng chuyển nhanh từ một nhiệm vụ này sang một nhiệm vụ khác một cách hiệu quả. Tuy nhiên, Stanovich lập luận rằng trí tuệ thông minh không làm người ta miễn nhiễm với những sai lệch. Còn có một khả năng khác cũng tham gia vào quá trình này, mà ông dán nhãn cho nó là lý trí. Khái niệm của Stanovich về một người lý trí tương tự như người mà lúc trước tôi đã dán nhãn là “bận rộn”. Điểm mấu chốt trong lập luận của ông đó là sự lý trí đó phải được phân biệt với trí tuệ. Theo cách nhìn của ông, tư duy nông nổi hay “lười biếng” là một dòng chảy của trí óc phản chiếu, một sự thất bại của lý trí. Đây quả thực là một ý tưởng hấp dẫn và táo bạo. Để hỗ trợ cho nó, Stanovich và các đồng sự đã tìm ra câu hỏi bẫy “gậy và bóng” và những người khác thích hiểu nó là một dạng chỉ dẫn cho những nhầm lẫn ngớ ngẩn trong tư duy hơn là một thước đo thông thường cho trí tuệ, ví dụ các bài kiểm tra IQ. Thời gian cho chúng ta biết sự khác biệt giữa trí tuệ và lý trí sẽ dẫn dắt ta đến những khám phá mới.

    Kiểm soát lên tiếng

    “Cô bé không tài nào ngồi im mà thực hiện một nhiệm vụ kéo dài hàng giờ được. Cô bé lúc nào cũng động đậy.”

    “Cái tôi của anh ta đã bị làm cho suy kiệt sau một ngày dài họp hành. Thế là anh ta quay trở lại những tiến trình xử lý trực giác thay vì suy nghĩ thấu đáo vấn đề.”

    “Anh ta chẳng buồn kiểm tra xem những gì mình nói có giá trị gì không nữa. Chả lẽ anh ta lúc nào cũng có một Hệ thống 2 lười biếng, hay là anh ta bị mệt mỏi bất thường?”

    “Đáng tiếc là cô ta có xu hướng buột miệng nói ra những suy nghĩ bột phát trong đầu. Hẳn là cô ta cũng sẽ gặp khó khăn khi trì hoãn một liên tưởng về sự hài lòng. Hệ thống 2 yếu kém.”
    Còn nữa
     
    Chỉnh sửa cuối: 26 Tháng sáu 2018
  8. Thanh Bình

    Bài viết:
    111
    Phần 1 - Chương 4: Bộ máy liên tưởng
    Bấm để xem
    Đóng lại

    Để bắt đầu hành trình khám phá hoạt động kỳ diệu của Hệ thống 1, mời bạn nhìn vào các từ sau đây:

    Chuối nôn mửa.

    Chỉ cần một đến hai giây, có biết bao thứ lóe lên trong đầu bạn khi nhìn vào từ “chuối nôn mửa”. Một số hình ảnh và kỷ niệm không mấy dễ chịu hiện ra trong đầu bạn. Khuôn mặt bạn có lẽ sẽ nhăn lại đôi chút, thể hiện sự ghê ghê và rất có thể, một cách vô thức bạn sẽ đẩy cuốn sách này ra xa mình hơn một chút. Nhịp tim tăng lên, lông tơ trên cánh tay dựng lên đôi chút và tuyến mồ hôi của bạn được kích hoạt. Tóm lại, bạn đã phản ứng với một từ mang nghĩa kinh tởm mà không hề kiểm soát được hình ảnh của mình khi phản ứng trước hiện thực ấy. Tất cả quá trình phản ứng này đều diễn ra hoàn toàn rất tự nhiên, nằm ngoài tầm kiểm soát của bạn.

    Không có lý do đặc biệt nào để bạn phải phản ứng như vậy nhưng đầu óc bạn tự động hình thành một liên tưởng tạm thời và một liên hệ mang tính hệ quả, Chuối là nguyên nhân gây buồn nôn (nhưng chớ lo, mọi việc sẽ mau chóng qua thôi.) Trạng thái bộ nhớ của bạn đã thay đổi theo nhiều cách khác: Giờ thì bạn sẵn sàng nhận ra và phản ứng với những thứ và khái niệm có mối liên hệ với “nôn mửa”, ví dụ buồn nôn, khó chịu, hoặc lờm lợm và các từ ngữ có liên hệ với “chuối” như màu vàng, hoa quả, thậm chí là táo và dâu.

    Thông thường, sự nôn mửa xuất hiện trong một số hoàn cảnh cụ thể, ví dụ như bữa tiệc thâu đêm và quá chén. Bạn cũng thường không dễ nhận ra những từ ngữ có liên hệ với những nguyên nhân khác nữa, chúng cho cùng một kết quả mà bạn không mong đợi. Hơn nữa, Hệ thống 1 của bạn ghi nhận thực tế rằng việc đặt hai từ cạnh nhau như thế là trái với lẽ thường: Có thể trước đó chưa bao giờ bạn có liên tưởng hai sự việc này với nhau. Bạn đã trải qua một kinh nghiệm tương đối khác biệt so với trải nghiệm trước đây của mình.

    Một loạt phản ứng phức tạp xuất hiện một cách mau lẹ, tự nhiên và không đòi hỏi bất cứ sự cố gắng nào từ phía bạn. Bạn không cố tình nhưng bạn cũng chẳng thể ngăn được chúng xuất hiện. Đó chính là cách vận hành của Hệ thống 1. Những hiện tượng xuất hiện kể trên là kết quả của việc nhìn thấy các từ ngữ diễn ra nhờ một quá trình gọi là kích hoạt liên tưởng: Các ý tưởng này được khởi phát từ rất nhiều ý tưởng khác, chúng xuất hiện ào ạt như thác đổ trong trí não của bạn. Điểm cốt lõi trong hệ thống phức hợp các hiện tượng trí não chính là sự gắn kết giữa chúng. Mỗi một nhân tố đều được kết nối với một nhân tố khác, hỗ trợ và được hỗ trợ, củng cố cho nhân tố khác. Một từ khơi gợi những ký ức, từ đó tạo ra cảm xúc và cảm xúc đến lượt nó lại trở thành tác nhân tạo ra những biểu hiện khuôn mặt và những phản ứng khác, ví dụ như trạng thái căng thẳng hoặc thái độ ghê tởm. Biểu hiện khuôn mặt với biểu cảm ghê tởm củng cố những cảm giác mà chúng có liên kết trong trí óc bạn. Tất cả diễn ra nhanh và đồng thời, tùy biến theo nhận thức, cảm xúc và phản ứng cơ học của từng người và tất cả đều tác động qua lại lẫn nhau, nó được gọi là tính liên kết.

    Chỉ trong một vài giây, bạn đã hoàn thành một phản ứng kỳ diệu, một cách tự động và vô thức. Bắt đầu từ một sự kiện bất ngờ, Hệ thống 1 lập tức đặt ra vô số giả thuyết đều có vẻ có lý, ví dụ như đặt hai từ không có vẻ gì liên quan cạnh nhau, bằng cách tạo ra các liên hệ nhân quả từ các từ ngữ đó; dự đoán những đe doạ tiềm ẩn và tạo ra khung cảnh cho những tiến triển sắp tới bằng việc chuẩn bị cho bạn những sự kiện có khả năng xảy ra; nó cũng tạo ra khung cảnh cho sự kiện được nhắc đến bằng cách đánh giá xem sự kiện đó đặc biệt ở mức nào. Bạn kết thúc quá trình này bằng việc cung cấp thông tin của quá khứ và chuẩn bị cho tương lai có thể diễn ra.

    Quá trình vừa diễn ra lạ thường ở một điểm, đó là Hệ thống 1 chỉ làm một việc duy nhất là liên kết hai từ với hai ý nghĩa đơn thuần lại với nhau. Cơ thể bạn hồi đáp lại bằng một loạt những phản ứng đối với một thứ có thực, phản ứng cảm xúc và cơ thể phản ánh một phần sự diễn giải của các hiện tượng. Những năm gần đây, các nhà khoa học nhận thức luận đã cổ vũ cho ý tưởng nhận thức là sự thể hiện; bạn tư duy bằng cả cơ thể, chứ không chỉ với bộ não.

    Từ rất lâu, người ta đã biết đến cơ chế tạo ra một loạt những hiện tượng trí não như trên: Nó chính là sự kết hợp của các ý tưởng. Tất cả chúng ta đều biết rằng, chính nhờ kinh nghiệm trong quá khứ của bạn mà các ý tưởng nối đuôi nhau tuần tự xuất hiện trong trí não của mình. Các triết gia Anh thế kỷ XVII và XVIII đã nghiên cứu các quy luật để giải thích cho sự tiếp nối này. Trong cuốn sách Nhu cầu hiểu biết về loài người xuất bản năm 1748, nhà triết học người Scotland David Hume đã đúc rút ra ba nguyên tắc của sự liên tưởng: Sự tương đồng, sự liên tưởng về mặt thời gian, địa điểm và tính hệ quả. Khái niệm về sự liên tưởng đã thay đổi triệt để từ thời Hume, nhưng ba nguyên tắc trên vẫn đóng vai trò là nền tảng cho những xuất phát điểm.

    Tôi sẽ phát triển cái nhìn khái quát về thế nào là một ý tưởng. Có thể cụ thể hoặc trừu tượng và nó có thể được biểu hiện theo nhiều cách khác nhau, dưới dạng: Một động từ, một danh từ, một tính từ hay một biểu tượng. Các nhà tâm lý học cho rằng ý tưởng là một điểm mấu chốt trong một mạng lưới, được gọi là liên kết ký ức, trong đó mỗi ý tưởng lại được liên kết với rất nhiều ý tưởng khác nhau. Có rất nhiều loại liên kết: Nguyên nhân liên kết với hệ quả (virus => cảm lạnh); sự vật với thuộc tính (chanh => màu xanh); sự vật với phạm trù khái quát (chuối => hoa quả). Chúng ta đã tiến thêm một bước so với thời của Hume, đó là ta không còn nghĩ rằng bộ óc phải trải qua một loạt những ý tưởng liên tiếp và lần lượt. Nếu nhìn theo cách hoạt động của hệ thống bộ nhớ liên kết, thì tất cả được diễn ra cùng một lúc. Nó kích hoạt rất nhiều ý tưởng, cũng như bản thân ý tưởng đó lại được kích hoạt là khởi nguồn cho những ý tưởng khác. Hơn thế nữa, chỉ có vài ý tưởng kích hoạt được suy nghĩ một cách có nhận thức, còn lại hầu hết các suy nghĩ liên kết đều diễn ra trong im lặng, ẩn mình trong tiềm thức của mỗi người.

    Rất khó chấp nhận khái niệm cho rằng chúng ta phải giới hạn truy cập vào các hoạt động trí óc của con người, bởi vì, tự nhiên mà nói, nó xa lạ so với sự hiểu biết trước đây của chúng ta nhưng đó lại là sự thật: Bạn hiểu về bản thân mình hơn rất nhiều so với những gì bạn nghĩ.

    Sự kỳ diệu của hiệu ứng mồi

    Ai cũng biết rằng bước đột phá lớn đầu tiên trong giới hạn hiểu biết của chúng ta về cơ chế hoạt động của liên tưởng chính là sự tiến bộ trong phương pháp đo lường. Vài thập kỷ trở lại đây, cách duy nhất để nghiên cứu các liên tưởng đó là đi hỏi rất nhiều người một số câu hỏi như: “Khi ai đó nói từ BAN NGÀY thì những từ đầu tiên bạn nghĩ đến sẽ là từ gì?”. Các nhà khoa học đã ghi lại tần suất của những câu trả lời thường xuyên nhất, ví dụ như “ban đêm”, “nắng”, hoặc “dài lê thê”. Vào những năm 1980, các nhà khoa học phát hiện ra rằng, đưa sẵn một từ nào đó ra có thể lập tức tạo ra những sự thay đổi có thể đo lường được trong trường hợp có rất nhiều từ liên quan nằm trong trường liên tưởng. Nếu bạn vừa nhìn thấy hoặc nghe thấy từ ĂN (EAT), thì trong khoảnh khắc, bạn có xu hướng điền chữ còn thiếu vào chỗ trống của SO_P để tạo thành từ SOUP (cháo/súp) hơn là SOAP (xà phòng). Chiều ngược lại cũng đúng, tất nhiên, nếu bạn vừa nhìn thấy từ TẮM (SOAP). Chúng ta gọi đó là hiệu ứng mồi, nghĩa là từ ĂN đã mồi cho ý tưởng SÚP và từ TẮM đã mồi ý tưởng cho từ XÀ PHÒNG.

    “Hiệu ứng mồi” được thể hiện dưới rất nhiều dạng thức. Nếu từ ĂN đang chiếm lĩnh đầu óc bạn (dù bạn có nhận thức được điều đó hay không), thì thường bạn sẽ nhận biết được từ SOUP nhanh hơn bình thường, dù nó chỉ được nói bằng một cái mấp máy môi hay được viết bằng một bộ phông chữ mờ ảo. Và tất nhiên bạn sẽ không chỉ được mồi để bật ra ý tưởng liên quan đến súp, mà còn là hàng loạt các ý tưởng liên quan đến chuyện ăn uống, bao gồm dĩa, đói, béo, ăn kiêng, bánh. Và nếu bạn vừa ngồi ăn ở một cái bàn bị cập kênh trong một nhà hàng, thì bạn cũng sẽ được dẫn dắt để nghĩ đến sự bập bênh. Hơn thế nữa, những ý tưởng được mồi cũng có khả năng khơi gợi ra những ý tưởng khác, dẫu có yếu ớt hơn. Như những con sóng lăn tăn trên mặt hồ, một ý tưởng bé nhỏ như một hòn sỏi có thể tạo sóng lan tỏa cho những ý tưởng tiếp nối nhau. Giờ đây, bản đồ hóa những làn sóng ấy trở thành một trong những chủ đề hấp dẫn, đáng được theo đuổi nhất trong ngành khoa học nghiên cứu về tâm lý học.

    Một bước tiến bộ lớn nữa trong nhận thức của chúng ta về bộ nhớ đó là hiệu ứng mồi không chỉ giới hạn trong các khái niệm hay từ ngữ. Bạn không thể biết nó tồn tại như một trải nghiệm mà bạn ý thức được nhưng bạn buộc phải chấp nhận ý tưởng kỳ quặc rằng các hành động của bạn, những tâm trạng của bạn, có thể bị dẫn dắt bởi những sự kiện mà bạn thậm chí còn không nghĩ tới. Trong một thí nghiệm mà ngay sau khi được thực hiện đã trở thành một thí nghiệm kinh điển, nhà tâm lý học John Bargh và các đồng sự đã yêu cầu các sinh viên ở Đại học New York, hầu hết trong độ tuổi từ 18 tới 22 – thu thập bốn từ có nghĩa từ một tập hợp năm từ (ví dụ: “thấy ông tóc bạc phơ”). Hơn một nửa số người được hỏi trong một nhóm sinh viên đã nhặt ra những từ có nghĩa liên quan đến người cao tuổi, ví dụ như Florida, đãng trí, hói, hoa râm hoặc nhăn nheo. Khi hoàn thành nhiệm vụ, các sinh viên tham gia thí nghiệm tiếp tục thực hiện một thí nghiệm khác trong một văn phòng ở tầng dưới. Quãng đường đi bộ ngắn từ hai điểm thí nghiệm chính là điều mà thí nghiệm nhắm tới. Các nhà nghiên cứu kín đáo đo thời gian di chuyển giữa hai địa điểm của các sinh viên này. Như Bargh đã dự đoán trước, những người trẻ tuổi vừa tìm ra những từ có nghĩa liên quan đến người già đi chậm hơn rõ rệt so với những người bình thường.

    “Hiện tượng Florida” ở đây liên quan đến hai trạng thái của hiệu ứng mồi. Đầu tiên, một tập hợp các từ ngữ dẫn dắt tư tưởng liên hệ với người cao tuổi, mặc dù từ già nua không hề được nhắc tới; thứ hai, những suy nghĩ này đến lượt nó, lại dẫn dắt một hành vi, đi chậm vốn là từ có sự liên hệ với người cao tuổi. Tất cả những điều này diễn ra một cách hoàn toàn không có kiểm soát. Khi được hỏi họ có lường trước điều này không, không sinh viên nào trong số những ghi nhận rằng các từ ngữ mà họ thu thập lại có chung một chủ đề và tất cả bọn họ đều khẳng định mọi thứ họ làm sau thí nghiệm đầu tiên không hề bị ảnh hưởng bởi những từ ngữ mà họ đã gặp trước đó. Họ không hề ý thức được những gì liên quan đến người cao tuổi, ấy vậy mà hành vi của họ đã bị thay đổi. Hiện tượng dẫn dắt mồi đáng kinh ngạc này - một ý tưởng chi phối thế nào đến một hành vi - được biết đến với tên gọi hiệu ứng ý vận. Mặc dù chắc chắc là bạn không ý thức được điều này, nhưng việc đọc những dòng này cũng đang dẫn dắt bạn. Nếu bây giờ có ai đó yêu cầu bạn đứng lên đi lấy một cốc nước, chắc chắn bạn sẽ thực hiện hành động đó chậm rãi hơn bình thường, trừ khi bạn rất ghét những người già, trong trường hợp này, các nhà nghiên cứu cho rằng có thể bạn sẽ thực hiện hành động nhanh hơn một chút so với bình thường.

