Các tác phẩm văn học Trung Quốc nổi tiếng Trong kho tàng đồ sộ những tiểu thuyết Trung Quốc, bạn đã đọc đến những cuốn Tam quốc chí diễn nghĩa, Thủy hử, Tây du ký, Liêu trai chí dị, Nho lâm ngoại sử và Hồng lâu mộng hay chưa? Nếu chưa, các bạn hãy thử đọc. Tam Quốc Diễn Nghĩa - La Quán Trung Tam quốc chí diễn nghĩa hay còn gọi là Tam quốc diễn nghĩa hay Tam quốc. Đây là tác phẩm do La Quán Trung (1330 - 1400) viết. Ông đã dựa trên nền tảng cuốn sử Tam quốc chí của Trần Thọ thời Tấn và Tam quốc chí chú của Bùi Tùng Chi thời Nam - Bắc triều, cùng với các truyền thuyết dân gian, các chuyện kể của nghệ nhân. Tác phẩm kể lại lịch sử Trung Quốc những năm 184 - 280, chủ yếu là về cuộc đấu tranh phức tạp về quân sự, chính trị giữa ba nước Ngụy - Ngô - Thục cùng với những nhân vật lịch sử nổi danh Lưu Bị - Tào Tháo - Quan Trường - Gia Cát Lượng. Cuốn tiểu thuyết này chủ yếu gồm hai thành phần. Thành phần thứ nhất là bắt nguồn từ tuồng dân gian của ba triều đại Tống, Kim, Nguyên, gồm hơn 30 truyện như: Kết nghĩa vườn đào; Tam anh chiến Lã-Bố; Vương-Doãn khéo dùng kế liên hoàn; Quan-Vũ một mình đi ngàn dặm; Lưu Quan Trương cổ thành tụ nghĩa; Lưu-Bị ba lần đến lều tranh, Trận Đương-Dương; Trận Xích-Bích; Gia-Cát-Lượng ba lần chọc tức Chu-Du; Quan-Vũ một mình một đao sang dự hội.. Những câu truyện này tuy chỉ chiếm khoảng một nửa của cuốn sách, nhưng lại là truyện hay nhất trong cả cuốn tiểu thuyết. Thành phần thứ hai là, La Quán Trung trực tiếp dựa vào trích lục sử và cải biên thành truyện, gồm hơn 50 câu truyện, chủ yếu kể về việc cuối thời Đông-Hán quần hùng cắt cứ, sự hưng thịnh và diệt vong của hai nước Ngụy- Ngô, cũng như sự suy vong của Thục Hán và triều nhà Tấn ra đời sau khi Gia Cát Lượng mất. Thủy Hử - Thi Nại Am Thủy hử là bộ tiểu thuyết dài của Thi Nại Am, và nó xuất hiện gần như đồng thời với Tam quốc chí. Thủy hử là câu chuyện kể về những anh hùng Lương Sơn Bạc, đứng đầu là Tống Giang và cuộc khởi nghĩa nông dân dưới thời Bắc Tống. Cuốn tiểu thuyết đã phản ánh sâu sắc về những bất công, ách áp bức bóc lột của giai cấp thống trị phong kiến, sự phản kháng mạnh mẽ của tầng lớp thống khổ. Bên cạnh đó là những tượng đài anh hùng nông dân như Tống Giang, Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm, Lâm Xung, Võ Tòng.. Cốt truyện chính của Thủy Hử là sự hình thành và những thành tích của một nhóm người chống triều đình mà trở thành giặc cướp, thường gọi là 108 anh hùng Lương Sơn Bạc Quá trình tập hợp của các anh hùng thảo dã tại bến nước để hình thành quân khởi nghĩa Lương Sơn Bạc được Thi Nại Am dành 70 hồi để diễn giải. Tuy nhiên, nhân vật đầu tiên được đề cập không phải là một trong các vị anh hùng Lương Sơn, mà là Cao Cầu. Theo ý kiến các nhà nghiên cứu, quá trình thăng tiến của gian thần Cao Cầu chính là sự tố cáo cho chính sự thối nát của nhà Bắc Tống khi đó mà người chịu trách nhiệm cao nhất là hoàng đế Tống Huy Tông, một quân vương chơi bời, không quan tâm tới việc triều chính. Từ một thảo dân lông bông, Cao Cầu gặp may hết lần này tới lần khác, trở thành sủng thần của vua Tống Huy Tông và được phong chức Thái úy. Mối liên kết giữa các