Chương 20: Mùa Thu Hà Nội
* * *
Nếu thấy tác phẩm hay, bạn có thể ủng hộ tác giả bằng cách đọc các tiểu thuyết sau:
1. Trước Lúc Bình Minh (thể loại: Tuổi học trò, thanh xuân)
2. Tình Yêu và Bão Tố (thể loại: Trinh thám, hành động, tình cảm)
3. Hẹn Em Ngày Bình Yên (thể loại: Ngôn tình và chiến tranh)
Giao lưu với tác giả tại Fanpage: Giá Như Dừng Yêu
=>danh mục các tác phẩm của rewrite
Tham gia cuộc thi viết cảm nhận để nhận được 100.000 xu => LINK Ở ĐÂY

Hà Nội, tháng 6 năm 1966.
Chiều hôm ấy, tôi đạp xe qua phố Khâm Thiên, mùi khét lẹt của khói bom vẫn còn vương trong không khí. Tiếng loa phòng không vang lên từng hồi dồn dập: "Đồng bào chú ý! Máy bay địch đang tiến về phía Gia Lâm, đồng bào nhanh chóng di chuyển đến hầm trú ẩn!" Nhưng tôi không dừng lại. Bác Tư, người thợ sửa xe đạp đầu ngõ, vừa bị thương trong trận bom rạng sáng, giờ đang nằm ở Bạch Mai. Chiếc xe đạp cà tàng của tôi lách qua những hố bom lở chở, bánh xe lạo xạo trên mặt đường gồ ghề.
Bệnh viện Bạch Mai ngập tràn tiếng rên xiết. Ánh nắng chiếu qua những tấm vải trắng bạc màu giăng làm màn che cửa sổ, in bóng những dãy giường xếp dài như vô tận. Tôi len lỏi giữa dòng người tất tả, áo trắng sinh viên Y khoa lấm lem máu và bụi. Đột nhiên, một giọng nói trong trẻo cắt ngang không khí ngột ngạt: "Có ai nhóm máu O không? Cấp cứu gấp!"
Tôi quay đầu. Một cô gái tóc ngắn, khuôn mặt lấm tấm mồ hôi, chiếc khẩu trang vắt vội trên cổ. Ánh mắt cô đầy lo lắng, nhưng giọng nói vững vàng lạ thường. Không nghĩ ngợi, tôi giơ tay: "Tôi nhóm O!"
Cô gái, Linh, như sau này tôi biết tên, dẫn tôi vào phòng cấp cứu. Kim tiêm đâm nhẹ vào tay, tôi cố nhoẻn miệng cười để che giấu nỗi sợ kim vốn giấu kín từ bé. "Anh cười đẹp thế," Linh khẽ nói, tay vẫn thoăn thoắt chuẩn bị dụng cụ: "Nhưng đừng cố quá, mặt anh trắng bệch rồi." Tôi cười to hơn: "Tôi sợ máu lắm, nhưng sợ cô la hơn!" Cô phì cười, má ửng hồng.
Mười phút sau, tôi nằm dài trên ghế, chóng mặt nhưng thấy lòng nhẹ bẫng. Linh ngồi cạnh, đưa ly nước đường ấm: "Uống đi, máu anh cứu được người rồi." Tôi nhấp một ngụm, hỏi vặn: "Sao cô biết tôi không phải là gián điệp?" Cô nghiêng đầu, giả vờ nghiêm túc: "Gián điệp nào dám vào đây cho máu? Chúng sợ.. Kim tiêm lắm!" Chúng tôi cùng bật cười, tiếng cười vang lên giữa căn phòng đầy đau thương, như tia nắng xuyên qua mây đen.
Khi ra về, tôi lén theo bóng Linh qua những con phố nhỏ. Cô gái áo trắng đạp xe chầm chậm, thỉnh thoảng dừng lại mua cái bánh đa cho bà cụ bán hàng rong. Tôi giữ khoảng cách, tim đập thình thịch khi cô rẽ vào ngõ Hàng Đào. "Nhà cô ấy cách nhà mình.. Ba cây số!" Tôi thầm tính toán, mắt sáng lên.