    Liên tưởng ý vận cũng đúng trong chiều ngược lại. Một nghiên cứu diễn ra ở một Đại học tại Đức là hình ảnh phản chiếu so với thí nghiệm người cao tuổi mà Bargh và các sinh viên thực hiện ở Đại học New York. Người ta yêu cầu các sinh viên đi lại trong một căn phòng trong 5 phút, với tốc độ 30 bước/phút, nghĩa là chậm hơn khoảng 1/3 so với tốc độ thông thường. Sau thí nghiệm ngắn đó, những người tham gia thí nghiệm nhận ra các từ ngữ liên quan đến người cao tuổi như đãng trí, già, cô đơn nhanh hơn hẳn so với bình thường. Các hiện tượng mồi nghịch và đảo (reciprocal priming effects) có xu hướng sinh ra một phản ứng rất logic và mạch lạc: Nếu bạn được mồi để nghĩ đến người già, bạn sẽ có xu hướng hành động như người già và hành động như người già sẽ củng cố thêm suy nghĩ của bạn về người già.

    Những mối liên kết đảo chiều như vậy rất phổ biến trong mạng lưới liên tưởng. Ví dụ, vui vẻ có xu hướng khiến bạn mỉm cười, và mỉm cười lại có xu hướng khiến bạn cảm thấy vui vẻ. Giờ hãy thử đứng lên và lấy một chiếc bút chì, đặt nó ngang với miệng, dùng hai hàm răng kẹp chiếc bút chì lại, đầu có miếng tẩy nằm phía tay phải, đầu chì nằm phía tay trái. Giờ thì giữ chặt chiếc bút sao cho đầu chì nhắm thẳng về phía đối diện, môi bạn sẽ chu lại quanh chiếc tẩy ở phía cuối. Có thể bạn sẽ không nhận thức được rằng một trong những hành động trên khiến khuôn mặt bạn biến đổi từ nhăn nhó sang trạng thái ngược lại là mỉm cười. Các sinh viên Đại học được yêu cầu đánh giá xếp hạng cho loạt tranh biếm họa The Far Side của Gary Larson trong khi giữ chiếc bút chì ở trên miệng. Những người đang “mỉm cười” (mà không biết là mình đang ở trạng thái ấy) cho rằng loạt tranh biếm họa đó hài hước hơn so với những người đang ở trạng thái “nhăn nhó”. Trong một thí nghiệm khác, những người có khuôn mặt nhăn nhó (cộng thêm cả việc nhíu mày) cho thấy một phản ứng có tính liên hệ cảm xúc đối với những bức tranh gây cảm giác khó chịu, như là những đứa trẻ đói khát, hay những người cãi nhau, hoặc những nạn nhân trong các vụ tai nạn giao thông.

    Thật đơn giản, những điệu bộ thông thường có thể ảnh hưởng một cách vô thức đến suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta. Trong một thí nghiệm, người ta yêu cầu những người tham gia nghe thông điệp bằng một đôi tai nghe mới. Người ta cho biết mục đích của thí nghiệm này là thử chất lượng của thiết bị âm thanh và những người tham gia được yêu cầu ra hiệu bằng cách sử dụng đầu mỗi khi nghe thấy bất cứ âm thanh méo nào. Một nửa số người tham gia được yêu cầu gật đầu lên xuống, số còn lại được yêu cầu lắc qua lắc lại. Thông điệp mà họ nghe thấy là một bản tin trên đài phát thanh. Những người gật đầu (một cử chỉ đồng nghĩa với sự đồng tình) có xu hướng chấp nhận thông điệp mà họ nghe thấy, nhưng những người lắc đầu có xu hướng bác bỏ thông tin. Một lần nữa, dù không chủ định, có mối liên hệ thường xuyên giữa một điệu bộ từ chối hoặc chấp nhận và hình thức thể hiện thông thường của nó. Bạn có thể thấy tại sao những lời nhắc nhở thông thường như “cố gắng cư xử bình tĩnh và hòa nhã bất kể bạn cảm thấy thế nào” là một lời khuyên rất tốt: Dường như bạn được đền đáp bởi cảm giác bình tĩnh và hòa nhã vậy.

    Hiệu ứng mồi dẫn dắt

    Những nghiên cứu về hiệu ứng mồi đã phát hiện rằng, quan niệm cho rằng con người luôn ý thức và độc lập khi đưa ra những nhận định và lựa chọn đã không còn phù hợp. Ví dụ, hầu hết chúng ta đều nghĩ bầu cử là một hành động được cân nhắc kỹ lưỡng mà không bị bất cứ điều gì tác động đến và phiếu bầu của chúng ta không thể nào bị ảnh hưởng bởi địa điểm diễn ra cuộc bầu cử, nhưng thực tế lại bị ảnh hưởng. Một nghiên cứu về các yếu tố liên quan đến bầu cử ở Arizona năm 2000 đã chứng minh: Tỷ lệ ủng hộ gây quỹ cho các trường học đã tăng một cách đáng kể khi địa điểm bỏ phiếu được diễn ra ở trường học so với khi tổ chức bầu cử ở một địa điểm gần đó. Một thí nghiệm khác cũng cho thấy trưng bày những hình ảnh về các lớp học và trường học cũng giúp tăng xu hướng ủng hộ các sáng kiến của nhà trường của những người tham gia hơn. Hiệu ứng hình ảnh đối với phụ huynh và những thành phần cử tri khác cũng không giống nhau. Từ những bằng chứng đầu tiên của nghiên cứu về hiệu ứng mồi, người ta đã thừa nhận họ đi chậm hơn khi được gợi nhắc về những người già. Giờ thì chúng ta đã biết hiệu ứng mồi có thể chạm đến mọi ngóc ngách trong đời sống của chúng ta.

    Gợi nhắc về tiền bạc cũng sinh ra vài hiệu ứng phức tạp. Những người tham gia thí nghiệm của chúng tôi được xem một danh sách gồm năm từ, sau đó họ sẽ đặt ra một câu có nghĩa gồm bốn từ theo chủ đề tiền bạc (“cao/một/lương/bàn/chi trả” sẽ thành “một (mức) lương (được) chi trả cao”). Những hiệu ứng mồi khác thì tinh vi hơn nhiều, bao gồm sự hiện diện của những đồ vật liên quan đến tiền bạc được sắp đặt một cách “vô lý” trong khung cảnh, ví dụ như một bàn cờ tỷ phú được đặt trên bàn hoặc một chiếc máy tính với màn hình chờ là những đồng đô-la trôi bồng bềnh trên mặt nước.

    Những người bị “mồi” tiền bạc trở nên độc lập hơn so với khi không được dẫn dắt bởi những thứ liên quan. Họ kiên nhẫn hơn gần gấp đôi để cố gắng xử lý một vấn đề rất hóc búa trước khi nhờ những người tổ chức thí nghiệm giúp đỡ, họ quyết liệt chứng minh sự độc lập tự chủ của mình. Những người bị “mồi” liên quan đến tiền bạc cũng trở nên ích kỷ hơn: Họ không sẵn lòng bỏ thời gian giúp đỡ những sinh viên khác. Khi một thí nghiệm viên vụng về đánh rơi một đống bút chì xuống sàn, những người tham gia thí nghiệm bị mồi tiền bạc (một cách vô thức) sẽ nhặt hộ số bút chì ít hơn so với những người không bị hiệu ứng mồi tiền bạc ảnh hưởng. Trong một thí nghiệm khác, những người tham gia thí nghiệm được yêu cầu tham gia một cuộc trò chuyện ngắn để làm quen với một người khác và sau đó, người ta yêu cầu họ sắp xếp hai chiếc ghế trong khi người tổ chức thí nghiệm bỏ đi để lấy thông tin từ người kia. Những người tham gia thí nghiệm được mồi tiền bạc thích ngồi xa hơn so với những người không bị mồi tiền bạc (118 cm so với 80 cm). Những người tham gia thí nghiệm được mồi tiền bạc cũng cho thấy họ có khả năng chịu đựng việc phải ngồi một mình tốt hơn nhiều so với những người khác.

    Chủ đề chung của những phát hiện này chính là ý tưởng về chủ nghĩa cá nhân trong hiện tượng được mồi tiền bạc: Sự miễn cưỡng khi phải dính dáng đến người khác, phụ thuộc vào người khác hoặc phải chấp nhận yêu cầu từ những người khác. Nhà tâm lý học đã thực hiện nghiên cứu xuất sắc này là Kathleen Vohs đã kiềm chế sự tự chủ của mình khi bàn đến những ứng dụng của những phát hiện này, mà dành lại nhiệm vụ này cho những bạn đọc của mình. Các thí nghiệm của bà rất sâu sắc, các phát hiện của bà gợi ra một ý tưởng rằng, con người sống trong một môi trường sống được bao bọc bởi một nền văn hoá gợi nhắc đến tiền bạc và nó có tác động tới quá trình hình thành nhân cách của chính chúng ta, mà có thể ảnh hưởng tới thái độ và hành vi của chúng ta mà chính chúng ta cũng không nhận ra. Một vài nền văn hoá thường xuyên nhắc nhở con người ta về sự tôn trọng, một số lại gợi nhắc đến Chúa và một vài xã hội dẫn dắt sự thuần phục bằng hình ảnh choáng ngợp của vị lãnh tụ kính yêu. Chẳng phải việc trưng bày nhan nhản khắp nơi các hình ảnh chân dung của vị lãnh đạo quốc gia ở các xã hội độc tài không chỉ hàm ý “Lãnh tụ đang nhìn bạn” mà còn làm suy giảm những ý nghĩ tự phát cũng như những hành động tự do đó sao?

    Rõ ràng là các thí nghiệm “hiệu ứng mồi” nhắc cho con người ta nhớ rằng chính cái chết là nguyên nhân khiến các ý tưởng độc tài trở nên hấp dẫn hơn và đó có thể trở thành phương cách hữu hiệu để làm yên lòng những kẻ sợ chết. Những thí nghiệm khác đã khẳng định bản chất của học thuyết Freud về vai trò của các biểu tượng và ẩn dụ trong các mối quan hệ vô thức. Ví dụ, hãy xem từ sau W_ _ H và S_ _ P. Nếu trước khi điền những chữ cái còn thiếu vào các từ trên, những người tham gia thí nghiệm được yêu cầu hãy nghĩ đến một hành động mà họ cảm thấy hổ thẹn, thì những người này có xu hướng điền vào chỗ trống để tạo thành các từ như WASH (gột rửa) hoặc SOAP (xà bông) và ít có khả năng tạo ra các từ như WISH (ước muốn) hoặc SOUP (món súp). Hơn thế nữa, chỉ nghĩ đến việc “đâm lén sau lưng” đồng nghiệp đã có thể khiến những người tham gia thí nghiệm có khuynh hướng đi mua xà bông, nước tẩy rửa hoặc thuốc tẩy thay vì đi mua pin, nước quả, hoặc kẹo. Cảm giác tâm hồn của ai đó bị nhuốm bẩn đã có thể “khởi động” ham muốn tắm rửa cơ thể sạch sẽ, một sự thôi thúc đã được gán cho tên gọi “hiệu ứng Phu nhân Macbeth.”

    Đặc biệt hơn nữa, sự tắm rửa còn có thể cụ thể đến từng bộ phận trên cơ thể khi một ai đó có liên quan đến một tội lỗi nào đó. Những người tham gia trong một thí nghiệm được đặt vào tình huống phải “nói dối” một người bằng tưởng tượng, hoặc qua điện thoại hoặc qua thư điện tử. Kết quả là sau bài thử nghiệm, người ta đo được sự ham muốn của những người tham gia thí nghiệm với một vài loại sản phẩm, những người đã nói dối trên điện thoại có vẻ thích kem đánh răng hơn là xà phòng, còn những người đã dối trá trên thư điện tử thì ngược lại, thích xà phòng hơn kem đánh răng.

    Khi tôi miêu tả hiệu ứng mồi cho khán giả, phản ứng của họ thường là hoài nghi. Điều đó không có gì là lạ: Hệ thống 2 tin rằng nó mới là người chịu trách nhiệm ở đây và nó biết lý do vì sao lại đưa ra các chọn lựa ấy. Có thể trong đầu bạn cũng đang đặt ra các câu hỏi tương tự: Làm sao mà những thứ tầm thường trong một khung cảnh bình thường lại có thể gây ra những hiệu ứng lớn đến vậy? Liệu các thí nghiệm có chứng minh rằng chúng ta hoàn toàn vui vẻ với bất cứ thứ gì làm “mồi” trong một không gian cho trước, vào bất cứ thời điểm nào? Tất nhiên là không rồi. Hiệu ứng mồi rất tinh vi nhưng không nhất thiết có tầm ảnh hưởng lớn. Trong hàng trăm cử tri, chỉ có vài người không chắc chắn khi bỏ phiếu liên quan đến các vấn đề trường học, họ có thể thay đổi quyết định nếu địa điểm bỏ phiếu diễn ra gần trường học chứ không phải trong nhà thờ - nhưng chỉ vài phần trăm như thế thôi cũng có thể thay đổi cả kết quả của một cuộc chạy đua bầu cử.

    Tuy vậy, ý tưởng mà bạn nên tập trung vào, đó là sự hoài nghi kia không phải là một lựa chọn. Các kết quả không hề được dựng lên, cũng như các thống kê không hề ăn may. Bạn không có lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận rằng hầu hết các kết luận trong các nghiên cứu là chuẩn xác. Quan trọng hơn, bạn phải chấp nhận rằng chúng cũng đúng với cả bạn nữa. Nếu bạn đã từng cài màn hình chờ là những đồng đô-la trôi nổi trên mặt nước, bạn sẽ ít có xu hướng nhặt bút chì giúp một kẻ vụng về xa lạ số bút chì hơn. Bạn không tin rằng những kết quả này cũng ứng vào bạn bởi vì chúng không liên quan gì đến những kinh nghiệm trong quá khứ của bạn. Nhưng những kinh nghiệm chủ quan trong quá khứ của bạn lại hàm chứa phần lớn những câu chuyện mà Hệ thống 2 sẽ tự động lấy dữ liệu để phân tích xem chuyện gì đang diễn ra. Hiện tượng mồi nổi lên ở Hệ thống 1 và bạn không có cách tự ý xâm nhập vào chúng.

    Tôi đưa ra kết luận của phần này với một thí nghiệm hoàn hảo về “hiệu ứng mồi”, thí nghiệm được diễn ra trong khu bếp ăn của trường Đại học Anh quốc. Trước đó, trong nhiều năm, những người làm việc trong văn phòng này tự phục vụ trà hoặc cà phê, họ cũng trả một khoản tiền tự nguyện vào “hộp tự nguyện”. Gần đó dán một danh sách gợi ý các mức giá khác nhau. Một ngày nọ, một tấm áp phích được dán ngay trên bảng giá, mà không hề có bất cứ một lời giải thích hay cảnh báo nào. Trong vòng 10 tuần liên tiếp, cứ một tuần lại có một hình ảnh mới được thay thế, một bức tranh hình hoa hoặc một bức tranh hình đôi mắt nhìn trực diện người nhìn. Không ai bình luận gì về sự trang trí mới này nhưng số tiền thu được trong hộp tự nguyện thì thay đổi một cách đáng kể. Hình 4 dưới đây là biểu đồ minh họa cho số tuần treo poster và số tiền thu được từ những người sử dụng dịch vụ trà và cà phê ở đây (liên quan đến cả số lượng tiêu thụ của họ nữa). Nhìn thật kỹ, bạn sẽ thấy rất thú vị.

    Vào tuần đầu tiên của thí nghiệm (mà bạn có thể nhìn thấy dòng cuối cùng của biểu đồ), một đôi mắt mở trừng trừng nhìn vào người uống cà phê hay trà, khiến mức đóng góp vào khoảng 70 xu mỗi lít. Ở tuần 2, tấm áp phích hiện hình hoa và mức đóng góp giảm đi 15 xu. Xu hướng đó tiếp tục lặp lại. Trung bình, người sử dụng nhà bếp tập thể đóng góp nhiều gấp 3 vào những tuần có tấm áp phích “mắt nhìn” so với những tuần có tấm áp phích “hoa”. Rõ ràng một biểu tượng có thể nhắc nhở về sự theo dõi, kích thích người dùng cải thiện hành vi. Đúng như những gì chúng tôi kỳ vọng ở điểm này, các hiệu ứng diễn ra mà không hề có bất cứ sự cảnh báo nào. Giờ thì bạn tin rằng mình cũng có thể rơi vào những tình huống tương tự và hành động tương tự rồi chứ?

    [​IMG]

    Vài năm trước, nhà tâm lý học có tên là Timothy Wilson đã viết một cuốn sách có một tiêu đề gợi mở Strangers to Ourselves (Tạm dịch: Người lạ trong ta). Giờ thì bạn đã được giới thiệu với người lạ trong bản thân rồi đấy, đó là người có thể kiểm soát khá nhiều hành động của bạn, mặc dù hiếm khi bạn để ý tới điều đó. Hệ thống 1 cung cấp những ấn tượng để làm chất liệu cho niềm tin của bạn, nó cũng chính là nguồn cơn thúc đẩy sự lựa chọn cũng như hành động của bạn. Nó ngầm “phiên giải” những gì diễn ra với bạn, xung quanh bạn, liên hệ hiện tại với quá khứ và với kỳ vọng trong tương lai gần. Nó bao gồm những thế giới kiểu mẫu có thể biến thành những sự kiện bình thường hoặc đáng kinh ngạc. Nó là nguồn cơn của những nhận định nhanh và trực giác của bạn. Và hầu hết chúng diễn ra nằm ngoài ý thức của bạn về sự tồn tại của chúng. Như chúng ta sẽ thấy trong các chương tiếp theo, Hệ thống 1 là nguồn gốc của rất nhiều lỗi sai mang tính hệ thống trong trực giác của bạn.

    Hiệu ứng mồi lên tiếng

    “Tất cả những người mặc đồng phục không thể tạo ra sự sáng tạo.”

    “Thế giới này ít ý nghĩa hơn so với bạn nghĩ. Sự kết nối hầu hết xuất phát từ cách vận hành đầu óc của bạn.”

    “Họ được dẫn dắt để tìm ra dòng chảy và đó chính xác là những gì họ tìm thấy.”

    “Hệ thống 1 của anh ta dựng lên một câu chuyện và Hệ thống 2 tin tưởng vào điều đó. Đó là điều diễn ra với tất cả chúng ta.”

