PHẦN 5
Nói về Vưu Hồn, Bí Trọng ngày đêm xúi giục Vua Trụ xâm lăng tiêu diệt nước Văn Lang, thấy ý mình đã đạt. Trong lòng lấy làm sung sướng đánh một giấc ngủ ngon lành. Bỗng thấy hồn mình lạc đến U Hồn Cốc ra mắt Chúa Vương là một con cáo già bảy đuôi.
Vưu Hồn, Bí Trọng lạy:
Chúng con ra mắt Chúa Vương.
Chúa Vương hỏi:
Hai con theo hầu Chúa Tổ có khổ lắm không?
Vưu Hồn, Bí Trọng ngơ ngác: Không rõ Chúa Tổ là ai? Nhưng không dám hỏi. Chúa Vương nói:
Các con đã đầu thai làm người, không phải loài Cáo nữa. Nhưng Linh giác vẫn không quên mối thù diệt Tổ, diệt Tông của quân dân Văn Lang cách đây gần hai ngàn năm. Loài Chồn, Cáo ta có cơ hội là trả thù, đòi lại Địa Long Vũ Trụ. Nhưng đã thất bại nhiều lần. Loài Chồn, Cáo ta có đến hàng triệu, dù tu luyện đến đâu, cũng không làm gì được loài người, sẻ bị loài người sát hại. Không dễ gì đòi lại Địa Long Vũ Trụ trả mối hận thù. Chỉ có một con đường duy nhất là xả bỏ thân Chồn Cáo ngàn năm, trăm năm tu luyện. Đầu thai làm người. Chỉ có loài người mới diệt được loài người, đó là lời nói của Chúa Tổ. Chúa Tổ đã xả bỏ cái thân tinh khí tu luyện hàng triệu năm, để đầu thai làm người mưu đồ nghiệp lớn. Làm bá chủ thống trị nhân loại, trả mối hận thù ngàn xưa, đòi lại Địa Long Vũ Trụ. Không bao lâu nữa, Chúa Tổ Mẫu của loài Hồ Tinh chúng ta cũng sẽ lâm phàm. Nhưng không đầu thai chi mượn xác người. Tuy thân hồn các con là người. Nhưng tâm hồn ý thức vẫn còn loài Chồn, Cáo dù cho Thần Thánh cũng không phát hiện được. Thôi hai con trở về trần thế đi.
Chúa Tinh liền thổi một luồng yêu khí vào hồn người Vưu Hồn, Bí Trọng sau đó thời phất tay một cái. Vưu Hồn, Bí Trọng giật mình thức giấc mới hay là mình vừa chiêm bao. Từ đó về sau lúc nào Vưu Hồn, Bí Trọng cũng xúi dục Vua Trụ làm nhiều điều đại gian đại ác đối với con người. Nhất là tàn sát con cháu Tiên Rồng, chiếm lấy nước Văn Lang cho bằng được. Vua Trụ càng ngày càng cương quyết, huy động binh hùng tướng mạnh tiêu diệt nước Văn Lang càng sớm càng tốt.
Chồn Cáo xưa nay vẫn âm thầm
Mưu mô tiêu diệt các Vua Hùng
Mài gươm nghìn kiếp trên núi hận
Con cháu Tiên Rồng họa hiểm hung
Bắc phương hung khí đầy trời
Từ lâu muốn nuốt Nam thời Văn Lang
Quân hùng tướng mạnh rền vang
Giáo gươm ngun ngút loáng loang kinh người
Trường giang sóng dậy ầm ầm
Lớp sau lớp trước cuộn cuồn tiến qua
Cậy mình quân tướng tài ba
Lòng tham vô đáy Trời coi ra gì.
Trên đồi Vọng Đọ người ta nhìn thấy quân Ân đông như kiến, trùng trùng điệp điệp lan lan lớp lớp gươm giáo sáng ngời. Xe ngựa mịt mù có hơn trăm vạn, ai nhìn thấy cũng thất kinh. Không bao lâu vượt qua Bắc sông Trường Giang, tiến thẳng về Nam sông Trường Giang. Cách Nam sông Trường Giang hơn khoản 6 hoặc 7 dặm, thời hạ trại đóng quân tại đó.
Vua Trụ hạ trại đóng quân chưa được bao lâu, thời có quân vào báo:
Bẩm Chúa Công hơn 50 trấn chư hầu lớn nhỏ đã kéo đến, tổng cộng trên dưới 60 vạn. Quả là con số không nhỏ.
Vua Trụ nói:
Quân ta đã lên tới 160 vạn quân thời quân Văn Lang chỉ cần thấy đã khiếp rồi. Còn đâu tinh thần để mà đánh.
Nói xong cười lên ha hả vô cùng đắc ý.
* * *
PHẦN 6
Vì nước vì non kể chi thân
Thịt nát xương tan chẳng ngại ngần
Một mất một còn quân xâm lược
Rồng Tiên truyền thống diệt quân Ân
Trải mật phơi gan, đầy non nước
Vang rền trung hiếu, Đạo cháu con
Cha ông dẹp giặc nghìn đời trước
Kim cỗ rạng danh mãi thường còn
Nói về Hùng Tiên Lang Quốc Vương cùng 50 vạn quân tinh nhuệ. Nhắm hướng Nam Kinh Xích tức tốc lên đường. Khí thế dậy non dậy núi, không bao lâu tới địa phận Giao Chỉ. Suốt dọc đường, hai bên đường dân chúng hết lòng ca ngợi, hết lòng sùng kính, hết lòng ngưỡng mộ dâng lên đồ ăn thức uống, lương thực thuốc men đồ gia dụng cần thiết, góp công góp của đánh giặc Ân.
Thấy dân vì nước giọt lệ rơi
Tiên Lang thề nguyện khấn giữa trời
Chỉ còn hơi thở ta cũng đánh
Đánh cho lũ giặc nát tả tơi
Đại quân đi gần tới Nam Kinh Xích Quỷ. Thời chiêng trống dậy trời cờ bay phất phới. Đó không phải là quân giặc, mà là quân Nam Kinh Xích Quỹ đội ngũ chỉnh tề tiếp đón Quốc Vương. Hùng Tiên Lang khen thầm trong bụng. Bỗng tiếng vó ngựa vang lên rồm rộp. Một đội kỵ mã mũ giáp chỉnh tề oai hùng tiến tới trước Quốc Vương ra mắt hành lễ. Hùng Cao Lang cưỡi con ngựa Xích Long Câu to lớn dẫn đầu các quan tướng, xuống ngựa hành lễ ra mắt Quốc Vương. Hùng Tiên Lang xuống ngựa đỡ Hùng Cao Lang dậy nói miễn lễ miễn lễ.
Hùng Cao Lang mời Quốc Vương cùng các quan tướng vào thành, đi thẳng vào ngôi Chính Diện. Nơi mà Quốc Tổ Vua Hùng đã sinh ra. Các quan tướng ở Kinh Đô Văn Lang, phần nhiều chưa có dịp ra Kinh Bắc, Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ. Thấy sự giàu có ở đây còn hơn cả Phong Châu Kinh Đô Văn Lang.
Các quan tướng lấy làm kinh ngạc:
Sao Quốc Tổ không ở đây mà lại ở Kinh Đô Văn Lang?
Nhưng không ai trả lời được câu hỏi nầy. Lại thấy nơi chính giữa cung điện có đôi Quốc Vương Nam Nữ diện mạo phi phàm. Người cha bồng đứa hài nhi, tỏa hào quang. Bức tượng người cha bồng con. Không ai khác hơn là Đức Vua Kinh Dương Vương. Còn đứa hài nhi tỏa hào quang ấy, chính là Quốc Tổ Hùng Vương.
Các quan, tướng nhìn thấy ba bức tượng ấy. Lòng xúc động, như nhìn thấy ở quá khứ hiện ra hết sức thiêng liêng, ăn sâu vào tâm hồn bao thế hệ con cháu Văn Lang. Nhất là Quốc Vương Hùng Tiên Lang không sao cầm giọt nước mắt.
Bỗng có người vào báo:
Có Cao Lạc Hầu Vương đến.
Mời Hầu Vương vào, Hùng Tiên Lang ra lịnh. Cao Lạc Hầu Vương vào ra mắt Quốc Vương nói:
Xin Quốc Vương tha tội, Hạ quan đến trễ.
Hùng Tiên Lang cười nói:
Miễn lễ.
Sau đó thời Vua tôi an tọa đi vào nghị sự bàn kế sách chống giặc. Đây nói về Tây Thục Hầu Vương, sau khi rời khỏi Kinh Đô Văn Lang, cấp tốc bay về Tây Thục.
Có câu thơ ca rằng:
Bạch Long Thần Mã ai bì
Ngày đi vạn dặm ai thời cũng kinh
Huống chi gặp lúc ngoại xâm
Ngựa bay vun vút vượt tần núi cao
Hơn tên bắn hơn tên lao
Xé mây xé gió, biết bao oai hùng
Thục Vương anh dũng phi thường
Ngựa người lao vút núi rừng vụt qua.