Hôm sau, tôi vác cây si con đến trồng vào ô đất trống trên vỉa hè, trước cổng nhà Linh. Đất cứng, mồ hôi ướt đẫm lưng áo, nhưng tôi cười ngây ngô khi nghĩ đến ánh mắt ngạc nhiên của cô. Hai tuần trôi qua, ngày nào tôi cũng mang một can nước qua tưới, cây si bén rễ. Mỗi sáng, tôi đạp xe ngang đó, giả vờ tình cờ gặp Linh đi học. Cho đến một ngày mưa, cô chủ động vẫy tay: "Anh Huy! Chở tôi qua đoạn đường ngập này được không?"
Chiếc xe đạp cà tàng của tôi kẽo kẹt dưới mưa, Linh ngồi sau, tay nắm nhẹ vạt áo tôi. "Anh trồng cây si đó phải không?" Cô hỏi, giọng đầy hài hước. Tôi ấp úng: "Tôi.. Tôi thấy đất trống nên!"
"Đất nhà tôi mà 'trống'?" Cô cười khúc khích, tiếng cười hòa cùng tiếng mưa rơi tí tách.
Buổi chiều hôm ấy, tôi đạp xe về nhà, mùi mồ hôi còn vương trên quần áo. Tiếng loa phòng không lại rền vang, nhưng lòng tôi ấm áp lạ thường. Cây si non đã đâm chồi.
Mùa thu Hà Nội năm ấy đến như một bài thơ chưa kịp gieo vần. Những con phố cổ khoác lên mình tấm áo vàng rực của lá bàng, lá sấu già nua rụng xuống, xào xạc dưới bánh xe đạp của tôi và Linh. Gió heo may lùa qua khăn choàng vội vã cô quàng trên cổ, mang theo mùi hoa sữa nồng nàn phảng phất từ phố cổ. Chúng tôi thường rủ nhau đi học sớm, chỉ để được đạp xe vòng qua Hồ Gươm, ngắm mặt nước lung linh in bóng những hàng liễu rủ mái tóc dài vào thu.
"Anh này, anh có biết 'tế bào hồng cầu' hình gì không?" Linh đột nhiên hỏi một sáng thứ Ba, tay xoay xoay chiếc bút máy trước mặt. Chúng tôi ngồi trong thư viện trường Y, giữa những chồng sách dày cộp mùi mực. Tôi nhíu mày giả vờ suy nghĩ: "Hình.. Hình viên kẹo sữa của em hôm trước?" Cô bật cười, vội đưa tay che miệng để không làm ồn: "Sai bét! Nó tròn dẹt như cái bánh xe đạp của anh ấy!" Tôi giả vờ thở dài: "Thế thì tế bào của anh chắc thành 'hồng cầu méo mó' rồi, vì xe đạp anh bị va cả chục hố bom!"
Chúng tôi trêu đùa nhau bằng thứ ngôn ngữ riêng, toán học và y khoa đan xen. Linh dạy tôi phân biệt các loại xương qua bài hát đồng dao tự chế, còn tôi dùng phương trình để tính giờ cô phải đi ngủ nếu muốn đủ 8 tiếng nghỉ trưa. Những buổi trưa trong căn-tin trường Y thường kết thúc bằng trận cười khúc khích khi tôi vẽ hình tim bằng ký hiệu tích phân, còn Linh dùng ống nghe tim thử đo nhịp đập của.. Tim tôi lúc giả làm bệnh nhân.