gian thần Cao Cầu, Lương Trung Thư, Vương Tiễn.. và bộ máy quan lại tham lam, xảo quyệt, độc ác bên dưới đã làm hại các trung thần của triều đình (Lâm Xung, Võ Tòng, Dương Chí, Tống Giang, Hoa Vinh) khiến họ lần lượt phải bỏ sự nghiệp đi theo Lương Sơn Bạc. Cũng có những anh hùng xuất thân nơi thôn dã, không có chức vụ quyền hành nhưng bất bình với sự áp chế, bóc lột của quan lại địa phương như Lý Quỳ, Sử Tiến, Lưu Đường.. nên đã ra tay cứu giúp người hoạn nạn hoặc tự cứu bản thân mình, trở thành người phạm tội với triều đình và cũng lên Lương Sơn. Từng nhóm anh hùng được tập hợp riêng lẻ, rồi sau đó tất cả đều tụ về Lương Sơn. Tây Du Ký - Ngô Thừa Ân Tây du ký là tiểu thuyết của Ngô Thừa Ân (1500 - 1581). Đó là kết quả của sự kết hợp giữa câu chuyện có thật được ghi chép trong cuốn Đại Đường Tây vực ký, Đại Đường Tam Tạng thủ kinh thi thoại, cộng với sức tưởng tượng phong phú lạ lùng của chính tác giả. Tây du ký là chuyến đi vô cùng gian khổ, với muôn vàn khó khăn của bốn thầy trò Đường Tăng trong suốt quá trình tới Ấn Độ thỉnh kinh Phật. Mỗi nhân vật là một cá tính, một màu sắc rất riêng, mang đến sự cuốn hút trong từng trang truyện. Tây du ký là một trong những tác phẩm kinh điển trong văn học Trung Hoa. Được xuất bản với tác giả giấu tên trong những năm 1590 và không có bằng chứng trực tiếp còn tồn tại để biết tác giả của nó, nhưng tác phẩm này thường được cho là của học giả Ngô Thừa Ân. Tác phẩm tổng cộng có một trăm hồi, ra đời vào năm Vạn Lịch thứ 29 (1601), triều Minh. Sau khi Tây du ký xuất hiện, trong giai đoạn này, nhiều tác phẩm tiếp tục đề tài của Tây du ký, nhưng cốt truyện và nhân vật có thay đổi như Hậu tây du ký, Tục tây du ký và Tây du bổ . Trong đó, đáng chú ý và có giá trị nhất là Hậu tây du ký, không rõ tác giả. Ngày nay, Tây du ký được xem là tác phẩm văn học đạt đến độ mẫu mực, đứng trong 4 tác phẩm văn học cổ điển vĩ đại nhất của Trung Hoa, gọi là Tứ đại danh tác (cùng với Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Thủy Hử của Thi Nại Am và Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần). Trong đó, tiểu thuyết kể về hành trình của Trần Huyền Trang đến Tây Trúc (Ấn Độ) để thỉnh kinh. Theo ông là ba đệ tử: Tôn Ngộ Không một tên khỉ do đá sinh ra; Trư Ngộ Năng – một yêu quái nửa người nửa lợn; Sa Ngộ Tĩnh –một thủy quái. Họ đều đồng ý giúp ông thỉnh kinh để chuộc tội. Bên cạnh đó, con ngựa mà Trần Huyền Trang cưỡi cũng là một nhận vật do hoàng tử của Long Vương (Bạch Long Mã) hóa thành. Cụ thể, câu chuyện diễn ra như sau: Những chương đầu thuật lại những kì công của Tôn Ngộ Không, từ khi ra đời từ một hòn đá ở biển Hoa Đông, xưng vương ởHoa Quả Sơn, tầm sư học đạo, đại náo thiên cung, sau đó bị Phật Tổ Như Lai bắt nhốt trong núi Ngũ Hành 500 năm. Truyện kể lại Huyền Trang trở thành một nhà sư ra sao và được hoàng đế nhà Đường gửi đi thỉnh kinh sau khi hoàng đế thoát chết. Phần tiếp của câu chuyện kể về các hiểm nguy mà thầy trò Đường Tam Tạng phải đối đầu, trong đó nhiều yêu quái là đồ đệ của các vị Tiên, Phật. Một số yêu tinh muốn ăn thịt Huyền Trang, một số khác muốn cám dỗ họ bằng cách biến thành đàn bà