    “Tôi tự nhủ hãy mỉm cười lên và thực tế là tôi cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều.”
    Còn nữa
     
    Chỉnh sửa cuối: 26 Tháng sáu 2018
  9. Thanh Bình

    Bài viết:
    111
    Phần 1 - Chương 5: Nhận thức cảm tính
    Bấm để xem
    Đóng lại

    Bất cứ khi nào bạn đang ý thức và thậm chí là khi bạn đang tỉnh táo, có rất nhiều phép tính phức tạp vẫn đang diễn ra trong bộ não, chúng duy trì và cập nhật tình trạng hiện thời cho các câu hỏi như là: Có gì mới vừa xảy ra? Có mối đe doạ nào không? Mọi thứ vẫn ổn cả chứ? Liệu tôi có phải hướng sự chú ý của mình sang một mục tiêu khác? Tôi có cần nỗ lực hơn nữa cho nhiệm vụ này không? Bạn có thể hình dung ra một chiếc cabin, bên trong chứa rất nhiều đồng hồ đo đạc, biểu thị những giá trị hiện tại của một số nỗ lực chủ yếu và liên tục biến thiên. Những chỉ số này do Hệ thống 1 tự động đo và một trong những tính năng để xác định xem có cần bổ sung thêm sự nỗ lực hay không thuộc về Hệ thống 2.

    Một trong những mặt số đồng hồ kia sẽ đo mức độ nhận thức cảm tính (cognitive ease) và kim đồng hồ chạy giữa hai đầu cực “cảm tính” và “lý tính”. Cảm tính là dấu hiệu cho thấy mọi thứ đang diễn ra bình thường, không hiểm họa, không có vấn đề gì căng thẳng khiến Hệ thống 2 phải hành động cả. Ngược lại là cực “nhận thức lý tính”. Nhận thức lý tính bị ảnh hưởng bởi hai yếu tố, bao gồm tình trạng hiện thời của sự nỗ lực và sự tồn tại của những yêu cầu không được thỏa mãn. Điều ngạc nhiên là chỉ một mặt số của nhận thức cảm tính thôi cũng được nối với một mạng lưới rộng lớn của các chỉ số đầu vào và đầu ra. Hình 5 sẽ chứng minh điều đó.

    Hình minh họa này chỉ ra rằng một câu văn nếu được viết hoặc in bằng một phông chữ rõ ràng, hay đã được sử dụng nhiều lần, hoặc là một phông chữ cơ bản, thì sẽ dễ dàng được xếp vào trạng thái nhận thức cảm tính. Khi bạn nghe một diễn giả trình bày trong tâm trạng vui vẻ, hoặc thậm chí là khi bạn đang ngậm một chiếc bút chì ngang miệng khiến bạn trông như đang “mỉm cười”, cũng có thể được xếp vào trạng thái nhận thức cảm tính. Ngược lại, bạn sẽ cảm thấy nhận thức lý tính khi bạn đọc một đoạn hướng dẫn trên một phông chữ khó nhìn, màu nhợt nhạt hoặc các từ được viết bằng thứ ngôn ngữ phức tạp, khi ấy bạn sẽ cảm thấy khó chịu, thậm chí bạn sẽ hơi cau mày.

    [​IMG]

    Các nguyên nhân khác nhau giữa “cảm tính” và “lý tính” có thể có những hiệu ứng hoán đổi. Khi bạn đang ở trạng thái nhận thức cảm tính, bạn có thể đang trong tâm trạng tốt và như bạn đã biết, bạn sẽ tin vào những gì mình nghe thấy, giao phó chúng cho các trực giác, bạn sẽ cảm thấy tình huống hiện tại thật là thân thuộc, thoải mái. Bạn cũng có thể rất dễ dàng tùy tiện và nông nổi trong suy nghĩ. Khi bạn cảm thấy nhận thức “lý tính”, bạn có xu hướng thận trọng và dò xét, bạn sẽ cố gắng nhiều hơn cho những gì mình đang làm và cảm thấy không thoải mái, mắc ít lỗi sai hơn nhưng khả năng trực giác của bạn cũng kém đi và giảm thiểu khả năng sáng tạo hơn mức bình thường.

    ẢO GIÁC VỀ TRÍ NHỚ

    Từ ảo giác khiến bạn chỉ nghĩ đến những ảo ảnh nhìn thấy bằng mắt thường, bởi tất cả chúng ta đã quá quen thuộc với những bức tranh nhòe nhoẹt. Nhưng ảo giác không chỉ là phạm trù duy nhất của ảo tưởng; cũng như tư duy, trí nhớ cũng rất dễ bị rơi vào tình trạng ảo giác.

    David Stenbill, Monica Bigoutski, Shana Tirana là những cái tên mà tôi vừa mới bịa ra. Nếu vô tình bạn nghe thấy một trong những cái tên này trong vài phút nữa, khả năng cao là bạn sẽ rất nhớ nơi đã gặp gỡ họ. Trong một lúc bạn biết rằng đó không phải tên của những người nổi tiếng. Nhưng giả sử như vài ngày sau, bạn phải xem một danh sách dài những cái tên, bao gồm một vài ngôi sao và một vài cái tên “mới” mà bạn chưa từng nghe thấy, nhiệm vụ của bạn là phải kiểm tra xem tên nào trong danh sách là tên của một người nổi tiếng. Khả năng gần như chắc chắn bạn sẽ nhận định David Stenbill là một người nổi tiếng, mặc dù bạn sẽ không biết (tất nhiên rồi) mình đã gặp cái tên này ở đâu, trong phim ảnh, thể thao hay chính trị. Nhà tâm lý học Larry Jacoby là người đầu tiên chứng minh ảo giác trí nhớ này trong phòng thí nghiệm, tiêu đề của bài báo là “Trở thành người nổi tiếng chỉ sau một đêm.” Làm sao lại thế được? Đầu tiên, bạn hãy tự hỏi bản thân làm sao mà bạn có thể quen ai đó nổi tiếng được. Trong nhiều trường hợp, với một số người nổi tiếng thực sự (hoặc những người có danh tiếng trong lĩnh vực mà bạn theo dõi), bạn nắm được cả một tập tư liệu với rất nhiều thông tin về người đó, ví dụ như Albert Einstein, Bono, Hillary Clinton. Nhưng bạn chẳng có chút thông tin nào về David Stenbill nếu bạn mới chỉ nghe nhắc đến tên anh ta vài ngày trước đấy. Tất cả những gì bạn có chỉ là một cảm giác thân quen, bạn đã nhìn thấy cái tên ấy ở đâu đó rồi.

    Nhà tâm lý học Jacoby đã mào đầu vấn đề một cách nhẹ nhàng như: “Cảm giác thân quen đơn giản nhưng lại rất quyền năng, dường như nó dẫn dắt suy nghĩ trở lại với những kinh nghiệm của con người trong quá khứ. Tính “quá khứ” chính là một ảo giác. Như Jacoby và rất nhiều người sau này đã chứng minh, sự thật là cái tên David Stenbill trông có vẻ thân thuộc hơn là vì khi bạn nhìn thấy cái tên ấy, thì bạn đã nhìn nó một cách rõ ràng hơn. Từ nào mà bạn đã từng nhìn thấy trong quá khứ sẽ trở nên dễ nhận biết hơn khi bạn gặp lại chúng, bạn có thể xác định chúng nhanh hơn so với các từ khác, nhất là khi chúng chỉ xuất hiện thoáng qua dưới dạng hình ảnh hay âm thanh, bạn sẽ nhận ra chúng nhanh hơn so với những từ khác. Nói ngắn gọn là kinh nghiệm của bạn giúp bạn nhận thức dễ dàng và nhanh hơn khi bắt gặp một từ mà bạn đã nhìn thấy trước đó và đó chính là yếu tố khiến bạn có cảm giác thân quen.

    Hình 5 đưa ra để kiểm nghiệm nhận định này. Bạn hãy chọn một từ mới, viết sao cho nó thật dễ nhìn và bạn sẽ thấy nó ẩn chứa trong mình một quá khứ. Thực vậy, một cách vô thức, bạn cũng sẽ dễ dàng nhận ra từ mới đó, nhanh hơn vài mili giây so với các từ khác dù bạn chỉ mới nhìn thấy từ đó ngay trước khi diễn ra thử nghiệm, tốc độ sẽ càng nhanh hơn nếu từ đó được hiển thị tương phản, nổi bật so với các từ khác trong danh sách. Một vài từ cố tình bị làm mờ, một vài từ khác thì bị mờ ít hơn và nhiệm vụ của bạn là xác định xem bạn thấy từ nào rõ ràng hơn. Một từ bạn vừa nhìn thấy chắc chắn sẽ xuất hiện rõ ràng hơn so với những từ không quen thuộc khác. Như chỉ dẫn trong hình minh họa 5, có rất nhiều cách khác nhau để tạo ra một nhận thức cảm tính và nhận lý tính và các cách này có thể đổi vai cho nhau; có thể bạn không biết chính xác cái gì khiến bạn có nhận thức cảm tính hay nhận thức lý tính. Đây chính là lúc ảo tưởng về sự thân thuộc xuất hiện.

    ẢO TƯỞNG VỀ SỰ THẬT

    Mệnh đề “New York là một thành phố lớn của Hoa Kỳ” hay “Mặt trăng quay xung quanh Trái đất” hoặc “Một con gà có bốn chân.” Rất nhanh chóng, bạn thu thập được kha khá thông tin liên quan đến tất cả các mệnh đề trên, ít nhất là theo nghĩa này hoặc nghĩa khác. Bạn nhanh chóng nhận ra hai mệnh đề đầu là đúng, còn mệnh đề cuối là sai. Tuy vậy, phải lưu ý rằng bạn sẽ nhận ra nhận định “Một con gà có ba chân” là sai nhanh hơn so với câu “Một con gà có bốn chân”. Đánh giá nhận định thứ hai đúng hay sai bị chậm so với nhận định một là do bộ máy liên tưởng của bạn đã kết nối với hiện thực, là có rất nhiều loài vật có bốn chân, hoặc bởi vì ở nhiều siêu thị, người ta thường bán một gói chân gà gồm bốn chiếc. Hệ thống 2 đã tham gia vào quá trình sàng lọc thông tin, có thể đặt lại vấn đề xem thông tin về thành phố New York có quá dễ kiểm chứng không, hay phải kiểm tra lại nghĩa của từ quay quanh.

    Hãy nhớ lại lần gần nhất khi bạn thi lấy bằng lái xe. Có phải bạn cần một loại giấy phép lái xe đặc biệt dành riêng cho loại xe trên ba tấn? Có thể bạn đã học hành rất nghiêm túc và có khả năng nhớ chi tiết đáp án nằm ở mặt trái hay mặt phải, cũng như logic phía sau đáp án đó. Chắc chắn đó không phải là cách tôi thi đỗ kỳ thi lấy bằng lái xe, khi tôi chuyển đến một bang mới. Cách thực hành của tôi là đọc cuốn cẩm nang về các quy tắc lái xe một lần và kỳ vọng những điều tôi biết sẽ xuất hiện ở bài thi. Tôi đã biết một vài câu trả lời nhờ kinh nghiệm lái xe lâu năm. Nhưng sẽ có những câu hỏi làm khó tôi, khiến tôi chẳng nghĩ ra nổi một đáp án khả dĩ nào, thế là tôi đành phó mặc cho nhận thức cảm tính của mình để đưa ra đáp án. Nếu đáp án có vẻ quen quen, tôi sẽ mặc định là nó đúng. Nếu trông nó có vẻ lạ lẫm (hoặc quá cực đoan), khả năng cao là tôi sẽ loại nó. Ấn tượng về sự thân thuộc do Hệ thống 1 sản sinh, còn Hệ thống 2 phụ thuộc vào cảm giác đúng hay sai trong nhận định.

    Từ hình 5, có thể rút ra một bài học, đó là chắc chắn xuất hiện những ảo ảnh có thể dự đoán được nếu một nhận định được đưa ra dựa trên ấn tượng của nhận thức cảm tính hoặc nhận thức lý tính. Nếu có một yếu tố nào đó khiến cho bộ máy liên tưởng này hoạt động trơn tru hơn thì đó chính là do những sai lệch quyết định. Cách chắc chắn nhất khiến người ta tin vào một suy nghĩ sai lầm chính là sự lặp lại một cách thường xuyên, bởi vì ranh giới giữa sự gần gũi và sự thật rất mong manh. Các tổ chức cầm quyền và các nhà tiếp thị luôn hiểu được nguyên tắc này để áp dụng vào công việc của mình. Nhưng chính các nhà tâm lý học mới là người phát hiện ra rằng bạn không cần phải nhắc lại toàn bộ tuyên bố về một vấn đề hay một ý tưởng mới khiến chúng có vẻ trở nên đúng đắn. Những người nhắc đi nhắc lại câu “Thân nhiệt của một con gà” có khả năng đồng ý với nhận định “Thân nhiệt của một con gà là 144 độ” (hoặc bất cứ con số trừu tượng nào). Sự gần gũi của một cụm từ trong một nhận định cũng đủ khiến toàn bộ nhận định đó có cảm giác thân quen và vì thế, nó trở nên đúng đắn. Nếu bạn không thể nhớ được nguồn gốc của một nhận định và cũng không thấy mối liên hệ giữa nhận định đó với bất cứ thứ gì mà bạn biết, thì bạn chẳng có phương án nào khác ngoài việc tuân theo cảm giác của nhận thức cảm tính.

    THÔNG ĐIỆP THUYẾT PHỤC

    Giả sử bạn phải viết một thông điệp với mong muốn làm người nhận được thông điệp đó tin tưởng mình. Tất nhiên, thông điệp của bạn phải đúng, nhưng như thế vẫn chưa đủ sức thuyết phục khiến người khác tin nó là đúng. Sẽ là hoàn toàn “hợp pháp” nếu bạn quyết định dùng nhận thức cảm tính để tranh thủ lòng tin của người khác và các nghiên cứu liên quan đến ảo tưởng về sự thật cung cấp cho bạn những gợi ý cụ thể giúp bạn có thể hoàn thành mục tiêu này.

    Nguyên tắc chung đơn giản là hãy làm bất cứ điều gì nhằm hạn chế trạng thái nhận thức bị căng thẳng, vì vậy trước tiên, bạn càng làm cho thông điệp rõ ràng bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.

    Hãy so sánh hai câu văn dưới đây:

    Aldolf Hitler sinh năm 1892.

    Aldolf Hitler sinh năm 1887.

    Cả hai câu đều sai (Hitler sinh năm 1889) nhưng các thí nghiệm cho thấy câu đầu tiên có xu hướng được mọi người tin là đúng hơn. Thêm một lời khuyên nữa là: Nếu thông điệp của bạn được in trên giấy, hãy sử dụng loại giấy cao cấp để làm tăng tính tương phản giữa nội dung và nền giấy. Nếu in màu, hãy sử dụng màu mực xanh da trời sáng hoặc màu đỏ thì hiệu quả hơn so với khi bạn in thông điệp bằng một thứ màu mờ nhạt giữa xanh, vàng hay màu xanh nhạt.

    Nếu muốn người nhận cảm thấy thông điệp của bạn đáng tin cậy và thông minh, đừng dùng thứ ngôn ngữ phức tạp, thay vào đó hãy diễn đạt bằng ngôn ngữ đơn giản mà vẫn biểu đạt được ý cần nói. Một đồng nghiệp của tôi ở Đại học Princeton tên là Danny Oppenheimer đã thẳng thừng bác bỏ tin đồn hoang đường trong giới sinh viên về một kho từ vựng gây ấn tượng nhất đối với các giáo sư. Trong một bài báo có tên “Hậu quả của việc sử dụng thổ ngữ cầu kỳ không cần thiết: Các vấn đề từ việc sử dụng các từ dài vô ích”, ông đã chứng minh rằng việc diễn đạt các ý tưởng thân thuộc bằng thứ ngôn ngữ cầu kỳ là biểu hiện sự kém thông minh và thông tin đó không đáng tin cậy.

    Thêm nữa, để thông điệp của bạn đơn giản, hãy cố gắng làm cho nó trở nên dễ nhớ. Nếu có thể, hãy đưa các ý tưởng của bạn dưới dạng các vần thơ nếu có thể; chúng sẽ dễ dàng chiếm được lòng tin của người đọc hơn. Những người tham gia thí nghiệm dưới đây được đọc khoảng một tá những câu thành ngữ không lấy gì làm quen thuộc, ví dụ như:

    Sự đau khổ liên kết kẻ thù.

    Chấn động nhỏ kéo đổ cây sồi lớn.

    Thừa nhận sai lầm đã coi như sửa sai được một nửa.

    Một số sinh viên khác được đọc một số câu thành ngữ có nội dung tương tự nhưng không được viết dưới dạng vần điệu:

    Kẻ thù của kẻ thù là bạn.

    Nước chảy đá mòn.

    Thú nhận khuyết điểm là biết sửa mình.

    Các câu thành ngữ có vần điệu được nhận xét là đúng đắn hơn so với những câu thành ngữ còn lại.

    Cuối cùng, nếu bạn đưa một câu trích dẫn, hãy chọn trích dẫn của người có cái tên dễ phát âm. Những người tham gia một thí nghiệm được yêu cầu đánh giá triển vọng phát triển của một công ty của Thổ Nhĩ Kỳ dựa trên các bản báo cáo cơ bản từ hai công ty môi giới cổ phiếu khác nhau. Với mỗi loại cổ phiếu, một công ty môi giới lại đưa ra một bản đánh giá khác nhau, bản đánh giá của một công ty có tên rất dễ phát âm (ví dụ Artan), bản báo cáo còn lại là của công ty có tên rất khó phát âm (ví dụ Taahhut). Những kết luận trong bản báo cáo này đôi khi mâu thuẫn với nhau. Những người quan sát sẽ phải đánh giá xem bản báo cáo nào tốt hơn, dựa trên thông tin chung của hai bản báo cáo, tuy nhiên mọi chuyện không diễn ra như thế. Các nhà phân tích cho rằng bản báo cáo đến từ công ty Artan có sức nặng hơn so với bản báo cáo của công ty Taahhut. Phải luôn nhớ rằng Hệ thống 2 rất lười biếng và không hề tự nguyện đối với các nỗ lực phải tính toán. Nếu được, lúc nào người đọc cũng cố tránh xa khỏi tất cả những gì khiến họ phải cố gắng, kể cả là cố gắng đọc một cái tên phức tạp.