Chiến tranh vẫn đè nặng lên thành phố. Mỗi lần còi báo động rú lên, chúng tôi lại cùng chạy xuống hầm trú ẩn của bệnh viện. Trong căn hầm chật hẹp, Linh dạy tôi cách băng bó vết thương bằng khăn tay, còn tôi kể cho cô nghe về những chòm sao trên bầu trời. Có lần, khi tiếng bom dội xa xa, tôi thấy tay cô run nhẹ. Tôi giả vờ mở túi khoai lang nướng mang theo: "Ăn đi, khoai nguội rồi. Bom địch đâu có đáng sợ bằng.. Đói bụng!" Cô cắn một miếng, mắt cười cong cong: "Anh toàn dỗ trẻ con!"
Thư từ trở thành nhịp cầu nối những ngày chúng tôi xa nhau. Tôi viết cho Linh bằng giấy kẻ ô li học trò, kèm theo những bài thơ hình tam giác Pascal. Cô hồi âm trên trang giấy kê đơn thuốc cũ, chữ viết nghiêng nghiêng như sợi khói thuốc bắc: "Gửi bệnh nhân Huy: Triệu chứng: Hay cười vô cớ, mắt sáng lấp lánh khi nói về tích phân. Chẩn đoán: Thiếu vitamin.. Linh!" Mỗi bức thư đều có mùi thuốc sát trùng, như thể cô muốn bảo quản tình cảm của chúng tôi khỏi sự tàn phá của thời gian.
Ngày rằm tháng Tám, chúng tôi cùng đi làm tình nguyện ở khu tập thể Kim Liên. Linh bê từng chậu nước cho các cụ già, còn tôi leo lên mái nhà sửa lại phần bị dột. Khi tiếng hát "Nổi lửa lên em" vang lên từ chiếc loa cũ, tôi thấy Linh đứng dưới sân, tay vẫn cầm xô nước nhưng chân nhún nhảy theo điệu nhạc. Cô bắt gặp ánh mắt tôi, vội giả vờ vuốt tóc: "Em.. Em đang kiểm tra khớp cổ chân đấy!" Tôi cười rúc rích, suýt ngã khỏi mái nhà.
Chiều hôm ấy, chúng tôi lén mang gói xôi nếp cẩm ra bờ hồ. Linh ngồi trên chiếc xích lô cũ của bác hàng nước, chân đung đưa: "Anh có biết mùa thu này đẹp nhất ở đâu không?" Tôi giả vờ suy tư: "Ở.. Không khí mát mẻ à?" Cô hất tóc cười: "Ở chỗ này!" Cô chỉ vào chiếc lá vàng rơi chấm vào mũi tôi. Chúng tôi cùng im lặng ngắm hoàng hôn phủ lên Tháp Rùa, tiếng máy bay địch xa xa như tan biến trong hơi thở mùa thu. Bàn tay tôi và Linh đan vào nhau, mái tóc em ngã lên vai tôi.
Khi đèn đường bật sáng, Linh đưa tôi tờ giấy gấp hình trái tim: "Đây là đơn thuốc đặc biệt." Bên trong là lời bài hát "Hà Nội mùa thu" được chép tay, cuối trang có dòng chữ nhỏ: "Em yêu anh!" Tôi giữ tờ giấy ấm áp trong lòng bàn tay, tim đập loạn nhịp hơn cả lần đầu nghe tiếng bom.
Tháng 10 năm 1967, gió từ sông Hồng thổi về mang theo hơi lạnh đầu mùa. Những tờ báo tường tuyển quân dán kín bảng thông báo của các Trường Đại Học ở Hà Nội, in dòng chữ đỏ chói: "Thanh niên ơi, Tổ quốc gọi!" Linh và tôi thường đứng lặng trước những dòng chữ ấy, lòng nặng trĩu một thứ cảm xúc khó gọi tên. Chiều hôm ấy, khi chúng tôi đi dọc bờ hồ, cô bất ngờ nắm chặt tay tôi: "Anh.. Anh có định viết đơn không?"