Tây Thục Vương là vị Vương đang cai quản hàng mấy mươi Bộ Lạc, Bộ Tộc vùng Tây Vu rộng lớn từ Tây Bắc giáp Ba Thục, đến Tây Nam AI LAO dân số lên tới vài triệu người.
Bắc Tây Thục gồm những châu lớn như: Di Tây Châu, Ngô Bắc Tây Châu, Hung Hung Tây Châu, Liêu Tây Thượng Châu, Phù Ung Tây Châu, Tam Giang Tây Châu, Lư Tây Trung Châu, Lô Lô Tây Châu, Phiên Tây Thượng Châu, Mân Di Tây Châu, Đinh Giao Tây Châu, Thượng Tây Giang Châu, Uất Lang Việt Châu, Lâm Giang Tây Châu.
Trung Trung Tây Thục Văn Lang gồm những châu lớn như: Tây Âu Châu, Hồng Thượng Thượng Châu, Hồng Lạc Châu, Thạch Vân Châu, Thái Vân Tây Châu, Bộc Tây Châu, Cựu Tây Châu, Thượng Đà Châu, Lai Trung Tây Châu, Âu Điền Châu, Môn Tây Châu.
Nam Tây Thục Văn Lang gồm những châu lớn như: Lao Sơn Thượng Tây Châu, Lao Sơn Tây Nam Châu, Lao Sơn Đông Tây Châu, Thượng Thượng Châu, Đà Thịnh Châu, Vệ Linh Tây Châu, Mã Linh Tây Châu, A Pha Tây Châu, Khơ Khơ Tây Châu, Mường Lai Tây Châu, Điện Linh Tây Châu.
Tây Thục Vương có tới chín người con, chia nhau cai quản toàn lãnh thổ Tây Vu, Tây Văn Lang. Chín người con đó là:
1: Thục Lao
2: Thục Man
3: Thục Di
4: Thục Chăm
5: Thục Liêu
6: Thục Châu
7: Thục Mân
8: Thục Ren
9: Thục Cương
Đa phần dân chúng Tây Thục Văn Lang đều xưng dân tộc Âu. Khi Tây Thục Vương về đến Tây Thục vào thành Âu Tây liền cho gọi chín người con đến bàn tính kế sách chống giặc ngoại xâm.
Thấy các con đến đông đủ Thục Hầu Vương nói:
Quân Bắc sắp xâm lược nước Văn Lang ta các con khẩn cấp về điểm binh mã dốc toàn lực lượng theo cha đến Nam Kinh Xích Quỹ chống giặc.
Thục Lao nói:
Thưa cha từ khi Quốc Tổ dựng nước tới nay, giặc Hồ, giặc mũ Đỏ, giặc Hung Nô, đã bị ông cha ta đánh tơi bời kinh hoàng khiếp vía, sau này còn dám hó hé. Đồ ếch, nhái mà cũng đòi vuốt râu Hùm sao?
Tây Thục Vương nói:
Các con lầm rồi lần này không phải là ếch, nhái mà là cọp, beo, hổ, báo, Yêu tinh, Quỹ dữ giặc Ân xâm lược nước ta với khí thế long trời lở đất. Cuộc chống ngoại xâm lần này là một còn một mất, các con hãy chuẩn bị tinh thần cho thật tốt, đối mặt với quân thù.
Các con Tây Thục Vương nghe nói không cải mà muốn gặp ngay quân thù đánh cho một trận biết thế nào lợi hại của con cháu Tiên Rồng.
Đây nói về Hùng Tiên Lang Quốc Vương cùng các Vương, các Quan, các Tướng, bàn kế sách đánh giặc thời có quân vào báo:
Tây Thục Vương đã tới xin ra mắt Quốc Vương.
Cho mời Tây Thục Vương vào. Xin tuân lệnh.
Đi đầu là Tây Thục Vương, sau Tây Thục Vương là 18 võ Tướng cả nam lẫn nữ uy dũng vô cùng. Hùng Tiên Lang khen:
Quả thật Tây Thục danh Tướng oai hùng.
Tây Thục Hầu Vương nói:
Tâu Quốc Vương đây là dâu, con, cháu lớn của hạ Quan các con ra mắt Quốc Vương đi.
Tức thời 18 võ tướng bước tới hành lễ nói:
Chúng con là con cháu Vua Hùng xin ra mắt Quốc Vương.
Hùng Tiên Lang vui vẻ nói:
Miễn lễ, miễn lễ.
18 người con cả dâu lẫn cháu ra mắt Quốc Vương hành lễ xong liền lui ra sau Tây Thục Vương an vị chỗ ngồi.
Hùng Tiên Lang Quốc Vương vẻ mặt đầy nghiêm nghị cho người mang hộp bảo vật Trấn Quốc đặc lên hương án, tuyên thệ hành lễ rồi mở hộp ra. Các vương, các quan, các tướng ai nấy cũng đều hồi hộp, bỗng từng chiếc hộp muôn Đạo hào quang tỏa ra vô cùng đẹp mắt, đó là ánh sáng của 6 cây bảo kiếm từ thời Quốc Tổ truyền xuống đến nay chỉ nghe kể, không bao giờ được thấy, chỉ trừ các vị Quốc Vương nối tiếp nhau trị vì Thiên Hạ.
Hùng Tiên Lang kể:
Tiên Thiên, Thất Tinh Bảo Kiếm là báu vật có một không hai vũ trụ. Hùng Vương Quốc Tổ dùng thần thông pháp thuật thu hút Tiên Thiên, Chơn Âm Chơn Dương tinh hoa vũ trụ kết cấu luyện thành hay còn gọi là thất linh Bảo Kiếm, không những uy lực vô biên mà còn theo ý tưởng của con người biến hóa diệu kỳ. Nếu đủ 7 linh kiếm Thiên Tiên vũ trụ, thời Thần Thánh Phật Tiên cũng khó bảo toàn tính mạng huống hồ là loài Yêu ma Quỷ dữ. Chỉ cần 5 linh kiếm Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ là chúng cũng đã đi đời, nay non sông Tổ quốc đi vào cảnh lâm nguy, không còn cách nào hơn là đem bảo vật trấn quốc ra xử tử bọn chúng, càn quét quân xâm lược. Có một điều rất lạ 7 thanh bảo kiếm truyền từ đời Quốc Tổ xuống đến đời thứ 23 thời thượng Hùng Vương nhưng khi truyền qua đời thứ 24 đời thứ nhất Hạ Hùng Vương thời xảy ra chuyện lạ. Hùng Vân Lang lên ngôi Quốc Vương làm lễ tiếp nhận 7 thanh báu kiếm trấn quốc. Đang lúc tiếp nhận trong tay đời thứ 23 Hùng Dịch Lang bỗng trời đất tối om rồi sáng lại rất nhanh chỉ trong vòng nháy mắt đã mất đi Thượng Thiên Chủ Kiếm chỉ còn lại Hạ Thiên Chủ Kiếm mà thôi. Có lẽ Quốc Tổ đã thu Thượng Thiên Chủ Kiếm về Trời rồi cũng nên, sự việc ấy xảy ra cách đây 91 năm và câu chuyện ấy cũng lần lần đi vào quên lãng chỉ riêng các Vua Hùng kế sau luôn luôn nuối tiếc và ta đây cũng vậy. Nay non sông Tổ quốc lâm nguy vì thế ta đem bảo kiếm trấn Quốc ra tiêu diệt quân thù xâm lược bảo vệ con cháu Tiên Rồng, bảo vệ non sông Tổ quốc mà ông cha ta đã bao đời dày công xây dựng.
Thời gian cấp bách Hùng Tiên Lang phân bổ lực lượng như sau.
Tây Thục Hầu Vương nghe lịnh: Có thuộc hạ.
Hùng Tiên Lang liền lấy thanh Kim Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm trao cho Thục Vương Gia nói:
Hầu Vương dẩn 30 vạn quân chia làm 3 mũi trấn giữ Tây Giang Giao Châu, Dương Giang Châu Kiến Giang Giao Châu, Tam Giang Tây Châu xin tuân lệnh, nhận ấn đồng vải trắng dẫn quân ra đi.
Hùng Tiên Lang nói:
Cao Lạc Hầu Vương nghe lịnh: Có thuộc hạ.
Hùng Tiên Lang lấy Thanh Thủy Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm trao cho Cao Lạc Hầu Vương nói:
Hầu Vương dẩn 20 vạn quân trấn thủ Đông Giang Giao Châu, Quế Giang Giao Châu, Lạc Trung Giao Châu xin tuân lệnh, nhận ấn đồng vải đen ra đi.
Hùng Tiên Lang lại nói:
Hùng Cao Lang nghe lịnh: Có thuộc hạ.
Hùng Tiên Lang lấy thanh Hỏa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm trao cho Hùng Cao Lang nói:
Hầu Vương dẩn 30 vạn quân trấn thủ Bắc Giang Giao Châu, Lạc Giang Giao Châu, Kinh Giang Giao Châu, Giao Giao Minh Châu, Quí Linh Giao Châu xin tuân lệnh, nhận ấn đồng vải đỏ dẫn quân ra đi.
Hùng Tiên Lang lại nói:
Điền Điền Lang nghe lịnh: Có thuộc hạ. Con nhận lấy thanh Mộc Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm nhận ấn đồng vải xanh dẩn 10 vạn quân mai phục bảo vệ vòng đai Kinh Đô Xích Quỷ, Hợp Giao Châu, Hạt Linh Châu, Lạc Điền Châu. Tuân lệnh dẫn quân ra đi.
Hùng Tiên Lang lại nói:
Diệp Lang nghe lịnh: Có thuộc hạ. Cháu nhận lấy Địa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm nhận ấn đồng vải vàng dẫn 10 vạn quân mai phục tại rừng Tiên Du, dưới chân Hùng Phong Sơn tiếp cho quân Tây Thục, cháu xin tuân lệnh dẫn quân ra đi.
Phân bố lực lượng xong Hùng Tiên Lang mới thở phào nhẹ nhõm. Ở tại Nam Kinh theo dõi tình hình chiến trận, tiếp tục điều động lương thực, quân binh ứng chiến. Thế là cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc đã mở màn.
* * *
PHẦN 7
Trùng Trùng Cáo Sói ở kia sông
Tanh máu xông lên bốc nực nồng
Nhe nanh múa vuốt nghe hùng hục
Liếm mép nhìn qua, Tử Giang sông
Nhắc lại bên kia bờ Bắc sông Trường Giang ÂN THỌ VƯƠNG lòng nóng như lửa đốt, mau chiếm lấy nước Văn Lang lên ngôi bá chủ gồm thâu Thiên Hạ về một mối, tùng phục nhà Ân.
Nói về Vi Tử Khải, Vi Tử Điển luôn luôn nghỉ đây là cơ hội hiếm có để xưng Vương. Lòng háo hức muốn tiến quân đánh ngay, liền tâu lên Ân Thọ Vương rằng:
Muôn tâu bệ hạ, hạ thần xin nguyện lãnh ấn tiên phong đánh chiếm Nam Kinh Xích Quỹ lập chiến công mở màn thu phục nước Văn Lang.
Vua Trụ lấy làm ngạc nhiên nhưng rồi cũng cho đi. Vi Tử Khải, Vi Tử Điển, mỗi người thống lãnh 39 vạn quân chia làm 2 mũi đánh thẳng vào trung lộ Bắc Văn Lang, chiếm lĩnh các thành lớn như: Lạc Giang Giao Châu, Quý Linh Giao Châu, Kinh Kinh Giao Châu, Bắc Giang Giao Châu, Xích Linh Giao Châu, Hợp Giao Châu, sau cùng là chiếm lấy Nam Kinh xích quỹ.
Vua Trụ lại tiếp tục ra lịnh cho Khương Hoàng Nhân, Triều Chấn Lôi, Tử Điền Phi kết hợp với 20 trấn chư Hần lớn nhỏ Yên, Sở, Triệu, Tề, Tần, Tấn lên tới 50 vạn quân. Tấn công Đông Bắc Văn Lang Đông Giao Chỉ chiếm lãnh các thành lớn như: Đông Giang Giao Châu, Quế Giang Giao Châu, Liễu Giang Giao Châu, Lạc Trung Châu, Đông Hải Giao Châu, Hạ Linh Châu sau cùng bọc lên tấn công vào Nam Kinh xích quỹ, tuân lịnh.
Trụ Vương lại tiếp tục ra lịnh cho Ngạc Sùng Cảnh, Ngạc Sùng Văn, Triệu Tử Quân, Chu Công Minh, Thiệu Công Tiễn, kết hợp với 20 trấn chư Hầu lớn nhỏ, Mân, Chu, Cảo, Phong, Ngân, Lâm, Hồ, Hàn, Ngụy lên tới 50 vạn quân. Tấn công Tây Bắc Văn Lang Tây Giao Chỉ, chiếm lịnh các thành lớn như: Tây Giang Châu, Dương Giao Châu, Kiến Giao Châu, Hồ Tây Châu, Âu Giao Châu, Tam Giang Tây Châu rồi đánh bọc xuống Lạc Điền Châu chiếm lấy Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ.
Hùng Tiên Lang nhìn về phương Bắc, thấy trời đất u ám, sát khí trùng trùng trong lòng không khỏi lo lắng, liền cho quân lập đài cầu Trời gia hộ cho con cháu Tiên Rồng giữ vững non sông Tổ quốc.
Vì Nguồn vì Cội vì Cha Ông
Vì nước vì non dốc một lòng
Ta còn hơi thở, còn chiến đấu
Đuổi quân xâm lược khỏi non sông
Nơi đất Tây Giang Châu ba anh em Thục Mân, Thục Ren, Thục Cương đang ra sức kêu gọi dân chúng di tản sâu vào Nam lánh giặc, dẫn 10 vạn quân kết hợp cùng quân lính các quận Huyện nhanh chóng trấn thủ thành Tây Giang Châu. Thành Tây Giang Châu là nơi trọng yếu giao thương với các thành gần biên giới yếu huyệt của kinh tế, chính trị, quân sự. Thành Tây Giang Châu, địa thế phức tạp bí hiểm, núi non hiểm trở, xưa nay quân Bắc xâm lược đều khó vượt qua địa phận đất Tây Giang.
Nơi thành Tây Giang Châu có vị quan phủ Bố Chính An Lạc Điền là vị quan hiền lành, văn võ song toàn, luyện được đao pháp thượng thừa, có 2 người con 1 nam 1 nữ đều là bậc hảo hán anh hùng. Nhận được tin mật báo, quan phủ liền ra lệnh di tản dân nội thành đi nơi khác, thấy quân Văn Lang đến liền mở cổng thành đón 10 vạn quân vào, rồi đi vào nghị sự bàn luận kế sách chống giặc.
Thục Mân nói:
Nếu nói về ngôi thứ thời 3 anh em tôi cùng quan phủ vai vế khác nhau. Nhưng nói về tuổi tác cũng như kinh nghiệm về chinh chiến, địa hình phức tạp ở đây, thời 3 anh em chúng tôi không bằng đại nhân được, xin đại nhân chỉ bảo cho.
Thấy sự ăn nói khéo léo của Thục Mân, An Lạc Điền thầm khen ngợi, nên đã có ít nhiều thiện cảm, không khách sáo chi nữa liền đưa ra phương án chống giặc, theo sáu phương án sau:
1: Là thông
2: Là cảng
3: Là đối
4: Là ải
5: Là hiểm
6: Là viễn
Luận về binh pháp xưa nay giặc chưa hiểu về ta, nên giặc phải chọn nơi đất bình quan cảnh thông thoáng, để dễ tiến, thối khi gặp trở ngại. Theo hạ quan được biết thế giặc tấn công tây Bắc chúng ta lên tới 50 vạn quân trong khi chúng ta chỉ có hơn 10 vạn, vì vậy chúng ta không thể đánh phủ đầu trực diện đối mặt với chúng được, hơn nữa thế giặc chưa mệt mỏi, còn đang hưng phấn chiến đấu ngùn ngụt, vì thế trước mắt thủ thành là chủ yếu, chờ giặc phân tán lực lượng ta mới ra tay tấn công. Dựa vào thế cảng nơi có nhiều chướng ngại như Núi, Sông, Kinh Lạch, Rừng, chúng ta mai phục ở đó dụ chúng lọt vào bẫy ra sức tiêu diệt, lúc này mới dùng chiến thuật đối mặt gọi là chặn dồn ép giặc chạy về phía hiểm địa gọi là kế ãi. Cắt đứt giặc ra từng khúc gọi là kế tử. Thế giặc đã lâm vào tử ải thời coi như đã hết đời, chết nơi hiểm địa, giả đò thua dụ địch sâu vào đất Văn Lang, bất ngờ tấn công cắt đứt liên lạc, tiếp viện đưa giặc vào thế cô lập làm cho chúng mất ăn, mất ngủ, bất ngờ đồng loạt tấn công giống như đàn sư tử tấn công con voi, giặc rơi vào thế yếu ngã gục đi đời.
Trong lúc đang bàn kế sách chống giặc, thời có quân vào báo:
Quân giặc đã tràng qua ải Tây Giang, đã chiếm lĩnh một số Quận, Huyện. Chúng đang ra sức vơ vét của cải, những người dân tiếc của không chịu di tản bị giặc tàn sát thê thảm.
Ôi thôi làng xóm còn gì
Hùm Beo Cáo Sói mấy khi hiền lành
Đầy mình móng vuốt cùng nanh
Gái tơ hơi hới phải đành nát tan
Dân lành máu chảy loáng loang
Chúng đâm chúng chém ác gian kể gì
Núi thù biển hận kể chi
Rồng Tiên con cháu xông lên diệt thù.
Nói về 50 vạn quân cùng 20 trấn chư hầu lớn nhỏ do Ngạc Sùng Cảnh, Ngạc Sùng Văn chỉ huy. Người ngựa, xe cộ, thuyền bè tiến qua các Quận, Huyện như thác lũ. Càng lúc càng tiến sâu vào đất Văn Lang, hơn 50 dặm, thời trời cũng bắt đầu sẫm tối. Trước mặt là những rừng đồi lô nhô kéo dài tới dãy núi Hùng Phong Sơn cao vút. Cùng con sông ẩn mình qua bao khu rừng rậm, kinh rạch, ngoằn ngoèo, ngoắt ngoéo uống lượng quanh co qua những vùng thung lũng lau sậy. Như nói lên bao sự huyền bí của vùng Tây Bắc Văn Lang.
Ngạc Sùng Cảnh lạnh cả người, như có gì mách bảo là ngày tử nạn của ông không xa. Ngạc Sùng Cảnh rùng mình không dám nghỉ nữa. Liền cho quân hạ trại, dừng lại không tiến sâu thêm nữa.
Ông nói:
Chúng ta đã tiến quân sâu vào đất Văn Lang hơn 30 dặm, vượt qua một số Quận, Huyện, chỉ gặp cảnh vườn không nhà trống, không gặp trở lực nào cả. Điều đó chứng tỏ rằng Quân Văn Lang có chủ ý, không thể không đề phòng.
Liền cho trinh thám dò đường thám thính tình hình quân địch. Không bao lâu thời thám tử về báo:
Trước mặt ta 10 dặm về hướng Nam là vùng gò đồi rừng Mây, thung lũng, lau sậy có nhiều kinh lạch chảy xuống sông Âu. Qua khỏi vùng gò đồi rừng Mây về hướng Tây Nam 8 – 9 dặm là thành Tây Giang Châu.
Suốt cả đêm bọn tướng tá thăng chốt của lũ giặc Ân nổ lực đưa ra kế sách tiến quân thôn tính toàn bộ địa phận Tây Bắc Văn Lang và cuối cùng thống nhất đánh thẳng vào ba yếu huyệt chiếm lấy ba thành.
* * *
PHẦN 8
Nói về bộ sậu chủ chốt giặc Ân thảo luận kế sách sáng đêm, tiến quân đánh ba thành. Ngạc Sùng Cảnh điều động quân binh như sau.
1 – Triệu Tử Quân nghe lịnh: Có thuộc hạ; Tướng quân điểm 10 vạn quân kết hợp với quân: Chu, Cảo, Phong tiến đánh thành Tây Giang Châu. Tuân lịnh.
2 – Chu Công Minh nghe lịnh: Có thuộc hạ; Tướng quân điểm 10 vạn quân kết hợp với quân: Lâm, Hồ, Hàn tiến đánh thành Dương Giao Châu. Tuân lịnh.
3 – Thiệu Công Tiển nghe lịnh: Có thuộc hạ; Tướng quân điểm 10 vạn quân: Mân, Ngân, Ngụy. Tiến đánh thành Kiến Giao Châu. Tuân lịnh.
Tiếng gà vừa gáy mộng chưa tan
Ba con rắn độc đã vội vàng
Uốn mình lao tới chân rồm rộp
Các bụi mịt mù trống canh vang.
Mặt trời còn ngủ chưa thức. Trong màn đêm những giọt sương còn nằm chơi trên mái lá. Bỗng giật mình khiếp sợ, nhìn ba con rắn khổng lồ dài 8-9 dặm cuồn cuộn há mồm lao thẳng về thành Tây Giang Giao Châu, Dương Giao Châu, Kiến Giao Châu. Cách thành độ hơn 2 dặm thời ba con rắn dừng lại. Cũng là lúc mặt trời thức giấc ánh bình minh trở lại với quê. Với cặp mắt cú vọ diều Hâu, Triệu Tử Quân hết nhìn núi non hùng vĩ, sông nước hữu tình. Những cánh đồng lúa xanh thăm thẳm, những đàn cò trắng lã bay qua. Đàn ong bướm bay lượn nhành hoa. Như toác lên đời no ấm xuân hoa. Liền thở dài: Thảo nào mà Bệ Hạ không thèm khác sao được. Và trách nhiệm nặng nề của ta là phải chiếm cho được thành Tây Giao Châu.
Đây nói về thành Tây Giang Giao Châu, theo kế sách đã hoạch định. Trời vừa sẩm tối, từ nơi cửa thành 1 vạn quân bí mật nhắm dãy núi Hùng Phong Sơn âm thầm lặng lẽ ra đi. Lại 1 vạn nữa nhắm hướng Đông Bắc tới thung lũng rừng Lau Sậy phục kích. Nhìn thấy quân Ân vượt qua sông, vượt qua rừng Mây như thác đổ, vì chưa có lệnh nên không tấn công chỉ im lặng để cho giặc đi qua.
Kìa quân ăn cướp đến rồi
Chúng vơ chúng vét hết thời của dân
Của ngon vật lạ chúng ăn
Cửa nhà chúng đốt san bằng còn chi
Gái tơ chúng bắt nâng ni
Xài rồi chúng lại bắt đi làm hầu
Miếu thờ chúng kể gì đâu
Gái trai già trẻ chúng xâu một lùm
Đáng ra dân phải lên đường
Vườn không nhà trống lánh nương, giặc càn
Cũng vì tiếc của giàu sang
Giờ đành phải chịu lắm đàng họa tai
Kêu trời khóc đất thảm thay
Trời im đất lặng có hay bao giờ
Kia kìa giặc đã công thành
Rồng Tiên Chồn Cáo phân tranh mất còn.
Đứng trên thành cao, quan văn tướng võ nhìn thấy quân Ân trùng trùng lớp lớp kéo đến cách cổng thành độ chừng hai dặm thời hạ trại. Chận đường ra vào chính yếu của thành Tây Giang Châu. Bỗng từ nơi doanh trại của giặc, xông ra một tướng oai phong lẫm liệt, dẫn theo 3 nghìn quân, kéo tới cổng thành dàn trận.
Rồi lên tiếng hách dịch quát lớn:
Quân cỏ rát thành Tây Châu kia, mau ra qui hàng thời sống, còn chống lại thời chết.
Khoác lác vô cùng. Thấy tướng giặc hỗn xược ngạo nghễ như vậy, không kèm nỗi sự tức giận An Lạc Sơn nói:
Thưa cha. Để con ra lấy đầu thằng nhái ranh đó cho.
An Lạc Điền nhìn ba vị tướng quân hơi ngần ngại. Thục Mân nói:
Lạc Sơn tướng quân ra trận hết sức cẩn thận.
An Lạc Điền nhìn An Lạc Sơn nói:
Đây là trận mở màng, chỉ có thắng chứ không được thua.
An Lạc Sơn nói:
Con hiểu rồi.
An Lạc Sơn hăm hở, điểm 3 nghìn quân mở cổng thành xông ra nghinh chiến đón đánh. Thấy tướng giặc nghinh nghinh tự đắc. An Lạc Sơn vốn khôi ngô tuấn tú. Nay ra trận mão giáp chỉnh tề, thể hiện khí chất bất phàm oai phong lẫm lẫm. Tướng giặc Ân, thấy An Lạc Sơn cốt cách oai hùng như vậy cũng phải khen thầm.
An Lạc Sơn giục ngựa xông tới hét lớn:
Hãy xưng tên họ rồi chết. Làm phân cho đất Nam ta.
Tướng giặc tức quá hét lớn:
Nhái ranh, hôm nay là ngày giỗ của ngươi.
Liền phi ngựa xông tới chém liền mấy nhác. Tướng giặc Ân ấy không ai khác hơn là Ly Ảnh Quân, con trai của Cảo Hầu Vương là người khắc tiếng về Đạo pháp. Có thể lấy mạng đối thủ ngoài mười thước. Biệt hiệu là Vô Ảnh Đao. An Lạc Sơn nào có kém chi. Nhờ ăn được quả linh chi ngàn năm. Nên đã luyện Đao pháp đến xuất thần nhập hóa. Thế là hai con cọp vồ nhau chí tử. Các bụi mịt mù, ánh Đao chớp chớp, đinh tai nhức óc, rét rét, ầm ầm kinh thiên động địa, kẻ qua người lại như bóng với hình. Chiêng trống rền trời, quân reo dậy đất.
Đúng là:
Một bên vì nước vì non
Một bên xâm lược ác gian kể gì
Đao qua đao lại kể chi
Bình sanh dốc hết lấy đi đầu thù
Đao đà luyện đến hư vu
Cuồng phong lạnh buốt âm u rợn người
Đánh cho tới mãi trời chiều
Bất phân thắng bại khó mà hơn thua.
Thế là hai bên đành thu quân hẹn ngày mai một còn một mất. Vào cung thành, An Lạc Sơn thưa với Thục Vương rằng:
Bẩm chủ soái mạc tướng tội thật đáng chết. Trận đầu mà tôi không lấy được đầu giặc làm mất nhuệ khí ba quân tướng sĩ.
Thục Mân nói:
Ra trận thắng thua là chuyện bình thường. Thủ hòa coi như là lập được công đầu.
Nói về tướng giặc Ly Ảnh Quân sáng bữa sau xin Chủ Soái ra trận nữa. Triệu Tử Quân nói:
Tướng quân nghỉ cho khỏe, nay để cho tướng khác ra trận.
Biết Chủ Soái không ưng ý, bằng làm thinh không dám thưa thỉnh nữa.
* * *
Vưu Hồn, Bí Trọng lạy:
Chúng con ra mắt Chúa Vương.
Chúa Vương hỏi:
Hai con theo hầu Chúa Tổ có khổ lắm không?
Vưu Hồn, Bí Trọng ngơ ngác: Không rõ Chúa Tổ là ai? Nhưng không dám hỏi. Chúa Vương nói:
Các con đã đầu thai làm người, không phải loài Cáo nữa. Nhưng Linh giác vẫn không quên mối thù diệt Tổ, diệt Tông của quân dân Văn Lang cách đây gần hai ngàn năm. Loài Chồn, Cáo ta có cơ hội là trả thù, đòi lại Địa Long Vũ Trụ. Nhưng đã thất bại nhiều lần. Loài Chồn, Cáo ta có đến hàng triệu, dù tu luyện đến đâu, cũng không làm gì được loài người, sẻ bị loài người sát hại. Không dễ gì đòi lại Địa Long Vũ Trụ trả mối hận thù. Chỉ có một con đường duy nhất là xả bỏ thân Chồn Cáo ngàn năm, trăm năm tu luyện. Đầu thai làm người. Chỉ có loài người mới diệt được loài người, đó là lời nói của Chúa Tổ. Chúa Tổ đã xả bỏ cái thân tinh khí tu luyện hàng triệu năm, để đầu thai làm người mưu đồ nghiệp lớn. Làm bá chủ thống trị nhân loại, trả mối hận thù ngàn xưa, đòi lại Địa Long Vũ Trụ. Không bao lâu nữa, Chúa Tổ Mẫu của loài Hồ Tinh chúng ta cũng sẽ lâm phàm. Nhưng không đầu thai chi mượn xác người. Tuy thân hồn các con là người. Nhưng tâm hồn ý thức vẫn còn loài Chồn, Cáo dù cho Thần Thánh cũng không phát hiện được. Thôi hai con trở về trần thế đi.
Chúa Tinh liền thổi một luồng yêu khí vào hồn người Vưu Hồn, Bí Trọng sau đó thời phất tay một cái. Vưu Hồn, Bí Trọng giật mình thức giấc mới hay là mình vừa chiêm bao. Từ đó về sau lúc nào Vưu Hồn, Bí Trọng cũng xúi dục Vua Trụ làm nhiều điều đại gian đại ác đối với con người. Nhất là tàn sát con cháu Tiên Rồng, chiếm lấy nước Văn Lang cho bằng được. Vua Trụ càng ngày càng cương quyết, huy động binh hùng tướng mạnh tiêu diệt nước Văn Lang càng sớm càng tốt.
Chồn Cáo xưa nay vẫn âm thầm
Mưu mô tiêu diệt các Vua Hùng
Mài gươm nghìn kiếp trên núi hận
Con cháu Tiên Rồng họa hiểm hung
Bắc phương hung khí đầy trời
Từ lâu muốn nuốt Nam thời Văn Lang
Quân hùng tướng mạnh rền vang
Giáo gươm ngun ngút loáng loang kinh người
Trường giang sóng dậy ầm ầm
Lớp sau lớp trước cuộn cuồn tiến qua
Cậy mình quân tướng tài ba
Lòng tham vô đáy Trời coi ra gì.
Trên đồi Vọng Đọ người ta nhìn thấy quân Ân đông như kiến, trùng trùng điệp điệp lan lan lớp lớp gươm giáo sáng ngời. Xe ngựa mịt mù có hơn trăm vạn, ai nhìn thấy cũng thất kinh. Không bao lâu vượt qua Bắc sông Trường Giang, tiến thẳng về Nam sông Trường Giang. Cách Nam sông Trường Giang hơn khoản 6 hoặc 7 dặm, thời hạ trại đóng quân tại đó.
Vua Trụ hạ trại đóng quân chưa được bao lâu, thời có quân vào báo:
Bẩm Chúa Công hơn 50 trấn chư hầu lớn nhỏ đã kéo đến, tổng cộng trên dưới 60 vạn. Quả là con số không nhỏ.
Vua Trụ nói:
Quân ta đã lên tới 160 vạn quân thời quân Văn Lang chỉ cần thấy đã khiếp rồi. Còn đâu tinh thần để mà đánh.
Nói xong cười lên ha hả vô cùng đắc ý.
* * *
PHẦN 6
Vì nước vì non kể chi thân
Thịt nát xương tan chẳng ngại ngần
Một mất một còn quân xâm lược
Rồng Tiên truyền thống diệt quân Ân
Trải mật phơi gan, đầy non nước
Vang rền trung hiếu, Đạo cháu con
Cha ông dẹp giặc nghìn đời trước
Kim cỗ rạng danh mãi thường còn
Nói về Hùng Tiên Lang Quốc Vương cùng 50 vạn quân tinh nhuệ. Nhắm hướng Nam Kinh Xích tức tốc lên đường. Khí thế dậy non dậy núi, không bao lâu tới địa phận Giao Chỉ. Suốt dọc đường, hai bên đường dân chúng hết lòng ca ngợi, hết lòng sùng kính, hết lòng ngưỡng mộ dâng lên đồ ăn thức uống, lương thực thuốc men đồ gia dụng cần thiết, góp công góp của đánh giặc Ân.
Thấy dân vì nước giọt lệ rơi
Tiên Lang thề nguyện khấn giữa trời
Chỉ còn hơi thở ta cũng đánh
Đánh cho lũ giặc nát tả tơi
Đại quân đi gần tới Nam Kinh Xích Quỷ. Thời chiêng trống dậy trời cờ bay phất phới. Đó không phải là quân giặc, mà là quân Nam Kinh Xích Quỹ đội ngũ chỉnh tề tiếp đón Quốc Vương. Hùng Tiên Lang khen thầm trong bụng. Bỗng tiếng vó ngựa vang lên rồm rộp. Một đội kỵ mã mũ giáp chỉnh tề oai hùng tiến tới trước Quốc Vương ra mắt hành lễ. Hùng Cao Lang cưỡi con ngựa Xích Long Câu to lớn dẫn đầu các quan tướng, xuống ngựa hành lễ ra mắt Quốc Vương. Hùng Tiên Lang xuống ngựa đỡ Hùng Cao Lang dậy nói miễn lễ miễn lễ.
Hùng Cao Lang mời Quốc Vương cùng các quan tướng vào thành, đi thẳng vào ngôi Chính Diện. Nơi mà Quốc Tổ Vua Hùng đã sinh ra. Các quan tướng ở Kinh Đô Văn Lang, phần nhiều chưa có dịp ra Kinh Bắc, Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ. Thấy sự giàu có ở đây còn hơn cả Phong Châu Kinh Đô Văn Lang.
Các quan tướng lấy làm kinh ngạc:
Sao Quốc Tổ không ở đây mà lại ở Kinh Đô Văn Lang?
Nhưng không ai trả lời được câu hỏi nầy. Lại thấy nơi chính giữa cung điện có đôi Quốc Vương Nam Nữ diện mạo phi phàm. Người cha bồng đứa hài nhi, tỏa hào quang. Bức tượng người cha bồng con. Không ai khác hơn là Đức Vua Kinh Dương Vương. Còn đứa hài nhi tỏa hào quang ấy, chính là Quốc Tổ Hùng Vương.
Các quan, tướng nhìn thấy ba bức tượng ấy. Lòng xúc động, như nhìn thấy ở quá khứ hiện ra hết sức thiêng liêng, ăn sâu vào tâm hồn bao thế hệ con cháu Văn Lang. Nhất là Quốc Vương Hùng Tiên Lang không sao cầm giọt nước mắt.
Bỗng có người vào báo:
Có Cao Lạc Hầu Vương đến.
Mời Hầu Vương vào, Hùng Tiên Lang ra lịnh. Cao Lạc Hầu Vương vào ra mắt Quốc Vương nói:
Xin Quốc Vương tha tội, Hạ quan đến trễ.
Hùng Tiên Lang cười nói:
Miễn lễ.
Sau đó thời Vua tôi an tọa đi vào nghị sự bàn kế sách chống giặc. Đây nói về Tây Thục Hầu Vương, sau khi rời khỏi Kinh Đô Văn Lang, cấp tốc bay về Tây Thục.
Có câu thơ ca rằng:
Bạch Long Thần Mã ai bì
Ngày đi vạn dặm ai thời cũng kinh
Huống chi gặp lúc ngoại xâm
Ngựa bay vun vút vượt tần núi cao
Hơn tên bắn hơn tên lao
Xé mây xé gió, biết bao oai hùng
Thục Vương anh dũng phi thường
Ngựa người lao vút núi rừng vụt qua.
Tây Thục Vương là vị Vương đang cai quản hàng mấy mươi Bộ Lạc, Bộ Tộc vùng Tây Vu rộng lớn từ Tây Bắc giáp Ba Thục, đến Tây Nam AI LAO dân số lên tới vài triệu người.
Bắc Tây Thục gồm những châu lớn như: Di Tây Châu, Ngô Bắc Tây Châu, Hung Hung Tây Châu, Liêu Tây Thượng Châu, Phù Ung Tây Châu, Tam Giang Tây Châu, Lư Tây Trung Châu, Lô Lô Tây Châu, Phiên Tây Thượng Châu, Mân Di Tây Châu, Đinh Giao Tây Châu, Thượng Tây Giang Châu, Uất Lang Việt Châu, Lâm Giang Tây Châu.
Trung Trung Tây Thục Văn Lang gồm những châu lớn như: Tây Âu Châu, Hồng Thượng Thượng Châu, Hồng Lạc Châu, Thạch Vân Châu, Thái Vân Tây Châu, Bộc Tây Châu, Cựu Tây Châu, Thượng Đà Châu, Lai Trung Tây Châu, Âu Điền Châu, Môn Tây Châu.
Nam Tây Thục Văn Lang gồm những châu lớn như: Lao Sơn Thượng Tây Châu, Lao Sơn Tây Nam Châu, Lao Sơn Đông Tây Châu, Thượng Thượng Châu, Đà Thịnh Châu, Vệ Linh Tây Châu, Mã Linh Tây Châu, A Pha Tây Châu, Khơ Khơ Tây Châu, Mường Lai Tây Châu, Điện Linh Tây Châu.
Tây Thục Vương có tới chín người con, chia nhau cai quản toàn lãnh thổ Tây Vu, Tây Văn Lang. Chín người con đó là:
1: Thục Lao
2: Thục Man
3: Thục Di
4: Thục Chăm
5: Thục Liêu
6: Thục Châu
7: Thục Mân
8: Thục Ren
9: Thục Cương
Đa phần dân chúng Tây Thục Văn Lang đều xưng dân tộc Âu. Khi Tây Thục Vương về đến Tây Thục vào thành Âu Tây liền cho gọi chín người con đến bàn tính kế sách chống giặc ngoại xâm.
Thấy các con đến đông đủ Thục Hầu Vương nói:
Quân Bắc sắp xâm lược nước Văn Lang ta các con khẩn cấp về điểm binh mã dốc toàn lực lượng theo cha đến Nam Kinh Xích Quỹ chống giặc.
Thục Lao nói:
Thưa cha từ khi Quốc Tổ dựng nước tới nay, giặc Hồ, giặc mũ Đỏ, giặc Hung Nô, đã bị ông cha ta đánh tơi bời kinh hoàng khiếp vía, sau này còn dám hó hé. Đồ ếch, nhái mà cũng đòi vuốt râu Hùm sao?
Tây Thục Vương nói:
Các con lầm rồi lần này không phải là ếch, nhái mà là cọp, beo, hổ, báo, Yêu tinh, Quỹ dữ giặc Ân xâm lược nước ta với khí thế long trời lở đất. Cuộc chống ngoại xâm lần này là một còn một mất, các con hãy chuẩn bị tinh thần cho thật tốt, đối mặt với quân thù.
Các con Tây Thục Vương nghe nói không cải mà muốn gặp ngay quân thù đánh cho một trận biết thế nào lợi hại của con cháu Tiên Rồng.
Đây nói về Hùng Tiên Lang Quốc Vương cùng các Vương, các Quan, các Tướng, bàn kế sách đánh giặc thời có quân vào báo:
Tây Thục Vương đã tới xin ra mắt Quốc Vương.
Cho mời Tây Thục Vương vào. Xin tuân lệnh.
Đi đầu là Tây Thục Vương, sau Tây Thục Vương là 18 võ Tướng cả nam lẫn nữ uy dũng vô cùng. Hùng Tiên Lang khen:
Quả thật Tây Thục danh Tướng oai hùng.
Tây Thục Hầu Vương nói:
Tâu Quốc Vương đây là dâu, con, cháu lớn của hạ Quan các con ra mắt Quốc Vương đi.
Tức thời 18 võ tướng bước tới hành lễ nói:
Chúng con là con cháu Vua Hùng xin ra mắt Quốc Vương.
Hùng Tiên Lang vui vẻ nói:
Miễn lễ, miễn lễ.
18 người con cả dâu lẫn cháu ra mắt Quốc Vương hành lễ xong liền lui ra sau Tây Thục Vương an vị chỗ ngồi.
Hùng Tiên Lang Quốc Vương vẻ mặt đầy nghiêm nghị cho người mang hộp bảo vật Trấn Quốc đặc lên hương án, tuyên thệ hành lễ rồi mở hộp ra. Các vương, các quan, các tướng ai nấy cũng đều hồi hộp, bỗng từng chiếc hộp muôn Đạo hào quang tỏa ra vô cùng đẹp mắt, đó là ánh sáng của 6 cây bảo kiếm từ thời Quốc Tổ truyền xuống đến nay chỉ nghe kể, không bao giờ được thấy, chỉ trừ các vị Quốc Vương nối tiếp nhau trị vì Thiên Hạ.
Hùng Tiên Lang kể:
Tiên Thiên, Thất Tinh Bảo Kiếm là báu vật có một không hai vũ trụ. Hùng Vương Quốc Tổ dùng thần thông pháp thuật thu hút Tiên Thiên, Chơn Âm Chơn Dương tinh hoa vũ trụ kết cấu luyện thành hay còn gọi là thất linh Bảo Kiếm, không những uy lực vô biên mà còn theo ý tưởng của con người biến hóa diệu kỳ. Nếu đủ 7 linh kiếm Thiên Tiên vũ trụ, thời Thần Thánh Phật Tiên cũng khó bảo toàn tính mạng huống hồ là loài Yêu ma Quỷ dữ. Chỉ cần 5 linh kiếm Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ là chúng cũng đã đi đời, nay non sông Tổ quốc đi vào cảnh lâm nguy, không còn cách nào hơn là đem bảo vật trấn quốc ra xử tử bọn chúng, càn quét quân xâm lược. Có một điều rất lạ 7 thanh bảo kiếm truyền từ đời Quốc Tổ xuống đến đời thứ 23 thời thượng Hùng Vương nhưng khi truyền qua đời thứ 24 đời thứ nhất Hạ Hùng Vương thời xảy ra chuyện lạ. Hùng Vân Lang lên ngôi Quốc Vương làm lễ tiếp nhận 7 thanh báu kiếm trấn quốc. Đang lúc tiếp nhận trong tay đời thứ 23 Hùng Dịch Lang bỗng trời đất tối om rồi sáng lại rất nhanh chỉ trong vòng nháy mắt đã mất đi Thượng Thiên Chủ Kiếm chỉ còn lại Hạ Thiên Chủ Kiếm mà thôi. Có lẽ Quốc Tổ đã thu Thượng Thiên Chủ Kiếm về Trời rồi cũng nên, sự việc ấy xảy ra cách đây 91 năm và câu chuyện ấy cũng lần lần đi vào quên lãng chỉ riêng các Vua Hùng kế sau luôn luôn nuối tiếc và ta đây cũng vậy. Nay non sông Tổ quốc lâm nguy vì thế ta đem bảo kiếm trấn Quốc ra tiêu diệt quân thù xâm lược bảo vệ con cháu Tiên Rồng, bảo vệ non sông Tổ quốc mà ông cha ta đã bao đời dày công xây dựng.
Thời gian cấp bách Hùng Tiên Lang phân bổ lực lượng như sau.
Tây Thục Hầu Vương nghe lịnh: Có thuộc hạ.
Hùng Tiên Lang liền lấy thanh Kim Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm trao cho Thục Vương Gia nói:
Hầu Vương dẩn 30 vạn quân chia làm 3 mũi trấn giữ Tây Giang Giao Châu, Dương Giang Châu Kiến Giang Giao Châu, Tam Giang Tây Châu xin tuân lệnh, nhận ấn đồng vải trắng dẫn quân ra đi.
Hùng Tiên Lang nói:
Cao Lạc Hầu Vương nghe lịnh: Có thuộc hạ.
Hùng Tiên Lang lấy Thanh Thủy Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm trao cho Cao Lạc Hầu Vương nói:
Hầu Vương dẩn 20 vạn quân trấn thủ Đông Giang Giao Châu, Quế Giang Giao Châu, Lạc Trung Giao Châu xin tuân lệnh, nhận ấn đồng vải đen ra đi.
Hùng Tiên Lang lại nói:
Hùng Cao Lang nghe lịnh: Có thuộc hạ.
Hùng Tiên Lang lấy thanh Hỏa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm trao cho Hùng Cao Lang nói:
Hầu Vương dẩn 30 vạn quân trấn thủ Bắc Giang Giao Châu, Lạc Giang Giao Châu, Kinh Giang Giao Châu, Giao Giao Minh Châu, Quí Linh Giao Châu xin tuân lệnh, nhận ấn đồng vải đỏ dẫn quân ra đi.
Hùng Tiên Lang lại nói:
Điền Điền Lang nghe lịnh: Có thuộc hạ. Con nhận lấy thanh Mộc Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm nhận ấn đồng vải xanh dẩn 10 vạn quân mai phục bảo vệ vòng đai Kinh Đô Xích Quỷ, Hợp Giao Châu, Hạt Linh Châu, Lạc Điền Châu. Tuân lệnh dẫn quân ra đi.
Hùng Tiên Lang lại nói:
Diệp Lang nghe lịnh: Có thuộc hạ. Cháu nhận lấy Địa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm nhận ấn đồng vải vàng dẫn 10 vạn quân mai phục tại rừng Tiên Du, dưới chân Hùng Phong Sơn tiếp cho quân Tây Thục, cháu xin tuân lệnh dẫn quân ra đi.
Phân bố lực lượng xong Hùng Tiên Lang mới thở phào nhẹ nhõm. Ở tại Nam Kinh theo dõi tình hình chiến trận, tiếp tục điều động lương thực, quân binh ứng chiến. Thế là cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc đã mở màn.
* * *
PHẦN 7
Trùng Trùng Cáo Sói ở kia sông
Tanh máu xông lên bốc nực nồng
Nhe nanh múa vuốt nghe hùng hục
Liếm mép nhìn qua, Tử Giang sông
Nhắc lại bên kia bờ Bắc sông Trường Giang ÂN THỌ VƯƠNG lòng nóng như lửa đốt, mau chiếm lấy nước Văn Lang lên ngôi bá chủ gồm thâu Thiên Hạ về một mối, tùng phục nhà Ân.
Nói về Vi Tử Khải, Vi Tử Điển luôn luôn nghỉ đây là cơ hội hiếm có để xưng Vương. Lòng háo hức muốn tiến quân đánh ngay, liền tâu lên Ân Thọ Vương rằng:
Muôn tâu bệ hạ, hạ thần xin nguyện lãnh ấn tiên phong đánh chiếm Nam Kinh Xích Quỹ lập chiến công mở màn thu phục nước Văn Lang.
Vua Trụ lấy làm ngạc nhiên nhưng rồi cũng cho đi. Vi Tử Khải, Vi Tử Điển, mỗi người thống lãnh 39 vạn quân chia làm 2 mũi đánh thẳng vào trung lộ Bắc Văn Lang, chiếm lĩnh các thành lớn như: Lạc Giang Giao Châu, Quý Linh Giao Châu, Kinh Kinh Giao Châu, Bắc Giang Giao Châu, Xích Linh Giao Châu, Hợp Giao Châu, sau cùng là chiếm lấy Nam Kinh xích quỹ.
Vua Trụ lại tiếp tục ra lịnh cho Khương Hoàng Nhân, Triều Chấn Lôi, Tử Điền Phi kết hợp với 20 trấn chư Hần lớn nhỏ Yên, Sở, Triệu, Tề, Tần, Tấn lên tới 50 vạn quân. Tấn công Đông Bắc Văn Lang Đông Giao Chỉ chiếm lãnh các thành lớn như: Đông Giang Giao Châu, Quế Giang Giao Châu, Liễu Giang Giao Châu, Lạc Trung Châu, Đông Hải Giao Châu, Hạ Linh Châu sau cùng bọc lên tấn công vào Nam Kinh xích quỹ, tuân lịnh.
Trụ Vương lại tiếp tục ra lịnh cho Ngạc Sùng Cảnh, Ngạc Sùng Văn, Triệu Tử Quân, Chu Công Minh, Thiệu Công Tiễn, kết hợp với 20 trấn chư Hầu lớn nhỏ, Mân, Chu, Cảo, Phong, Ngân, Lâm, Hồ, Hàn, Ngụy lên tới 50 vạn quân. Tấn công Tây Bắc Văn Lang Tây Giao Chỉ, chiếm lịnh các thành lớn như: Tây Giang Châu, Dương Giao Châu, Kiến Giao Châu, Hồ Tây Châu, Âu Giao Châu, Tam Giang Tây Châu rồi đánh bọc xuống Lạc Điền Châu chiếm lấy Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ.
Hùng Tiên Lang nhìn về phương Bắc, thấy trời đất u ám, sát khí trùng trùng trong lòng không khỏi lo lắng, liền cho quân lập đài cầu Trời gia hộ cho con cháu Tiên Rồng giữ vững non sông Tổ quốc.
Vì Nguồn vì Cội vì Cha Ông
Vì nước vì non dốc một lòng
Ta còn hơi thở, còn chiến đấu
Đuổi quân xâm lược khỏi non sông
Nơi đất Tây Giang Châu ba anh em Thục Mân, Thục Ren, Thục Cương đang ra sức kêu gọi dân chúng di tản sâu vào Nam lánh giặc, dẫn 10 vạn quân kết hợp cùng quân lính các quận Huyện nhanh chóng trấn thủ thành Tây Giang Châu. Thành Tây Giang Châu là nơi trọng yếu giao thương với các thành gần biên giới yếu huyệt của kinh tế, chính trị, quân sự. Thành Tây Giang Châu, địa thế phức tạp bí hiểm, núi non hiểm trở, xưa nay quân Bắc xâm lược đều khó vượt qua địa phận đất Tây Giang.
Nơi thành Tây Giang Châu có vị quan phủ Bố Chính An Lạc Điền là vị quan hiền lành, văn võ song toàn, luyện được đao pháp thượng thừa, có 2 người con 1 nam 1 nữ đều là bậc hảo hán anh hùng. Nhận được tin mật báo, quan phủ liền ra lệnh di tản dân nội thành đi nơi khác, thấy quân Văn Lang đến liền mở cổng thành đón 10 vạn quân vào, rồi đi vào nghị sự bàn luận kế sách chống giặc.
Thục Mân nói:
Nếu nói về ngôi thứ thời 3 anh em tôi cùng quan phủ vai vế khác nhau. Nhưng nói về tuổi tác cũng như kinh nghiệm về chinh chiến, địa hình phức tạp ở đây, thời 3 anh em chúng tôi không bằng đại nhân được, xin đại nhân chỉ bảo cho.
Thấy sự ăn nói khéo léo của Thục Mân, An Lạc Điền thầm khen ngợi, nên đã có ít nhiều thiện cảm, không khách sáo chi nữa liền đưa ra phương án chống giặc, theo sáu phương án sau:
1: Là thông
2: Là cảng
3: Là đối
4: Là ải
5: Là hiểm
6: Là viễn
Luận về binh pháp xưa nay giặc chưa hiểu về ta, nên giặc phải chọn nơi đất bình quan cảnh thông thoáng, để dễ tiến, thối khi gặp trở ngại. Theo hạ quan được biết thế giặc tấn công tây Bắc chúng ta lên tới 50 vạn quân trong khi chúng ta chỉ có hơn 10 vạn, vì vậy chúng ta không thể đánh phủ đầu trực diện đối mặt với chúng được, hơn nữa thế giặc chưa mệt mỏi, còn đang hưng phấn chiến đấu ngùn ngụt, vì thế trước mắt thủ thành là chủ yếu, chờ giặc phân tán lực lượng ta mới ra tay tấn công. Dựa vào thế cảng nơi có nhiều chướng ngại như Núi, Sông, Kinh Lạch, Rừng, chúng ta mai phục ở đó dụ chúng lọt vào bẫy ra sức tiêu diệt, lúc này mới dùng chiến thuật đối mặt gọi là chặn dồn ép giặc chạy về phía hiểm địa gọi là kế ãi. Cắt đứt giặc ra từng khúc gọi là kế tử. Thế giặc đã lâm vào tử ải thời coi như đã hết đời, chết nơi hiểm địa, giả đò thua dụ địch sâu vào đất Văn Lang, bất ngờ tấn công cắt đứt liên lạc, tiếp viện đưa giặc vào thế cô lập làm cho chúng mất ăn, mất ngủ, bất ngờ đồng loạt tấn công giống như đàn sư tử tấn công con voi, giặc rơi vào thế yếu ngã gục đi đời.
Trong lúc đang bàn kế sách chống giặc, thời có quân vào báo:
Quân giặc đã tràng qua ải Tây Giang, đã chiếm lĩnh một số Quận, Huyện. Chúng đang ra sức vơ vét của cải, những người dân tiếc của không chịu di tản bị giặc tàn sát thê thảm.
Ôi thôi làng xóm còn gì
Hùm Beo Cáo Sói mấy khi hiền lành
Đầy mình móng vuốt cùng nanh
Gái tơ hơi hới phải đành nát tan
Dân lành máu chảy loáng loang
Chúng đâm chúng chém ác gian kể gì
Núi thù biển hận kể chi
Rồng Tiên con cháu xông lên diệt thù.
Nói về 50 vạn quân cùng 20 trấn chư hầu lớn nhỏ do Ngạc Sùng Cảnh, Ngạc Sùng Văn chỉ huy. Người ngựa, xe cộ, thuyền bè tiến qua các Quận, Huyện như thác lũ. Càng lúc càng tiến sâu vào đất Văn Lang, hơn 50 dặm, thời trời cũng bắt đầu sẫm tối. Trước mặt là những rừng đồi lô nhô kéo dài tới dãy núi Hùng Phong Sơn cao vút. Cùng con sông ẩn mình qua bao khu rừng rậm, kinh rạch, ngoằn ngoèo, ngoắt ngoéo uống lượng quanh co qua những vùng thung lũng lau sậy. Như nói lên bao sự huyền bí của vùng Tây Bắc Văn Lang.
Ngạc Sùng Cảnh lạnh cả người, như có gì mách bảo là ngày tử nạn của ông không xa. Ngạc Sùng Cảnh rùng mình không dám nghỉ nữa. Liền cho quân hạ trại, dừng lại không tiến sâu thêm nữa.
Ông nói:
Chúng ta đã tiến quân sâu vào đất Văn Lang hơn 30 dặm, vượt qua một số Quận, Huyện, chỉ gặp cảnh vườn không nhà trống, không gặp trở lực nào cả. Điều đó chứng tỏ rằng Quân Văn Lang có chủ ý, không thể không đề phòng.
Liền cho trinh thám dò đường thám thính tình hình quân địch. Không bao lâu thời thám tử về báo:
Trước mặt ta 10 dặm về hướng Nam là vùng gò đồi rừng Mây, thung lũng, lau sậy có nhiều kinh lạch chảy xuống sông Âu. Qua khỏi vùng gò đồi rừng Mây về hướng Tây Nam 8 – 9 dặm là thành Tây Giang Châu.
Suốt cả đêm bọn tướng tá thăng chốt của lũ giặc Ân nổ lực đưa ra kế sách tiến quân thôn tính toàn bộ địa phận Tây Bắc Văn Lang và cuối cùng thống nhất đánh thẳng vào ba yếu huyệt chiếm lấy ba thành.
* * *
PHẦN 8
Nói về bộ sậu chủ chốt giặc Ân thảo luận kế sách sáng đêm, tiến quân đánh ba thành. Ngạc Sùng Cảnh điều động quân binh như sau.
1 – Triệu Tử Quân nghe lịnh: Có thuộc hạ; Tướng quân điểm 10 vạn quân kết hợp với quân: Chu, Cảo, Phong tiến đánh thành Tây Giang Châu. Tuân lịnh.
2 – Chu Công Minh nghe lịnh: Có thuộc hạ; Tướng quân điểm 10 vạn quân kết hợp với quân: Lâm, Hồ, Hàn tiến đánh thành Dương Giao Châu. Tuân lịnh.
3 – Thiệu Công Tiển nghe lịnh: Có thuộc hạ; Tướng quân điểm 10 vạn quân: Mân, Ngân, Ngụy. Tiến đánh thành Kiến Giao Châu. Tuân lịnh.
Tiếng gà vừa gáy mộng chưa tan
Ba con rắn độc đã vội vàng
Uốn mình lao tới chân rồm rộp
Các bụi mịt mù trống canh vang.
Mặt trời còn ngủ chưa thức. Trong màn đêm những giọt sương còn nằm chơi trên mái lá. Bỗng giật mình khiếp sợ, nhìn ba con rắn khổng lồ dài 8-9 dặm cuồn cuộn há mồm lao thẳng về thành Tây Giang Giao Châu, Dương Giao Châu, Kiến Giao Châu. Cách thành độ hơn 2 dặm thời ba con rắn dừng lại. Cũng là lúc mặt trời thức giấc ánh bình minh trở lại với quê. Với cặp mắt cú vọ diều Hâu, Triệu Tử Quân hết nhìn núi non hùng vĩ, sông nước hữu tình. Những cánh đồng lúa xanh thăm thẳm, những đàn cò trắng lã bay qua. Đàn ong bướm bay lượn nhành hoa. Như toác lên đời no ấm xuân hoa. Liền thở dài: Thảo nào mà Bệ Hạ không thèm khác sao được. Và trách nhiệm nặng nề của ta là phải chiếm cho được thành Tây Giao Châu.
Đây nói về thành Tây Giang Giao Châu, theo kế sách đã hoạch định. Trời vừa sẩm tối, từ nơi cửa thành 1 vạn quân bí mật nhắm dãy núi Hùng Phong Sơn âm thầm lặng lẽ ra đi. Lại 1 vạn nữa nhắm hướng Đông Bắc tới thung lũng rừng Lau Sậy phục kích. Nhìn thấy quân Ân vượt qua sông, vượt qua rừng Mây như thác đổ, vì chưa có lệnh nên không tấn công chỉ im lặng để cho giặc đi qua.
Kìa quân ăn cướp đến rồi
Chúng vơ chúng vét hết thời của dân
Của ngon vật lạ chúng ăn
Cửa nhà chúng đốt san bằng còn chi
Gái tơ chúng bắt nâng ni
Xài rồi chúng lại bắt đi làm hầu
Miếu thờ chúng kể gì đâu
Gái trai già trẻ chúng xâu một lùm
Đáng ra dân phải lên đường
Vườn không nhà trống lánh nương, giặc càn
Cũng vì tiếc của giàu sang
Giờ đành phải chịu lắm đàng họa tai
Kêu trời khóc đất thảm thay
Trời im đất lặng có hay bao giờ
Kia kìa giặc đã công thành
Rồng Tiên Chồn Cáo phân tranh mất còn.
Đứng trên thành cao, quan văn tướng võ nhìn thấy quân Ân trùng trùng lớp lớp kéo đến cách cổng thành độ chừng hai dặm thời hạ trại. Chận đường ra vào chính yếu của thành Tây Giang Châu. Bỗng từ nơi doanh trại của giặc, xông ra một tướng oai phong lẫm liệt, dẫn theo 3 nghìn quân, kéo tới cổng thành dàn trận.
Rồi lên tiếng hách dịch quát lớn:
Quân cỏ rát thành Tây Châu kia, mau ra qui hàng thời sống, còn chống lại thời chết.
Khoác lác vô cùng. Thấy tướng giặc hỗn xược ngạo nghễ như vậy, không kèm nỗi sự tức giận An Lạc Sơn nói:
Thưa cha. Để con ra lấy đầu thằng nhái ranh đó cho.
An Lạc Điền nhìn ba vị tướng quân hơi ngần ngại. Thục Mân nói:
Lạc Sơn tướng quân ra trận hết sức cẩn thận.
An Lạc Điền nhìn An Lạc Sơn nói:
Đây là trận mở màng, chỉ có thắng chứ không được thua.
An Lạc Sơn nói:
Con hiểu rồi.
An Lạc Sơn hăm hở, điểm 3 nghìn quân mở cổng thành xông ra nghinh chiến đón đánh. Thấy tướng giặc nghinh nghinh tự đắc. An Lạc Sơn vốn khôi ngô tuấn tú. Nay ra trận mão giáp chỉnh tề, thể hiện khí chất bất phàm oai phong lẫm lẫm. Tướng giặc Ân, thấy An Lạc Sơn cốt cách oai hùng như vậy cũng phải khen thầm.
An Lạc Sơn giục ngựa xông tới hét lớn:
Hãy xưng tên họ rồi chết. Làm phân cho đất Nam ta.
Tướng giặc tức quá hét lớn:
Nhái ranh, hôm nay là ngày giỗ của ngươi.
Liền phi ngựa xông tới chém liền mấy nhác. Tướng giặc Ân ấy không ai khác hơn là Ly Ảnh Quân, con trai của Cảo Hầu Vương là người khắc tiếng về Đạo pháp. Có thể lấy mạng đối thủ ngoài mười thước. Biệt hiệu là Vô Ảnh Đao. An Lạc Sơn nào có kém chi. Nhờ ăn được quả linh chi ngàn năm. Nên đã luyện Đao pháp đến xuất thần nhập hóa. Thế là hai con cọp vồ nhau chí tử. Các bụi mịt mù, ánh Đao chớp chớp, đinh tai nhức óc, rét rét, ầm ầm kinh thiên động địa, kẻ qua người lại như bóng với hình. Chiêng trống rền trời, quân reo dậy đất.
Đúng là:
Một bên vì nước vì non
Một bên xâm lược ác gian kể gì
Đao qua đao lại kể chi
Bình sanh dốc hết lấy đi đầu thù
Đao đà luyện đến hư vu
Cuồng phong lạnh buốt âm u rợn người
Đánh cho tới mãi trời chiều
Bất phân thắng bại khó mà hơn thua.
Thế là hai bên đành thu quân hẹn ngày mai một còn một mất. Vào cung thành, An Lạc Sơn thưa với Thục Vương rằng:
Bẩm chủ soái mạc tướng tội thật đáng chết. Trận đầu mà tôi không lấy được đầu giặc làm mất nhuệ khí ba quân tướng sĩ.
Thục Mân nói:
Ra trận thắng thua là chuyện bình thường. Thủ hòa coi như là lập được công đầu.
Nói về tướng giặc Ly Ảnh Quân sáng bữa sau xin Chủ Soái ra trận nữa. Triệu Tử Quân nói:
Tướng quân nghỉ cho khỏe, nay để cho tướng khác ra trận.
Biết Chủ Soái không ưng ý, bằng làm thinh không dám thưa thỉnh nữa.
* * *