    Tất cả đều là những lời khuyên hữu ích nhưng chúng ta cũng không cần phải quá rối trí với nó. Chất lượng giấy cao cấp, màu sắc tươi sáng, câu văn có vần điệu hay không cũng chẳng giúp được gì nhiều nếu thông điệp của bạn không mang ý nghĩa, hoặc nó đối lập hoàn toàn với những gì mà khán giả của bạn biết chắc là đúng đắn. Các nhà tâm lý học khi thực hiện những thí nghiệm này tin rằng con người không phải là giống ngu ngốc hoặc khờ khạo nhất. Những gì họ tin, đó là tất cả chúng ta, sống trên đời này, đều được dẫn dắt bởi những ấn tượng mà Hệ thống 1 cung cấp và chúng ta thường không hiểu vì đâu ta lại có những ấn tượng ấy. Làm sao bạn biết được một câu tuyên bố là đúng đắn? Nếu nó được liên kết chặt chẽ bằng logic hoặc kết hợp bền chặt với những niềm tin và những trải nghiệm mà bạn đã kiểm chứng, hoặc nó xuất phát từ những nguồn tin mà bạn tin tưởng hoặc yêu thích, bạn sẽ lập tức có ý thức về nhận thức cảm tính. Rắc rối ở đây là có những yếu tố khác nữa cũng tạo ra ý thức nhận thức cảm tính, bao gồm chất lượng của phông chữ, nhịp điệu của câu văn và thật khó khăn để khiến bạn có thể nhận ra nguồn gốc cảm xúc của mình. Đây chính là thông điệp mà hình 5: Ý thức về nhận thức cảm tính hay nhận thức lý tính xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân và rất khó để tách bạch chúng ra. Rất khó, nhưng không có nghĩa là không thể. Con người có thể vượt qua một số yếu tố bề mặt sản sinh ra những ảo giác về sự thật khi họ có động lực mạnh mẽ để làm điều đó. Trong hầu hết các trường hợp, hệ thống lười biếng số 2 sẽ chấp thuận những gợi ý của Hệ thống 1 và vận hành trên hệ thống ấy.

    LÝ TRÍ VÀ NỖ LỰC

    Sự tương xứng của rất nhiều liên kết liên tưởng là một chủ đề được quan tâm đặc biệt trong các cuộc tranh luận về sự liên kết chặt chẽ. Như chúng ta đã biết ở phần trước, những ai bị làm cho “mỉm cười” hoặc “nhăn nhó” bằng cách ngậm một chiếc bút chì trên miệng hoặc dùng những nếp nhăn giữa hai lông mày để giữ một sợi chỉ sẽ có xu hướng trải nghiệm chính những cảm xúc này như thể họ đang mỉm cười hoặc đang nhăn nhó vậy. Mặt khác, hai mặt của sự tự củng cố cũng được tìm thấy trong các nghiên cứu về nhận thức cảm tính. Một mặt, khi bộ máy nỗ lực của Hệ thống 2 tham gia vào quá trình nhận thức, thì người ta nhận thấy sự xuất hiện của nhận thức lý tính. Mặt khác, khi quá trình nhận thức của con người ở chế độ căng thẳng, bất chấp nguồn gốc của sự căng thẳng ấy từ đâu, thì nó có xu hướng khởi động Hệ thống 2, biến đổi cách tiếp cận của cá thể với các vấn đề từ chế độ bản năng thông thường sang chế độ chú tâm và phân tích cẩn thận hơn.

    Câu chuyện “gậy và bóng” được nhắc đến ở phần trước chính là sự kiểm chứng cho thấy con người có xu hướng trả lời các câu hỏi với đáp án là những ý tưởng đầu tiên xuất hiện trong đầu mà không cần kiểm chứng. Thí nghiệm “Phản chiếu nhận thức” của Shane Frederick đã đưa ra câu chuyện về “bóng và gậy” và hai vấn đề khác, tất cả đều cho thấy chúng tạo ra những câu trả lời bản năng tức thì nhưng lại đều không phải là câu trả lời chuẩn xác. Hai câu hỏi còn lại trong thí nghiệm “Phản chiếu nhận thức” của Shane như sau:

    Nếu 5 chiếc máy, trong 5 phút, sản xuất được 5 đồ vật, vậy thì phải mất bao lâu để 100 chiếc máy tạo ra 100 đồ vật?

    100 phút hay 5 phút?

    Có một cái hồ phủ đầy hoa huệ tây. Mỗi ngày, thảm hoa huệ tây ấy phủ được diện tích gấp đôi. Nếu mất 48 ngày để thảm hoa huệ tây ấy phủ kín cả mặt hồ, thì phải mất bao nhiêu thời gian thì thảm huệ tây phủ được một nửa mặt hồ?

    24 ngày hay 47 ngày?

    Đáp án cho hai bài toán này nằm ở phần ghi chú cuối trang này1. Thí nghiệm viên tuyển 40 sinh viên Đại học Princeton tham gia thí nghiệm này. Một nửa trong số họ được nhìn thấy bài toán được viết bằng cỡ chữ nhỏ, trên giấy in mờ nhạt. Bài toán không khó nhưng cỡ chữ nhỏ đã kích hoạt nhận thức lý tính của những sinh viên này. Kết quả rất rõ ràng: 90% sinh viên làm thí nghiệm với cỡ chữ bình thường trả lời sai ít nhất một bài toán, nhưng tỷ lệ ấy giảm xuống còn 35% đối với những sinh viên làm thí nghiệm với cỡ chữ nhỏ, khó đọc. Bạn không nhầm đâu: Kết quả tốt hơn khi cỡ chữ bé hơn. Nhận thức lý tính, bất kể nguồn gốc từ đâu, đều kích hoạt Hệ thống 2, hệ thống có xu hướng không bị “mắc lừa” các đáp án mang tính bản năng được Hệ thống 1 gợi ý.

    SỰ THÍCH THÚ CỦA NHẬN THỨC CẢM TÍNH

    Một bài báo có tựa đề “Đầu óc thư giãn, nụ cười trên môi” mô tả một thí nghiệm trong đó những người tham gia được xem nhanh một bức tranh về các đồ vật. Một vài bức tranh rất dễ nhận biết được trình chiếu bằng cách cho người xem thấy được hình dáng của đồ vật trước khi hình ảnh hoàn chỉnh hiện ra, nhanh đến nỗi người xem không hề nhận thức được đường nét của đồ vật. Phản ứng cảm xúc của người xem được đo bằng xung lực điện trên bề mặt cơ bắp, ghi nhận những thay đổi biểu cảm cực ít và cực nhanh, hầu như những người quan sát không thể nào nhận ra được. Đúng như dự đoán, mọi người thể hiện một nụ cười nhẹ và đôi lông mày thư giãn khi nhìn vào bức tranh dễ nhìn. Dường như Hệ thống 1 đảm nhận những nhận thức cảm tính được liên kết chặt chẽ với những xúc cảm tích cực.

    Đúng như dự đoán, những từ dễ phát âm cũng tạo ra thái độ tích cực hơn. Các công ty có tên gọi dễ đọc làm ăn tốt hơn các công ty khác trong tuần đầu tiên sau khi cổ phiếu lên sàn, mặc dù hiệu ứng này sẽ biến mất theo thời gian. Cổ phiếu với những mã giao dịch dễ phát âm (như KAR hoặc LUNMOO) hoạt động tốt hơn những cổ phiếu có mã giao dịch khiến người ta phải xoắn vặn lưỡi khi phát âm như PXG hoặc RDO và chúng dường như chiếm được một chút ưu thế khi mới xuất hiện. Một nghiên cứu được thực hiện ở Thụy Sĩ cho thấy các nhà đầu tư tin tưởng những mã cổ phiếu có tên gọi dễ đọc như Emmi, Swissfirst và Comet sẽ thu lợi nhuận cao hơn so với những thương hiệu có tên khó nhớ như Geberit hay Ypsomed.

    Như chúng ta đã thấy trong Hình 5, sự lặp lại cũng tạo ra nhận thức cảm tính và cảm giác dễ chịu cũng như sự thân thuộc. Nhà Tâm lý học nổi tiếng Robert Zajonc đặc biệt dành rất nhiều thời gian trong sự nghiệp của mình để nghiên cứu mối liên hệ giữa sự lặp lại của các khích lệ tiềm ẩn với tình cảm nhẹ nhàng mà con người thường dành cho nó. Zajonc gọi đó là “hiệu ứng tiếp xúc đơn thuần”. Thí nghiệm được thực hiện tại các tờ báo sinh viên của Đại học Michigan để chứng minh cho điều này là một trong những thí nghiệm ưa thích của tôi. Trong khoảng thời gian vài tuần, một hộp thoại trông như ô quảng cáo xuất hiện trên trang nhất của báo, trong đó chứa một trong những từ Thổ Nhĩ Kỳ (hoặc mang âm sắc Thổ Nhĩ Kỳ) như kadirga, saricik, biwonjni, nansoma và iktitaf. Tần suất xuất hiện của những từ này được lặp đi lặp lại: Chỉ có mỗi một từ được xuất hiện một lần, những từ còn lại được xuất hiện 2, 5, 10 hoặc 25 lần khác nhau. (Các từ xuất hiện thường xuyên nhất trong một trong số những tờ báo này sẽ ít xuất hiện trên những tờ báo khác). Không hề có bất cứ lời giải thích nào và những thắc mắc của bạn đọc chỉ được giải thích chung chung là “có một nhân vật giấu tên trả tiền quảng cáo cho việc này.”

    Khi hàng loạt quảng cáo kỳ lạ này kết thúc, những điều tra viên đã gửi bảng câu hỏi đến cho cộng động sinh viên, hỏi các sinh viên này xem ấn tượng của họ về các từ đã từng xuất hiện “mang hàm ý “tốt” hay hàm ý “xấu”. Kết quả thật đáng kinh ngạc: Các từ xuất hiện thường xuyên nhất được xếp hạng cao hơn so với những từ chỉ xuất hiện một lần hoặc hai lần. Kết quả này được khẳng định qua rất nhiều thí nghiệm, trong đó các ký tự được thay đổi bằng từ tượng hình Trung Quốc, các khuôn mặt và cả những đa giác có hình thù bất kỳ.

    “Hiệu ứng tiếp xúc đơn thuần” không phụ thuộc vào kinh nghiệm ý thức hay tính thân quen. Trên thực tế, hiệu ứng này không hề phụ thuộc vào ý thức: Nó chỉ xuất hiện khi các ký tự được lặp đi lặp lại hoặc khi các bức tranh được trình chiếu quá nhanh, khiến cho những người tham gia thí nghiệm không hề ý thức được là đã nhìn thấy chúng. Chỉ biết rằng cuối cùng thì họ chọn những ký tự hoặc các bức tranh xuất hiện thường xuyên hơn. Giờ thì mọi chuyện đã rõ, Hệ thống 1 phản ứng với những ấn tượng về các sự kiện mà Hệ thống 2 không hề ý thức. Thực vậy, “hiệu ứng tiếp xúc đơn thuần” trên thực tế có tác động mạnh hơn rất nhiều, còn các cá nhân thì không bao giờ ý thức là mình đã nhìn thấy.

    Zajonc lập luận rằng hiệu ứng thích cái gì hơn cái gì được sản sinh bởi sự lặp đi lặp lại thực ra chính là một hiện thực sinh học rất quan trọng và nó còn mở rộng ra với tất cả các loài động vật nói chung. Để tồn tại trong một thế giới đầy nguy hiểm, một sinh vật sống cần phản ứng thận trọng với những tác động mới lạ, bằng cách lẩn trốn và sợ hãi. Khả năng sống sót sẽ rất nhỏ đối với những loài động vật nào không nhận thức được các tác nhân lạ. Tuy nhiên, sau một thời gian thích ứng, phản ứng với những tác nhân lạ cũng sẽ giảm dần nếu đó là những tác nhân an toàn. Zajnonc khẳng định: “Hiệu ứng tiếp xúc đơn thuần” chỉ xuất hiện nhờ sự lặp đi lặp lại của một tác nhân, mà sau đó tác động này không có ảnh hưởng xấu. Những tác nhân như thế dần dần sẽ biến thành một tín hiệu an toàn và an toàn là tốt. Rõ ràng đây không phải là một lập luận chặt chẽ đối với con người. Để chứng minh luận điểm này, một phụ tá của Zajonc đã cho hai nhóm trứng gà đang được ấp “nghe” những tần số âm thanh khác nhau. Sau khi được ấp, các chú gà con tỏ ra ít bị hoảng loạn hơn khi được “cho nghe lại” những âm thanh mà chúng từng được nghe khi còn đang ấp.

    Zajonc đưa ra một kết luận hùng hồn cho chương trình nghiên cứu của mình như sau:

    Tầm quan trọng của sự lặp đi lặp lại chính là ích lợi đối với các cá thể trong mối quan hệ của nó với những tác nhân đột ngột ồn ào hay tĩnh lặng của môi trường xung quanh. Chúng cho phép các cá thể có thể phân biện được những đối tượng và môi trường nào là an toàn so với những tác nhân không an toàn. Chúng hình thành những ứng xử cơ bản trong hệ thống xã hội và sự gắn bó là nguồn gốc cơ bản của sự ổn định tâm lý và xã hội.

    Mối liên hệ giữa những xúc cảm tích cực và nhận thức cảm tính trong Hệ thống 1 đã có một lịch sử phát triển lâudài.

    CẢM TÍNH, TÂM TRẠNG VÀ BẢN NĂNG

    Vào khoảng năm 1960, một nhà Tâm lý học trẻ tuổi có tên Sarnoff Mednick cho rằng mình đã nhận diện được bản chất của sự sáng tạo. Ý tưởng của ông rất đơn giản và không kém phần hùng hồn: Sự sáng tạo được kết nối với bộ nhớ và hoạt động hiệu quả một cách đặc biệt. Ông đã dựng lên một thí nghiệm, được gọi là Thí nghiệm Liên kết Từ xa (Remote Association Test – RAT), mà đến nay vẫn thường xuyên được sử dụng trong các nghiên cứu về tính sáng tạo.

    Lấy một ví dụ đơn giản, hãy xem xét ba từ sau:

    Nhà gỗ Thụy Sĩ bánh

    Bạn nghĩ xem từ nào có thể có mối liên hệ với cả ba từ trên? Từ pho mát có thể là một từ mà bạn nghĩ đến. Giờ thử tiếp với ba từ sau:

    Lộn nhào ánh nắng tên lửa

    Vấn đề trở nên khó khăn hơn rất nhiều nhưng nó chỉ có một đáp án duy nhất, mà bất cứ người nào nói tiếng Anh đều có thể nhận ra, mặc dù chỉ có ít hơn 20% số sinh viên được hỏi tìm được từ chính xác trong vòng 15 giây. Câu trả lời đúng là bầu trời. Tất nhiên, không phải bộ ba từ nào cũng có đáp án. Ví dụ các từ mơ, bóng, sách chẳng có bất cứ mối liên hệ nào đến một đáp án chung khiến người ta thấy là thuyết phục để có một đáp án chung hết.

    Vài nhà tâm lý học người Đức cũng đã nghiên cứu RAT trong những năm gần đây và đã đưa ra những khám phá đáng kể về nhận thức cảm tính. Một trong số các nhóm này đã đặt ra hai câu hỏi: Liệu người ta có thể cảm nhận được đáp án liên kết giữa ba từ ngữ trước khi họ biết đáp án ấy hay không? Để tìm hiểu, đầu tiên họ làm sao cho các đối tượng nghiên cứu rơi vào trạng thái vui vẻ hoặc buồn rầu, sau đó yêu cầu họ nghĩ trong vài phút về những khoảng thời gian hạnh phúc và buồn đau trong cuộc sống của họ. Rồi họ trình chiếu cho những đối tượng này một loạt những bộ ba từ vựng, một nửa trong số đó có mối liên hệ với nhau (ví như lộn nhào, ánh nắng và tên lửa) và một nửa không có liên kết gì (ví như mơ, bóng, sách) và hướng dẫn họ nhấn vào một trong số hai nút rất nhanh để ra hiệu cho thí nghiệm biết đáp án mà họ đoán, xem bộ ba từ đó có sự liên hệ với nhau hay không. Thời gian để các đối tượng này đưa ra phán đoán là hai giây, quá ngắn, không đủ để mọi người thực sự cân nhắc để chọn ra một đáp án nào đó.

    Điều đầu tiên gây kinh ngạc chính là phán đoán của mọi người hóa ra rất chính xác, không hề do đoán mò. Tôi cho rằng điều này cực kỳ lạ lùng. Cảm nhận của nhận thức cảm tính dường như được xác định bởi những tín hiệu rất yếu ớt trong bộ máy liên kết nhưng chúng “biết” rằng ba từ ấy có liên kết hay không (có mối dây liên hệ) rất lâu trước khi mối liên kết ấy thực sự được lật mở. Vai trò của nhận thức cảm tính trong phán đoán được khẳng định một cách khoa học thông qua thí nghiệm bởi một nhóm những nhà khoa học người Đức khác: Những yếu tố tác động làm gia tăng nhận thức cảm tính (hiệu ứng mồi, phông chữ rõ ràng, trình chiếu trước các từ ngữ) đã làm gia tăng khả năng nhìn nhận các từ ngữ có mối liên hệ với nhau.