Tôi giả vờ nhặt chiếc lá phong đỏ thẫm rơi xuống chân, cười gượng: "Em sợ anh đi lính à?" Linh quay mặt đi, giọng nghẹn lại: "Em sợ.. Sợ anh bắn giỏi quá, thành anh hùng rồi chẳng nhớ đường về!" Cô cố nói đùa nhưng mắt đã đẫm lệ, nắm tay tôi run nhẹ. Tôi đưa chiếc lá phong lên ngang tầm mắt, che đi khoảnh khắc mặt trời lặn: "Lá này giống trái tim anh. Dù gió cuốn đi đâu, gốc rễ vẫn bám chặt đất mẹ."
Chúng tôi hẹn nhau đến quán trà nhỏ cuối phố Lý Thường Kiệt. Trên bàn, hai tách trà nguội lạnh từ lúc nào. Linh lấy từ túi ra chiếc khăn tay thêu dở, những mũi kim loằng ngoằng: "Em đang tập thêu.. Để nếu anh đi, có cái làm bùa may mắn." Tôi cầm lên xem, phì cười: "Em thêu đẹp lắm, đạn nó sợ không dám đâm vào anh đâu!" Cô giật lại, má đỏ bừng giận dữ: "Im cái mồm anh đi! Nhớ phải giữ lấy thân, em không muốn anh làm anh hùng đâu!" Rồi chúng tôi im lặng, từ đôi mắt em hai dòng lệ chảy dài.
Đêm ấy, tiếng máy bay B-52 gầm rú xé toạc bầu trời Hà Nội. Tôi và Linh chạy xuống hầm trú ẩn cùng gia đình cô. Trong bóng tối, tay cô tìm và nắm lấy tay tôi. "Anh này," giọng cô khẽ khàng như sợ đánh thức những nỗi sợ đang ngủ quên: "Hồi anh trồng cây si, anh có ước gì không?" Tôi nhìn ánh lửa bập bùng từ ngọn đèn dầu: "Anh ước.. Cây ấy đủ cao để che chở cho người anh yêu."
Sáng hôm sau, đoàn cán bộ Bộ Quốc phòng đến trường Đại học Tổng Hợp. Họ đứng trước giảng đường khoa Toán, bộ quân phục xanh lá cây đậm nổi bật giữa biển áo sơ mi trắng sinh viên. Vị đại úy có khuôn mặt khắc khổ bước lên bục: "Các đồng chí! Tổ quốc đang gọi! Chúng tôi cần những người giỏi tính toán góc bắn, biết tính nhẩm nhanh. Ai xung phong vào đội bắn tỉa?"
Không gian chùng xuống. Tiếng lá vàng rơi ngoài cửa sổ nghe rõ mồn một. Tôi quay đầu nhìn về phía các bạn cùng lớp, vài cánh tay đã từ từ giơ lên.
"Tôi! Tôi xung phong!" Giọng nói của tôi vang lên giữa lớp, bàn tay phải giơ cao như cành si vươn thẳng.
"Tôi nữa!"
"Tôi cũng tình nguyện!"
Tất cả hơn hai chục sinh viên khoa Toán đã tình nguyện lên đường hôm ấy.
Ở bàn đăng ký nhập ngũ, một đồng chí hỏi: "Đồng chí tên gì?"
"Phạm Ngọc Huy! Sinh viên năm hai khoa Toán!"
Một tràng vỗ tay nổi lên. Tôi không nghe thấy gì ngoài tiếng tim mình đập thình thịch. Tôi chợt nghĩ về Linh và bài hát "Hà Nội mùa thu" chép tay em tặng tôi. Tôi bước xuống, chân như không chạm đất.
Trước khi đoàn cán bộ rời đi, vị đại úy hỏi nhỏ tôi: "Sao đồng chí không ngần ngại?" Tôi nhìn ra cửa sổ, nơi mùa thu Hà Nội đã qua, mùa đông lạnh đang về, và cây si của tôi đang lớn: "Vì Tổ quốc cũng cần em.."