đẹp. Tôn Ngộ Không phải sử dụng phép thuật và quan hệ của mình với thế giới yêu quái và Tiên, Phật để đánh bại các kẻ thù nhiều mánh khóe, như Ngưu Ma Vương hay Thiết Phiến Công chúa.. Cuối cùng khi đã đến cửa Phật, thầy trò họ lại phải đổi Bát vàng của Hoàng đế Đường Thái Tông tặng để nhận được kinh thật. Đây cũng được tính là một khổ nạn cho bốn thầy trò. Khi qua sông Thông Thiên, Tam Tạng gặp lại Lão Rùa năm xưa chở ông qua ông. Khi đang chở Tam Tạng qua giữa sông, Lão Rùa hỏi Tam Tạng rằng ông có hỏi Phật Tổ giúp lão rằng bao giờ lão tu đắc chính quả không, vì Tam Tạng quên hỏi, nên bị Lão Rùa hất cả bốn thầy trò lẫn kinh văn xuống sông. Kinh văn bị ướt, sau khi phơi khô một số bị rách. Vì vậy, kinh đến Trung thổ không được toàn vẹn. Hồng Lâu Mộng - Tào Tuyết Cần Hồng lâu mộng còn có tên Thạch đầu kí. Tác phẩm được Tào Tuyết Cần sáng tác trong khoảng thời gian giữa thế kỉ 18 triều đại nhà Thanh của Trung Quốc. Với hơn 100 triệu bản được xuất bản, tiểu thuyết này trở thành một trong những sách bán chạy nhất của mọi thời đại. Hồng Lâu Mộng là một bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Trung Quốc trên con đường suy tàn. Cái vẻ ngoài tôn nghiêm nề nếp không che đậy được thực chất mọt ruỗng của giới thượng lưu sống trong Giả phủ. Cuộc sống xa hoa, tư tưởng cố hữu của giai cấp bóc lột và những mối quan hệ tàn nhẫn giữa họ với nhau đã đưa Giả phủ vào con đường tàn tạ không cứu vãn được. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Trung Quốc đời Thanh. Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc chính là những đứa con "bất hiếu" của gia đình mình, họ chống quan niệm trọng nam khinh nữ truyền thống, chán ghét khoa cử công danh, theo đuổi một cuộc sống tự do, chống lại khuôn phép ràng buộc. Họ yêu nhau vì phản nghịch, càng phản nghịch họ càng yêu nhau. Đó là hồi âm của cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa tư tưởng dân chủ sơ khai và tư tưởng phong kiến. Ở Trung Quốc, độc giả say mê Hồng Lâu Mộng đến mức khi ngồi vào bàn luận văn chương là phải đề cập đến nó đầu tiên và đã có những nhà nghiên cứu chuyên biệt về nó hình thành một bộ môn riêng Hồng học (Hồng Lâu Mộng học). Chỉ với mỗi Hồng Lâu Mộng, Tào Tuyết Cần đã được xưng tụng là "Shakespeare của Trung Hoa". Gần 300 năm qua, câu chuyện về số phận của những con người trẻ tuổi trong thời buổi suy tàn của xã hội phong kiến đã mê hoặc nhiều thế hệ độc giả trên thế giới. Liêu Trai Chí Dị - Bồ Tùng Linh Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh: Tiểu thuyết là tập hợp của gần 500 câu chuyện quái dị, siêu nhiên. Tác phẩm ra đời vào thời đầu nhà Thanh. Bộ truyện này được coi là một kì thư và được đánh giá là đỉnh cao của tiểu thuyết văn ngôn thời cổ đại. Đề tài chủ yếu của Liêu Trai chí dị do tác giả sưu tầm trong dân gian, hoặc rút từ truyện chí quái đời Lục triều, các truyện truyền kỳ đời nhà Đường rồi gia công sáng tạo thêm. Hầu hết các truyện nói về thần tiên ma quái, hồ ly, lang sói, hổ, báo, khỉ, vượn, voi, rắn độc trùng cho tới cây cỏ hoa lá, khói mây gạch đá v. V. Nhưng không chỉ vậy, xuyên suốt các tác phẩm là những câu chuyện về người và