Lòng Tự Hào, Tự Tôn Dân Tộc Qua Hai Cuộc Kháng Chiến Vệ Quốc Vĩ Đại Của Dân Tộc Việt Nam Tác giả: Hoàng Hiệp Thể loại: Tản văn Từ thuở dựng nước cho đến nay, dân tộc Việt Nam đã không ngừng ghi dấu trong lịch sử nhân loại bằng những chiến công oanh liệt, bằng bản lĩnh kiên cường trước mọi thế lực xâm lăng. Nếu lịch sử là một dòng chảy liên tục thì hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trong thế kỷ XX chính là những đỉnh sóng chói lọi nhất. Mỗi lần ngẫm về những năm tháng không thể nào quên ấy, lòng tôi lại trào dâng niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc. Bởi từ trong gian khổ, mất mát, đau thương, nhân dân ta đã khẳng định trước toàn thế giới về sức mạnh quật cường, về khát vọng độc lập, tự do không gì có thể dập tắt. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945–1954) là một chương sử hào hùng. Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nền độc lập non trẻ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải đối diện ngay với những thử thách cam go. Thực dân Pháp quay trở lại, nuôi mộng tái chiếm Đông Dương. Nhưng chính trong thời khắc đó, tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc của nhân dân Việt Nam đã bùng cháy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Với bàn tay lao động cần cù, với đôi chân trần nhưng ý chí thép, những người dân Việt Nam - từ cụ già, em nhỏ đến những người lính "đầu trần chân đất" - đã đồng lòng góp sức cho kháng chiến. Những cuộc trường kỳ kháng chiến như Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, Chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950.. lần lượt giành thắng lợi, mở rộng vùng giải phóng, tạo tiền đề cho chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ kết thúc chín năm trường kỳ kháng chiến gian khổ mà còn làm rạng danh dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế. Một dân tộc nhỏ bé, với điều kiện kinh tế kỹ thuật hạn chế, đã đánh bại đội quân thực dân hùng mạnh, được trang bị vũ khí hiện đại. Điều đó càng khẳng định một chân lý vĩnh hằng: Không có sức mạnh nào có thể khuất phục được ý chí sắt đá của một dân tộc yêu nước, một dân tộc biết đứng lên bảo vệ quyền sống, quyền làm chủ của mình. Nhưng lịch sử chưa cho phép dân tộc ta được nghỉ ngơi. Ngay sau chiến thắng Pháp, nhân dân ta lại phải bước vào một cuộc chiến mới – cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Đây là cuộc đối đầu không cân sức, khi một bên là đất nước Việt Nam nhỏ bé, bên kia là đế quốc Mỹ với tiềm lực kinh tế, quân sự vào loại lớn nhất thế giới. Mỹ đã dùng mọi thủ đoạn, từ chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, tới "Việt Nam hóa chiến tranh", hòng khuất phục ý chí của nhân dân ta. Nhưng ngọn lửa tự hào và tự tôn dân tộc vẫn không ngừng cháy trong lòng mỗi người Việt Nam. Những chàng trai, cô gái tuổi mười tám đôi mươi đã không ngần ngại ra chiến trường; những bà mẹ, những người vợ ở hậu phương đã biến đau thương thành hành động, bền bỉ nuôi giấu cán bộ, tiếp tế cho tiền tuyến. Từ tuyến lửa Trường Sơn đến từng làng quê khắp dải đất hình chữ S, đâu đâu cũng thấm đẫm tinh thần "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", tinh thần "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Và rồi, ngày 30/4/1975 - ngày hội non sông đã đến. Tiếng reo mừng chiến thắng vang khắp đất nước. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước trọn niềm vui thống nhất. Hai mươi năm trường đấu tranh, bao nhiêu máu xương đã đổ xuống, bao nhiêu mất mát không thể nào đếm xuể, tất cả đều được đền đáp bằng mùa xuân toàn thắng. Chiến thắng ấy đã không chỉ giải phóng dân tộc Việt Nam mà còn trở thành biểu tượng cho sự chiến thắng của chính nghĩa, của khát vọng độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Qua hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại, lòng tự hào dân tộc trong tôi càng được khắc sâu. Tự hào vì tôi được sinh ra trên một dải đất mà từng ngọn núi, dòng sông đều thấm đẫm máu đào của cha ông giữ nước. Tự hào vì mình mang trong huyết quản dòng máu của những con người không chịu khuất phục, luôn quật cường đứng dậy dù bị đẩy vào hoàn cảnh hiểm nghèo nhất. Cùng với đó, lòng tự tôn dân tộc cũng trở nên thiêng liêng hơn bao giờ hết. Lòng tự tôn ấy nhắc nhở tôi rằng, là người Việt Nam, tôi có trách nhiệm phải sống sao cho xứng đáng với những gì ông cha đã vun đắp; phải góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Ngày hôm nay, khi đất nước đã hòa bình, hội nhập với thế giới, lòng tự hào và tự tôn dân tộc càng có ý nghĩa sâu sắc hơn. Nó không chỉ là lời nhắc nhở về quá khứ vẻ vang mà còn là kim chỉ nam cho hành động trong hiện tại và tương lai. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, trước những thách thức về kinh tế, văn hóa, chính trị, mỗi người Việt Nam càng cần phải giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, phải làm cho thế giới biết đến một Việt Nam không chỉ anh hùng trong chiến tranh mà còn sáng tạo, bản lĩnh, trí tuệ trong hòa bình. Tôi thầm tự nhủ với lòng mình: Dù ở bất kỳ nơi đâu, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng phải biết tự hào mình là người Việt Nam. Phải luôn nhớ rằng mình đang mang trên vai niềm kỳ vọng của cả một dân tộc đã trải qua biết bao đau thương mất mát để đổi lấy tự do, hòa bình hôm nay. Để lòng tự hào và tự tôn dân tộc không chỉ là những lời hô hào sáo rỗng, mà trở thành động lực để tôi không ngừng học tập, rèn luyện, sáng tạo, cống hiến cho đất nước. Hai cuộc kháng chiến vĩ đại đã khép lại, nhưng những giá trị bất diệt mà chúng để lại vẫn tiếp tục soi đường cho thế hệ trẻ hôm nay. Và tôi, một người con của đất Việt, nguyện mang trong tim ngọn lửa tự hào ấy, để góp sức nhỏ bé vào việc dựng xây một đất nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh, sánh vai cùng các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước. Tác giả: Hoàng Hiệp