    Một khám phá đáng chú ý khác nữa đó là hiệu ứng của tâm trạng diễn ra rất mạnh mẽ trong những “màn trình diễn” bản năng. Các nhân viên thí nghiệm lập ra một “danh mục trực giác” để đo đạc mức độ chuẩn xác. Họ nhận thấy rằng nếu các đối tượng tham gia thí nghiệm có tâm trạng tốt trước khi tham gia kiểm tra sẽ có mức độ chính xác cao gấp hai lần. Kết quả còn lạ lùng hơn nữa, đó là những đối tượng không vui vẻ còn không có khả năng hoàn thành những thí nghiệm trực giác một cách trọn vẹn và chính xác, sự phán đoán của họ chỉ dựa trên sự may rủi. Tâm trạng rõ ràng có ảnh hưởng đến hoạt động của Hệ thống 1: Khi chúng ta cảm thấy không thoải mái và không vui, chúng ta đánh mất sự nhạy cảm của trực giác.

    Những phát hiện này đã cung cấp thêm bằng chứng rõ ràng cho thấy tâm trạng, trực giác, sự sáng tạo, sự khờ khạo và sự tin cậy trong Hệ thống 1 đi thành một nhóm với nhau. Ở phía khác, sự buồn bã, thận trọng, hoài nghi, cách tiếp cận phân tích và nỗ lực, cố gắng cũng đi thành một nhóm với nhau. Tâm trạng vui vẻ khiến Hệ thống 2 giảm bớt sự co cứng, tạo ra hiệu quả cao hơn: Khi ở vào tâm trạng tốt, con người trở nên trực giác hơn và sáng tạo hơn, đồng thời cũng bớt thận trọng hơn và có xu hướng mắc những lỗi logic nhiều hơn. Một lần nữa, như “hiệu ứng tiếp xúc đơn thuần” sự kết nối tạo ra cảm giác sinh học. Tâm trạng tốt là dấu hiệu cho thấy mọi thứ nhìn chung đang đi theo chiều hướng tốt, môi trường xung quanh an toàn và không có lý do gì phải cảnh giác hết. Tâm trạng xấu cho thấy mọi thứ đang không ổn, có thể có sự đe dọa và cẩn trọng là điều cần thiết. Nhận thức cảm tính vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của một cảm giác thư thái.

    Thí nghiệm “Liên kết từ xa” còn cho chúng ta biết nhiều hơn về mối liên hệ giữa nhận thức cảm tính và hiệu ứng của mặt tích cực. Hãy xem hai bộ ba từ sau:

    Ngủ thư công tắc

    Muối sâu bọt biển

    Tất nhiên, bạn có thể không nhận ra máy đo xung điện hoạt động trên cơ mặt của bạn có thể cho biết bạn đã thoáng mỉm cười khi đọc bộ ba từ thứ hai, trong đó chúng có liên quan đến nhau (biển có thể là một đáp án). Phản ứng mỉm cười đối với sự liên tưởng xuất hiện trong chủ thể mà người đó có thể không hề nói gì về những mối liên kết giữa ba từ, chúng chỉ xuất hiện thoáng qua trước một bộ tam từ được xếp hàng ngang và truyền đi xung lực để nhấn vào phím dấu cách sau khi họ đọc xong. Nhận thức cảm tính xuất hiện một cách nhẹ nhàng thư thái để dễ dàng đưa ra một liên kết bộ tam.

    Sự thật hiển nhiên là khi chúng ta cảm thấy thoải mái và thư giãn, thì trực giác về sự gắn kết theo cách nói của các nhà khoa học là có sự liên hệ nhưng không nhất thiết là mối liên hệ nhân quả. Nhận thức cảm tính và mỉm cười diễn ra cùng với nhau nhưng có phải cảm giác thoải mái dẫn đến trực giác liên tưởng? Đúng, chính vậy. Các bằng chứng xuất phát từ cách tiếp cận thực nghiệm sáng tạo đã ngày càng trở nên phổ biến. Một vài người tham gia được đưa vào khung cảnh gợi nhắc cho họ cảm giác tốt đẹp: Họ được nghe những bản nhạc qua các cặp tai nghe mà “các nghiên cứu trước đó cho thấy dòng nhạc đó ảnh hưởng đến phản ứng xúc cảm của các cá nhân.” Câu chuyện này hoàn toàn loại bỏ sự gắn kết của trực giác. Khám phá cho thấy phản ứng cảm xúc ngắn, sau đó là sự trình chiếu của bộ tam từ ngữ (cảm xúc dễ chịu nếu bộ tam từ có sự gắn kết, hoặc ngược lại, khó chịu nếu bộ ba từ không có tính kết dính), thực tế là nền tảng cho các phán đoán về tính gắn kết. Ở đây Hệ thống 1 không có tác động gì cả. Những sự thay đổi cảm xúc giờ đây đã được tôn trọng, bởi không có gì ngạc nhiên khi chúng không có liên kết mang tính hệ quả.

    Điều này quả thực là tin tốt lành đối với các nhà nghiên cứu Tâm lý học, trong đó có sự kết hợp giữa kỹ thuật thực nghiệm và trong nó bao hàm cả kết quả, cả hai đều rất thiết thực và cực kỳ đáng kinh ngạc. Từ vài thập kỷ trở lại đây, chúng ta đã biết về hệ thống hoạt động tự động của Hệ thống 1. Những gì mà giờ đây chúng ta mới biết nghe giống như khoa học viễn tưởng vào thời kỳ cách đây 30 năm hay 40 năm. Tất cả đều vượt quá trí tưởng tượng của chúng ta, như việc phông chữ kém cũng ảnh hưởng tới nhận định về sự thật, hay làm cho hoạt động nhận thức hiệu quả hơn, hay chuyện một phản ứng xúc cảm xuất hiện khi hệ thống nhận thức của chúng ta thư giãn trước một bộ ba từ ngữ cũng có thể tạo ra cảm giác về sự cố kết. Ngành Tâm lý học lại đứng trước một thách thức lớn.

    NHẬN THỨC CẢM TÍNH LÊN TIẾNG

    “Đừng có bác bỏ kế hoạch kinh doanh của bọn họ chỉ vì phông chữ của nó trông hơi khó đọc.”

    “Chúng ta có xu hướng tin tưởng một cái gì đấy, chỉ vì nó được lặp đi lặp lại thường xuyên, giờ hãy thử nghĩ thêm về điều này xem sao.”

    “Sự thân thiết tạo ra niềm thích thú. Đây chính là ‘hiệu ứng tiếp xúc đơn thuần.’”

    “Hôm nay tôi đang vui và Hệ thống 2 của tôi yếu hơn ngày thường. Tôi phải cẩn thận hơn mới được.”




    Còn nữa
     
    Chỉnh sửa cuối: 26 Tháng sáu 2018
  10. Thanh Bình

    Bài viết:
    111
    Phần 1 - Chương 6: Quy chuẩn, kinh ngạc và động cơ
    Bấm để xem
    Đóng lại

    Những đặc tính chủ yếu và chức năng của Hệ thống 1 cùng Hệ thống 2 đã được giới thiệu tới bạn đọc trong các phần trước, trong đó đưa ra nhiều chi tiết cụ thể hơn về Hệ thống 1. Đầu óc của chúng ta có thể tưởng tượng rất phong phú và có khả năng sáng tạo ra những liên kết rất kỳ diệu. Nó quả thực giống như một chiếc máy tính vạn năng giúp chúng ta xử lý nhanh mọi dữ liệu, không phải vì nó có phần cứng theo tiêu chuẩn thông thường, mà nó có khả năng tái cấu trúc thế giới như ta đã thấy bằng rất nhiều loại liên tưởng chặt chẽ và phong phú, trong một bộ máy liên kết tự động nhưng chúng ta (Hệ thống 2) lại sở hữu vài khả năng kiểm soát bộ máy tìm kiếm của bộ nhớ, nó cũng có khả năng lập trình lại nó sao cho sự xuất hiện một sự kiện trong một môi trường có thể thu hút sự chú ý. Giờ chúng ta sẽ đi sâu hơn nữa vào những điều diệu kỳ cũng như giới hạn mà Hệ thống 1 có thể thực hiện.

    ĐÁNH GIÁ TIÊU CHUẨN

    Chức năng chính của Hệ thống 1 đó là duy trì và cập nhật một hình mẫu về thế giới riêng của bạn, là hình mẫu đại diện cho những điều bình thường trong thế giới ấy. Hình mẫu ấy được cấu trúc bởi các mối liên hệ, nó kết nối các ý tưởng về hoàn cảnh, sự kiện, hành động và kết quả là tất cả những gì thường xuyên xảy ra đồng thời, hoặc diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn. Khi tất cả những liên kết đó được hình thành và củng cố vững chắc, những hình mẫu của các ý tưởng liên kết trở thành đại diện cho cấu trúc các sự kiện trong cuộc sống của bạn, đồng thời nó xác định xem bạn sẽ biểu hiện tại thời điểm này cũng như những kỳ vọng cho tương lai của bạn như thế nào.

    Khả năng biết kinh ngạc chính là một khía cạnh chủ yếu trong đời sống tâm lý của chúng ta và bản thân nó cũng là chỉ báo nhạy cảm nhất về cách chúng ta tương tác với thế giới cũng như điều chúng ta kỳ vọng ở thế giới xung quanh. Có hai kiểu kinh ngạc chính: Một vài sự kỳ vọng là chủ động và chủ ý, chẳng hạn bạn biết mình đang chờ đợi một sự kiện đặc biệt nào diễn ra. Ví dụ gần đến giờ tan trường, có thể bạn sẽ trông đợi tiếng cửa mở của lũ trẻ khi đi học về; lúc cánh cửa mở ra, bạn có thể sẽ mong đợi tiếng nói quen thuộc của con mình. Cũng có thể bạn sẽ ngạc nhiên nếu một sự kiện mà bạn chủ động ngóng chờ không diễn ra. Nhưng phạm trù các sự kiện mà bạn chờ đợi một cách thụ động rộng lớn hơn; bạn không chờ đợi chúng nhưng bạn không ngạc nhiên khi chúng diễn ra. Có những sự kiện trở nên bình thường trong một số hoàn cảnh cụ thể, có thể là vì chúng không đủ và không đáng để trở thành một sự kiện được mong chờ xảy ra.

    Có một sự cố khiến việc lặp lại trở nên bớt ngạc nhiên hơn. Vài năm trước, vợ chồng tôi đi nghỉ ở một khu nghỉ dưỡng trên một hòn đảo nhỏ ở Rặng san hô lớn (Great Barrier Reef). Cả hòn đảo chỉ có 40 phòng nghỉ. Trong bữa tối, chúng tôi vô cùng kinh ngạc khi gặp một người quen, đó là nhà Tâm lý học có tên là Jon. Chúng tôi chào nhau rất hồ hởi và bày tỏ sự ngạc nhiên vì cuộc gặp tình cờ này. Ngày hôm sau Jon rời khỏi khu nghỉ dưỡng. Khoảng hai tuần sau, chúng tôi đi xem kịch ở London. Khi đèn khán phòng vừa mới tắt, một khán giả đến muộn ngồi ngay cạnh tôi. Đến giờ nghỉ giải lao, khi đèn bật sáng, tôi nhận ra người ngồi ngay cạnh tôi không ai khác, chính là Jon. Vợ chồng tôi sau đó cũng bình luận về việc hai lần vô tình gặp ông này, chúng tôi cùng có chung nhận định về hai thực tế: Thứ nhất, lần gặp vô tình thứ hai này đặc biệt hơn cả lần gặp đầu tiên; thứ hai, gặp Jon lần này khiến chúng tôi ít ngạc nhiên so với lần gặp đầu tiên. Rõ ràng là sau lần vô tình gặp đầu tiên, ít nhiều chúng tôi đã thay đổi cách nhìn nhận về Jon. Anh ta giờ đây là “một nhà tâm lý học có thể xuất hiện khi chúng tôi đi du lịch nước ngoài.” Chúng tôi (Hệ thống 2) biết rằng đó là một ý tưởng buồn cười nhưng Hệ thống 1 đã khiến chúng tôi gần như thấy rằng gặp Jon ở một nơi xa lạ là một chuyện bình thường. Chúng tôi sẽ lại được trải nghiệm cảm xúc kinh ngạc hơn nhiều nếu gặp một người quen nào khác, mà không phải là Jon, khi đi xem kịch ở London.

    Trong một vài trường hợp, những mong đợi thụ động có thể chuyển rất nhanh thành những mong đợi chủ động. Vào một buổi tối Chủ nhật vài năm trước, chúng tôi lái xe từ New York đến Princeton, sau một thời gian dài phải làm việc vất vả vào tất cả các ngày cuối tuần. Chúng tôi phát hiện ra một chiếc xe hơi cháy bên lề đường. Chủ nhật tiếp theo, khi đến đúng đoạn đường này, chúng tôi lại thấy một chiếc xe hơi khác đang bốc cháy. Một lần nữa, chúng tôi lại nhận ra mình bớt ngạc nhiên hơn so với lần đầu tiên khi trông thấy một chiếc xe hơi bị bốc cháy. Địa điểm đó giờ đây đã được gọi là “nơi những chiếc xe hơi bốc cháy.” Vì hoàn cảnh xảy ra các vụ cháy xe bị lặp lại nên đám cháy thứ hai không còn thu hút sự chú ý chủ động như lần đầu tiên nữa: Trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm sau, sau sự kiện này, chúng tôi vẫn nhớ về những chiếc xe bốc cháy ở địa điểm này mỗi khi đi qua và có thể nói, chúng tôi đã có sự chuẩn bị tinh thần để nhìn thấy một đám cháy khác (tất nhiên, thực tế thì điều đó không hề xảy ra).

    Nhà tâm lý học Dale Miller và tôi đã viết chung một tiểu luận nhằm lý giải cho hiện tượng khi nào thì các sự kiện được nhìn nhận là bình thường hoặc bất thường. Tôi sẽ sử dụng một ví dụ trong phần mô tả về “lý thuyết chuẩn tắc”, mặc dù cho đến nay thì cách hiểu của tôi về nó đã có đôi chút thay đổi.

    Một người tình cờ nhìn thấy một thực khách ở bàn bên cạnh trong một nhà hàng sang trọng đã nhăn mặt như thể bị đau đớn khi nếm thử một món súp. Hoạt động bình thường của một loạt các sự việc diễn ra sẽ bị thay đổi bởi một sự cố. Giờ thì sẽ chẳng có gì ngạc nhiên khi người quan sát thấy chính người khách nếm món súp kia phản ứng dữ dội vì bị một người phục vụ chạm vào, cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi một thực khách khác nghẹn ngào như muốn chực khóc khi nếm món súp từ một chiếc đĩa tương tự. Những sự kiện ấy và rất nhiều sự kiện khác sẽ có vẻ bình thường hơn thông thường, bởi vì chúng đã được lường trước. Hơn thế nữa, chúng xuất hiện với vẻ bình thường bởi vì chúng chỉ là sự biến đổi của khúc bất bình thường đầu tiên - người ta hồi tưởng lại sự cố ban đầu và kết nối các dữ kiện lại với nhau để phiên giải chúng.

    Hãy tưởng tượng bạn chính là người quan sát trong nhà hàng đó. Đầu tiên bạn sẽ ngạc nhiên khi nhìn thấy phản ứng bất thường của thực khách đầu tiên với món súp và bạn lại tiếp tục ngạc nhiên khi thực khách thứ hai giật mình bởi sự va chạm của người phục vụ. Tuy nhiên, sự kiện bất bình thường thứ hai gợi nhắc đến sự kiện đầu tiên trong bộ nhớ, cả hai sự kiện trở nên hợp lý khi chúng được sắp xếp để đứng cạnh nhau. Hai sự kiện hợp thành một mô hình, trong đó người khách đầu tiên nếm súp hẳn là một người đang bị căng thẳng một cách khác thường. Mặt khác, nếu sau khi thực khách đầu tiên nhăn mặt thì người khách tiếp theo từ chối món súp ấy, khiến cho hai sự ngạc nhiên liên tiếp sẽ có sự kết nối, chúng lý giải cho việc món súp đó bị khách hàng phàn nàn là điều bình thường.

    “Moses đã mang lên thuyền lớn mỗi loại động vật bao nhiêu con?”, người nhận ra câu hỏi này có vấn đề rất ít vì họ bị sa vào cái gọi là “ảo tưởng Moses”. Moses không hề mang con vật nào lên con thuyền lớn, mà là Noah đã mang lên. Cũng giống sự kiện thực khách nhăn mặt khi nếm súp ở trên, “ảo tưởng Moses” cũng dễ dàng được giải thích bởi “lý thuyết chuẩn tắc”. Câu chuyện các loài vật được mang lên con thuyền lớn được viết trong Kinh thánh và Moses không phải là một nhân vật bất thường trong hoàn cảnh ấy. Bạn có thể không có mong đợi tích cực nào về nhân vật này nhưng tên ông ta được nhắc đến không khiến bạn ngạc nhiên. Hơn nữa, hai cái tên Moses và Noah có số âm tiết bằng nhau nên đọc lên nghe có vẻ giống nhau. Cũng giống như bộ tam từ sản sinh ra nhận thức cảm tính, bạn sẽ phát hiện một cách vô thức mối liên hệ tiềm ẩn giữa “Moses” với “con tàu lớn” và nhờ đó, rất nhanh chóng bạn sẽ chấp nhận tính logic của câu hỏi trên. Nếu chỉ cần thay Moses bằng George W. Bush trong văn cảnh này thì bạn sẽ nhận ra ngay đây là một câu đùa chính trị vô duyên mà bạn sẽ không bị mắc phải bất cứ ảo tưởng nào.