việc trong cuộc sống hiện thực. Tất cả những đề tài trên được tác giả xử lý khéo léo, ít nhiều ngầm ý chỉ trích nền chính trị tàn bạo của triều đình Mãn Thanh đương thời, phê phán thói hư tật xấu của bọn nho sỹ, thể hiện những tư tưởng dân chủ trong vấn đề hôn nhân và tình yêu. Phong Thần Diễn Nghĩa - Hứa Trọng Lâm Phong thần diễn nghĩa là một bộ tiểu thuyết được viết lại trên cơ sở cuốn Vũ Vương phạt Trụ bình thoại in đời Nguyên, rồi nhào nặn tư liệu lịch sử với thần thoại, truyền thuyết và tôn giáo mà thành. Phong thần diễn nghĩa xoay quanh việc suy vong của nhà Thương và sự nổi lên của nhà Chu, lồng vào đó là vô số thần thoại, truyền thuyết Trung Hoa, bao gồm các thần, tiên, yêu quái.. Trong chừng mực nào đó, Phong thần diễn nghĩa mô tả cuộc sống của người Trung Hoa đương thời, nơi tôn giáo có một vai trò lớn trong cuộc sống hàng ngày. Phong thần diễn nghĩa khởi đầu với chuyện kể về vua Trụ nhà Thương đến miếu thờ Nữ Oa dâng hương, đã đề thơ với hàm ý hỗn xược khiến cho Nữ Oa nổi giận. Sau khi bấm tay biết vận số nhà Thương còn 28 năm mới chấm dứt, Nữ Oa đã sai ba yêu quái ở mộ Hiên Viênmê hoặc vua Trụ nhằm nhanh chóng làm cho nhà Thương sụp đổ, nhưng không được giết người. Một trong ba yêu quái là hồ ly tinh đã đạt hỏa hầu tu luyện ngàn năm, giết chết Đát Kỷ, một cô gái đẹp được tiến cung, rồi nhập vào xác nàng để ra mắt nhà vua. Được nhà vua sủng ái, Đát Kỷ giả dần dần lộng hành, trừ khử các bề tôi trung thực, giết hoàng hậu và toan giết cả hai hoàng tử. Bên cạnh đó, Đát Kỷ giả còn tìm cách hại 4 chư hầu lớn, xui vua Trụ mời họ vào chầu rồi bắt Tây Bá Hầu là Cơ Xương bỏ ngục. Viên quan tổng binh ở cửa quan Trần Đường là Lý Tịnh sinh con trai tự xưng là Na Tra. Na Tra làm đồ đệ của Thái Ất chân nhân, lên bảy tuổi đã đại náo biển Đông, rút gân chân thái tử con của Long Vương. Long Vương đến nhà Lý Tịnh đòi đền mạng. Na Tra tự nguyện chết để cha mẹ được sống. Người mẹ lập miếu thờ Na Tra nhưng ông bố (Lý Tịnh) lại bắt phá đi. Na Tra cầu đuổi đánh Lý Tịnh. Về sau, Na Tra được giáo hóa và theo phò Khương Tử Nha giúp nhà Chu diệt nhà Thương. Khương Tử Nha là đồ đệ của Nguyên Thủy Thiên Tôn trên núi Côn Lôn, vâng lệnh thầy xuống núi giúp nhà Chu diệt nhà Thương. Tử Nha giết được một yêu quái, bạn của Đát Kỷ giả, và nhờ đó ông được vua Trụ phong chức Hạ Đại phu. Sau vì can Trụ xây Lộc Đài mà họ Khương suýt bị giết chết, phải trốn đến ấp Tây Kỳ thuộc đất nhà Chu. Bấy giờ Tây Bá Cơ Xương trốn thoát khỏi ngục đã tìm đến Khương Tử Nha nhờ giúp đỡ. Trong một trận chiến, nhà Chu đã đánh bại quân của vua Trụ, nhưng vua Trụ không vì thế mà hối cải, vẫn tiếp tục ghẹo vợ của Hoàng Phi Hổ, khiến Phi Hổ tức giận. Phi Hổ đã vượt 5 cửa ải về với nhà Chu. Với sự giúp sức của Giáo chủ Thông Thiên, vua Trụ sai 36 lộ quân tiến đánh ấp Tây Kỳ. Trong trận chiến này, được hậu thuẫn của Xiển Giáo, nhà Chu đã đánh bại 36 lộ quân của vua Trụ. Tuy vậy, vua Trụ vẫn tiếp tục hoang dâm tàn bạo, không biết hối cải, và các nước chư hầu phải hợp lực tiến đánh. Trong trận chiến đối đầu khốc liệt cuối cùng này, quân của vua Trụ đã thất bại thảm hại, vua Trụ tự thiêu, Đát Kỷ giả cũng