Hà Nội 1967
Chiều hôm ấy, tôi đạp xe qua phố Khâm Thiên, mùi khét lẹt của khói bom vẫn còn vương trong không khí. Tiếng loa phòng không vang lên từng hồi dồn dập: "Đồng bào chú ý! Máy bay địch đang tiến về phía Gia Lâm, đồng bào nhanh chóng di chuyển đến hầm trú ẩn!" Nhưng tôi không dừng lại. Bác Tư, người thợ sửa xe đạp đầu ngõ, vừa bị thương trong trận bom rạng sáng, giờ đang nằm ở Bạch Mai. Chiếc xe đạp cà tàng của tôi lách qua những hố bom lở chở, bánh xe lạo xạo trên mặt đường gồ ghề.
Bệnh viện Bạch Mai ngập tràn tiếng rên xiết. Ánh nắng chiếu qua những tấm vải trắng bạc màu giăng làm màn che cửa sổ, in bóng những dãy giường xếp dài như vô tận. Tôi len lỏi giữa dòng người tất tả, áo trắng sinh viên Y khoa lấm lem máu và bụi. Đột nhiên, một giọng nói trong trẻo cắt ngang không khí ngột ngạt: "Có ai nhóm máu O không? Cấp cứu gấp!"
Tôi quay đầu. Một cô gái tóc ngắn, khuôn mặt lấm tấm mồ hôi, chiếc khẩu trang vắt vội trên cổ. Ánh mắt cô đầy lo lắng, nhưng giọng nói vững vàng lạ thường. Không nghĩ ngợi, tôi giơ tay: "Tôi nhóm O!"
Cô gái, Linh, như sau này tôi biết tên, dẫn tôi vào phòng cấp cứu. Kim tiêm đâm nhẹ vào tay, tôi cố nhoẻn miệng cười để che giấu nỗi sợ kim vốn giấu kín từ bé. "Anh cười đẹp thế," Linh khẽ nói, tay vẫn thoăn thoắt chuẩn bị dụng cụ: "Nhưng đừng cố quá, mặt anh trắng bệch rồi." Tôi cười to hơn: "Tôi sợ máu lắm, nhưng sợ cô la hơn!" Cô phì cười, má ửng hồng.
Mười phút sau, tôi nằm dài trên ghế, chóng mặt nhưng thấy lòng nhẹ bẫng. Linh ngồi cạnh, đưa ly nước đường ấm: "Uống đi, máu anh cứu được người rồi." Tôi nhấp một ngụm, hỏi vặn: "Sao cô biết tôi không phải là gián điệp?" Cô nghiêng đầu, giả vờ nghiêm túc: "Gián điệp nào dám vào đây cho máu? Chúng sợ.. Kim tiêm lắm!" Chúng tôi cùng bật cười, tiếng cười vang lên giữa căn phòng đầy đau thương, như tia nắng xuyên qua mây đen.
Khi ra về, tôi lén theo bóng Linh qua những con phố nhỏ. Cô gái áo trắng đạp xe chầm chậm, thỉnh thoảng dừng lại mua cái bánh đa cho bà cụ bán hàng rong. Tôi giữ khoảng cách, tim đập thình thịch khi cô rẽ vào ngõ Hàng Đào. "Nhà cô ấy cách nhà mình.. Ba cây số!" Tôi thầm tính toán, mắt sáng lên.
Hôm sau, tôi vác cây si con đến trồng vào ô đất trống trên vỉa hè, trước cổng nhà Linh. Đất cứng, mồ hôi ướt đẫm lưng áo, nhưng tôi cười ngây ngô khi nghĩ đến ánh mắt ngạc nhiên của cô. Hai tuần trôi qua, ngày nào tôi cũng mang một can nước qua tưới, cây si bén rễ. Mỗi sáng, tôi đạp xe ngang đó, giả vờ tình cờ gặp Linh đi học. Cho đến một ngày mưa, cô chủ động vẫy tay: "Anh Huy! Chở tôi qua đoạn đường ngập này được không?"