    Ví dụ khác trong một đoạn văn từ xi măng xuất hiện nhưng không phù hợp với văn cảnh, hệ thống sẽ phát hiện ngay ra sự bất bình thường đó, điều này bạn đã được kiểm chứng ở phần trước. Bạn không biết chính xác từ nào nhưng bạn chắc chắn từ xi măng xuất hiện là không bình thường. Các nghiên cứu về phản ứng của não bộ cho thấy những gì phạm vào phạm trù tiêu chuẩn thông thường sẽ bị phát hiện nhanh một cách đáng kinh ngạc và vô cùng tài tình. Trong một thí nghiệm gần đây, người tham gia vào thí nghiệm được nghe câu “Trái Đất quay xung quanh những rắc rối mỗi năm một lần”. Một hình ảnh khác biệt hoàn toàn được vẽ lên trong hoạt động của bộ não, chỉ trong vòng 2/10 giây đầu tiên, khi từng từ quen thuộc được vang lên. Đáng kinh ngạc hơn, bộ não ấy cũng có cùng tốc độ xử lý thông tin, khi nghe một người đàn ông nói: “Tôi nghĩ mình đã có bầu vì sáng nào tôi cũng thấy nôn nao,” hoặc khi nghe một người có vẻ “mũ cao áo dài” phát biểu: “Tôi có một hình xăm to đùng sau lưng.” Tập hợp những hiểu biết của chúng ta về thế giới lập tức được huy động để “phản ứng” lại những điều phi lý: Giọng nói đó hẳn là của một nhân vật cao cấp người Anh và theo thói thường, những hình xăm lớn không phù hợp với những đối tượng này.

    Chúng ta giao tiếp được với nhau là nhờ vào sự hiểu biết chung của chúng ta về thế giới, ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng cũng chính là ngôn ngữ của phần lớn mọi người sử dụng. Khi tôi nhắc đến cái bàn mà không mô tả thêm bất cứ một chi tiết nào, bạn sẽ hiểu ý tôi muốn nói đến một cái bàn bình thường. Chắc chắn bạn biết cái bàn đó có một mặt phẳng, và không thể có đến 25 cái chân. Chúng ta có những quy chuẩn trong hầu hết các lĩnh vực và các quy chuẩn thông thường đó cung cấp cho ta nền tảng để lập tức dò ra được những sự bất bình thường như thể người đàn ông mang bầu hay một nhà hiền triết có hình xăm lớn.

    Để đánh giá được vai trò của các quy tắc trong giao tiếp, hãy xem câu văn sau: “Con chuột nhắt khổng lồ trèo lên thân của từng con voi bé xíu.” Tôi tin là những tiêu chuẩn thông thường về kích cỡ của một con chuột nhắt và một con voi của bạn sẽ không khác tôi là mấy. Chính những quy chuẩn ấy định ra kích cỡ thông thường cho các loài vật này và chúng cũng ẩn chứa những thông tin về thứ tự hoặc sự biến thiên của chúng trong từng phạm trù. Do đó sẽ khó khăn cho chúng ta khi cố hình dung trong đầu về hình ảnh một con chuột lớn hơn một con voi, đang sải từng bước chân qua thân của một con voi bé tí, con voi này còn bé hơn cả con chuột nhắt. Ngược lại, mỗi chúng ta dù rất khác biệt nhưng đều có thể tưởng tượng ra những con chuột nhỏ hơn một chiếc giày leo qua những con voi to hơn một chiếc ghế sô pha. Hệ thống 1, có khả năng hiểu ngôn ngữ, đã truy cập vào hệ thống quy chuẩn của từng phạm trù, định ra những chuỗi giá trị hợp lý, cũng như những tình huống điển hình nhất trong phạm trù đó.

    NHÌN RA NGUYÊN NHÂN VÀ MỤC ĐÍCH

    “Cha mẹ của Fred đến muộn. Những người quản lý khách sạn nghĩ rằng họ sẽ đến sớm hơn. Fred rất bực tức.” Bạn biết tại sao Fred lại cáu giận và không phải là vì những người quản lý khách sạn kỳ vọng họ đến sớm hơn. Trong mạng lưới liên hệ của bạn, sự giận dữ và sự trễ hẹn được liên kết với nhau như một cặp hiệu ứng và nguyên nhân có thể xảy ra, bởi vì giữa sự giận dữ và chuyện những người quản lý khách sạn kỳ vọng chẳng có liên hệ gì với nhau hết. Câu chuyện cực ngắn nhưng đầy tính liên kết trên minh họa trực tiếp cho ý tưởng. Tìm ra được những mối liên hệ nhân quả chính là một phần để bạn hiểu được nội dung một câu chuyện và đó là hoạt động tự động của Hệ thống 1. Hệ thống 2, sự tự ý thức của bản thân, lại có chức năng diễn giải một nguyên nhân và chấp nhận điều đó.

    Câu chuyện của Nassim Taleb trong Thiên nga đen minh họa cho quá trình tự động tìm kiếm nguyên nhân. Ông cho biết giá trái phiếu kho bạc vào ngày Saddam Hussein bị bắt tại nơi trú ẩn ở Iraq tăng lên. Đối với các nhà đầu tư, thì dường như họ luôn tìm kiếm những nguồn tài sản an toàn hơn, vậy là hãng tin Bloomberg giật tít: TRÁI PHIẾU KHO BẠC MỸ TĂNG GIÁ; BẮT ĐƯỢC HUSSEIN CÓ THỂ KHÔNG HẠN CHẾ ĐƯỢC KHỦNG BỐ. Nửa giờ sau, giá trái phiếu quốc gia lại trở về mức giá cũ, tin nổi bật trên báo được sửa lại thành: GIÁ TRÁI PHIẾU KHO BẠC QUỐC GIA GIẢM; HUSSEIN BỊ BẮT KHIẾN NHỮNG TÀI SẢN RỦI RO TRỞ NÊN HẤP DẪN. Rõ ràng sự kiện bắt được Hussein là tin chính trong ngày và theo cơ chế tự động tìm kiếm nguyên nhân bao trùm trong suy nghĩ của con người, nó được định trước là một cách giải thích cho những gì đã diễn ra đối với thị trường tài chính của ngày hôm ấy. Nhìn qua thì cả hai tin bài nổi bật đều có vẻ giống như lời giải thích cho sự thay đổi của thị trường chứng khoán nhưng vấn đề là hai cách giải thích đấy hoàn toàn trái ngược nhau và điều này không thể lý giải nổi. Trên thực tế, tất cả các tít bài xuất hiện đều phải thỏa mãn nhu cầu gắn kết của chúng ta: Một sự kiện lớn diễn ra bao giờ cũng phải có hệ quả đi kèm và các hệ quả cần nguyên nhân để giải thích cho chúng. Lượng thông tin mà ta biết trong ngày hôm đó là giới hạn và Hệ thống 1 lại rất giỏi trong việc tìm kiếm những liên kết mang tính nhân quả trong mỗi câu chuyện để liên kết những mảnh ghép thông tin trong phạm vi cho phép.

    Hãy đọc câu văn sau:

    Sau khi dành cả một ngày khám phá những cảnh đẹp dọc các con phố đông đúc của thành phố New York, Jane phát hiện ra ví tiền của nàng đã biến mất.

    Khi đọc câu chuyện nhỏ này, chúng ta (và rất nhiều người khác) tham gia vào một bài kiểm tra trí nhớ bất ngờ, từ móc túi được gắn kết với câu chuyện chặt chẽ hơn rất nhiều so với từ cảnh đẹp, mặc dù từ cảnh đẹp mới là từ xuất hiện trong câu văn, còn từ móc túi thì không hề xuất hiện. Sự kiện bị mất ví có thể khiến người ta nghĩ đến rất nhiều nguyên nhân: Chiếc ví bị rơi ra khỏi túi quần, bị bỏ quên trong một nhà hàng nào đó... Tuy nhiên, khi ai đó bị mất ví ở New York, yếu tố đông đúc được nhắc đến, chúng khiến cho nguyên nhân bị móc túi giải thích hợp lý cho câu chuyện bị mất ví trên hơn.

    Nhà tâm lý học quý tộc người Bỉ Albert Michotte đã xuất bản một cuốn sách vào năm 1945 (được dịch sang tiếng Anh vào năm 1963) đã làm thay đổi hoàn toàn tư duy của con người về mối quan hệ nhân quả đã tồn tại nhiều thế kỷ trước. Thông thường, con người chấp thuận việc kết luận về các nguyên nhân theo quy luật tự nhiên bằng cách quan sát mối liên hệ giữa các sự kiện. Chúng ta đã chứng kiến hàng ngàn lần hình ảnh một đồ vật khi bị một vật khác va chạm thì lập tức vật đó sẽ di chuyển, thường (nhưng không phải luôn luôn) theo cùng một hướng. Hiện tượng đó diễn ra khi một quả bóng bi-a va vào một quả bóng bi-a khác, hay chiếc bình hoa bị rơi khi tay bạn không may đẩy phải nó. Michotte lại đưa ra một ý tưởng khác: Ông cho rằng chúng ta nhìn thấy nguyên nhân, rõ ràng như khi ta nhìn thấy màu sắc vậy. Để bảo vệ luận điểm của mình, ông đã tạo ra một đoạn phim trong đó có một hình vuông màu đen vẽ trên giấy, được tạo hiệu ứng chuyển động; nó va vào một hình vuông khác, khiến cho hình vuông này cũng chuyển động theo. Những người quan sát biết rằng không hề có sự tương tác trực tiếp ở đây, tuy nhiên họ đã có sẵn “ảo tưởng về nguyên nhân” trong đầu óc mình. Nếu đối tượng thứ hai bắt đầu chuyển động, họ sẽ mô tả chúng di chuyển được là do “tác động” của đối tượng thứ nhất. Các thí nghiệm này đã chứng minh rằng, cả những em bé mới 6 tháng tuổi cũng nhìn thấy hiện tượng nguyên nhân và kết quả, đồng thời chúng biểu thị sự ngạc nhiên khi cảnh tượng bị thay đổi. Hiển nhiên là từ khi sinh ra chúng ta đã có ấn tượng về quan hệ nhân quả, điều này không hề phụ thuộc vào việc chúng ta có ý thức gì về các khía cạnh của quan hệ nhân quả hay không. Chúng là sản phẩm của Hệ thống 1.

    Năm 1994, cũng vào thời điểm Michotte công bố luận chứng của mình về quan hệ nhân quả tự nhiên, các nhà tâm lý học Fritz Heider và Mary-Ann Simmel đã sử dụng một phương pháp tương tự như của Michotte để chứng minh năng lực nhận thức mối liên hệ nhân quả có chủ ý. Họ làm một bộ phim, chỉ vẻn vẹn một phút bốn mươi giây, trong đó bạn nhìn thấy một hình tam giác lớn, một hình tam giác nhỏ và một hình tròn di chuyển tạo thành một hình ngôi nhà có cửa mở. Người xem nhìn thấy hình tam giác lớn rất hung dữ “bắt nạt” hình tam giác nhỏ, một hình tròn “sợ hãi”, một hình tròn khác và một hình chữ nhật nhỏ hùa vào chống lại kẻ bắt nạt; họ cũng quan sát xung quanh cánh cửa diễn ra rất nhiều va chạm và rồi cuối cùng một vụ nổ diễn ra. Nhận thức chủ động và cảm xúc khi xem đoạn phim là không thể tránh khỏi, chỉ có những người thần kinh có vấn đề mới không nhận ra điều này. Tất nhiên, tất cả hoàn toàn diễn ra trong đầu óc của bạn. Bộ não của bạn đã sẵn sàng, thậm chí là háo hức để chỉ đích danh những tác nhân, gán cho chúng những tính cách của con người với những ý nghĩa cụ thể, và nhìn nhận hành động của họ như biểu hiện của những cá nhân có chủ đích hẳn hoi. Một lần nữa, sự hiển nhiên ở đây là chúng ta khi sinh ra đều đã có sẵn những quy ước có chủ định: Ngay cả trẻ nhỏ dưới một tuổi cũng biết đâu là những kẻ bắt nạt và ai là những nạn nhân và kỳ vọng ai đó sẽ tìm ra con đường ngắn nhất để đạt được cái mà họ đang theo đuổi.

    Kinh nghiệm của hành động tự chủ tồn tại khá độc lập so với ý thức về mối quan hệ nhân quả. Mặc dù chính bạn với tay lấy lọ muối nhưng bạn không hề nghĩ đến một loạt những hệ quả sẽ diễn ra sau hành động với tay lấy lọ muối đó. Bạn biết rằng sẽ có hệ quả sau quyết định mà chính tâm trí bạn đã điều khiển thực hiện, chỉ bởi vì bạn muốn thêm muối vào thức ăn của mình. Rất nhiều người nhận thấy nhiều hành động của mình có nguồn gốc và nguyên nhân từ chính tâm trí và họ cho đó là điều rất tự nhiên. Nhà tâm lý học Paul Bloom viết cho Tạp chí The Atlantic năm 2005 đã đưa ra một tuyên bố gây sốc, rằng chính sự phân chia tự nhiên giữa ý thức về mối quan hệ nhân quả mang tính vật chất và tâm lý giải thích được gần như đầy đủ về các niềm tin tôn giáo. Ông quan sát rằng “chúng ta nhận thức thế giới của các sự vật chủ yếu tách biệt so với thế giới tâm linh, điều đó khiến ta có khả năng hình dung được sự tồn tại của những cái xác không hồn và những phần hồn không xác.” Bản thân chúng ta đã được nhào nặn để thừa nhận cả hai kiểu quan hệ nhân quả, khiến ta chấp nhận hai niềm tin chủ yếu trong rất nhiều tôn giáo một cách rất tự nhiên: Có một đấng thần linh vô hình sáng tạo ra cả thế giới hữu hình và có những tâm hồn bất tử vẫn đang tiếp tục điều khiển cơ thể chúng ta, bất kể khi chúng ta còn sống hay đã chết. Theo quan điểm của Bloom, cả hai khái niệm về mối quan hệ nhân quả đều bị tác động riêng biệt bởi nguồn năng lượng tiến hóa khác khau, tạo thành nguồn gốc của tôn giáo trong cấu trúc của Hệ thống 1.

    Điểm nổi bật của những trực giác nhân quả chính là chủ đề chính trong cuốn sách này, bởi con người hầu hết bị áp đặt suy nghĩ hệ quả một cách không chủ định, trong những tình huống đòi hỏi tư duy phân tích lý trí. Suy nghĩ lý trí bắt nguồn từ những kết luận về những trường hợp cụ thể trong một loạt những đặc tính cùng loại hoặc đồng nhất. Không may, Hệ thống 1 không có khả năng lý trí, Hệ thống 2 có thể học cách tư duy hệ thống, nhưng rất ít người được rèn luyện đủ để thực hiện điều này.

    Luận chứng về tâm lý học nhân quả chính là nền tảng khiến tôi quyết định mô tả quá trình nhận thức tâm lý bằng cách sử dụng những ẩn dụ về những nhân tố trung gian, mà ít quan tâm tới tính ổn định của chúng. Đôi khi tôi thích ví Hệ thống 1 là một nhân tố với rất nhiều nét tính cách và đặc quyền, đôi khi tôi lại cho rằng nó là một bộ máy liên kết đại diện cho hiện thực với rất nhiều mối liên hệ phức tạp. Hệ thống và bộ máy đều là những hình ảnh tưởng tượng; lý do tôi sử dụng chúng là bởi chúng phù hợp với cách chúng ta suy nghĩ về các nguyên nhân. Hình tam giác hay hình tròn của Heider không hẳn là những nhân tố mà nó chỉ là cách dễ nhất và tự nhiên nhất khi chúng ta nghĩ về chúng. Tôi giả định rằng bạn (cũng như tôi) sẽ thấy đó là cách dễ nhất khi nghĩ về trí óc nếu chúng ta mô tả những gì đang diễn ra dựa trên những nét tiêu biểu và chủ định (hai hệ thống) và đôi khi trên phương diện những chuẩn mực máy móc (bộ máy liên kết). Tôi không có ý định thuyết phục bạn rằng các hệ thống này có thật và tôi cũng không hề có ý định áp đặt bạn phải tin rằng hình tam giác lớn của Heider thực sự là “một kẻ hách dịch.”

    SỰ CHUẨN MỰC VÀ NGUYÊN NHÂN LÊN TIẾNG

    “Khi phát hiện ứng viên thứ hai hoá ra là một người bạn cũ, tôi không còn ngạc nhiên nhiều nữa. Một kinh nghiệm dẫu mới mẻ đến đâu mà bị lặp lại, dù chỉ một tí tẹo cũng khiến nó trở nên bình thường!”

    “Khi khảo sát phản hồi của khách hàng với sản phẩm, hãy đảm bảo là chúng ta không tập trung quá vào con số trung bình. Chúng ta cần cân nhắc đến một dải những phản ứng thông thường.”

    “Cô ta không thể chấp nhận được sự thật đơn giản là cô ấy quá thiếu may mắn; cô ấy cần một nguyên nhân cụ thể lý giải cho sự thật đó. Có thể cuối cùng cô ta sẽ nghĩ rằng đó là vì có ai đó chủ định phá hoại ngầm thành quả của mình.”
    Còn nữa
     
    Chỉnh sửa cuối: 26 Tháng sáu 2018
  11. Thanh Bình

    Bài viết:
    111
    Phần 1 - Chương 7: Bộ máy đi tắt đón đầu
    Bấm để xem
    Đóng lại

    Nhà hài kịch vĩ đại Danny Kaye đã phát biểu một câu mà tôi vẫn nhớ như in từ khi tôi còn là một thanh niên. Khi nhắc đến một người phụ nữ mà ông không ưa, ông nói: “Nơi chốn yêu thích của cô ta là được ở một mình, còn môn thể thao ưa thích của cô ta là nhảy cóc tới kết quả.” Khi đọc được dòng này, tôi nhớ lại cuộc trò chuyện trước đó với Amos Tversky về ý thức của trực quan thống kê và giờ tôi tin rằng nó gợi ý cho ta cách mô tả hợp lý về chức năng của Hệ thống 1. Các kết luận hồ đồ có thể hữu ích. Nếu như các kết luận ấy có vẻ chính xác thì cái giá phải trả cho những sai lầm cũng chấp nhận được và nếu sự “đi tắt đón đầu” đó giúp bạn tiết kiệm thời gian và công sức. Nhưng kết luận hồ đồ ẩn chứa nhiều rủi ro trong những tình huống không quen thuộc, thiệt hại lớn và không có thời gian để thu thập thêm thông tin. Có những tình huống trong đó những lỗi sai trực giác có thể xảy ra nhưng nó cũng có thể được cảnh báo trước nếu có sự can thiệp kịp thời của Hệ thống 2.

    PHỚT LỜ SỰ MƠ HỒ VÀ LOẠI TRỪ SỰ HOÀI NGHI

    Ba tấm bảng trong Hình 6 dưới đây có điểm chung là gì? Câu trả lời là tất cả đều không rõ nghĩa. Gần như chắc chắn là bạn sẽ đọc 3 ký tự trong tấm bảng bên tay trái là A B C, còn 3 ký tự trong tấm bảng bên tay phải là 12 13 14, mặc dù hai ký tự giữa của hai bảng giống hệt nhau. Bạn hoàn toàn có thể diễn giải chúng thành A 13 C hoặc 12 B 14 nhưng bạn đã không làm như vậy. Tại sao lại không? Cùng một hình ảnh nhưng trong những ngữ cảnh khác nhau lại được hiểu theo những cách khác nhau, lúc thì được hiểu là một chữ cái, lúc lại được hiểu là một con số. Toàn bộ ngữ cảnh đã giúp bạn xác nhận cách diễn giải mỗi thành tố. Các ký tự rất mơ hồ, nhưng bạn đã đưa ra được ngay kết luận trong từng trường hợp và không nhận ra rằng sự mơ hồ đã được giải quyết.

    [​IMG]

    Trong trường hợp tấm bảng ở giữa, bạn có thể hình dung ra một người phụ nữ đang nghĩ đến tiền bạc, đi bộ tiến về phía một tòa nhà có những nhân viên thu ngân cùng các loại két sắt. Nhưng cách diễn giải hợp lý đó không phải là cách diễn giải duy nhất; vì thế câu văn đó rất mơ hồ. Nếu trước câu đó là câu “Họ nhẹ nhàng chèo thuyền xuôi theo dòng sông,” bạn sẽ hình dung ra một cảnh tượng hoàn toàn khác. Khi bạn vừa nghĩ đến một con sông, từ "ngân hàng" sẽ không còn liên hệ với tiền bạc nữa. Khi thiếu ngữ cảnh, Hệ thống 1 thường diễn giải theo cách gần gũi với nó nhất. Tất cả chúng ta đều biết rằng đó là Hệ thống 1 bởi vì bạn không hề nhận ra mình đã đưa ra lựa chọn hoặc còn có một cách diễn giải hợp lý khác. Trừ khi bạn vừa mới chèo thuyền cách đây không lâu và dành thời gian đi bộ dọc bờ sông, thì có thể bạn sẽ diễn giải câu văn trên theo cách thứ hai. Nhưng khi chưa chắc chắn, Hệ thống 1 sẽ “đoán đại” ra một câu trả lời và câu trả lời hú họa đó hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm cá nhân. Quy luật may rủi rất nhanh nhạy: Những sự kiện gần nhất và những ngữ cảnh gần nhất sẽ có sức nặng nhất trong việc đưa ra cách diễn giải. Khi không có bất cứ sự kiện nào lóe lên trong đầu, thì lúc đó những ký ức gần nhất sẽ được trí óc huy động. Nếu những kinh nghiệm gần nhất và đáng nhớ nhất “reo” lên rằng đó là các chữ cái ABC thì bạn không thể nào diễn giải thành A13C được.

    Khía cạnh quan trọng nhất trong cả hai ví dụ trên là: Một quyết định rõ ràng đã được đưa ra nhưng bạn không hề biết. Chỉ có một cách diễn giải xuất hiện trong đầu bạn và bạn không bao giờ để ý đến sự mơ hồ của nó. Hệ thống 1 không có sẵn những phương án để thay thế, hoặc thậm chí nó còn không hề nhận thức được thực tế là còn có những phương án khác để thay thế. Ý thức về sự hoài nghi vốn không có trong danh mục của Hệ thống 1; nó đòi hỏi duy trì cùng một lúc những sự diễn giải không tương thích trong đầu óc và điều đó đòi hỏi nỗ lực của trí óc. Sự thiếu chắc chắn và nghi ngờ nằm trong lĩnh vực của Hệ thống 2.

    SAI LỆCH VỀ NIỀM TIN VÀ KHẲNG ĐỊNH

    Nhà Tâm lý học Daniel Gilbert, được nhiều người biết đến với tư cách là tác giả cuốn sách Stumbling to Happiness (Tạm dịch: Va phải hạnh phúc), có lần đã từng viết một tiểu luận có tựa đề “Hệ thống trí não tin tưởng”, trong đó ông phát triển một giả thuyết về niềm tin và hoài nghi mà ông theo đuổi của nhà Triết học Baruch Spinoza thế kỷ 17. Gilbert cho rằng để hiểu một thông điệp, trước tiên phải có nỗ lực tin tưởng thông điệp đó: Nếu như nó đúng thì thông điệp của nó là gì. Chỉ khi đó bạn mới có thể quyết định xem có nên tin hay không tin vào nó. Sự cố gắng tin tưởng là hoạt động tự động thuộc về Hệ thống 1, trong đó có việc xây dựng những diễn giải hợp lý nhất của tình huống đó. Ngay cả đối với một tuyên bố vớ vẩn, Gilbert lập luận rằng, cũng có thể tạo ra một niềm tin ban đầu nào đó. Hãy xem ví dụ của ông: “Cá hồi ăn kẹo.” Có thể ngay lập tức bạn sẽ thấy được một loạt những ấn tượng về cá và kẹo xuất hiện trong đầu như một tiến trình tự động của bộ máy liên tưởng, tìm kiếm những liên kết giữa hai phạm trù, khiến cho một câu nói vô nghĩa cũng trở nên có nghĩa.

    Gilbert cho rằng sự hoài nghi thuộc quá trình tư duy của Hệ thống 2 và ông đưa ra một thí nghiệm hết sức tinh tế để chứng minh cho luận điểm của mình. Những người tham gia thí nghiệm nhìn thấy những câu vô nghĩa kiểu như “Linh tinh là một ngọn lửa” một vài giây sau khi xuất hiện những từ đơn như “Đúng” hoặc “Sai”. Một lúc sau, họ được kiểm tra xem trong trí nhớ câu nào được dán nhãn là “Đúng”. Điều kiện của thí nghiệm là những người tham gia sẽ phải nhớ một dãy số trong suốt tiến trình thực hiện thí nghiệm. Sự “xen ngang” Hệ thống 2 như thế đã tạo ra hiệu ứng có lựa chọn: Nó khiến cho người ta khó mà “hoài nghi” những câu sai. Trong thí nghiệm trí nhớ sau đó, cuối cùng thì những người tham gia thí nghiệm vốn đã rất mệt mỏi cũng tích đại kết quả rất nhiều câu sai thành đúng. Kết quả đã quá rõ ràng: Khi Hệ thống 2 đang bận rộn, chúng ta sẽ tin hầu hết mọi thứ. Hệ thống 1 có xu hướng cả tin và những sai lệch dẫn đến niềm tin, Hệ thống 2 thì đảm nhận phần hoài nghi và ngờ vực, nhưng đôi khi bận rộn sẽ khiến chúng trở nên lười biếng. Thực vậy, có một sự thật hiển nhiên là con người ta có xu hướng bị ảnh hưởng bởi những thông điệp thuyết phục vô nghĩa, như các quảng cáo thương mại chẳng hạn, nhất là khi người ta đang cảm thấy mệt mỏi và kiệt sức.

    Các tổ chức của hệ thống bộ nhớ liên kết đóng góp đáng kể vào những sai lệch kiểm định. Khi được hỏi là “Sam có thân thiện không?” sẽ tạo ra ấn tượng tức thì về cách hành xử của Sam hơn là khi được hỏi “Có phải Sam kém thân thiện không?” Trí óc sẽ tìm kiếm những bằng chứng xác nhận, được biết tới với tên gọi chiến lược thử nghiệm khả năng cũng chính là cách mà Hệ thống 2 kiểm tra một giả thuyết. Đối lập với những nguyên tắc triết học, trong đó người ta kiểm tra các giả thuyết bằng cách phủ định lại các giả thuyết đó, thì con người (và cả những nhà khoa học, thường xuyên) tìm kiếm những dữ liệu có xu hướng tương thích và bổ trợ cho những điều mà người ta đang tin tưởng. Các sai lệch được kiểm chứng thuộc Hệ thống 1 ưu tiên những gợi ý và phóng đại việc chấp nhận tính thiếu suy xét trong những sự kiện có vẻ đúng hoặc cực đoan. Nếu bạn được hỏi về khả năng một cơn bão tấn công California trong vòng 30 năm tới, hình ảnh xuất hiện trong đầu bạn đúng thực là một trận bão to, đúng như cách mà Gilbert đưa ra những câu nhận định vô nghĩa như “Cá hồi ăn kẹo” vậy. Bạn sẽ thiên về hướng đưa ra một nhận định thái quá về khả năng xảy ra một thảm họa.

    SỰ GẮN KẾT TÌNH CẢM THÁI QUÁ (HIỆU ỨNG HÀO QUANG)

    Nếu bạn yêu thích chủ trương chính trị của Tổng thống đương nhiệm, nhiều khả năng bạn sẽ thích giọng nói và sự hiện diện của ông ta. Xu hướng yêu thích (hoặc ghét bỏ) mọi thứ của một người, bao gồm cả những thứ bạn không quan sát thấy được biết tới với tên gọi “Hiệu ứng hào quang”. Thuật ngữ này được sử dụng trong ngành Tâm lý học hàng thế kỷ nay nhưng nó không được sử dụng phổ biến trong ngôn ngữ đời thường. Thật là một sự đáng tiếc, bởi “Hiệu ứng hào quang” là một cái tên hay cho một thiên lệch phổ biến, đóng vai trò lớn trong việc chúng ta nhận định về con người và hoàn cảnh. Đó là một trong những cách tái hiện một thế giới mà Hệ thống 1 vận hành một cách đơn giản hơn và nhiều liên kết hơn so với đời thực.

    Bạn gặp một phụ nữ có tên là Joan trong một bữa tiệc, bạn thấy cô ta rất duyên dáng và dễ bắt chuyện. Giờ thì tên của cô ấy lại xuất hiện với tư cách một người được kêu gọi đóng góp cho một quỹ từ thiện. Bạn biết gì về sự hào phóng của Joan? Câu trả lời chính xác là bạn hầu như không biết gì cả, bởi vì có rất ít lý do để tin rằng một người dễ chịu trong đời sống xã hội cũng là một nhà từ thiện hào phóng. Tuy nhiên, bạn thích Joan và bạn sẽ nhớ lại cảm giác yêu mến cô ấy khi nghĩ về cô ta. Bạn cũng thích sự hào phóng và những người hào hiệp. Bằng sự liên tưởng, dẫn đến việc giờ bạn tin rằng Joan cũng rất hào phóng. Và giờ khi bạn đã tin rằng cô ta hào phóng, có thể bạn còn thấy thích cô ta hơn cả trước kia, bởi vì bạn đã tự động gán thêm tính cách hào phóng bên cạnh những ấn tượng tốt đẹp mà cô ta đã tạo ra cho bạn.

    Sự thực rõ ràng rằng: Sự hào phóng không hề xuất hiện trong câu chuyện của Joan và khoảng trống ấy được lấp đầy bởi một sự võ đoán, phù hợp với tâm trạng mà bạn đã có với cô ấy. Trong những tình huống khác, hiện thực dần dần được phiên giải và sự diễn giải sẽ bị tâm trạng đi kèm với những ấn tượng ban đầu phủ bóng. Trong ngành Tâm lý học cổ điển, Solomon Asch đã đưa ra những tính từ mô tả về hai người khác nhau và hỏi xem mọi người nhận xét như thế nào về tính cách riêng của mỗi người. Bạn nghĩ thế nào về Alan và Ben?

    Alan: thông minh – chăm chỉ - bốc đồng – khó tính – cứng đầu – đố kỵ

    Ben: đố kỵ - cứng đầu – khó tính – bốc đồng – chăm chỉ - thông minh.

    Nếu bạn cũng giống hầu hết mọi người, bạn sẽ thấy Alan đáng mến hơn Ben rất nhiều. Những nét tính cách đầu tiên trong danh sách đã thay đổi hầu hết ý nghĩa của những tính cách xuất hiện phía sau. Sự cứng đầu của một người thông minh thường dễ được chấp nhận và thậm chí còn khiến người ta phải tôn trọng hơn nhưng sự thông minh trong một kẻ đố kỵ và cứng đầu khiến anh ta trở nên nguy hiểm hơn rất nhiều. “Hiệu ứng hào quang” là một ví dụ điển hình của sự tối nghĩa: Cũng giống như từ "ngân hàng" trong phần trước, tính từ cứng đầu là một từ tối nghĩa và có thể được diễn giải bằng nhiều cách khác nhau sao cho phù hợp với ngữ cảnh.

    Có rất nhiều phiên bản khác của chủ đề nghiên cứu này. Những người tham gia thí nghiệm trong một nghiên cứu được xem trước ba tính từ miêu tả Alan; sau đó họ được cho xem tiếp ba tính từ tiếp theo, được mô tả là tính cách của một người khác. Khi họ đã hình dung ra hai con người khác nhau, những người tham gia thí nghiệm được hỏi liệu có khả năng nào cả sáu tính từ này đều mô tả cùng một người không và hầu hết những người được hỏi đều trả lời điều đó là không thể!

    Trong đoạn sau, chúng ta sẽ quan sát những nét cá tính của một con người thường được xác định dựa trên may mắn. Tuy vậy, thứ tự xuất hiện là cả vấn đề, bởi vì “Hiệu ứng hào quang” sẽ làm tăng sức nặng của những ấn tượng đầu tiên, đôi khi khiến những thông tin phía sau đó hầu như vô nghĩa. Hồi đầu khi mới làm giảng viên, tôi đã đánh giá các bài tiểu luận của sinh viên theo lối truyền thống. Đó là tôi sẽ lấy một bảng điểm và đọc tất cả các bài tiểu luận của một sinh viên đến đâu thì chấm điểm đến đó. Sau đó tôi sẽ cộng tổng số điểm của sinh viên đó lại và tiếp tục chấm điểm tiểu luận của sinh viên tiếp theo. Dần dần tôi nhận thấy cách đánh giá của mình về các bài tiểu luận của mỗi sinh viên hóa ra rất đồng nhất. Tôi bắt đầu hoài nghi liệu cách đánh giá của tôi có phải cũng là một dạng “Hiệu ứng hào quang” không, rằng câu hỏi đầu tiên mà tôi chấm điểm đã tạo ra hiệu ứng bất cân xứng đối với toàn thể các câu hỏi phía sau. Cơ chế ấy rất đơn giản: Nếu bài tiểu luận đầu tiên của một sinh viên nào đó được chấm điểm cao, thì sinh viên đó sẽ được hưởng lợi từ việc tôi sẽ loại bỏ những hoài nghi khi vấp phải bất cứ câu văn hoặc dòng nào tối nghĩa trong bài kế tiếp. Điều này nghe vẻ có lý. Chắc chắn một sinh viên đã làm tốt trong bài tiểu luận đầu tiên sẽ không mắc phải những lỗi ngớ ngẩn trong bài tiểu luận thứ hai! Và đó chính là vấn đề nghiêm trọng mà tôi đã gặp phải trong cách làm việc của mình. Nếu một sinh viên viết hai bài tiểu luận, một bài tốt, một bài dở, thì cuối cùng tôi lại đánh giá cả hai bài phụ thuộc vào kết quả đánh giá bài đầu tiên mà tôi đọc được. Tôi đã nói với các sinh viên rằng hai bài tiểu luận đó có giá trị ngang nhau nhưng điều đó không đúng: Bài tiểu luận đầu tiên đã có ảnh hưởng lớn hơn nhiều trong việc đánh giá chung khả năng của sinh viên đó so với bài tiểu luận thứ hai. Điều này không thể chấp nhận được.

    Tôi đã tiến hành một tiến trình chấm điểm khác. Thay vì đọc các tập tiểu luận của sinh viên theo thứ tự, tôi đã đọc và chấm điểm tất cả các bài tiểu luận số một của tất cả các sinh viên trước, sau đó mới tiến hành chấm điểm bài tiểu luận số hai. Tôi chắc chắn là mình đã ghi lại tất cả điểm vào một bảng điểm riêng để đảm bảo mình không bị thiên vị (dù chỉ là vô thức) khi chấm đến bài tiểu luận thứ hai. Sau khi thay đổi phương pháp, tôi rút ra một kết luận khiến tôi lâm vào tình thế lúng túng: Sự tự tin trong việc chấm điểm của tôi tụt xuống mức thê thảm. Lý do là tôi thường xuyên phải trải nghiệm một cảm giác khó chịu và lần nào cũng như là mới với tôi. Khi tôi thất vọng với bài tiểu luận thứ hai của một sinh viên nào đó, tôi chấm cho cậu ta điểm kém và thi thoảng tôi phát hiện ra mình đã từng cho chính sinh viên này điểm số thuộc hàng cao nhất cho bài tiểu luận số một. Tôi cũng nhận thấy mình đã cố gắng giảm thiểu sự không nhất quán bằng cách thay đổi số điểm mà tôi chưa kịp ghi vào bảng điểm và nhận thấy thật khó mà làm theo nguyên tắc đơn giản, là không bao giờ được nhân nhượng như thế. Điểm số của tôi dành cho mỗi sinh viên đã thay đổi một cách đáng kể. Sự thiếu hụt liên kết khiến tôi cảm thấy mình bất ổn và chán nản với việc chấm điểm này.

    Giờ tôi cảm thấy không vui và tin cậy hơn vào điểm số mình đã chấm cho sinh viên trước đó nhưng tôi nhận thấy đó là một tín hiệu tốt, một chỉ báo cho thấy cách chấm điểm mới của tôi tối ưu hơn. Sự chắc chắn mà tôi tận hưởng trong lần chấm điểm trước đó không đảm bảo, nó sản sinh ra cảm giác của tư duy “cảm tính” và Hệ thống 2 của tôi vui vẻ và dễ dãi chấp nhận kết quả đánh giá cuối cùng. Bằng việc để mình bị bài tiểu luận đầu tiên tác động mạnh tới kết quả đánh giá của bài tiểu luận thứ hai, tôi đã để bản thân nhận thấy sự thiếu hợp lý khi thấy một sinh viên có thể làm rất tốt ở bài tiểu luận này, lại có thể làm rất tệ ở bài tiểu luận khác. Tính không nhất quán xuất hiện một cách rõ ràng khi tôi chuyển qua cách đánh giá mới: Nó cho thấy không thể dùng một đề bài đơn lẻ để đánh giá về hiểu biết của một sinh viên cũng như nó phản ánh sự bất hợp lý trong cách đánh giá của riêng tôi.

    Phương pháp mà tôi sử dụng để giảm thiểu “Hiệu ứng hào quang” phù hợp với nguyên tắc phổ biến là: Lỗi sai bất tương đồng! Để hiểu được hoạt động của nguyên tắc này, hãy hình dung có rất nhiều người cùng trông thấy những chiếc bình thủy tinh đựng đồng xu và họ phải đoán xem trong mỗi bình thủy tinh có bao nhiêu đồng xu. Jame Surowiecki giải thích trong cuốn sách “Trí tuệ đám đông” nổi tiếng của mình, rằng đây là một loại nhiệm vụ mà đối với mỗi người đơn lẻ thì hiệu quả đạt được sẽ rất thấp nhưng nếu có cả một đám đông cùng thực hiện nhiệm vụ này thì kết quả cuối cùng lại chính xác đến kinh ngạc. Sẽ có một số người đưa ra con số quá lớn, một số khác lại đưa ra con số quá nhỏ so với thực tế nhưng khi có rất nhiều người dự đoán, thì con số trung bình cuối cùng thường có xu hướng chuẩn xác. Cơ chế rất rõ ràng: Mỗi người đều được nhìn thấy cùng một chiếc bình và tất cả những đánh giá của họ đều có một điểm chung cơ bản. Mặt khác, các lỗi sai mà các cá thể đưa ra lại độc lập so với những lỗi sai của người khác và (trong trường hợp không có lỗi sai hệ thống), họ có xu hướng đưa con số trung bình về mức 0. Tuy vậy, “nguyên tắc lỗi sai phổ biến” chỉ có tác dụng trong trường hợp tất cả mọi người đều độc lập khi quan sát và các lỗi sai của họ không có điểm tương đồng. Nếu những người quan sát có cùng một sai lệch, thì tập hợp kết quả các đánh giá sẽ không thể hạn chế được sai lệch ấy. Nếu những người quan sát được quyền gây ảnh hưởng lẫn nhau thì sẽ giảm thiểu tính hiệu quả của mẫu thí nghiệm, cũng như tính chính xác trong kết quả của nhóm thí nghiệm.

    Để có thể rút ra thông tin hữu ích nhất trong vô số những nguồn tin, bạn phải luôn cố gắng tìm cách làm sao cho những nguồn tin đó độc lập với nhau. Nguyên tắc này chính là một phần trong nghiệp vụ điều tra của cảnh sát. Trong trường hợp có nhiều nhân chứng trong cùng một sự việc, các nhân chứng không được quyền thảo luận với nhau trước khi được lấy lời khai. Việc này ngăn chặn các nhân chứng đối lập cấu kết với nhau, nó còn ngăn chặn các nhân chứng không bị ảnh hưởng bởi những nhân chứng khác. Các nhân chứng trao đổi với nhau sẽ có xu hướng mắc những lỗi sai tương tự trong lời khai, khiến tổng số thông tin có giá trị thu được bị giảm xuống. Loại trừ những yếu tố thừa trong các nguồn thông tin luôn là một việc cần thiết phải thực hiện.

    Nguyên tắc của các “phản biện độc lập” (và các lỗi sai bất tương đồng) có những ứng dụng ngay tức thì khi bạn tổ chức các cuộc họp, một hoạt động thường xuyên của các lãnh đạo trong các tổ chức, hay công ty. Một nguyên tắc đơn giản nên được áp dụng: Trước khi đưa ra một vấn đề nào đó để thảo luận, tất cả mọi thành viên trong hội đồng được yêu cầu phải viết ra một đoạn rất ngắn những giải pháp của mình. Tiến trình này giúp ích cho việc thu thập những kiến thức và thu được nhiều ý kiến phong phú của cả nhóm. Những cuộc thảo luận mở kiểu truyền thống khiến ý kiến của những người phát biểu đầu tiên bỗng nhiên có quá nhiều trọng lượng và chắc chắn là có ảnh hưởng đến ý kiến của những người phát biểu sau đó.

    CÁI GÌ TA THẤY LÀ CÁI TA BIẾT

    Một trong những ký ức đáng nhớ nhất của tôi với Amos thời mới bắt đầu cộng tác với nhau, đó là ông luôn xuất hiện với vẻ hài hước thường trực. Với vai trò là một trong những vị giáo sư uy tín dạy môn Triết học ở trường đại học, Amos có thể “gằn gừ” tiếng Do Thái bằng chất giọng Đức đậm đặc: “Các cậu không bao giờ được quên rằng Primat of the Is (Tạm dịch: Tính tối thượng của Hiện tại). Tôi không rõ ông thầy giáo (Amos và tác giả bắt chước giọng của thầy giáo người Đức) đó muốn nói gì qua câu nói đó (mà tôi nghĩ cả Amos cũng không hiểu nốt) nhưng những câu đùa của Amos luôn ghi điểm với sinh viên. Ông luôn trích dẫn được những thành ngữ cổ (và thực ra tôi cũng làm được thế) mỗi khi chúng tôi đụng phải những vấn đề khác biệt đáng kể trong cách xử lý những thông tin mà chúng tôi không nắm được.

    Một tính năng chủ yếu trong thiết kế của “bộ máy liên tưởng” đó là nó chỉ đại diện cho những ý tưởng được kích hoạt. Các thông tin không được gọi ra (kể cả vô thức) trong bộ nhớ có thể không tồn tại. Hệ thống 1 nổi trội hơn khi xây dựng những câu chuyện giả định, kết hợp nhiều ý kiến đã được khởi động nhưng nó không (và không thể) dựng nên những thông tin mà nó không có.

    Giới hạn thành công của Hệ thống 1 chính là sự kết nối câu chuyện mà nó phải tạo ra. Số lượng và chất lượng của các dữ liệu cấu thành nên câu chuyện phần lớn là không thích hợp. Khi dữ liệu hạn chế, thường được coi là một sự cố, Hệ thống 1 hoạt động như một “bộ máy đi tắt đón đầu”. Hãy xem ví dụ sau: “Liệu Mindik có phải là một lãnh đạo tốt? Cô ta thông minh và mạnh mẽ...” Câu trả lời là có, xuất hiện rất nhanh trong đầu của bạn. Bạn đã chọn ra được đáp án tốt nhất dựa trên những dữ liệu ít ỏi có được nhưng bạn đã “cướp cò”. Câu trả lời sẽ thay đổi thế nào nếu hai tính từ tiếp theo là tham nhũng và độc ác?

    Hãy ghi lại những gì bạn không làm nếu bạn thoáng nghĩ về Mindik trong vai trò là một nhà lãnh đạo. Bạn không bắt đầu bằng câu hỏi, “Tôi cần biết gì trước khi tôi đưa ra một ý kiến về chất lượng quản lý của một nhà lãnh đạo?” Hệ thống 1 phải làm việc độc lập dựa trên những tính từ đầu tiên nó tiếp nhận: Thông minh là tốt, thông minh và mạnh mẽ là rất tốt. Đây là câu chuyện tốt nhất có thể xây dựng được dựa trên hai tính từ và Hệ thống 1 đã truyền tải nó với một nhận thức cảm tính tuyệt diệu. Câu chuyện sẽ bị đánh giá lại khi có những dữ liệu mới xuất hiện (ví dụ như Mindik tham nhũng) nhưng ấn tượng đầu tiên xuất hiện ngay lập tức và không gây cản trở đối với chủ thể. Đồng thời, dù thế nào đi nữa thì ấn tượng tốt đẹp đầu tiên vẫn tồn tại như một sai lệch.

    Sự kết hợp giữa Hệ thống 1 tìm kiếm sự liên kết với Hệ thống 2 lười biếng khiến cho Hệ thống 2 sẽ xác lập rất nhiều niềm tin bản năng, phản ánh khá sát với những ấn tượng thông thường do Hệ thống 1 xác lập. Tất nhiên, Hệ thống 2 có khả năng hệ thống hóa và cẩn trọng hơn khi tiếp cận với các chứng cứ và sẽ có một loạt những ô tích được đánh dấu trước khi đưa ra quyết định, ví dụ như mua một căn nhà, bạn sẽ phải tìm kiếm cho được những thông tin mà bạn không có. Tuy nhiên, Hệ thống 1 được cho là có ảnh hưởng nhiều hơn đến các quyết định cần sự suy tính cẩn trọng và đầu vào của nó không bao giờ ngừng thu nhận thông tin.

    Hiểu được cơ chế “đi tắt đón đầu” (hay vội vàng đưa ra kết luận) dựa trên dữ liệu giới hạn cơ bản rất quan trọng để lý giải tư duy trực giác và trong cuốn sách này, tôi sẽ thường xuyên sử dụng một cụm từ viết tắt cho khái niệm này là: WYSIATI, có nghĩa là bạn chỉ thấy cái mà bạn biết. Hệ thống 1 về cơ bản là không nhạy cảm với cả chất lượng lẫn số lượng thông tin tạo ra các ấn tượng và trực giác.

    Amos cùng với hai sinh viên đã tốt nghiệp của mình ở Đại học Stanford đã báo cáo một nghiên cứu liên quan trực tiếp đến WYSIATI, thông qua quan sát phản ứng của mọi người được thông báo trước khi xem những dữ liệu một chiều. Những người tham gia thí nghiệm được đọc một biên bản pháp lý như sau:

    Vào ngày 3 tháng Chín, nguyên đơn David Thorton, một đại diện công đoàn khu vực 43 tuổi đã có mặt ở hãng thuốc lá Thrifty số 168, đi thăm hỏi người lao động theo lệ thường. 10 phút sau, người quản lý ngăn ông lại và nói ông không được phép nói chuyện với công nhân đang làm việc trong hãng. Thay vào đó, ông có thể gặp họ ở phòng trong vào giờ nghỉ. Yêu cầu này đã được quy định trong hợp đồng công đoàn của hãng thuốc lá Thrifty nhưng chưa bao giờ được công bố. Khi ông Thornton từ chối, người ta bảo rằng ông có quyền lựa chọn hoặc làm theo yêu cầu hoặc rời khỏi đây hoặc sẽ bị báo cảnh sát. Lúc này, ông Thorton lý luận với vị quản lý rằng từ trước đến nay ông luôn được nói chuyện với các nhân viên khi họ đang làm việc trong khoảng 10 phút, miễn là không làm ảnh hưởng tới công việc kinh doanh và ông đã chấp nhận thà bị bắt còn hơn là phải thay đổi nguyên tắc làm việc của mình. Vị quản lý sau đó đã gọi điện báo cho cảnh sát và ông Thornton bị còng tay đưa ra khỏi cửa hàng vì vi phạm quy định của công ty. Sau đó ông bị tạm giam và bị tạm đình chỉ mọi chức vụ hiện tại. Ông Thornton đã kiện hãng thuốc lá Thrifty vì bắt giữ người trái phép.

    Để thêm dữ liệu cho câu chuyện, bên cạnh những gì mà tất cả những người tham gia thí nghiệm đã được đọc, các nhóm khác nhau cũng được xem những bài trình bày của các luật sư bào chữa cho hai bên. Một cách tự nhiên, luật sư của người đại diện Công đoàn mô tả cuộc bắt giữ như một nỗ lực của sự đe dọa, trong khi luật sư của bên hãng thuốc lá lập luận rằng trò chuyện với nhân viên trong khi họ đang làm việc là gây rối và người quản lý đã hành động hoàn toàn hợp lý trong tình huống này khi thông báo cho cảnh sát. Một vài người tham gia thí nghiệm, ví dụ Bồi thẩm viên, thì được nghe cả hai phía. Các luật sư thêm vào những thông tin bất lợi mà bạn không thể phỏng đoán từ ngữ cảnh của câu chuyện.

    Tất cả những người tham dự đều đã lường trước được sự sắp đặt trước và những người chỉ nghe từ một phía dễ dàng đưa ra những lập luận chống lại phía còn lại. Tuy nhiên, bài trình bày của các luật sư từ những bằng chứng một chiều có ảnh hưởng rõ ràng lên những phán đoán. Hơn thế nữa, những người tham gia thí nghiệm chỉ được biết thông tin một chiều tỏ ra tự tin với lập luận của mình hơn những người được biết thông tin từ cả hai phía. Đây chỉ là những gì bạn có thể đoán ra nếu bạn tin rằng kinh nghiệm của con người được xác định bởi sự liên kết trong câu chuyện mà họ xây dựng nên từ những thông tin có sẵn. Sự nhất quán của dữ liệu mang đến một câu chuyện hay, chứ nó không xây dựng thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Thực sự thì bạn sẽ luôn tìm thấy những nút thắt dù nhỏ nhất để diễn giải phù hợp với tất cả những gì bạn biết và đặt chúng vào những hoàn cảnh thích hợp.

    WYSIATI tạo điều kiện lưu trữ những sự liên kết và nhận thức cảm tính cho phép chúng ta chấp nhận một nhận định là đúng. Nó giải thích tại sao chúng ta có thể suy nghĩ rất nhanh và làm sao chỉ từ một ít thông tin trong thế giới phức tạp này, chúng ta cũng xây dựng thành một câu chuyện có ý nghĩa. Hầu hết thời gian, những câu chuyện gắn kết với nhau, được chúng ta đặt cạnh nhau có đủ sự tương thích nhằm cổ vũ cho những hành động có vẻ có lý. Tuy nhiên, tôi cũng dùng WYSIATI để giải thích cho rất nhiều những loại sai lệch khi phải đưa ra nhận định và lựa chọn, sau đây là một số cách lý giải:

    • Quá tự tin: Khi áp đặt nguyên tắc WYSIATI thì cả chất lượng và số lượng bằng chứng xuất hiện không có mấy giá trị đối với chủ thể tự tin. Sự tự tin mà các cá nhân có được trong niềm tin của mình phụ thuộc hầu hết vào chất lượng câu chuyện mà họ có thể kể liên quan đến những gì họ nhìn thấy, dù cho họ không thấy nhiều thứ của câu chuyện hoàn chỉnh thực sự. Chúng ta thường xuyên thất bại vì không đưa ra các bằng chứng rất cần thiết trong lập luận của chúng ta. Bởi vì chúng ta chỉ biết có thế mà thôi. Hơn thế nữa, hệ thống liên kết của chúng ta có xu hướng dừng lại ở một khía cạnh liên kết, khi thấy có sự xuất hiện và ngăn chặn nghi ngờ và sự tối nghĩa.
    • Hiệu ứng khung: Nhiều cách hiểu khác nhau từ cùng một dữ liệu thường tạo ra nhiều tâm trạng khác nhau. Câu khẳng định “tỷ lệ sống sót sau phẫu thuật một tháng là 90%” nghe đúng (hợp lý) hơn câu khẳng định có giá trị tương đương “tỷ lệ tử vong sau phẫu thuật một tháng là 10%”. Tương tự, thịt nguội được miêu tả là “giảm 90% chất béo” sẽ hấp dẫn hơn khi được miêu tả là “chỉ 10% chất béo”. Rõ ràng là có các công thức tương đương nhau về nghĩa nhưng thông thường một cá nhân chỉ nhìn thấy một công thức và tất cả những gì anh ta thấy là những gì anh ta biết (hay hiểu).
    • Bỏ qua đánh giá cơ bản: Hãy nhớ lại Steve, anh chàng chỉn chu và cẩn thận, được mọi người cho là sẽ trở thành một người thủ thư mẫn cán. Dù người ta chỉ mô tả anh ta bằng hai nét tính cách nổi bật và sống động nhất, mặc dù bạn biết chắc rằng số người có tính cách như thế làm nông dân có thể nhiều hơn những người làm thủ thư, nhưng con số thống kê thực tế chắc chắn không xuất hiện trong hiểu biết của bạn, khi bạn phải đưa ra câu trả lời cho câu hỏi anh ta làm nghề gì. Tất cả những gì bạn từng biết đến chỉ có vậy mà thôi.


    Bộ máy Đi tắt đón đầu lên tiếng

    “Cô ta chẳng biết tí gì về kỹ năng quản lý của người này. Tất cả những gì cô ta nghĩ chỉ là “Hiệu ứng hào quang” từ một bài thuyết trình tốt mà thôi.”

    “Hãy tách bạch các lỗi sai bằng cách thu thập riêng rẽ các nhận định về cùng một vấn đề trước khi đưa nó ra thảo luận. Chúng ta sẽ thu nhận được nhiều thông tin hơn từ những nguồn tin độc lập.”

    “Họ đưa ra quyết định lớn dựa vào một bản báo cáo của một nhà tư vấn. WYSIATI tức tất cả những gì bạn thấy là những gì bạn biết. Dường như họ không nhận thấy lượng thông tin thu về là rất ít ỏi.”

    “Họ không muốn biết thêm thông tin có thể làm lộ câu chuyện của mình. WYSIATI.”
    Còn nữa
     
    Chỉnh sửa cuối: 26 Tháng sáu 2018
Trạng thái chủ đề:
Đã bị khóa
Trả lời qua Facebook
Đang tải...