bị giết chết. Khương Tử Nha được Nguyên Thủy Thiên Tôn trao quyền phân phong các thần, còn Chu Vũ Vương (tức Cơ Phát, con Cơ Xương) cũng được quyền tấn phong các chư hầu. Nho Lâm Ngoại Sử - Ngô Kính Tử Tam quốc chí diễn nghĩa hay còn gọi là Tam quốc diễn nghĩa hay Tam quốc. Nho lâm ngoại sử hay còn gọi là Chuyện làng nho là tiểu thuyết chương hồi của Ngô Kính Tử thời nhà Thanh, toàn thư gồm 56 hồi - theo Lỗ Tấn thì hồi cuối cùng không phải do Ngô Kính Tử sáng tác, miêu tả gần hai trăm nhân vật mà hầu hết là nhà Nho, nội dung phê phán và châm biếm sâu cay chế độ khoa cử công danh thời nhà Thanh. Cùng với truyện "Thủy Hử Truyện" của Thi Nại Am, "Hồng Lâu Mộng" của Tào Tuyết Cần "Nho Lâm Ngoại Sử" của Ngô Kính Tử là một tác phẩm giá trị nhất của tiểu thuyết kiếm hiệp, lịch sử Trung Quốc. Trong bài tựa viết thời Đồng Trị, một nhà phê bình đã nói: "Tôi khuyên các bạn không nên đọc quyển tiểu thuyết này, vì đọc nó một lần các bạn sẽ cảm thấy rằng mình đã gặp những nhân vật của nó suốt ngày trong đời". Riêng nhận xét này cũng đủ chứng minh giá trị hiện thực của nó như thế nào. Lỗ Tấn trong "Trung Quốc tiểu thuyết sử lược" khẳng định rằng truyện "Nho Lâm Ngoại Sử" là tiểu thuyết châm biếm xã hội đầu tiên, và về mặt này, từ xưa đến nay nó vẫn vô địch. Như Lỗ Tấn nhận định, "sự thực là lẽ sống của văn châm biếm" Nho Lâm Ngoại Sử "sở dĩ thành tác phẩm châm biếm vĩ đại trong văn học, chính vì nó bám chắc lấy sự thực của xã hội đương thời. Xã hội được miêu tả lại trong tác phẩm là xã hội đời Thanh ở giữa thế kỉ XVIII. Người Mãn Thanh xâm chiếm Trung Quốc từ 1644. Muốn củng cố sự thống trị, nhà Thanh ra sức thống trị về mặt tinh thần. Một mặt, chúng gây ra những vụ" văn tự ngục "để giết những người viết những điều chống lại nhà cầm quyền. Một mặt, chúng dùng hình thức thi bát cổ để lung lạc trí thức. Bát cổ hay kinh nghĩa là một lối văn có tám vế. Người viết chỉ có thể trích dẫn ở" Ngũ Kinh "," Tứ Thư ", không được nói gì đến hiện tại. Mưu mô của nhà Thanh đã thành công to lớn. Tất cả bọn nho sĩ đều rơi vào bạm bẫy: Ai không làm văn bát cổ thì không phải nhà nho. Để tránh" ngục văn tự ", Ngô Kính Tử phải đặt câu chuyện vào đời Minh, nhưng tất cả mọi sự việc, nhân vật đều là những sự việc và những nhân vật của đời Thanh. Gia đình họ Đỗ ở Thiên trường là gia đình tác giả, những nhân vật như Ngu Dục Đức, Mã Thuần Thượng, Trì Hành Sơn v. V.. đều dựa vào những người bạn của tác giả. Đỗ Thiếu Khanh, anh chàng phá gia chi tử chính là bản thân Ngô Kính Tử. Đối với thời đại tác giả sống, phương pháp thể hiện này là một phương pháp mới mẻ và táo bạo. Tác giả không lấy đề tài trong lịch sử quá khứ, trong truyền thuyết; những nhân vật không phải những vị anh hùng với những tình tiết quái dị. Trái lại, ở đây là cuộc sống bình thường vẫn diễn ra hằng ngày. Đúng như Lỗ Tấn nói:" Những sự việc miêu tả trong sách đều là những sự việc thông thường, ai cũng thấy cả, thường không ai cho là lạ, nên cũng không buồn để ý đến nó. Nhưng ngay bản thân nó đã vô lý, buồn cười, đáng ghét, thậm chí đáng ghê tởm.. Bây giờ tác giả nói đến thì mọi người thấy ngay ý nghĩa quan trọng của nó."