Chiếc xe đạp cà tàng của tôi kẽo kẹt dưới mưa, Linh ngồi sau, tay nắm nhẹ vạt áo tôi. "Anh trồng cây si đó phải không?" Cô hỏi, giọng đầy hài hước. Tôi ấp úng: "Tôi.. Tôi thấy đất trống nên!"
"Đất nhà tôi mà 'trống'?" Cô cười khúc khích, tiếng cười hòa cùng tiếng mưa rơi tí tách.
Buổi chiều hôm ấy, tôi đạp xe về nhà, mùi mồ hôi còn vương trên quần áo. Tiếng loa phòng không lại rền vang, nhưng lòng tôi ấm áp lạ thường. Cây si non đã đâm chồi.
Mùa thu Hà Nội năm ấy đến như một bài thơ chưa kịp gieo vần. Những con phố cổ khoác lên mình tấm áo vàng rực của lá bàng, lá sấu già nua rụng xuống, xào xạc dưới bánh xe đạp của tôi và Linh. Gió heo may lùa qua khăn choàng vội vã cô quàng trên cổ, mang theo mùi hoa sữa nồng nàn phảng phất từ phố cổ. Chúng tôi thường rủ nhau đi học sớm, chỉ để được đạp xe vòng qua Hồ Gươm, ngắm mặt nước lung linh in bóng những hàng liễu rủ mái tóc dài vào thu.
"Anh này, anh có biết 'tế bào hồng cầu' hình gì không?" Linh đột nhiên hỏi một sáng thứ Ba, tay xoay xoay chiếc bút máy trước mặt. Chúng tôi ngồi trong thư viện trường Y, giữa những chồng sách dày cộp mùi mực. Tôi nhíu mày giả vờ suy nghĩ: "Hình.. Hình viên kẹo sữa của em hôm trước?" Cô bật cười, vội đưa tay che miệng để không làm ồn: "Sai bét! Nó tròn dẹt như cái bánh xe đạp của anh ấy!" Tôi giả vờ thở dài: "Thế thì tế bào của anh chắc thành 'hồng cầu méo mó' rồi, vì xe đạp anh bị va cả chục hố bom!"
Chúng tôi trêu đùa nhau bằng thứ ngôn ngữ riêng, toán học và y khoa đan xen. Linh dạy tôi phân biệt các loại xương qua bài hát đồng dao tự chế, còn tôi dùng phương trình để tính giờ cô phải đi ngủ nếu muốn đủ 8 tiếng nghỉ trưa. Những buổi trưa trong căn-tin trường Y thường kết thúc bằng trận cười khúc khích khi tôi vẽ hình tim bằng ký hiệu tích phân, còn Linh dùng ống nghe tim thử đo nhịp đập của.. Tim tôi lúc giả làm bệnh nhân.
Chiến tranh vẫn đè nặng lên thành phố. Mỗi lần còi báo động rú lên, chúng tôi lại cùng chạy xuống hầm trú ẩn của bệnh viện. Trong căn hầm chật hẹp, Linh dạy tôi cách băng bó vết thương bằng khăn tay, còn tôi kể cho cô nghe về những chòm sao trên bầu trời. Có lần, khi tiếng bom dội xa xa, tôi thấy tay cô run nhẹ. Tôi giả vờ mở túi khoai lang nướng mang theo: "Ăn đi, khoai nguội rồi. Bom địch đâu có đáng sợ bằng.. Đói bụng!" Cô cắn một miếng, mắt cười cong cong: "Anh toàn dỗ trẻ con!"
Thư từ trở thành nhịp cầu nối những ngày chúng tôi xa nhau. Tôi viết cho Linh bằng giấy kẻ ô li học trò, kèm theo những bài thơ hình tam giác Pascal. Cô hồi âm trên trang giấy kê đơn thuốc cũ, chữ viết nghiêng nghiêng như sợi khói thuốc bắc: "Gửi bệnh nhân Huy: Triệu chứng: Hay cười vô cớ, mắt sáng lấp lánh khi nói về tích phân. Chẩn đoán: Thiếu vitamin.. Linh!" Mỗi bức thư đều có mùi thuốc sát trùng, như thể cô muốn bảo quản tình cảm của chúng tôi khỏi sự tàn phá của thời gian.
Ngày rằm tháng Tám, chúng tôi cùng đi làm tình nguyện ở khu tập thể Kim Liên. Linh bê từng chậu nước cho các cụ già, còn tôi leo lên mái nhà sửa lại phần bị dột. Khi tiếng hát "Nổi lửa lên em" vang lên từ chiếc loa cũ, tôi thấy Linh đứng dưới sân, tay vẫn cầm xô nước nhưng chân nhún nhảy theo điệu nhạc. Cô bắt gặp ánh mắt tôi, vội giả vờ vuốt tóc: "Em.. Em đang kiểm tra khớp cổ chân đấy!" Tôi cười rúc rích, suýt ngã khỏi mái nhà.
Chiều hôm ấy, chúng tôi lén mang gói xôi nếp cẩm ra bờ hồ. Linh ngồi trên chiếc xích lô cũ của bác hàng nước, chân đung đưa: "Anh có biết mùa thu này đẹp nhất ở đâu không?" Tôi giả vờ suy tư: "Ở.. Không khí mát mẻ à?" Cô hất tóc cười: "Ở chỗ này!" Cô chỉ vào chiếc lá vàng rơi chấm vào mũi tôi. Chúng tôi cùng im lặng ngắm hoàng hôn phủ lên Tháp Rùa, tiếng máy bay địch xa xa như tan biến trong hơi thở mùa thu. Bàn tay tôi và Linh đan vào nhau, mái tóc em ngã lên vai tôi.
Khi đèn đường bật sáng, Linh đưa tôi tờ giấy gấp hình trái tim: "Đây là đơn thuốc đặc biệt." Bên trong là lời bài hát "Hà Nội mùa thu" được chép tay, cuối trang có dòng chữ nhỏ: "Em yêu anh!" Tôi giữ tờ giấy ấm áp trong lòng bàn tay, tim đập loạn nhịp hơn cả lần đầu nghe tiếng bom.
Tháng 10 năm 1967, gió từ sông Hồng thổi về mang theo hơi lạnh đầu mùa. Những tờ báo tường tuyển quân dán kín bảng thông báo của các Trường Đại Học ở Hà Nội, in dòng chữ đỏ chói: "Thanh niên ơi, Tổ quốc gọi!" Linh và tôi thường đứng lặng trước những dòng chữ ấy, lòng nặng trĩu một thứ cảm xúc khó gọi tên. Chiều hôm ấy, khi chúng tôi đi dọc bờ hồ, cô bất ngờ nắm chặt tay tôi: "Anh.. Anh có định viết đơn không?"
Tôi giả vờ nhặt chiếc lá phong đỏ thẫm rơi xuống chân, cười gượng: "Em sợ anh đi lính à?" Linh quay mặt đi, giọng nghẹn lại: "Em sợ.. Sợ anh bắn giỏi quá, thành anh hùng rồi chẳng nhớ đường về!" Cô cố nói đùa nhưng mắt đã đẫm lệ, nắm tay tôi run nhẹ. Tôi đưa chiếc lá phong lên ngang tầm mắt, che đi khoảnh khắc mặt trời lặn: "Lá này giống trái tim anh. Dù gió cuốn đi đâu, gốc rễ vẫn bám chặt đất mẹ."
Chúng tôi hẹn nhau đến quán trà nhỏ cuối phố Lý Thường Kiệt. Trên bàn, hai tách trà nguội lạnh từ lúc nào. Linh lấy từ túi ra chiếc khăn tay thêu dở, những mũi kim loằng ngoằng: "Em đang tập thêu.. Để nếu anh đi, có cái làm bùa may mắn." Tôi cầm lên xem, phì cười: "Em thêu đẹp lắm, đạn nó sợ không dám đâm vào anh đâu!" Cô giật lại, má đỏ bừng giận dữ: "Im cái mồm anh đi! Nhớ phải giữ lấy thân, em không muốn anh làm anh hùng đâu!" Rồi chúng tôi im lặng, từ đôi mắt em hai dòng lệ chảy dài.
Đêm ấy, tiếng máy bay B-52 gầm rú xé toạc bầu trời Hà Nội. Tôi và Linh chạy xuống hầm trú ẩn cùng gia đình cô. Trong bóng tối, tay cô tìm và nắm lấy tay tôi. "Anh này," giọng cô khẽ khàng như sợ đánh thức những nỗi sợ đang ngủ quên: "Hồi anh trồng cây si, anh có ước gì không?" Tôi nhìn ánh lửa bập bùng từ ngọn đèn dầu: "Anh ước.. Cây ấy đủ cao để che chở cho người anh yêu."
Sáng hôm sau, đoàn cán bộ Bộ Quốc phòng đến trường Đại học Tổng Hợp. Họ đứng trước giảng đường khoa Toán, bộ quân phục xanh lá cây đậm nổi bật giữa biển áo sơ mi trắng sinh viên. Vị đại úy có khuôn mặt khắc khổ bước lên bục: "Các đồng chí! Tổ quốc đang gọi! Chúng tôi cần những người giỏi tính toán góc bắn, biết tính nhẩm nhanh. Ai xung phong vào đội bắn tỉa?"
Không gian chùng xuống. Tiếng lá vàng rơi ngoài cửa sổ nghe rõ mồn một. Tôi quay đầu nhìn về phía các bạn cùng lớp, vài cánh tay đã từ từ giơ lên.
"Tôi! Tôi xung phong!" Giọng nói của tôi vang lên giữa lớp, bàn tay phải giơ cao như cành si vươn thẳng.
"Tôi nữa!"
"Tôi cũng tình nguyện!"
Tất cả hơn hai chục sinh viên khoa Toán đã tình nguyện lên đường hôm ấy.
Ở bàn đăng ký nhập ngũ, một đồng chí hỏi: "Đồng chí tên gì?"
"Phạm Ngọc Huy! Sinh viên năm hai khoa Toán!"
Một tràng vỗ tay nổi lên. Tôi không nghe thấy gì ngoài tiếng tim mình đập thình thịch. Tôi chợt nghĩ về Linh và bài hát "Hà Nội mùa thu" chép tay em tặng tôi. Tôi bước xuống, chân như không chạm đất.
Trước khi đoàn cán bộ rời đi, vị đại úy hỏi nhỏ tôi: "Sao đồng chí không ngần ngại?" Tôi nhìn ra cửa sổ, nơi mùa thu Hà Nội đã qua, mùa đông lạnh đang về, và cây si của tôi đang lớn: "Vì Tổ quốc cũng cần em.."


Hà Nội 1967
* * *
Nếu thấy tác phẩm hay, bạn có thể ủng hộ tác giả bằng cách đọc các tiểu thuyết sau:
Tiểu thuyết
1. Trước Lúc Bình Minh (thể loại: Tuổi học trò, thanh xuân)
2. Tình Yêu và Bão Tố (thể loại: Trinh thám, hành động, tình cảm)
3. Hẹn Em Ngày Bình Yên (thể loại: Ngôn tình và chiến tranh)
Giao lưu với tác giả tại Fanpage: Giá Như Dừng Yêu
=>danh mục các tác phẩm của rewrite
Tham gia cuộc thi viết cảm nhận để nhận được 100.000 xu => LINK Ở ĐÂY
Chỉnh sửa cuối: