Bạn được thichbts mời tham gia diễn đàn viết bài kiếm tiền VNO, bấm vào đây để đăng ký.
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
103. HUYỀN CƠ THÁNH ĐỨC

Đứng trên mục giảng Thầy Giáo Liêm nói.

Câu Chuyện Huyền Cơ Thánh Đức, không phải là ai cũng biết nếu không có Minh Sư thuyết giảng cho nghe. Hôm nay các em học bài mới đó là câu chuyện Thánh Đức. Các em học sinh lấy làm vui mừng hỏi câu chuyện Thánh Đức hay không Thầy?

Thầy Giáo Liêm nói câu chuyện hay hoặc dở là do sự nhận thức của mỗi em, cốt truyện bao giờ cũng mang nội dung triết lý, hàm ý phản ảnh một sự việc nào đó, để cho người nghe nhận thức nâng cao trình độ cũng như sự giác ngộ. Thầy Giáo Liêm nói các em chú ý lắng nghe.

– Vào thuở xa xưa có vị Tôn Sư Huệ Tịnh đến đền thờ An Tân Phổ Đại thuyết giáo về thời Thánh Đức. Thời Thánh Đức là thời non nước được bình yên, cuộc sống như mùa xuân, làm ăn giàu lên phơi phới. Ai ai cũng sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Dân giàu nước mạnh Nhân Quyền Dân Chủ, Văn Minh. Cả hàng chục triệu năm mới lặp lại một lần. Những ai sanh ra gặp thời Thánh Đức phải nói đã từng tu luyện vô lượng kiếp. Những người gặp được Thiên Ý Văn Hóa Cội Nguồn, hành sự theo Văn Hóa Cội Nguồn là những người đã từng là Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa nguyện sanh xuống chốn nhân gian truyền bá Thiên Ý lập công bồi đức tiến hóa Linh Hồn lên một tầm cao mới.

– Những người may mắn sanh ra gặp thời Thánh Đức mà không gặp được Chánh Pháp nghĩa là không gặp được Văn Hóa Cội Nguồn thời coi như bỏ qua cơ hội hàng chục triệu năm. Thật đáng tiếc cho những người vô duyên kém sự may mắn như vậy, phải tu luyện chờ đợi trải qua hàng chục triệu năm nữa không biết có gặp được Văn Hóa Cội Nguồn hay không. Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Ý Cha Trời chỉ xuất hiện thường là ở vào giai đoạn cuối tiểu kiếp trải qua 16 triệu 800 nghìn năm.

Những ai bỏ qua cơ hội không tìm đọc Kinh, Thơ, Văn Hóa Cội Nguồn thời đáng tiếc biết là bao. Mất đi cơ hội trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, cũng như cơ hội siêu sanh về trời.

Tôn Sư Huệ Tịnh giảng thao thao bất tuyệt, không gấp một lời giảng làu làu rõ chữ từng câu. Ai chú ý lắng nghe liền được trí mở huệ khai như thấy mình vừa trải qua một cơn phẫu thuật, người mù được sáng ra.

– Khi ấy có vị Thiện Nhân trí thức tên là Tôn Kha chắp tay thưa hỏi Tôn Sư Huệ Tịnh.

Thưa Tôn Sư ai có đủ khả năng để lập lên đời Thượng Ngươn Thánh Đức. Phải chăng đó là vị Thánh được Trời lựa chọn lập lên đời Thượng Ngươn Thánh Đức?

Tôn Sư Huệ Tịnh nói. Cơ Thánh Đức là nói đến chu kỳ Thánh Đức lặp lại. Cũng như mùa xuân không có vị nào lập lên mùa xuân, mà chu kỳ mùa xuân lập lại. Hết Thượng Ngơn Thánh Đức, thời tới Trung Ngơn Nhơn Đức, hết Trung Ngơn Nhơn Đức, thời Hạ Ngươn Mạt Pháp. Cứ thế chu kỳ tuần hoàn lập đi lập lại. Đến chu kỳ mùa xuân lập lại thời muôn hoa đua nở thi sắc khoe màu rực rỡ khắp nơi.

Đến thời kỳ Thượng Ngươn Thánh Đức nhất là những chu kỳ nghìn năm sự lặp lại của Thượng Ngươn Thánh Đức gần cuối tiểu kiếp, nhân loại con người thi nhau hướng thiện vì chơn Dương Hưng Thịnh hiệp với tánh khí lành nên gọi là Thượng Ngươn Thánh Đức. Vì sự hướng Thiện mạnh mẽ con người đi đến sự giác ngộ hiểu biết về vũ trụ, cũng như đạo, và đức, hiểu chính nghĩa và phi nghĩa thành tựu trí huệ đỉnh cao phần đông trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, trở lại Thiên Đàng Cực Lạc. Thượng Ngươn Thánh Đức chính là mùa xuân Đạo Đức tinh hoa trí huệ Đạo Đức con người sẽ nở rộ làm tươi đẹp cuộc sống, cũng như non sông đất nước.

– Như vậy Thượng Ngươn Thánh Đức không ai lập lên cả, mà là chu kỳ lặp lại mỗi chu kỳ của thượng ngươn Thánh Đức, ví như mùa xuân lặp lại trăm hoa đua nở khoe sắc khơi màu làm đẹp cho đất trời. Đến chu kỳ Thượng Ngươn Thánh Đức trí huệ Đạo Đức con người kết trái đơm hoa thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa xã hội nhân loại con người trở thành xã hội Thiên Đàng Cực Lạc trần gian.

– Theo định luật tuần hoàn Trời chuyển xuân thiên hạ sống theo xuân. Cơ Trời chuyển đến Thượng Ngơn Thánh Đức, thiên hạ sẽ sống theo Cơ Vận Thượng Ngơn Thánh Đức. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, ra đời, ra sức tận độ nhân loại về trời đi vào cơ tận độ. Như vậy Không phải Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa khai lập tạo nên Thượng Ngơn Thánh Đức. Mà đến chu kỳ Thượng Ngơn Thánh Đức trí huệ con người tỏa sáng đi vào kết trái đơm hoa trở thành, Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

– Khi Trời chuyển đến cơ Thượng Ngươn Thánh Đức thời Trời cũng khiến cho Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa trên các tầng trời lâm phàm xuống trần mở đường dìu dắt nhân loại theo Thiên Ý của Trời đi vào cơ tận độ, tức là Truyền Bá Văn Hóa Cội Nguồn lập lên đời Thượng Ngươn Thánh Đức xã hội Thiên Đàng trần gian.

Điều đáng nói ở đây, mùa xuân lập lại, khác với làm nên sự kiện trong mùa xuân. Có nghĩa là mùa xuân đem lại sự thuận lợi cho muôn hoa đua nở. Còn muôn hoa nở cách nào là do muôn hoa. Thượng Ngươn Thánh Đức lập lại đem lại sự thuận lợi cho phát triển đạo đức. Còn lập lên đời Thánh Đức thời phải do con người dày công tạo lập. Có Nghĩa Là:

– Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đều ra phò Thiên Ý, truyền bá Thiên Ý tận độ nhân loại con người trong chu kỳ Thượng Ngươn Thánh Đức lập lên đời Thánh Đức Thiên Tân.

– Khi ấy có vị Thiện Nữ tên là Tuệ Tâm chắp tay thưa hỏi. Thưa Tôn Sư: Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, ra đời tận độ con người lập lên đời Thượng Ngươn Thánh Đức. Trong thời Thượng Ngươn Thánh Đức ai là Vua của thời Thượng Ngươn Thánh Đức xin Đức Tôn Sư chỉ dạy cho.

– Vị Tôn Sư nghe xong rồi trả lời rằng. Vua Của Thượng Ngươn Thánh Đức, không phải Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Mà là Thiên Ý Cha Trời đã chuyển thành Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, trở thành Pháp Vương tối cao của Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Đem lại sự công bằng bình đẳng cho Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, trong nền Quốc Đạo Dân Tộc. Cũng như cuộc sống xã hội ai cũng như ai bình đẳng trước Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Dân Tộc.

Tóm Lại: Không có Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, nào lập lên Cơ Vận Thượng Ngươn Thánh Đức, mà là chu kỳ vận hóa Tuần Hoàn theo Thiên Ý, Huyền Cơ Thượng Ngươn Thánh Đức lập lại. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, dựa vào Huyền Cơ Thiên Ý Thánh Đức, lập lên đời Thượng Ngươn Thánh Đức đi vào cuộc sống. Đem lại mùa xuân no ấm cho đời, tiến tới dân giàu nước mạnh xã hội công bằng bình đẳng tự do ấm no hạnh phúc.

– Cả lớp chú ý lắng nghe thầy Giáo Liêm kể câu chuyện Thượng Ngươn Thánh Đức, phản ảnh sâu sắc hai cảnh giới mùa xuân lặp lại và muôn hoa đua nở, làm nên rực rỡ của mùa xuân. Cũng như chu kỳ Thượng Ngươn Thánh Đức lặp lại trí huệ con người thi nhau tỏa sáng đơm hoa kết quả thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, tạo lên cảnh đời mùa xuân thiên đàng cực lạc trần gian. Các em như lột xác trở thành một con người khác, con người của thời đại Thánh Đức Văn Minh.
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
104. SƠN TINH THỦY TINH

Vào những thập niên cuối niên đại Hùng Vương, không biết bao nhiêu chuyện xảy ra, không những chiến tranh loạn lạc, mà nơi triều đình thời bè phái đấu đá nhau, tranh giành quyền lực cũng như bất đồng chính kiến. Còn đường tình duyên thời lắm chuyện ly kỳ xảy ra, nào là Chữ Đồng Tử, nào là Mai An Tim. Nhưng ở đây chỉ kể về câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh.

– Trước công nguyên 270 tại nơi làng chài Hải Nam, xã Đức Minh, Châu Ninh Hải. Có cặp vợ chồng làm nghề chài lưới, sinh được một người con trai đặt tên là Thủy Tinh, vì khi Bà mang thai thấy một người từ dưới nước bay lên nói Ta là Thủy Tinh. Nên Ông Bà chài lưới đặt tên cho con là Thủy Tinh.

– Thủy Tinh lớn lên lặng dưới nước còn hơn loài rái có khi lặng cả buổi trời mới trồi lên, Ông Bà chái lưới từ đó cá ăn không hết còn dư đem bán mua những thứ khác gia đình trở nên ăn no mặc ấm không thua kém gì những gia đình khấm khá ở làng chài. Thủy Tinh càng lớn càng khôi ngô tuấn tú năm 17 tuổi Thủy Tinh đang lặng xuống sông thời thấy một người mặt Rồng hiện ra, con hãy theo Ta. Thủy Tinh liền theo người mặt Rồng đến một cung điện dưới thủy cung.

– Ở nơi đây có đầy đủ quân binh, binh tôm, tướng cá, nghêu, sò, ốc, hến, Tướng cá mập, tướng cá Xà nhìn cung điện, cũng như đủ loại quân binh thời ai cũng biết chính là vua Thủy Tề nơi Nam Hải.

– Ở cung Thủy Tề Nam Hải, Thủy Tinh được vua Thủy Tề truyền dạy cho pháp thuật thần thông, hơn năm thời trở lại dương trần trở về xóm chài.

Nói về hai Ông Bà làng chài tưởng Thủy Tinh chết rồi, phần nhớ con phần tuổi già hai vợ chồng sinh bệnh rồi qua đời. Thủy tinh trở về thấy không còn Cha Mẹ liền chu du dưới lòng sông đáy biển.

– Cùng thời ấy ở làng Tản Sơn, Huyện Hòa Viên, Hà Châu, có vợ chồng tiều phu nghèo nhưng ăn ở có đức Ông Bà họ Nguyễn. Bà tiều nằm mộng thấy một vị Thần oai phong khôi ngô tuấn tú nói rằng Ta sẽ làm con Bà. Ta là Sơn Tinh. Từ đó Bà Tiều Phu mang thai, rồi sanh ra một cậu con trai đặt tên là Sơn Tinh.

– Sơn Tinh càng lớn càng khôi ngô tuấn tú sức mạnh như hổ như voi một mình làm bằng ba bốn người từ đó gạo nấu dư thừa đồ ăn thức uống lúc nào cũng có trong nhà Ông Bà tiều phu nhàn hạ không còn lo gì nữa. Năm Sơn Tinh lên 15 tuổi bị một trận gió cuốn đi đâu mất sau mới biết thì ra được một vị Tiên Ông đưa đi đến đỉnh núi Trung Sơn truyền dạy cho pháp thuật thần thông, võ công tâm pháp thượng thừa. Sau ba năm tu luyện thành tài. Tiên Ông nói Ta ở trên cung Trời Đao Lợi Thiên có cơ duyên với con nên Ta mới xuống trần truyền thụ võ công và pháp thuật cho con, nói xong thời Tiên Ông biến mất.

– Nói về Ông Bà tiều phu họ Nguyễn sinh con đã muộn khi Sơn Tinh 15 tuổi Ông Bà tiều phu cũng đã già thấy Sơn Tinh bị một trận gió lạ đưa đi đâu mất hơn một năm không thấy biệt tăm biệt tích buồn thương nhớ con lâm bệnh mà qua đời. Sơn Tinh trở về thời thấy mồ mả Cha Mẹ mọc cỏ đã xanh. Bằng bỏ nhà lên vùng núi ba vì sanh sống, làm bạn với gió núi, mưa rừng. Bầu bạn với thú cầm chim muôn suối, thác.

– Ở vào thời ấy Vua Hùng Vương thứ 18 Hùng Duệ Vương đời cuối của Niên Đại Hùng Vương, Hùng Duệ Vương có một người con trai nhưng chết yểu năm 14 tuổi. Hùng Duệ Vương không còn con trai nối dõi, còn lại hai người con gái xinh đẹp hai Mẹ khác nhau. Tiên Dung lớn tuổi hơn gọi là chị. Kết duyên cùng Chử Đồng Tử.

Mị Nương nhan sắc đẹp tuyệt trần, không thua gì Tiên Dung. Tiên Dung vì ưng Chử Đồng Tử không còn trở về cung, chỉ còn lại Mị Nương. Hùng Duệ Vương thương yêu hết mực, Mị Dung muốn gì được nấy. Hùng Duệ Vương muốn tìm một người chồng cho Mị Nương thật xứng đáng, liền ra thông cáo kén rể truyền đi khắp nơi khắp chốn. Tin kén rể lọt vào lỗ tai hai chàng trai tài giỏi Thần Thông Pháp Thuật Võ Nghệ Cao Cường.

– Hai chàng trai liền đến cầu hôn Vua Hùng hỏi danh tánh, tên họ là gì ở đâu?

Thủy Tinh quỳ lạy tấu trước Thưa Quốc Vương Thần là Thủy Tinh quê ở Làng Chài Hải Môn.

Đến lượt Sơn Tinh, Sơn Tinh quỳ lạy tâu rằng Thần là Sơn Tinh quê ở Tản Sơn, Huyện Hòa Viên, Hà Châu. Vua Hùng hỏi hai chàng trai có tài gì?

Thủy Tinh tâu trước bằng nói. Thưa Quốc Vương Bệ Hạ Thần có thể làm cho nước dâng lên tràn ngập hết thảy. Kéo mây kéo gió, sấm sét ầm ầm, mưa xuống như trút chỉ trong chốc lát là trôi sạch nhà cửa. Thủy Tinh nói xong thời chỉ tay lên trời niệm chú tức thời mây đen kéo tới che phủ cả bầu trời. Thủy Tinh chỉ tay thêm cái nữa tức thời sấm sét nổi lên đùng đùng làm cho cả triều thần khiếp kinh hồn vía. Thủy Tinh phất tay một cái tức thời mưa như trút xu, mang theo gió bão kinh hồn chỉ trong vòng tích tắc ngập bờ ngập sá nước càng lúc càng dâng cao. Vua Hùng thấy thế lấy làm vừa lòng nhưng sợ nước dâng cao ngập tràn chết dân, cũng như nhà cửa, gà, vịt, heo, dê, trâu, bò trôi hết. Bằng nói bấy nhiêu đó là đủ chàng trai thâu phép lại đi. Thủy Tinh liền phất tay một cái tức thời trời quang mây tạnh, mặt trời ló dạng ánh nắng tràn về không còn mưa gió gì nữa. Ai nấy cũng làm khiếp sợ tài phép của Thủy Tinh.

– Vua Hùng nhìn Sơn Tinh rồi hỏi chàng trai có tài phép gì? Sơn Tinh quỳ xuống tâu rằng Thần chỉ cần phất tay một cái, tức thời biến thành đồng lúa xanh, chỉ tay một cái là mọc lên hàng dãy núi, Sơn Tinh nói xong liền phất tay về hướng đông thời kỳ diệu thay biến thành đồng lúa xanh bát ngát, chỉ tay về hướng tây tức thời núi non mọc lên san sát, Vua Hùng nhìn thấy cũng phải hãi kinh, bằng nói thôi dừng lại Ta nhìn thấy tài của Sơn Tinh rồi.

– Vua Hùng nói hai chàng trai không ai tài hơn ai Một là Chúa miền non cao. Một là Chúa của vùng nước thẩm. Cả hai đều xứng đáng làm con rể của Ta.

Hùng Duệ Vương rất khó chọn lựa, không biết chọn người nào, nhận lời ai, từ chối ai.

– Hùng Vương cho mời các quan Lạc Hầu. Lạc Tướng, Lạc Vương, bàn luận tìm ra kế sách ai làm phò mã. Cuối cùng cũng tìm ra kế sách các quan Lạc Hầu, Lạc Tướng, Lạc Vương tâu rằng.

– Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ: Bệ Hạ hạ chỉ ngày mai, nếu ai đem đồ sánh lễ đến đây trước, sánh lễ gồm một trăm ván cơm nếp, hai trăm cặp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi thời được rước dâu về.

– Trời vừa hừng đông Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến trước lúc mặt trời chưa lên tỏa ánh dương quang. Và được phép đưa Mị Nương về núi.

– Thủy Tinh đến sau chậm hơn vài ba mươi phút, nghe Sơn Tinh rước mất Mị Nương. Bằng nổi giận đùng đùng đem quân đuổi theo đòi cướp lại Mị Nương. Thế là trận giao tranh xảy ra kinh hồn bạt vía

– Thủy Tinh hô mưa gọi gió cuồng phong bão tố mưa trút xuống không ngớt, sấm sét kinh hồn chuyển trời rung đất, nước dâng lên cuồn cuộn sóng vỗ ầm ầm binh tôm tướng cá thét gào rền trời rền đất.

Về sau có thơ rằng:

Thủy Tinh đến sau mất vợ

Nổi giận đùng đùng

Đưa quân rượt đuổi đánh liền Sơn Tinh

Thế là trận đánh xảy ra

Thủy Tinh hóa phép gió mưa ầm ầm

Sấm rền sét nổ vang trời

Nước dâng cuồn cuộn ngập tràn núi non

Nhà cửa xóm làng vùi chôn

Trâu, bò, gà, vịt trôi đi chẳng còn

Mây đen phủ khắp bịt bùng

Binh tôn tướng cá sáng ngời gươm đao

Cá xà cá mập ốc, ngao

Tấn công lớp lớp xiết bao kinh hồn

Cát bay đá chạy mịt mù

Khắp nơi cây cối đổ nhào ngã lăn

Thần thông pháp thuật Thủy Tinh

Mấy ai chống nổi khiếp kinh tiêu đời.

Nói về Sơn Tinh tới trước rước được vợ, đưa Mị Nương về núi đi chưa được bao xa, thời nghe quân binh từ xa rượt tới mây đen che kín phủ khắp bầu trời. Mưa bão nổi lên ầm ầm. Trước cũng nước mà sau cũng nước, binh tôm tướng cá thi nhau lao tới, gươm đao loang loáng nhìn thấy khiếp kinh. Sơn Tinh không hề nao núng tay bắt ấn miệng lâm râm niệm chú, dùng pháp di sơn dời từng dãy núi chặn đứng dòng nước lũ, hóa phép hổ, báo, hiện ra, xé xác binh tôm tướng cá, đại bàng chim điểu, diều hâu, bay chật kín bầu trời từ trên không lao xuống mổ nuốt quân Thủy Tề, hai bên giao tranh ác liệt. Nước dân cao bao nhiêu, thời núi non mọc cao lên bấy nhiêu.

Về sau có thơ rằng:

Được vợ nào chịu thua ai

Không hề nao núng ra tay trổ tài

Hóa phép hổ báo khắp cùng

Đại bàng, chim điểu nào là diều hâu

Lao vào ăn nuốt cá tôm

Nghêu sò, ốc, hến, cũng như mập xà

Di sơn chận nước khắp cùng

Núi cao chót vót nước đành phải thua

Giao tranh tới bảy ngày đêm

Thủy Tinh thua cuộc hết mong tranh giành

Thủy Tinh lòng giận vô cùng

Thường gây lụt bão trả thù Sơn Tinh

Sơn Tinh dẫn Mị Nương về núi sống với nhau hạnh phúc. Không bao lâu Hùng Duệ Vương kêu Sơn Tinh về nhường ngôi. Sơn Tinh còn có bí danh là Nguyễn Tuấn. Sơn Tinh họ Nguyễn lại khôi ngô tuấn tú. Nên có bí danh là Nguyễn Tuấn.

– Nguyễn Tuấn hiểu rõ Huyền Cơ niên đại Hùng Vương sắp đi vào kết thúc. Nên không tranh giành với Thục Phán. Vì lúc đó Thục Phán có nhà Khoa Học là Cao Lỗi đã tìm ra bí pháp luyện kim thời dựng nước chế tạo ra những mũi tên thép bắn xuyên thủng áo giáp. Đó cũng là Ý Trời. Nên Nguyễn Tuấn, không chịu tiếp nhận sự nhường ngôi của Vua Hùng, mà chỉ sống với vợ là Mị Nương hai người cùng tu tiên học đạo, không bao lâu thời vợ chồng Nguyễn Tuấn bay về trời. Đi theo con đường của vợ chồng Chử Đồng Tử.

– Về sau dân chúng suy tôn Sơn Tinh Nguyễn Tuấn là Tản Viên Sơn Thánh.
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
105. CÂU CHUYỆN TÂM ĐIỀN

Ngày xửa ngày xưa có một vị Thiền Sư tên là Văn Ba, tu hành đắc Đạo thu nhận được ba người đệ tử đều là bậc kỳ tài. Người đệ tử lớn tên là Chu Thông, người đệ tử kế tên là Tử Nho, người đệ tử thứ ba tên là Ái Nhu.

– Thiền Sư Văn Ba thường dạy với các đệ tử rằng. Tâm con người chính là Tâm Điền. Ví như cánh đồng rộng lớn, nếu biết canh tác gieo trồng. Nhất là chọn giống tốt chất lượng cao thời các con sẽ giàu to muốn gì được nấy.

– Còn như biếng nhác không gieo trồng gì cả, để cỏ dại mọc lên, thời các con phải chịu cảnh nghèo đói, thành ruộng hoang uổng phí biết là bao.

– Còn ra sức gieo trồng mà không phân biệt được giống nào tốt giống nào xấu cứ gieo bừa vào cánh đồng, ra công sức thời nhiều nhưng đến khi gặt hái thời rất thấp. Có khi mất trắng trở thành công cốc, khổ cực tốn kém mà chẳng được gì. Thiền Sư Văn Ba dạy thời nhiều nhưng chính yếu vẫn là Tâm Điền. Thiền Sư Văn Ba nhìn ba người đệ tử nói các con đã thành tài tự mình chọn cho mình một hướng đi, theo sự hiểu biết của các con. Ba đệ tử lạy Thầy rồi xuống núi mỗi người đi mỗi ngã luôn ghi nhớ lời thầy dạy, chú trọng vào Tâm Điền.

– Người đệ tử lớn tên là Chu Thông hiểu rõ lời Thầy dạy nên chọn những hạt giống có chất lượng gieo vào Tâm Điền những hạt giống Thiên Ý tức là Văn Hóa Cội Nguồn. Hạt Giống Kinh, Thơ, Văn, Sử, Triết, Truyện. Hiến Pháp Luật Tạng, Giới Đức Đại Thừa ra sức học hành nghiên cứu không mệt mỏi hầu làm cho Tâm Điền của mình về sau kết trái đơm hoa rực rỡ.

– Người đệ tử thứ hai tên là Tử Nho vốn ưa thích Pháp Thuật Thần Thông, cũng như sự linh ứng nhiệm mầu nên chọn những hạt giống bùa chú gieo vào Tâm Điền của mình, sự vọng cầu chứng đắc.

– Còn người để tử thứ ba tên là Ái Nhu xu hướng theo vật chất tham gia đảng phái, gieo trong Tâm Điền những sự cạnh tranh, ác, thiện lẫn lộn tuy làm quan tới hàng Bộ Trưởng, nhưng nói đến phúc quả thời chẳng được là bao.

– Nói về Chu Thông gieo trong Tâm Điền những hạt giống Thiên Ý. Một màu xanh Âm Đức tràn ngập linh hồn, đi tới đâu cũng được Hộ Pháp Long Thần hộ trì che chở, Cha Mẹ Trời thường phù hộ vượt qua tất cả những chướng ngại gặp toàn những chuyện may mắn trong đời. Nhờ gieo trồng trong Tâm Điền Văn Hóa Cội Nguồn Kinh, Thơ, Văn, Sử, Triết, Truyện, những hạt giống Thiên Ý đã mọc lên thành rừng kim cương ngọc ngà châu báu. Kết tụ thành dòng cam lộ nước thánh. Nên Chu Thông nói tới đâu người ta hiểu đến đó độ người vô số, danh tiếng lẫy lừng.

– Một hôm có một tên Quan nổi tiếng là hách dịch, mời Chu Thông đến với lời xúc phạm. Chu Thông chẳng giận lại nói có phúc mới được làm Quan, nhưng phúc đức không phải tự nhiên mà có, phải làm phước giúp người mới có, đã không làm ra phúc đức mà tiêu xài quá lớn. Hết phúc thời tai họa theo đó hiện ra, không mời không biểu nói cứ lết la đeo bám người hết phúc, gây ra bao phiền phức cũng như hiểm họa khôn lường. Nảy giờ quan hù dọa chửi mắng tôi, theo luật chửi một người không tu thời tội 10, chửi một người tu thời tội 100, chửi một người hành sự theo Thiên Ý thời tội lên đến 1000, có nghĩa tự nảy giờ quan đã làm tổ đức cho mình biết là bao.

Ở đời sự tổn đức cao nhất chính là bất hiếu với Cha Mẹ. Cũng như xem thường Trời không coi Trời ra gì thời dù cho phúc đức như núi thời Quan cũng xài nhanh hết trong bỗng chốc liền tiêu tan theo mây khói. Phúc hết thời họa ập đến rất nhanh. Cây cỏ do Trời tạo lúa gạo cũng do Trời sanh. Không khí, nước uống, đất đai, mây gió những thứ đó đều là của Trời. Kinh trời thời Trời lấy lại tất cả,

Tôi nói ra đây không phải là đặc điều. Vì trên đầu chúng Ta là Trời dưới chân Ta là Đất. Mỗi lời nói ra Trời Đất đều nghe thấy. Nếu Quan không từ bỏ những lời phỉ báng Thiên Ý thời tai họa nhất định phải đến không sớm thời chầy mà thôi. Vị Quan nghe xong sừng sộ đòi bắt nhốt Chu Thông. Tao là Trời, Trời là Tao. Tao muốn trắng là trắng, Tao muốn đen là đen. Tao cấm truyền Thiên Ý nếu còn tái phạm thời ở tù mọt gông.

Chu Thông ra về nghĩ thương cho vị Quan ngu si đần độn dựa hơi chút Quan coi Trời bằng nắp vung. Được mấy hôm nghe đâu vị Quan hách dịch không biết ai xui khiến ký chú sai sót đi đến phạm pháp, có công văn đình chỉ công tác đuổi cổ về dân còn may đi tù nữa là khác, xưa nay ỷ quyền ỷ thế muốn làm gì thời làm, nay chẳng còn gì tự treo cổ nơi cơ quan mà chết. Những người hùa theo Quan không hiểu vì sao có người trào máu họng rồi đời, có người bị đuổi cổ về vườn, trở thành điên điên khùng khùng mách mách, trước đây thấy dân làm như cọp sói, giờ thấy dân như con chuột thấy mèo khép nép sợ hãi, hậu quả của hành ác đương nhiên tai ương sẽ tới, nhất là phỉ báng Ông Trời, xem thường Thiên Ý. Ông Trời chưa làm việc thời Thiên Thần, Địa Thần Hộ Pháp đã ra tay.

Về sau có thơ rằng:

Chống ai không chống, chống Ông Trời

Phước đức chẳng còn, họa đến rất nhanh

Trên đầu thời có Trời xanh

Dưới đất thời có Thần Linh khắp cùng

Mấy ai lạm dụng chức quyền

Xem thường Trời, Đất lên đời mấy ai

Luật Trời Thiên Ý Hóa Công

Làm đều bất chính hết mong an lành

Nhất là phá hoại Cội Nguồn

Tiêu tan cơ nghiệp đọa đày hồn Linh

Cũng do nhạo bán Thơ, Kinh

Tự mình treo cổ đi tiêu xác hồn

Họa tai khắp lối khắp cùng

Phúc đà cạn kiệt khó mòng bình yên

Tai ương dồn dập triền miên

Không người che chở đi tiêu cuộc đời

Xem thường nhạo bán Ông Trời

Kết cuộc thê thảm rồi đời con ma

Nói về người đệ tử thứ hai là Tử Nho gieo vào Tâm Điền của mình những hạt giống bùa chú vọng cầu chứng đắc, cứu nhân độ thế bằng sự linh ứng của bùa phép trở thành Thầy Pháp, tuy được nhiều người sùng kính, tiền của ăn không hết, nhưng trong Tâm Điền của Tử Nho không phải là cánh đồng màu mở sự đơm hoa kết trái của hạt giống bùa chú vọng cầu chỉ là quả bạc quả đồng, không phải là quả vàng quả kim cương như Chu Thông. Phần nhiều làm cho con người trở thành mê tín dị đoan. Nên độ người chẳng được bao nhiêu.

– Nói về đệ tử thứ ba là Ái Nhu, gieo trong Tâm Thức của mình, những hạt giống tranh bá, thắng là vua thua là giặc, mưu mô tính toán những sự bất chính trái Lương Tâm. Trước mắt là có quyền có thế trở thành giàu có, ăn sung mặc sướng, tiền hô hậu ủng bề thế chẳng ai bằng. Nhưng, gieo hạt giống Thiện Lành trong Tâm Điền chẳng được là bao, đi tới đâu cũng tom góp đô la, ngà voi, sừng tê giác, chim trỉ trắng, gà chín cựa. Những hạt giống Tâm Thức trong Tâm Điền toàn là tham lam không có giá trị cho sự giải thoát. Lẫn quẩn trong đường sanh tử.

– Một hôm ba người học trò về thăm Văn Ba Sư Phụ. Văn Ba Sư Phụ nhìn ba đệ tử người nào cũng nên danh rực rỡ thời lấy làm mừng nói không uổng công thầy dạy bảo bấy lâu. Ba người học trò liền hỏi về tương lai của mình, Thiền Sư Văn Ba liền nhập thiền xem ba đệ tử gieo những gì trong Tâm Điền của mình. Thiền Sư Văn Ba xem xong rồi nói. Các con gieo trong Tâm Điền mình mỗi người mỗi khác, nói về sự gặt hái hiện tại thời Ái Nhu là thành tựu hơn hết. Với con mắt đời thời ai cũng phải thừa nhận Ái Nhu thành đạt địa vị công danh rất cao. Nhưng đó là chỉ nói nơi trần gian. Còn sau khi mãn trần Linh Hồn nhận lãnh được gì thời theo Luật gieo trồng gieo Nhân kết Quả mà thọ hưởng thiên cơ bất khả lậu không nói được.

– Thầy Văn Ba nhìn Tử Nho rồi nói ở thế gian nầy phần đông là chạy theo bùa chú, cầu sự linh ứng, cũng như quả vị nầy quả vị kia. Sự thành tựu của Tử Nho là thiên hạ bái sống thành công như thế thời chẳng được mấy người. Nhưng ở tương lai đương nhiên sẽ được về trời. Nhưng làm gì trên trời, thiên cơ bất khả lậu không thể nói trước được.

– Thầy Văn Ba nhìn Chu Thông rồi nói, trước mắt hiện tại con hưởng lộc không lớn, có kẻ chê nầy người chê kia, nhưng trong Tâm Điền Con toàn là ngọc ngà, kim cương châu báu. Trong tương lai con giàu lắm, nhưng không phải nơi trần gian mà ở trên cõi Thiên Đàng. Thiên Cơ đâu thể nói nhiều Thầy cho biết bấy nhiêu là được. Đất, Trời tuy rộng lớn nhưng tất cả đều theo Định Luật. Các con gieo trong Tâm Điền những gì thời các con hưởng cái nấy. Có những hạt giống gieo ra thời gặt liền theo đó, như làm quan, làm vua làm chúa chốn nhân gian. Có thứ gieo ra phải chờ thời gian hoặc khi mãn kiếp trần mới được hưởng. Các đệ tử chú ý lắng nghe nhưng không được rõ. Chỉ có Chu Thông là thấy rõ mà thôi.

– Ngày qua tháng lại cái già đã đến không bao lâu bỏ lại xác trần, Ái Nhu Linh Hồn không mang theo được gì của trần trả lại cho trần chỉ là hai bàn tay trắng. Trong khi ấy trong Tâm gieo toàn những hạt giống thất đức. Tuy không đọa đày xuống cõi Âm Ti, ở lại trần gian làm Ma Âm Cảnh, nhờ không làm hại dân hại nước, nên hưởng được sự cúng thí của người trần, chờ nhân duyên đầu thai trở lại làm người hưởng theo phước, họa. Thiện, Ác những gì mình đã gieo ra.

Nói về Tử Nho khi mãn kiếp trần, nơi Tâm Điền gieo trồng bùa chú, vọng cầu sự chứng đắc linh ứng, thường hay giúp người, được siêu sanh về trời, làm Thiên Chúng, thành dân trời như bao người khác, một mình tự hát tự ca, cô đơn trên cõi bao la xứ trời.

– Nói về Chu Thông gieo trong Tâm Điền những hạt giống có chất lượng hạt giống Kinh, Thơ, Văn, Sử, Triết, Truyện, Hiến Pháp Luật Tạng. Giới Đức Thượng Thừa. Toàn là Thiên Ý lời dạy Cha Trời. Một màu xanh Âm Đức tràn ngập Linh Hồn, kết thành dòng cam lộ nhiệm mầu. Chu Thông độ người vô số. Mãn kiếp trần siêu sanh Thiên Giới làm Vua một cõi trời. Thiên Chúng Chư Thiên đông vô số vô biên.

Thơ rằng:

Thiên Ý Cội Nguồn

Văn Thơ của Trời

Gieo vào Tâm Điền

Mọc lên cánh đồng châu báu

Hào quang tỏa sáng

Phúc Đức Phước Báo không thể nghĩ bàn

Mãn trần về trời

Làm Vua làm chúa uy quyền oai linh

Cõi nước châu báu trang nghiêm

Vĩnh hằng sống mãi ở trên cõi trời
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
106. PHƯỚC HỌA DO MÌNH

Ngày xưa có một người làm quan tên là Nhạo, làm đủ thứ điều ác vợ ông Ngạo là Bà Hậu khuyên can không nên làm nhiều chuyện thất đức. Ông Nhạo không nghe mà còn rầy la Bà Hậu, thiệt thà như Bà hạt muối cũng không có ăn nói gì đến cơm với cá. Từ khi Ông Nhạo làm quan đến giờ nào là tham nhũng tham ô, nào là móc ngoặc tay trong tay ngoài, nào là lạm dụng chức quyền ký chú không nằm trong chủ trương chính sách, ăn tiền chạy chọt đút lót, tiền quà cáp, tiền biếu thi nhau lũ lược chảy vào túi bầy bầy, lại hay bài bác những người hành thiện, cho những người hành thiện là một lũ ngu. 20 năm làm đủ chuyện ác nhưng nào có sao đâu.

– Một hôm Ông nhìn Bà Hậu rồi nói tu như bà thời được cái gì thằng Dậu nó theo Bà thời coi như đời nó chấm hết. Bà coi con Liên, thằng Quan, thằng Quản đi theo chí hướng của tôi đứa nào đứa nấy thi nhau hốt của.

– Xưa theo Phật coi bộ chưa đã, nay Bà lại tin theo Văn Hóa Cội Nguồn suốt ngày mê say đọc tụng kinh thơ, tổ chỉ làm khổ thân Bà thôi. Bà Hậu nghe chồng bài xích Văn Hóa Cội Nguồn thời sợ hãi nói tôi xin Ông, Ông đừng có xúc phạm đến Văn Hóa Cội Nguồn vì Văn Hóa Cội Nguồn chính là Văn Hóa Thiên Ý. Ông bài xích Phật thời Phật không làm gì được Ông, còn bài xích Văn Hóa Cội Nguồn thời lại là một chuyện khác tai họa ập xuống tình lình không ai cứu nổi.

Ông Nhạo cười châm biếm nói tôi xúc phạm đó thời ai làm gì được tôi. Bà Hậu nói với chức quan của Ông chưa phải là Vua, dù cho Vua quyền lực to lớn đến đâu mà xem thường phỉ báng Văn Hóa Cội Nguồn thời không sao tránh khỏi tai họa.

Văn Hóa Cội Nguồn chính là Văn Hóa Thiên Ý Cha Trời. Do Anh Linh Huệ Mạng Quốc Tổ thừa hành nói ra, phạm vào Văn Hóa Cội Nguồn là phạm vào Thiên Ý, phước đức mau hết, Quốc Tổ quở phạt, Hồn Thiên Dân Tộc nhà nước tâm linh Văn Lang giáng họa. Thần, Thánh chẳng để yên cho Ông. Ông Nhạo chồng Bà hậu nghe Bà Hậu nói thế thấy trong người hơi ớn lạnh. Nhưng ngoài mặt vẫn làm cứng nói tôi không sợ.

– Qua mấy bửa sau Ông Nhạo đang đi trong nhà bỗng nổi lên choáng váng quay đòng đòng đánh đầu xuống nền nhà cái rầm, lăn đùng ra bất tỉnh. Thời ôi thôi tê liệt nửa thân người, nằm hết bệnh viện nầy đến bệnh viện kia chẳng hề thiên giảm. Trong nháy mắt quyền lực tan theo mây khói chẳng còn, chẳng thấy con ma nào đến thăm, trước đây thời chúng nó quỳ lạy từ ngoài sân vào nhà. Mình chưa nói gì chúng thi nhau đưa phong bì mà đút lót. Đến bây giờ mới biết tiền vô như nước đâu không thấy. Mà chỉ thấy ăn uống đái ỉa đều nhờ Bà Hậu và thằng Dậu luôn bên cạnh không nề khổ nhọc hết lòng chăm sóc. Còn Liên, Quan, Quản, tới nhìn Cha hỏi qua loa rồi bỏ đi nói là đang bận việc.

– Ông Nhạo lúc nầy mới suy nghĩ nhớ lại những gì Bà Hậu nói càng nghĩ càng thêm sợ. Còn khỏe mạnh thời cậy quyền cậy chức, dưới con mắt xem ai chẳng ra gì, kể cả Thánh Thần cũng xem thường nốt. Đến khi ngã bệnh quyền thế biến mất bất lực nằm một chỗ, con ruồi cũng đuổi không nổi, đến lúc nầy mới biết chức danh quyền lực chỉ là hư ảo. Chỉ cần đột quỵ là nó biến mất không còn. Ông Nhạo lẩm bẩm thế là hết đời đã tàn, đến lúc nầy tiền vô túi bầy bầy đâu không thấy mà thấy tiền ra như nước lũ một mũi thuốc chích tiền triệu, đến vài triệu.

Ông Nhạo tuy hai tay cử động được, như ăn phải nhờ người ta đút. Miệng nói lơ lớ Ông nói con gà người ta tưởng là Ông nói con vịt. Quan và Quản lại đến thăm Ông nhìn thấy không có Bà Hậu, chỉ có Dậu, bằng hỏi Mẹ đi đâu rồi Dậu. Dậu thật thà nói. Mẹ đi đến đền thờ cầu nguyện xin Trời Phật, Hồn Thiên Dân Tộc phù hộ cũng như tha tội phỉ bán của Cha.

Quan, Quản, nghe xong nói Mẹ lúc nào cũng làm những chuyện không đâu. Ở vào thời đại ngày nay chứng bệnh đột quỵ là chuyện thường, Phật, Trời nào làm chuyện đó cầu xin vô ích. Ông Nhạo nghe Quan và Quản nói thế trong lòng lấy làm kinh hãi miệng lơ lớ nói. Hai con không nên đụng tới Văn Hóa Cội Nguồn. Quan và Quản tưởng Cha dặn rằng là không tin Văn Hóa Cội Nguồn. Bằng nói Cha yên trí đi Cội Nguồn là cái gì mà con phải tin theo. Ông Nhạo nghe Quan, và Quản nói thế liền tái mặt sợ hãi miệng nói lơ lớ tiếng được tiếng mất.

Lúc ấy Bà Hậu cũng đã về nhìn thấy mặt mày Ông Thâm tái miệng lơ lớ nói bà không biết Ổng nói gì. Quan và Quản nói Cha khuyên chúng con không nên tin theo Văn Hóa Cội Nguồn. Bà Hậu nghe xong thời sững sờ nhìn Ông Nhạo lắc đầu rồi nói, Ông nói với các con như vậy sao? Ông Nhạo lắc đầu như nói rằng mình không nói thế mà là nói khác.

– Quan và Quản nói Mẹ lúc nào cũng tin sự linh thiêng của ông nầy bà nọ còn chúng con thời không tin những chuyện ấy chỉ tin theo những gì mình làm, sống mà không có mưu mô thời tiền của lấy đâu vô mà tiêu xài ăn sung mặc sướng.

Bà Hậu nghe Quan, Quản nói thế thời la rầy, im cái miệng lại cho tao nhờ, hai đứa mầy có thấy Cha mầy không, nghiệp cũng từ miệng mà ra, họa cũng từ miệng mà vào. Gieo nhân nào thời gặt quả nấy. Nhạo báng Ông Cha Ác khẩu sanh ra thời bình yên làm sao được.

Ông Nhạo giờ đây đã tin nhân quả cũng như tin sự linh thiên của Văn Hóa Cội Nguồn nhưng đã muộn màng vì tai họa đã ập đến. Ông ráng ra sức lơ lớ nói với Quan và Quản không nên xem thường Văn Hóa Cội Nguồn tai họa sẽ ập đến hãy tin lời Mẹ con nói.

Nhưng miệng Ông không theo ý Ông lơ lớ nói các con hãy ném mấy quyển kinh thơ vào sọt rác. Bà Hậu nghe xong thời mặc mày tái mét la rầy Ông Nhạo. Ông đã nằm liệt giường mà còn chưa tỉnh ngộ sao? Quan và Quản nói Mẹ thấy chưa Cha nào có tin, con phải học theo lòng kiên định của Cha dù nằm liệt giường cũng vậy mà thôi.

– Ông Nhạo nghe Quan, và Quản nói thế lòng hoang mang sợ hãi vô cùng cứ lắc đầu thở dài.

Dậu là người tinh ý biết là lời nói của Cha có vấn đề liền đưa cây viết cho Cha, Cha muốn nói gì thời viết ra đây. Ông ra ni biểu đỡ mình ngồi dậy Ông viết liền một hơi đưa cho Bà Hậu. Ông nói rằng không hiểu vì sao tôi muốn nói con gà, nhưng khi nói ra là con vịt. Tôi khuyên Quan và Quản không nên phỉ báng Văn Hóa Cội Nguồn, nhưng miệng lại nói ra là không tin Cội Nguồn. Nên chúng nó mới hiểu lầm lời nói của tôi. Quan và Quản trong lúc Ông Nhạo đang viết thời đã ra khỏi phòng viện lý do là có công việc gấp. Bà Hậu chỉ biết thở dài ra là thế Trời đã khốp họng, ý muốn nói cái nầy nhưng miệng lại nói ra cái kia. Có lẽ nằm viện đã ớn, Ông Nhạo đòi về nhà.

– Ông Nhạo về nhà chưa lâu, Bà Hậu đang chăm sóc cho chồng nghe điện thoại reo. Bà Hậu bắt điện thoại A Lô nghe đây. Mẹ đó hả tiếng nói của Liên, thằng Quan bị tai nạn rồi đã chuyển vào bệnh viện sống chết chưa rõ. Bà Hậu tái mặt hốt hoảng trời ơi là trời. Ông Nhạo mở mắt ra hỏi chuyện gì vậy. Bà Hậu hớt ha hớt hãi nói thằng Quan bị tai nạn rồi chưa biết sống chết ra sao. Tiếng điện thoại lại reo Bà Hậu hồi hộp hỏi nó sao rồi, bên kia đầu điện thoại Liên nói Quan đã qua khỏi cơn nguy kịch, nhưng xét nghiệm máu bị dương tính HiV bị sê đa rồi. Bà Hậu rụng rời tay chân như muốn quỵ xuống. Ông Nhạo lúc đó cũng nghe như muốn ngừng thở thều thào nói tai họa ập đến rồi.

– Ông Nhạo giờ đây vô cùng thấm thía hồi nào sừng sộ ra oai như con hổ, giờ đây con ruồi bâu vào mặt đuổi cũng không nổi còn thua cả con ruồi. Quan bị tai nạn, lòi ra mang bệnh HiV coi như đi tiêu cuộc đời. Bịnh Ông càng thêm nặng lòng đau như xé thấm thía cho cuộc sống ở đời không như mình nghĩ muốn làm gì thời làm. Hậu quả đến rồi dù ăn năn cũng không còn kịp.

Điện thoại lại reo lên, Bà Hậu như không muốn nghe, nhưng điện thoại reo mãi không nghe cũng không được, đánh bắt máy lên A Lô A Lô. Bên kia đầu giây không phải là tiếng nói của Liên mà là một người khác. Bà Hậu hỏi ai vậy. Tôi là Cảnh Sát An Ninh, Quản đã bị bắt vì tội làm thất thoát tiền của Nhà Nước. Bà Hậu hốt hoảng la lên trời ơi là trời, tai họa nầy chưa hết, tai họa khác lại ập đến trời ơi là trời. Ông Nhạo tưởng đâu là thằng Quan có vấn đề, bằng hỏi chuyện gì vậy.

– Bà Hậu nói thằng Quản bị bắt rồi cái tội làm thất thoát tiền nhà nước Bà như muốn quỵ xuống. Ông Nhạo miệng thờ lơ lớ không biết nói gì nước mắt chảy ròng ròng. Bỗng nghe tiếng chân vội vàng chạy vào nhà thì ra là Dậu mặt mày tái mét không còn chút máu hớt ha hớt hãi nói Công An đã bao vây nhà mình. Không biết có chuyện gì mà Công An kéo đến nhà bao vây như vậy.

Bà Hậu còn đang ngơ ngác thời đồng chí Công An bước vào nhà đọc lệnh khám xét nhà, lục lạo một hồi lôi ra một đống giấy tờ, liên quan đến nhiều vụ lạm dụng chức quyền ký nhiều giấy tờ liên quan đến làm ăn phi pháp, dính liếu đến vàng, bạc, đô la. Đồng chí Công An đọc lệnh bắt khẩn cấp, nhưng thấy Ông Nhạo nằm bất động trên giường liền cho hai đồng chí Công An hầu hạ moi ra nhiều tội trạng.

Xử luôn một thể.

– Gia đình bỗng chốc trở nên tan nát, đứa thời lây lất, đứa thời vào nhà tù. Đám cưới con Liên bên đàng trai đã hủy bỏ. Họa chồng lên họa, tai chồng lên tai. Rằng đời được có mấy ai. Gieo ác gặt phúc có đâu ở đời. Gieo ác gặt họa sự thường, Bài xích Văn Hóa Cội Nguồn tránh đâu cho khỏi trùng trùng họa tai.

– Gia đình Ông Nhạo trong phút chốc tiêu tan tất cả Ông buồn rầu nếu sống thời cũng vào tù Ông nghẹn ngào bức xúc quá mạnh vốn đã đột quỵ liền trút hơi thở lìa đời.

Ông Nhạo chết chưa đầy năm mươi ngày, thời có lệnh tịch thu gia sản. Bà chị cả là Liên tinh thần suy sụp, nhiều lần đòi tự tử Bà Hậu khuyên can Liên mới tỉnh tâm mà sống.

Ngôi biệt thự to lớn đâu còn Liên liền thuê nơi ở trọ. Quan ra viện điên điên khùng khùng. Quản ngồi trong tù thấm thía việc giàu sang bất chính, làm nhiều điều ác đức bỗng chốc hóa thành mây khói trắng tay.

– Bà Hậu cùng Dậu vào tù ghé thăm, Bà nhìn Quản rồi nói con nên ăn năng sám hối, khinh thường Văn Hóa Cha Ông, trở thành người Bất Trung, Bất Nghĩa, Bất Nhân, phước đức tiêu tan. Hồn Thiêng Dân Tộc, Khí Thiêng sông núi chuyển xoay gián họa. Không tai nạn nầy thời cũng tai nạn khác, đâu phải chết là hết hồn sa đọa âm ti khốn khổ gấp vạn lần tù chốn nhân gian. Nếu con còn bướng bỉnh không tin Văn Hóa Cội Nguồn thời làm thinh chỉ cần nghĩ bậy là họa chồng lên họa. Quản ương bướng nói ở tù rồi còn họa gì nữa. Dậu nghe xong nói anh còn chưa tỉnh thời khó mà được bình yên. Quả đúng như lời Dậu nói Quản bị bọn tù đánh suýt chết, bị bọn tù hành hạ tối ngày bắt đi dọn cầu tiêu dội nước đái. Suốt ngày sống trong sự hôi thúi. Bà Hậu cùng Dậu không đến thăm nữa nên cuộc sống của Quản vô cùng thiếu thốn. Muốn ăn năn sám hối nhưng tất cả đều muộn cả rồi đôi lúc ngồi một mình tủi buồn rơi lệ.

– Nói về Bà Hậu cùng Dậu tìm một nơi ở khác không còn ở trong thành phố. Ra ngoài thành phố mua mấy sào đất rẽ thúi, do ông chủ kẹt tiền bán đổ bán tháo. Bà Hậu nghĩ có sự may mắn nầy là do Hồn Thiêng Dân Tộc phù trì, Cha Trời ban phước chỉ lối, muôn cái may đem đến, nghìn cái lợi bất ngờ, không bao lâu thời nhà nước mở đường ngang qua khu vườn Bà Hậu, đất lên giá vùn vụt một lô đất năm mét ngang cũng được vài tỉ. Bà Hậu bán bớt một lô mua bán kinh doanh làm ăn, nhờ quới nhơn giúp đỡ Bà Hậu giàu lên thấy rõ cửa hàng bảng hiệu thuộc loại tầm cỡ khách ra khách vào xe cộ tấp nập. Chỉ một hai năm Bà xây một ngôi nhà ba tần mô đênh đời mới, sang trọng còn hơn ngôi nhà trước đây Bà ở. Dậu mở công ty chế biến Mì Quảng công nhân có đến mấy trăm.

– Đơn xin làm việc càng lúc càng tăng, một hôm Dậu coi đơn xin việc thấy có tên Liên nghề nghiệp tuổi đều trùng hợp với chị của mình, liền nghi ngờ là chị của mình. Dậu nhận Liên vào làm nhưng không ra mặt. Đứng trên lầu quan sát người đến làm việc chính là Liên. Qua mấy bửa sau thấy người xin việc lái xe cho công ty có tên Quản. Dậu nhận vào làm cũng nhận ra đó là anh quản có lẽ đã ra tù.

– Nói về Liên làm việc cho công ty Thịnh Phúc Liên vốn là người có tài nhưng không gặp thời cái tài cũng đành bỏ xó với cái tài hai bằng đại học kỹ sư hóa, cử Nhân Kinh Tế Liên phát minh ra nhiều phương thứ mới làm cho công ty ngày càng làm ăn phơi phới, vì thế mà lương Liên tăng lên vùn vụt. Tháng lãnh gần trăm triệu đứng đầu trong công ty.

– Nói về Quản vô cùng chịu khó chạy xe cho công ty không quản ngày đêm không đòi hỏi gì, không đòi tăng lương. Làm ở công ty Thịnh Phúc hơn một năm nhưng chưa lần nào Liên và Quản thấy mặt Ông Chủ. Ông Chủ Thịnh Phúc đi đến bằng xe con nên không thể nào nhìn mặt được.

– Một hôm Dậu từ công ty về hai mẹ con ăn cơm vui vẻ Bà Hậu nói thành phố mở rộng thêm quận mới, nhà mình loạt vào trung tâm một lô năm mét thời điểm bữa nay không phải là năm ba tỉ mà là mười tỉ chưa chắc đã bán. Vườn mình còn tới mấy sào đất cái giàu không tưởng chỉ trong vòng có mấy năm. Nghĩ mà xót xa cho các anh chị các con không biết bây giờ lưu lạc nơi đâu. Mẹ có vào trại giam, nhưng trại giam cho biết Quản đã ra tù hơn một năm rồi, không biết giờ nầy nó sống ra làm sao. Còn thằng Quan nữa không biết sống chết ở đâu. Đáng thương cho con Liên tài năng nào phải kém thua ai một thời làm mưa làm gió, bao nhiêu chàng trai chạy theo sốt vó, xui thời bề thế gia đình suy sụp bị chồng bỏ không cưới, thân gái bơ vơ không biết có chồng khác chưa.

– Dậu nghe Mẹ nói thế thời cười anh Ba Quan thời con không biết ở đâu, còn Chị Liên, Anh Quản thời con tìm thấy rồi. Để khi nào con đưa Chị Liên cùng Anh Quản về nhà, nhưng Anh Quản, Chị Liên không tin Văn Hóa Cội Nguồn sợ đưa anh chị về gây thêm buồn phiền, nên con chưa đưa anh chị về nhà đấy thôi, Để con thăm dò thử xem sao, sau đó mới tính.

– Nói về Liên phấn đấu không ngừng nghỉ, thiếu điều leo lên ghế phó giám đốc. Tan sở Liên vội vã về nhà ghé vào một quán bình dân, bữa cơm vô cùng đạm bạc. Liên ăn xong thời vội về nhà. Một chiếc xe con theo sau Liên vào một con hẻm xe con vào không được. Dậu liền tấp ở ngoài đường, cũng may nơi đây vỉa hè đường khá rộng. Dậu đi theo Liên vào một quán trọ giá rất rẻ. Dậu không cầm được giọt nước mắt. Đã từng là quan của một cấp cao ăn trên ngồi trước ở nhà lầu cao cấp, áo quần mặt không hết còn có cả xe con riêng cho mình thế mà giờ đây không thuê nổi nhà ngon để ở. Nhìn kiểu ăn mặc cũng như ăn uống đạm bạc của Chị Liên cũng biết Chị Liên để dành tiền mua một căn nhà để ở. Dậu thở dài quay trở ra lên xe trở về nhà. Thời thấy một xe đang chạy phía trước chính là xe công ty của mình. Dậu theo sau xe quản chạy vào con hẻm lớn dừng lại một căn nhà nhỏ sụp xệ, thời thấy một người con gái từ trong nhà chạy ra hình như là vợ của Quản nói với Quản bà chủ nói nếu còn nợ tiền nhà thời bà chủ lấy lại. Dậu nghe thấy những lời ấy chua xót vô cùng quay xe trở ra.

– Qua ngày hôm sau chờ cho Liên đi làm Dậu liền đến nhà Liên. Chào Bà Chủ chị Liên thuê phòng trọ ở đây phải không ạ. Bà Chủ Nhà nhìn dậu một hồi thấy Dậu ăn mặc lịch sự liền nói phải cô Liên thuê phòng trọ ở đây. Đậu nói tôi là em của Chị Liên từ dưới quê lên Chị Liên thuê nhà ở đây lâu chưa. Bà Chủ nói hơn hai năm rồi Bà Chủ nghe Dậu giới thiệu mình là em của Liên thời mời vào nhà. Dậu vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy Bà Chủ thờ Cha Trời Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ. Bà Chủ nhìn thấy Dậu nhìn mãi Cha Trời Lạc Long Quân và Mẹ Trời Âu Cơ liền nói thờ hai đấng Cội Nguồn nầy linh lắm Cô Liên chỉ cho tôi thờ đấy. Quả đúng như lời Cô Liên nói từ ngày tôi thờ Cha Trời Lạc Long Quân, Mẹ Trời Âu Cơ. Làm đâu được đó tính đâu được đó. Cô Liên cũng thường nói với tôi Cô luông tưởng niệm Cha Trời Mẹ Trời nên cô xin được chỗ làm phải nói là như ý. Lương Cô Liên nay rất cao không bao lâu nữa Cô mua nhà để ở. Dậu nghe Bà Chủ nói vô cùng mừng rỡ trước khi ra về Dậu nói nhờ Bà Chủ nói với Chị Liên là có người em tên Dậu đến thăm.

– Dậu lái xe đến con hẻm chạy vào ngôi nhà sụp xệ ngừng xe lại, Từ trong nhà một người con gái chạy ra Dậu đã biết trước người con gái chính là vợ của Anh Quản. Bằng chấp tay thi lễ nói em là Dậu em của Anh Quản từ quê lên thăm. Người con gái kinh ngạc nhìn Dậu nói Anh Quản nói có người em tên Dậu rất nghèo có khi nào Ông lầm nhà không? Dậu nói không lầm đâu, người con gái mời Dậu vào nhà, chú út ngồi đây, tôi đi mua ly nước. Dậu nói nước gì uống cũng được cần gì phải mua. Nhìn lên bàn thờ thấy có bức ảnh người Cha Ông Nhạo. Trên bàn thờ Ông Nhạo có mấy quyển kinh thơ. Dậu tò mà xem thử thời ra đây toàn là Kinh Thơ Văn Hóa Cội Nguồn. Dậu kinh ngạc Anh Quản cũng xem Kinh Thơ nầy sao? Người con gái nói Anh Quản siêng coi Kinh Thơ Văn Hóa Cội Nguồn lắm. Dậu hỏi Anh Quản coi Kinh Thơ Văn Hóa Cội Nguồn bao lâu rồi người con gái nói cũng đã hơn một năm. Dậu ngồi chơi một lát rồi ra về.

– Một hôm Dậu cho người mời Liên cũng như Quản đến văn phòng giám đốc. Hai người không biết có chuyện gì không lẽ bị đuổi việc nên lo lắng vô cùng nhất là Liên đang ở mức lương cao. Liên và Quản bước vào phòng giám đốc có một người chờ sẵn. Liên, Quản tưởng đâu là Ông Chủ khúm núm thưa Ông Chủ gọi chúng tôi có chuyện gì sai bảo. Người ấy nói tôi không phải Ông Chủ đâu Ông Chủ đang về nhà chở Mẹ Ông Chủ đến, mời hai người ngồi.

Quản và Liên ngồi chưa lâu thời thấy một chiếc xe con từ ngoài cổng chạy vào công ty. Từ trên xe con hai người bước xuống Liên và Quản như không tin ở mắt mình Mẹ và em Dậu. Người trong phòng nói Ông Chủ và Mẹ Ông Chủ đã đến. Liên và Quản tưởng đâu mình nghe lầm hỏi lại Ông Chủ, và Mẹ của Ông Chủ. Người trong phòng nói hai người làm ở công ty nầy hơn năm rồi mà không biết sao. Người trong phòng nói hai người theo tôi đến gặp Tổng Giám Đốc Ông Chủ. Người trong phòng dẫn Liên và Quản đến một văn phòng dành riêng cho Tổng Giám Đốc an nghỉ mà thôi. Vừa bước vào văn phòng Liên nhìn thấy người đàn bà khi nảy bước xuống xe liền chạy tới ôm khóc ròng Bà Hậu ôm lấy con cũng khóc. Dậu và Quản ôm nhau cũng vậy nước mắt tuôn rơi lã chã. Bà Hậu nói các con đã tin Cội Nguồn nên Cha Trời, Mẹ Trời mới cho gia đình mình đoàn tụ. Anh Linh Quốc Tổ phù hộ, Hồn Thiên Sông Núi phù trì nên mới được như ngày nay.

– Nằm ở ngã tư đại lộ Hùng Vương Liên và Quản nhìn thấy một ngôi nhà lầu ba tần rộng lớn xây dựng theo kiểu vừa Ta vừa Tây trông lộng lẫy nguy nga xinh đẹp. Bề thế còn hơn ngôi nhà năm xưa của Cha Mẹ. Chiếc xe con chạy vào cổng, người ăn kẻ ở ra đón Liên bước xuống xe nhìn ngôi nhà không khỏi trằm trồ, ai thiết kế ngôi nhà nầy không phải tay vừa. Bà Hậu nhìn Dậu nói chính nó đấy. Con quên rồi sao Dậu là kiến trúc sư, khi con đang làm cho công ty La Sa. Công Ty lớn nhất thành phố.

– Bửa cơm thân mật đoàn tụ gia đình, Bà Hậu nói ước chi có thằng Quan thời vui biết mấy. Quản nói anh Ba Quan đã qua đời sau những ngày dầm mưa dãi nắng lang than. Cốt tro tàn con đem về thờ chung bàn thờ với Cha. Bà Hậu nghe xong không cầm được giọt nước mắt.

– Bà Hậu nhìn Dậu nói năm cổ phần trong công ty của Mẹ một cổ phần tới mười tỉ Mẹ cho Liên một cổ phần, Quản một cổ phần. Liên và Quản quá bất ngờ với cổ phần to lớn nầy. Dậu nói anh em Ta gắng sức làm ăn mở rộng công ty.

Công ty Thịnh Phúc thêm hai giám đốc mới là Giám Đốc Bà Chủ Liên, Giám Đốc Ông Chủ Quản.

– Liên hôm nay khác Liên hôm trước đi chiếc xe đắt giá mới cáu, ăn mặc sang trọng trông xinh đẹp mặn mà hơn cách đây bảy năm về trước. Quản cũng thế dời gia đình về ở chung với Mẹ. Liên cũng vậy. Vợ Quản sanh được cháu trai dễ thương. Công ty từ đó làm ăn lớn nhanh như dưa mở rộng công ty cùng khắp.

– Trong buổi hộp mặt liên doanh nhiều công ty khá, Dậu có biết một công ty ông ta tên Việt, ngày xưa đeo đuổi mãi chị Liên, đến khi nghe Liên sắp có chồng Ông Việt vô cùng đau khổ, nhưng sau đó thời nghe Liên bị từ hôn. Việt cố tìm Liên nhưng không biết ở đâu chỉ ở vậy tuổi đã 35 mà chưa có vợ.

– Cuộc họp liên doanh liên kết công ty do Liên giải trình những mặt lợi mặt hại của đôi bên, nhất là thống nhất giá cả, cũng như sự cung cầu ra thị trường tránh đi những cạnh tranh không đáng có dễ đi đến phá sản.

– Chiếc áo đen ôm sát thân mình, phải nói là gợi cảm vô cùng, nổi bậc làng da trắng nuốt trông Liên như một nàng tiên. Liên Thuyết giải lưu loát, phân tích sâu sắc, mặt lợi mặt hại đều rõ ràng. Không dài dòng những cô đọng then chốt. Làm thám phục nhiều công ty. Riêng giám đốc công ty Hưng Việt ngây ngất nhìn mãi Liên. Liên bắt gặp đôi mắt say mê mình như ngày nào trong lòng dấy lên một niềm vui lẫn xúc động.

– Liên cũng nhìn thấy trong số người đến tham dự có cả người phụ bạc mình năm xưa. Người ấy thấy Liên nhìn mình, liền cúi mặt như luyến tiếc vì đã bỏ rơi một báu vật vô giá trên đời.

– Giám đốc Hưng Việt lên tặng hoa cho Liên. Liên đón nhận như đón nhận một tình yêu mới, mà Dậu đã sắp xếp cho hai người gặp nhau.

* * *

Hết Quyển 3, xem tiếp Quyển 4
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
107. SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG BÁNH DÀY

Vào thuở xa xưa thời Hùng Huy Vương, Pháp Hải Lang đời thứ 6 Hạ Hùng Vương 961 đến 893 trước công nguyên. Hùng Huy Vương thấy mình tuổi đã cao sức khỏe mỗi ngày một suy yếu, không biết chọn ai là người nối ngôi kế vị. Các bà vợ của Vua sanh được hai mươi hai người con, phần đông đều là văn võ song toàn, người nào cũng anh hùng khôn lớn. Con đông lại là con của nhiều bà phải làm thế nào cho chúng nó không tranh giành, sanh ra cảnh tương tàn nồi da nấu thịt. Đây là điều vô cùng quan trọng nhờ các viên quan Lạc Vương, Lạc Hầu, Lạc Tướng bày kế cho Trẫm chọn người kế vị ngôi Vương.

– Các quan tâu rằng thời Quốc Tổ Tiên Đế dựng nước Văn Lang. Hàng năm đầu xuân thường cúng Tổ Tiên Đất Trời ngày hội của Bách Việt Văn Lang.

– Quốc Vương ra đề thi, cho tất cả Hoàng Tử mỗi người tự bày ra mâm cỗ, dâng cúng Tổ Tiên Trời Đất. Mâm cỗ nào nói lên đầy đủ ý nghĩa của đạo làm người, bao hàm những triết lý sâu xa Cội Nguồn, cũng như sự sanh thành dưỡng dục của Mẹ Cha. Phải có sự hùng biện nói ra những suy nghĩ triết lý về phẩm vật mà mình đã dâng lên. Được sự thừa nhận các quan trong triều thời người đó sẽ là người kế vị ngôi Quốc Vương.

– Hùng Huy Vương nghe các quan tâu có lý, cách chọn người kế vị bằng khen rằng cách nầy hay lắm đây.

Người thua cuộc sẽ tùng phục sát đất. Hùng Huy Vương bằng kêu các Hoàng Tử đến nói rằng. Cha nay tuổi cũng đã cao, mặt trời sắp lặn về Tây gần đất xa Trời. Cha muốn truyền ngôi lại cho các con, nhưng không biết chọn ai trong các con, vì các con đứa nào cũng tài giỏi.

Tục truyền từ thời Tiên Tổ truyền lại, từ thời dựng nước đến nay. Cứ hàng năm vào đầu xuân là dân lên mâm cỗ cúng Cha Mẹ, Ông Bà, Tổ Tiên, Trời, Đất, tưởng nhớ công ơn sanh thành dưỡng dục.

– Các con hãy tự làm mâm cỗ, tìm những món ăn lạ để dâng cúng Tổ Tiên. Ai có món ăn ngon độc lạ, và có nhiều ý nghĩa Cha sẽ truyền ngôi cho người đó.

– Các Hoàng Tử nghe Vua Cha bảo thế liền thi nhau trổ tài với hy vọng mình là người thắng cuộc.

– Mỗi Hoàng Tử đều về bàn với vợ nhờ người đi khắp chân trời góc bể, tìm kiếm món ngon vật lạ, thuộc hàng hiếm quý trên đời, kẻ lên non, người xuống biển, không bỏ sót nơi nào, bỏ công ra sức tìm cho bằng được, những món ăn vừa ngon vừa hiếm quý dâng lên Vua Cha.

– Trong số 22 vị Hoàng Tử có Hoàng Tử Lang Liêu đứng hàng thứ mười tám. Mồ cô Mẹ từ thuở nhỏ ở với Mẹ nuôi là Cao Thị. Cao Thị ở vậy nuôi Lang Liêu. Cao Thị là người phụ nữ hiền lương, nên Lang Liêu cũng hấp thụ tính Mẹ tính tình hiền lành sống có Đạo có Đức nhất là sự hiếu thảo ít người bằng. Lang Liêu có vợ hơn năm thời Cao Thị qua đời. Vợ chồng còn trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm, vợ Lang Liêu là người con gái tuy xinh đẹp thông minh, nhưng không có lòng cạnh tranh, lại chẳng hiểu gì về mấy món ngon vật lạ, nên đành bó tay chẳng giúp gì được cho chồng nên vô cùng lo lắng không biết phải làm sao thở vắn than dài. Lang Liêu thấy vậy nói mọi việc trên đời đều có số Tiên Vương Quốc Tổ thường dạy như thế truyền mãi cho đến ngày nay.

– Lang Liêu biết mình không tài nào theo kịp các anh, phải chi thi bắn cung, múa kiếm, đua ngựa, thời còn hi vọng đôi chút, đằng nầy dâng mâm cỗ, của ngon vật lạ thời đành chịu thua. Cha vợ Lang Liêu là một vị quan trong triều làm đến chức Ngự Sử, đến thăm con gái, con gái mừng quá ra đón vào nhà rồi hỏi cách nầy cách kia, món nào ngon, món nào độc lạ. Quan Ngự Sử cũng phải đành lắc đầu, không biết làm sao giúp được cho Lang Liêu.

– Trong khi đó các Hoàng Tử cho người chạy nam tìm bắc, hết đông tới tây, thậm chí nhờ người nước ngoài tìm những món ngon độc lạ.

– Còn Lang Liêu thời nằm khểnh ở nhà coi như là bỏ cuộc. Chỉ còn ba ngày nữa là đến đầu xuân, cũng là ngày dâng mâm cỗ cúng Tổ Tiên Trời Đất. Lang Liêu vẫn chưa có gì, vợ Liêu cũng rất buồn.

– Đêm hôm ấy Lang Liêu biết mình đã thua cuộc, nhưng không lẽ chẳng có gì dâng cúng Tổ Tiên Trời Đất. Tục lệ từ khi dựng nước mở mang bờ cõi cho đến ngày nay.

Lang Liêu ráng nhớ lại những món ăn thường dùng, bảo vợ làm ít món dâng cúng Tổ Tiên Trời Đất. Mãi suy nghĩ đi vào giấc ngủ lúc nào không biết. Bỗng Lang Liêu thấy một vừng hào quang sáng chói từ trên trời bay xuống hiện ra một người phụ nữ xinh đẹp vô cùng, không thể nào diễn tả nổi sắc đẹp ấy. Lang Liêu chưa kịp thi lễ thời người ấy nói Ta là Tổ Mẫu Phụng Cơ. Vương Mẫu Nương Nương xuống dạy cho con cách làm bánh chưng bánh dày.

– Vương Mẫu nói to lớn nơi vũ trụ không gì bằng Trời, chỉ có Trời mới chứa hết thiên hạ nhân loại.

– Muôn sanh linh vạn vật không gì bằng Đất. Chỉ có Đất mới dưỡng nuôi hết thảy sanh linh vạn vật.

– Đất dưỡng nuôi thể xác.

– Trời dưỡng nuôi linh hồn

– Của báu nhất trần gian không gì bằng Gạo Nếp. Gạo Nếp chính là hạt ngọc của Trời và Đất, nuôi sống con người.

– Con hãy lấy Gạo Nếp đêm ngâm rồi làm bánh Hình Tròn tượng trưng cho Trời. Làm bánh hình Hình Vuông tượng trưng cho đất. Trời màu xanh, sự phì nhiêu của Đất cũng màu xanh. Non xanh nước biếc đậm tình quê hương.

Hãy lấy lá xanh bọc ngoài Càn, gạo nếp Khôn. Trong Càn Khôn. Lấy năm loại đậu làm nhưng tượng trưng cho ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Nói về Đạo ngũ thường năm loại đậu tượng trưng cho Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Nói về Đạo ngũ luân năm loại đậu tượng trưng cho Cha, Con, Anh, Em, Chồng Vợ. Nói về Nhân Loại năm loại đậu tượng trưng cho năm màu da cùng chung một thể Đồng Bào.

– Năm loại đậu trộn chung giã nhuyễn tượng trưng cho sự gắn bó hòa hợp cùng nhau, chung sống yên vui đoàn kết.

– Pha trộn vào ít thịt bò, heo, dê, gà, vịt. Tượng trưng cho đời sống thịnh vượng.

– Thêm gia vị Đường, Muối, chanh, Tiêu, Hành, Tỏi. Tượng trưng cho Chua, Ngọt, Mặn, Đắng, Cay, cùng chia cùng hưởng gánh gồng có nhau đậm đà cuộc sống ấm no. Mặn nồng tình nghĩa keo sơn thuận hòa.

– Gạo nếp trắng tinh là con Dân. Bọc ngoài lá xanh ví như Vua, Quan bảo bọc cho Dân Chúng.

– Gạo nếp trắng tinh là con cái. Bọc bên ngoài lá xanh ví như Cha Mẹ bảo bọc ôm trọn đàn con trong lòng, thương yêu đùm bọc che chở. Truyền dạy xong cách làm bánh chưng bánh dày cũng như triết lý sâu xa của nó. Vương Mẫu Nương Nương Phụng Cơ Quốc Tổ Mẫu liền biến mất.

– Lang Liêu tỉnh giấc mừng rỡ vô cùng kêu vợ dậy kể lại câu chuyện mình vừa nghe. Hai vợ chồng cùng nhau ra sức, hối thúc người ăn kẻ ở. Kẻ chọn Gạo Nếp thật tốt, người chọ lá gói thật xinh, kẻ lo năm loại đậu, người lo gia vị, thịt tươi Lang Liêu đi vào làm bánh y như những gì Vương Mẫu Nương Nương truyền dạy.

– Đến ngày dâng cỗ đem cúng Tổ Tiên Trời Đất, vào dịp đầu xuân. Các Hoàng Tử đưa món ăn về dự thi, ngày hội đầu xuân náo nhiệt tưng bừng, khắp cả nước nói chung Phong Châu nói riêng. Người đông nghìn nghịt dân Kinh Đô Văn Lang đều nao nức xem Hoàng Tử nào là người được chọn kế vị ngôi Vương. Những món ngon vật lạ do các Hoàng Tử dâng lên.

– Đầu giờ thìn vua cùng các quan đi kiệu đến làm lễ gia tiên, chiêng trống nổi lên, lọng, phướn, cờ xí tưng bừng, rộn tai sáng mắt mọi người, tất cả đều ngong ngóng. Giờ phút quan trọng đã đến, hai mươi hai Hoàng Tử đều dâng lễ cúng. Cỗ nào cỗ nấy sang cả mùi thơm nức mũi trông đẹp mắt vô cùng.

– Lang Liêu bưng mâm cỗ, trông rất tầm thường chẳng có gì là sang cả, cũng chẳng nghe mùi thơm nức mũi, thoạt nhìn ai cũng lắc đầu bĩu môi. Vẻ chê bai hiện ra trong đôi mắt các chị dâu cũng như các Hoàng Tử.

– Lễ dâng hương xong Vua Hùng ném trước, các quan nếm thử sau qua các món ăn, chỉ còn lại món bánh chưng bánh dày. Vua Hùng nói với các quan giờ chỉ còn lại một mâm cỗ nữa là chưa nếm thử. Ta cùng các khanh đồng ném thử mâm cỗ phẩm vật cuối cùng, tức thời Vua cùng các quan mỗi người ăn mỗi miếng ai nấy đều gật gù tán thưởng khen ngon. Các quan Lạc Hầu. Lạc Tướng nói.

– Đây là một thứ bánh hương vị khác thường, làm từ những thực liệu bình thường, nhưng cách làm ra cũng như cách pha trộn vô cùng đặc biệt.

– Các hoàng tử thay đổi hẳn thái độ không còn coi thường bánh dày bánh chưng của Lang Liêu. Chỉ còn chờ ban giám khảo các Vương, Quan Lạc Hầu. Lạc Tướng bình giá các món ăn, ai là người thắng cuộc. Tất cả đều chờ đợi kết quả quan trọng nầy.

– Riêng Vua Hùng lấy làm ngạc nhiên về bánh lạ vừa nếm qua thấy vô cùng khác lạ, bằng nếm đi nếm lại đến mấy lần, lật bánh lên, lật bánh xuống, lật qua, lật lại ngắm nghía. Một bánh hình tròn, một bánh hình vuông là ý nghĩa gì đây.

– Vua cho gọi Lang Liêu đến hỏi ai bày cho con làm ra hai loại bánh nầy. Triết lý hai loại bánh nầy ra sao, con hãy trình bay ra đây cho Cha cùng bá quan văn võ nghe.

Lang Liêu bằng triết giải những triết lý về Bánh Chưng, Bánh Dày sự cao thâm huyền diệu sâu xa của nó.

– Lang Liêu quỳ lạy thưa.

Muôn tâu Phụ Vương trong giấc ngủ mơ màng con thấy Vương Mẫu Nương Nương chính là Quốc Tổ Mẫu từ trên trời bay xuống truyền dạy cho con làm Bánh Dày, Bánh Chưng.

– Vương Mẫu nói to lớn nơi vũ trụ không gì bằng Trời, chỉ có Trời mới chứa hết thiên hạ nhân loại.

– Muôn sanh linh vạn vật không gì bằng Đất. Chỉ có Đất mới dưỡng nuôi hết thảy sanh linh vạn vật.

– Đất dưỡng nuôi thể xác.

– Trời dưỡng nuôi linh hồn

– Của báu nhất trần gian không gì bằng Gạo Nếp. Gạo Nếp chính là hạt ngọc của Trời và Đất, nuôi sống con người.

– Con hãy lấy Gạo Nếp đêm ngâm rồi làm bánh Hình Tròn tượng trưng cho Trời. Làm bánh hình Hình Vuông tượng trưng cho đất. Trời màu xanh, sự phì nhiêu của Đất cũng màu xanh. Non xanh nước biếc đậm tình quê hương.

Hãy lấy lá xanh bọc ngoài Càn, gạo nếp Khôn. Trong Càn Khôn. Lấy năm loại đậu làm nhưng tượng trưng cho ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Nói về Đạo ngũ thường năm loại đậu tượng trưng cho Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Nói về Đạo ngũ luân năm loại đậu tượng trưng cho Cha, Con, Anh, Em, Chồng Vợ. Nói về Nhân Loại năm loại đậu tượng trưng cho năm màu da cùng chung một thể Đồng Bào.

– Năm loại đậu trộn chung giã nhuyễn tượng trưng cho sự gắn bó hòa hợp cùng nhau, chung sống yên vui đoàn kết.

– Pha trộn vào ít thịt bò, heo, dê, gà, vịt. Tượng trưng cho đời sống thịnh vượng.

– Thêm gia vị Đường, Muối, chanh, Tiêu, Hành, Tỏi. Tượng trưng cho Chua, Ngọt, Mặn, Đắng, Cay, cùng chia cùng hưởng gánh gồng có nhau đậm đà cuộc sống ấm no. Mặn nồng tình nghĩa keo sơn thuận hòa.

– Gạo nếp trắng tinh là con Dân. Bọc ngoài lá xanh ví như Vua, Quan bảo bọc cho Dân Chúng.

– Gạo nếp trắng tinh là con cái. Bọc bên ngoài lá xanh ví như Cha Mẹ bảo bọc ôm trọn đàn con trong lòng, thương yêu đùm bọc che chở. Truyền dạy xong cách làm bánh chưng bánh dày cũng như triết lý sâu xa của nó. Vương Mẫu Nương Nương Phụng Cơ Quốc Tổ Mẫu liền biến mất.

– Nghe Hoàng Tử Lang Liêu kể lại sự truyền dạy của Vương Mẫu Nương Nương, cũng chính là Phụng Cơ Quốc Tổ Mẫu. Cũng như lý giải những ý nghĩa sâu xa của hai loại Bánh Chưng, Bánh Dày. Các quan nghe say sưa, Vua Hùng thời càng thấm thía gật đầu lia lịa đúng là Quốc Tổ Mẫu dạy rồi chỉ có đôi Bánh Chưng, Bánh Dày mà mang triết lý cả trời đất, vạn vật, cũng như con người, cái triết lý bao trùm cả Đời lẫn Đạo không ai có thể nghĩ ra đạt đến cảnh giới như vậy, đúng là Quốc Tổ Mẫu hiện về dạy rồi. Đây cũng là Ý Trời.

– Vua Hùng nói rằng Bánh Chưng Bánh Dày không những ngon, cái quý của bánh chưng bánh dày mang nhiều ý nghĩa đặc biệt, không làm mất đi nền Văn Minh lúa nước, còn bày tỏ lòng tôn kính đối với Trời Đất. Cũng như công Cha nghĩa Mẹ đùm bọc nuôi nấng các con. Tình hòa thuận đoàn kết anh em, mặn nồng cay đắng có nhau, Trắng tinh bảo bọc Mẫu Hoàng, xanh non xanh nước Phụ Hoàng chở che. Bò, Heo, Gà, Vịt chăn nuôi. Ngô, khoai nếp đậu càng thêm sang giàu. Hai loại bánh nầy không thể xem thường, của ngon vật quý Đất, Trời ban cho.

– Hoàng Tử thứ 18 Lang Liêu thắng cuộc được truyền ngôi.

– Vua Hùng truyền dạy khắp chúng dân, hàng năm cứ đến đầu xuân, theo niên lịch Đại Nam Văn Lang trở thành ngày hội tết nền Văn Minh Lúa Nước. Làm Bánh Chưng, Bánh Dày cúng Tổ Tiên Trời, Đất. Hoàng Tử Lang Liêu trở thành Hùng Vương thứ bảy Hạ Hùng Vương thay Cha là Hùng Huy Vương trị vì thiên hạ.

– Kể từ đó tục làm Bánh Chưng Bánh Dày đã trở thành tục lệ trong dịp tết nguyên đán để cúng Ông Bà, Cha Mẹ, Tổ Tiên, Trời, Đất.
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
108. MÀI ĐAO TRÊN ĐÁ

Ngày xửa ngày xưa vào thời Thượng Hùng Vương, truyền ngôi đến đời Hùng Thục Lang, đời Hùng Vương thứ mười tám.

Khi ấy ở phương bắc Nhà Thương, Vua Thành Thang nối truyền đến đời thứ mười ba Tổ Dân Thiên Tử. Có mộng xâm lấn nước Văn Lang, luôn cho người theo dõi nước Văn Lang.

– Lúc bây giờ nước Văn Lang vẫn còn hùng mạnh thái bình an lạc no cơm ấm áo. Tại làng Tân Khánh, Xã Đồng Văn, Huyện An Trạch, Tây Trung Châu.

– Có chàng thanh niên mồ côi tên là A Mẫn không còn cha mẹ xin đi ở đợ cho một nhà giàu. Nhưng ông chủ từ chối A Mẫn buồn quá lang thang khắp núi rừng, đào củ mài để mà ăn, tối ngủ trong hang đá cho đến một hôm, trời hừng hừng sáng cây cỏ núi đồi vẫn còn chìm trong sương mù, nhưng chim đã kêu, vượn đã hú như chào mừng một ngày mới, mở màn cho cuộc sống tiếp nối hết ngày nầy sang ngày kia.

– A Mẫn trên đường trở lại thôn làng sau đó tìm kiếm việc làm trên Thị Trấn, vì ở trên rừng vừa buồn vừa hiu quạnh suốt ngày chỉ làm bạn với chim, trái rừng và suối chảy. A Mẫn vừa đi vừa suy nghĩ cầu gặp sự may mắn đến với mình, đang đi trên đường A Mẫn nhìn thấy một cụ già ăn mặc rách rưới, cụ run rẩy đi không nổi liền chạy nhanh tới nói, để con cõng cụ đi, nhà cụ ở đâu sao chẳng có con cháu nào theo, để cụ đi một mình như thế nầy, tuổi già như trái mít chín trên cây dễ rụng lắm.

Cụ già nghe A Mẫn nói thế càng thêm run rẩy.

A Mẫn nói

Cụ có sao không?

Cụ già chỉ lắc đầu mà không đáp

A Mẫn hỏi tiếp

Cụ đi tìm ai lặn lội cực khổ thế nầy

Ông cụ trả lời thân một mình chẳng còn ai là người thân. A Mẫn nghe xong thương cụ vô cùng, hoàn cảnh giống như mình chẳng còn ai.

Bỗng nghe cụ la đói, đói quá đi thôi, đói quá đi thôi, tay xoa bụng miệng thời lẩm bẩm, đói quá trời ơi đói quá.

– Nhìn dáng đói run run của cụ A Mẫn động lòng liền lấy trong mình ra củ mài, không dám ăn để dành trên đường đi tìm công việc lúc đói quá mới dám ăn. A Mẫn cầm củ mài nướng từ sớm khi mặt trời chưa lên, dâng hai tay đưa cho cụ nói, cụ ăn đi.

– Cụ già đưa tay cầm lấy ăn ngấu nghiến, nhìn cụ ăn ngấu nghiến, bụng A Mẫn cũng đã sôi lên vì đói.

A Mẫn nhìn cụ rồi hỏi

Cụ có nhà không?

Ông cụ vừa trả lời vừa tiếp tục ăn, cụ nói cụ không có nhà chỉ đi lang thang, ai cho gì ăn nấy.

A Mẫn nói cháu cũng chẳng còn ai, thôi thì cụ theo cháu, cháu có gì thời cụ ăn nấy.

Ông cụ nói một mình cháu đã khó sống, làm sao nuôi thêm một người như cụ, chỉ biết ăn mà chẳng làm ra tích sự gì.

– A Mẫn nói cháu sẽ xin việc làm cụ đừng lo, thế là A Mẫn đi đâu dắt theo Ông cụ đi đó, xin được gì A Mẫn đều dành cho cụ ăn trước, còn mình thời ăn sau, nếu cụ ăn hết thời nhịn đói vậy.

– Thời gian trôi qua được hơn tháng A Mẫn vẫn chưa tìm ra được việc làm. Một hôm Ông Cụ nhìn A Mẫn rồi nói tấm lòng thương người của con đã động đến lòng Trời. Cụ có hai vật báu cụ sẽ cho con. Ông cụ lấy trong người ra một thanh đao nhỏ, cụ hô lớn tức thời thanh đao lớn lên cụ mài vào phiến đá, tức thời tiếng mài đao vang dội núi rừng. Cụ lại móc trong người ra tấm lưới nhỏ. Cụ nói tấm lối nầy khi quăng xuống sông liền hô biến, tức thời tấm lới bung ra phủ khắp lòng sông kéo lên thời đầy tôm đầy cá. Cụ lại lấy trong người ra một chiếc hộp nhỏ. Cụ nói trong hộp nầy có ba viên Thần Châu Đơn. Cứ một tháng con uống một viên, uống hết ba viên, thời con hãy ra vùng biên giới nơi có giặc đóng quân, lấy đao ra mài trên núi, chừng nào thấy quân giặc rút lui, thời con tìm đến những dòng sông bên kia có quân giặc đồn trú, liền quần lưới xuống sông bắt cá. Khi nào thấy giặc bên kia đồn trú biến hết thời về Tây Trung Châu làm ăn sinh sống, phát rẫy, chài lưới giúp dân, mở mang thêm ruộng đồng rộng lớn. Ông cụ trao cho A Mẫn ba vật báu vài lượng bạc truyền cho nội công tâm pháp. Rồi biến mất.

– A Mẫn mới biết Ông Cụ là Thánh Tiên hiện ra thử lòng tốt của mình.

– A mẫn có bạc có tiền liền mua bộ quần áo mới, việc ăn tiêu vô cùng tiếc kiệm, không dám ăn thịt cá, chỉ ăn bát cơm với quả cà. A Mẫn tìm nơi vắng vẻ uống Thần Châu Đơn luyện nội công tâm pháp, được ba tháng Thần Đơn cũng không còn A Mẫn thấy người khỏe mạnh lạ lùng bằng nhổ thử một gốc cây bằng bắp chân như nhổ cây bắp. A Mẫn kinh ngạc vô cùng như không tin ở đôi mắt mình, bằng nhổ cây to lớn hơn nhẹ như không. A Mẫn đến lúc nầy mới tin mình có sức mạnh vô cùng.

– A Mẫn xuống thị trấn nghe người ta xì xào sắp có chiến tranh, vì quân giặc Nhà Thương đã kéo sát biên giới. Hùng Thục Lang đã chuẩn bị quân binh sẵn sàng chiến đấu. A Mẫn nhớ lại lời chỉ dạy của cụ Ông liền đến biên giới, đi mấy ngày đêm không hề ngủ nghỉ cuối cùng cũng đến được biên giới. A Mẫn nghe bên kia ngựa hí vang trời. A Mẫn liền leo lên một sừng đồi tìm vị trí thích hợp để cho quân giặc dễ nghe thấy. Bằng rút đao Thần ra ngồi mài trên phiến đá, tức thời tiếng mài Đao rung trời chuyển đất vang dội núi rừng.

– Tướng quân Thương tên là Vu Đà đang luyện tập quân binh, chờ lệnh đưa quân vào tấn công nước Văn Lang. Nghe tiếng mài Đao rung trời chuyển đất không hiểu là chuyện gì. Bằng cho quân binh đi thị sát xem chuyện gì đã xảy ra.

– Quân binh phi ngựa đến sườn đồi dọ thám nơi phát ra tiếng động dữ dội, thời thấy một người tiều phu trai trẻ đang mài đao trên đá, phát ra tiếng động ầm ầm. Rền trời rền đất thời vô cùng kinh hãi. Phi ngựa về báo lại cho chủ soái. Chủ soái tướng quân nhà thương là Hầu Đôn nghe quân binh báo như vậy thời kinh hãi nhưng chưa tin lắm bằng cùng tướng quân Vu Đà đến sườn đồi nơi phát ra tiếng động xem thử thiệt hư ra sao. Chủ Soái Hầu Đôn cùng tướng quân Vu Đà nhìn thấy một chàng trai trẻ đang mài đao tiếng mài đao vang động dậy núi rừng, thời khiếp vía kinh hồn. Nghĩ một người dân tầm thường mà cũng có Thần Thông như vậy. Ôi nước Văn Lang quả thật là nhân tài khắp nơi khắp chốn, không thể nào lường hết được, liền hạ trai rút lui binh, không còn chiếm đóng nơi biên giới nữa.

– A Mẫn thấy quân Thương đường bộ rút hết. Chỉ còn cánh quân binh đường thủy, do tướng soái Dương Phàm chỉ huy nơi khúc sông gần thượng nguồn thuyền bè qua lại lớp lớp. A Mẫn đến chỗ khúc sông ấy quăng lưới bắt cá, lưới chài vừa quăn ra bỗng to lớn phủ muốn hết cả lòng sông. A Mẫn niệm chú kéo lưới, tôm cá cả tấn chất đống trên bờ. Thuyền dọ thám quân Thương nhìn thấy kinh hồn bạt vía. Cá tôm bắt xong liền thả hết xuống sông.

– Tướng Soái chỉ huy thủy quân là Dương Phàm, nghe quân binh dọ thám về báo có người chài lưới tài giỏi như vậy liền kinh hãi, Dương Phàm chọn vài ba tướng lĩnh tài giỏi đi thuyền con đến xem thật hư. Khi chứng kiến tận mắt A Mẫn quăng lưới bắt cá, Dương Phàm tái mặt nói chỉ là người dân chài lưới bình thường, mà tài nghệ đến kinh hồn bạt vía như vậy thời làm sao xâm lược được nước Văn Lang. Bằng thu quân trở về đất bạc liền tâu lên Vua Thiên Tử Tổ Dân. Bản tấu trình nói nước Văn Lang nhân tài như nấm chỉ một người dân chài cũng đã làm khiếp hồn khiếp vía quân binh. Chỉ cần quăn mẻ lưới là phủ hết thuyền quân binh.

– Dương Phàm vừa tấu trình xong, thời có một vị tướng soái vào tấu trình là Hầu Đôn. Hầu Đôn tấu trình Thưa Bệ Hạ nước Văn Lang không thể suy lường, chỉ nội một người tiều phu khi mài đao thần lực phát ra rung chuyển đất trời. Làm cho quân binh kinh sợ. Nước Văn Lang quả là nhân tài như rừng khó mà xâm lược nỗi e bỏ mạng có đi mà không có về. Đưa quân xâm lược nước Văn Lang khác nào lùa dê vào miệng hổ.

– Vua Tổ Dân nghe hai vị nguyên soái tâu như vậy lấy làm khiếp hãi run sợ, từ đó không dám nói tới xâm lược nước Văn Lang nữa.

– Nói về A Mẫn thấy quân Thương rút lui không còn một tên binh lính, liền trở về quê hương Đồng Văn, An Trạch Tây Châu. Giúp dân phát rẫy khai hoang vỡ hóa đất đai thổ canh rộng lớn ngô bắp, lúa thóc đầy đồng. Tiếng tăm A Mẫn vang lừng.

– Nói về Hùng Thục Lang, biết được A Mẫn đẩy lui quân giặc, liền ban cho vàng, bạc, lụa là, châu báu mười xe. Phong cho chức tước làm Đại Nhân Tri Huyện An Trạch. Tây Trung Châu. Thế cho Đại Nhân Tri Huyện Phùng Lương tuổi già về hưu.

– Phùng Lương Đại Nhân Tri Huyện có người con gái xinh đẹp tên là Hạnh Châu gả cho A Mẫn.

– A Mẫn từ đó sống cuộc đời hạnh phúc bên người vợ xinh đẹp, hết lòng vì dân vì nước. Hạnh Châu sanh được sáu người con. Khi mãn kiếp trần gian hai vợ chồng A Mẫn siêu sanh về Non Tiên, Cực Lạc.
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
109. THIÊN ẤN

Ở vào thời Hồng Hoang, khi tuổi thọ con người tăng lên tám mươi tuổi, thọ một trăm tuổi, yểu sáu mươi tuổi là thời kỳ Ma, Quỉ hưng thịnh, có nhiều làng Ma làng Quỉ khắp mọi nơi. Ma, Quỉ đánh nhau nổi giông nổi gió, khắp mặt địa cầu không chỗ nào yên.

– Khi ấy nơi Làng Phù Sa dân chúng phải nói là rất đông, đông hơn cả một xã, hàng năm đủ loại cúng nào là cúng Thần, cúng Ma, cúng Quỉ, cho đến cúng yêu tinh quỉ dữ, ở mới yên. Bằng không thời chúng quấy phá, không những chúng bắt hết gà, vịt, trâu, bò, dê, heo, ngựa, mà còn nhập hồn vào xác người, làm cho con người điên loạn, vì thế mà con người vô cùng lo sợ.

– Khi ấy có một gia đình lập bàn thờ, thờ Trời đó là gia đình Ông Bà Tân Gia Bá. Ông Bà Tân Gia Bá sanh được một người con trai tên là Gia Khá, gia đình Gia khá nghèo vốn bửa đói bửa no, ở vào thời điểm ấy thời tiết khắc nghiệt nắng hạn suốt ba năm, không trồng được ngô, khoai, lúa, nói chung là không khô hạn không trồng được ngũ cốc nên đói cả làng. Nhà Gia Khá vốn đã nghèo lại hạn suốt ba năm không lấy đâu ra hạt thóc hạt ngô để mà ăn. Tuy mới mười tuổi nhưng Khá cũng theo cha vào rừng hái lượm, hoa quả, đào củ mài, đem về nhà cho cả gia đình ăn.

– Dân chúng Làng Phù Sa do hạn hán kéo dài không trồng gì được, đồng khô cỏ cháy bửa đói bửa no, trâu, bò, heo, dê, gà, vịt cũng chết theo, nếu con nào còn sống cũng ốm tong ốm teo lấy đâu ra mà cúng. Ma, Quỉ thường làm mưa làm gió nhưng cơ trời hạn hán chúng cũng đành bó tay không làm mưa làm gió gì được. Cũng phải đành đói lây vì dân chúng không còn gì để cúng.

– Ma thời ít quậy phá, nhưng Quỉ thời lại khác quấy phá dân lành không lúc nào yên, dân làng chỉ biết khóc than đâu có cách gì khác.

– Một hôm có bầy yêu tinh từ Ngạo Lai kéo đến nói với dân Làng nếu Yêu Tinh tôi làm cho mưa thời dân làng phải dâng nạp người sống để cúng. Nhưng người đó phải sanh vào giờ Dậu tháng Dậu, năm Dậu, chỉ mười tuổi trở lại không quá mười hai, cùng một con heo, con bò, con dê, con gà, con vịt đủ những lễ vật ấy thời dân Làng không lo chi nước.

Dân Làng bị hạn ba năm thiếu nước uống có người đã bỏ mạng nói chi đến chuyện canh tác trồng hoa màu. Lũ Yêu Tinh nói Trời còn hạn thêm một năm nữa. Dân làng nghe xong kinh hoảng nếu hạn thêm một năm nữa chết hết cả Làng. Bằng ưng thuận theo lời của Yêu Tinh.

– Lũ Yêu Tinh về tâu với chúa Yêu Tinh loài người đã chấp nhận lời của Yêu Tinh Ta. Chúa Yêu Tinh nói Ta chỉ uống máu ăn thịt người sanh vào giờ Dậu, tháng Dậu, năm Dậu, để tu luyện pháp thuật thần thông, còn các ngươi thời nhận lấy phẩm vật heo, bò, dê, gà, vịt mà thưởng thức. Lũ Yêu Tinh mừng rỡ reo hò.

– Chúa Yêu Tinh liền bay đến Làng Phù Sa, hô mây gọi gió, tức thời mây đen phủ kín mịt trời, cuồng phong, sấm sét nổi lên ầm ầm sau đó là trận mưa như trút ngập đồng ngập sá. Dân chúng mừng quá nhưng cũng rất đau lòng, vì phải nạp mạng cho Yêu Tinh một người.

– Dân chúng tìm người có tuổi Dậu sanh vào tháng Dậu, năm Dậu tìm mãi phát hiện ra chính là con Ông Bà Tân Gia Bá, cậu con trai tên Gia Khá phải nạp mạng cho Yêu Tinh.

– Đúng vào giờ dậu tối mai Gia Khá sẽ không còn trên đời vào bụng con Chúa Quỷ Yêu Tinh, mấy tháng nay người trong làng đói, khác chết cũng khá đông, đối với cái chết thời không gì đáng nói nếu hạn thêm năm nữa thời cả làng chết hết, nhưng cái chết nạp mạng cho yêu tinh ăn thịt thời đau đớn thê thảm vô cùng. Đêm hôm ấy Bà Tần Gia Bá thắp hương cầu Trời lạy sáng đêm không ngủ. Khấn nguyện rằng con chỉ có một đứa con duy nhất sắp bị Chúa Quỷ Yêu Tinh ăn thịt coi như nhà Họ Tân Gia Bá đi vào tuyệt tự. Gia đình con thờ Trời gần ba mươi năm. Xin Trời gia hộ cứu giúp.

– Nói về Gia Khá sợ Yêu Tinh ăn thịt quỳ lạy theo mẹ khóc lóc sáng đêm Gia Khá mệt quá ngủ đi lúc nào không biết. Trong lúc mơ màng Khá thấy một người uy nghi hào quang rực rỡ. Nói rằng công lao thờ Trời của Cha Mẹ con gần ba mươi năm nên Ta không thể để cho gia đình tuyệt tự. Ta vân lệnh Đức Chí Tôn Thiên Đế xuống trần cứu giúp con, con đưa bàn tay đây cho Ta. Ta vẽ Thiên Ấn vào lòng bàn tay con Ma, Quỉ, Yêu Tinh nhìn thấy Thiên Ấn liền tan biến hết. Chúng sợ hãi và không bao giờ đến Làng nầy nữa.

– Con vẫn để cho dân Làng đem con dâng cúng cho yêu tin. Sau nầy dân chúng Làng Phù Sa sẽ đi theo con hết. Con trở thành chúa Làng Vua một vùng rộng lớn. Cơ Trời niên hạn kéo dài nắng hạn đã hết mưa thuận gió hòa dân chúng sẽ sống trong yên bình no cơm ấm áo. Nói xong vị Thần phất tay một cái tức thời hai lòng bàn tay của Khá có hình quả tim, trong quả tim có hình thập giá. Có năm nút từ trên xuống dưới. Nút thứ năm có nền vuông, tròn.

– Chỉ một mình Gia Khá nhìn thấy không ai có thể nhìn thấy, Gia Khá nhìn thấy Thiên Ấn trong lòng hai bàn tay thời không còn lo sợ khóc lóc nữa mà tươi cười vui vẻ. Ông Bà Tân Gia Bá lấy làm lạ, cả xóm cũng kinh ngạc không kém. Không lẽ Gia Khá không sợ Yêu Tinh ăn thịt sao mới đây khóc lóc cả đêm lẫn ngày.

– Ánh nắng chiều dần dần lịm tắt hoàng hôn buông xuống màn đêm bao phủ khắp đất trời, nơi đâu cũng thấy một màu đen, chớp mắt giờ Dậu cũng sắp đến. Những ngọn đuốc sáng bừng soi bóng Khá đang ngồi cúi mặt ai nhìn thấy cũng đứt ruột có người không cầm được giọt nước mắt, xung quanh Khá nào là bò, heo, dê, gà, vịt đã quay chín bốc mùi thơm phức mùi gia vị. Ai nhìn thấy không thèm mới lạ.

Dân chúng không ai dám thò đầu ra để nhìn. Vì sợ Yêu Tinh bắt mất, giờ Dậu đã tới, trên bầu trời mây đen cuồn cuộn, một trận gió nổi lên làm cho đèn đuốc tắt ngúm bóng Yêu Tinh chập chờn. Trên không chúa Yêu Tinh bay xuống nhìn vào con mồi lè lưỡi liếm mép, nanh vuốt dài thoàng thấy mà ghê. Hai con mắt như hai ngọn đèn pha Chúa Yêu Tinh dơ tay chụp bắt Gia Khá. Gia Khá lấy hết can đảm sè hai lòng bàn tay về Chúa Quỷ Yêu Tinh tức thời hai đạo hào quang từ Thiên Ấn phóng ra vang lên những tiếng sấm Chúa Yêu Tinh sợ quá biến mất lũ yêu tinh vừa nhìn thấy Thiên Ấn thời đau nhức như kim đâm vô cùng kinh hãi chịu không nổi bỏ chạy biến mất.

– Khá lấy làm khoái chí, bụng lại đói cồn cào nghe mùi thịt nướng từ xưa tới nay mấy khi được ăn. Nhìn bê quay, heo quay, dê quay, gà, vịt quay, vẫn còn bốc hơi Khá không bỏ lỡ cơ hội ăn một ruột. Nào thịt bò, thịt heo, thịt dê, thịt gà, thịt vịt no nê. Khá đánh một giấc cho tới sáng.

Chừng nghe tiếng ồn ào Khá mở mắt ra thấy Cha Mẹ bà con lối xóm vây quanh nhìn Khá chăm chăm. Khá bật ngồi dậy Ông Bà Tân Gia Bá mừng quá thì ra con chưa chết. Bà con Làng xóm ngơ ngác không hiểu chuyện gì đã xảy ra.

Khá nói bà con hãy yên tâm lũ yêu tinh không dám đến đây nữa đâu. Từ đây về sau mưa thuận gió hòa. Không còn sợ nắng hạn nữa. Khá dơ hai bàn tay ra nói bà con Làng xóm có thấy gì không. Trong lòng bàn tay có Thiên Ấn đấy. Không những Yêu Tinh mà Ma Quỉ nhìn thấy cũng bỏ chạy. Nhưng nào ai có thấy Thiên Ấn gì đâu chỉ thấy hai lòng bàn tay không của Gia Khá. Dân Làng chỉ biết Yêu Tinh Quỷ Dữ không ăn thịt được Khá mà còn bỏ chạy. Cho Khá là con Trời nên Quỷ, Ma, Yêu Tinh mới không ăn thịt được. Liền suy tôn Khá lên làm chúa Làng.

– Khá ra lệnh cho dân chúng chia phần bê quay, heo quay, dê quay, gà quay, vịt quay cho mỗi gia đình. Khá họa Thiên Ấn treo trước cổng Làng từ đó cả Quỉ lẫn Ma cũng như Yêu Tinh không dám tới quấy phá dân làng nữa. Làng Phù Sa yên ổn bình yên no cơm ấm áo dân số phát triển rất nhanh, các Làng xa gần theo về sau nầy trở thành Bộ Lạc Da Ba hùng mạnh.
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
110. SỰ TÍCH THÀNH CỔ LOA

Nói về thời xa xưa Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc, trong đó có nước Việt Trung Nguyên.

Nước Việt Trung Nguyên chính là Bắc Văn Lang, cha con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy, đến đời Việt Vương Câu Tiễn, thời nước Việt Trung Nguyên đã quy thuận Nhà Chu. Ở vào thời Chu Nguyên Vương. Đến cuối đời Việt Vương Câu Tiễn thời nước Việt Trung Nguyên mất về tay Tần Thủy Hoàng.

– Ở thời Việt Vương Câu Tiễn quân binh phần lớn nằm trong tay họ Triệu. Nước Việt Trung Nguyên mất về tay quân Tần. Tàn dư quân Việt Trung Nguyên chạy vào Trung Văn Lang chiếm lĩnh một vùng rộng lớn, vùng Đông Hải, Quân Triệu Đà. Còn các cánh quân họ Triệu khác thất bại chạy tản lạc khắp nơi.

– Các cánh quân họ Triệu chạy tản lạc khắp nơi, khi biết Triệu Đà đã có đất dụng võ chiếm lĩnh Đông Nam Hải Trung Văn Lang, liền kéo đến gia nhập với quân Triệu Đà. Quân Triệu Đà vì thế lớn mạnh như thổi không bao lâu lên đến hơn mười vạn quân. Dân Chúng vùng Nam Hải cũng như các vùng khác ở Trung Văn Lang theo về rất đông quân Triệu vì thế trở nên hùng mạnh, có hơn mười lăm vạn quân.

– Khi ấy con cháu Tây Thục Vương, là Thục Phán ở phía Tây Nam, Văn Lang nổi danh như cồn vì có Cao Lỗ theo trợ giúp. Và nhiều tướng tài khác như Dương Sàn, Tây Lương, Dương Lương. Cao Lỗ là nhà khoa học, nhà binh pháp kỳ tài. Lại hiểu rõ cách luyện thép tốt nhất chế tạo mũi tên bắn xuyên thủng áo giáp đồng mũ đồng.

– Thục Phán là con cháu nhiều đời của Tây Thục Vương. Tây Thục Vương đã từng đánh bại quân Ân xâm lược lần thứ nhất thời Hùng Tiên Lang. Mẹ Thục Phán là Công Chúa Mị Hoa con của Hùng Nghị Vương anh em với Hùng Duệ Vương. Thục Phán kêu Hùng Duệ Vương bằng cậu.

– Thục Phán họ An rất thông minh cơ trí hơn người thạo nghề cung, nỏ. Có thể đứng xa một trăm mét bắn trúng vào hồng tâm năm 26 tuổi Thục Phán trở thành một vị Tây Vương.

– Có lẽ niên đại Hùng Vương sắp kết thúc, nên đến đời Hùng Duệ Vương luôn ở trên đà suy vong. Năm giáp thìn 257 trước công nguyên nước Văn Lang chỉ còn lại Nam Văn Lang là nằm trong vòng kiểm soát của Hùng Duệ Vương. Nam Văn Lang liên tiếp xảy ra mất mùa dân chúng khốn khổ đói kém, giặc đói, giặc cướp, giặc nội loạn thường nổi lên. Nhất là nạn quan liêu, nạn tham nhũng, giặc ngoại xâm tìm trăm phương nghìn kế thôn tính Nam Văn Lang. Dân chúng khổ chồng lên khổ, họa chồng lên họa, trăm họ lầm than mệt mỏi mong cầu có sự thay đổi.

– Hùng Duệ Vương không có con trai nối dõi luôn buồn phiền lấy rượu ca múa hát thay thế, thường lơ là việc triều chính, các quan thi nhau mà vơ mà vét khiến lòng dân bất mãn vô cùng.

– Thục Phán khi ấy ra sức chống giặc Tần. Giặc Triệu từng ngày xâm lấn đất đai. Công khổ nhọc biết bao, nhiều tướng tài bỏ mạng nơi sa trường.

– Bỗng một hôm Thục Phán nghe Hùng Duệ Vương nhường ngôi cho cho con rể là Tản Viên Sơn Thánh, thời hét lớn. Ta là con cháu trong nhà, biết bao công lao cực khổ giữ gìn tất đất của Ông Cha. Không nhường ngôi cho Ta, mà lại nhường ngôi cho người ngoài. Ta phải giành lấy không thể để mất vào tay người khác.

– Trước tình hình như vậy các tướng lĩnh đều hợp lại nói với Thục Phán.

Bẩm Thục Vương hãy kéo quân vào kinh đô Văn Lang ép Vua Hùng nhường ngôi. Hùng Duệ Vương thấy quân binh Thục Vương kéo về cung thành đông như kiến lấy làm kinh hãi, bằng cho người mời Sơn Tinh đến nói. Ta sẽ nhường ngôi cho con, con hãy hóa phép đánh tan quân Thục Phán.

– Sơn Tinh thấu rõ cơ Trời bằng tâu rằng. Con đủ sức đánh tan quân binh Thục Phán. Nhưng Ý Trời không cho làm thế đành phải thuận theo Ý Trời.

– Hùng Duệ Vương nghe Tản Viên Sơn Thánh nói thế, bằng nói như vậy Cha phải nhường ngôi cho Thục Phán.

Sơn Tinh nói muôn tâu Phụ Hoàng đúng như vậy. Dù cho Phụ Hoàng triệu hết quân đóng phía Nam Văn Lang, quân đóng phía Đông Nam Văn lang lên đến 20 vạn quân cũng không đánh lại quân Thục Phán đâu. Vì Thục Phán đã ngấm ngầm chế tạo mũi tên thép, bắn xuyên thủng áo giáp đồng, mũ đồng. Trở thành những nỏ Thần vô cùng lợi hại.

– Hơn nữa khi xảy ra chiến tranh, nhất là anh em tương tàn, nồi da xáo thịt. Không bên nào có lợi sự hi sinh chết chóc vô ích. Lưỡng hổ tranh nhau thợ săn đắp lợi. Quân Triệu đang rình rập, quân Tần trăm mưu nghìn kế nuốt trọn đất nước Văn Lang. Chi bằng nhường ngôi cho Thục Phán là thuận theo ý Trời.

– Hùng Duệ Vương không còn con đường nào khác, mở cổng thành đón quân Thục Phán, rồi nhường ngôi cho Thục Phán. Thục Phán quá bất ngờ trước sự thay đổi ý định của Hùng Duệ Vương, không nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh mà nhường ngôi cho mình.

– Thục Phán chính thức lên ngôi báu, chuyển đổi niên đại Hùng Vương thành niên hiệu An Dương Vương, đặt tên nước là Âu Lạc.

– Cùng vào thời gian ấy quân Tần đã gồm thâu lục quốc Việt Trung Nguyên đã thuộc về nhà Tần, với tham vọng chiếm trọn nước Văn Lang.

– Năm 218 trước công nguyên Vua Tần sai tướng Đồ Thư thống lãnh 50 vạn quân đánh tiến vào Trung Văn Lang ồ ạt thế mạnh như chẻ tre. Quân Tần giáp trụ đầy mình, nón đồng phủ kín, nào kị binh, bộ binh, chiến xa, trang bị ná phóng đá, xe chống tên vô cùng lợi hại. Chia ra làm hai đạo quân, một đạo quân tiến đánh Triệu Đà đang ở Nam Hải. Đạo Quân chủ lực do Thống Soái Đồ Thư trực tiếp chỉ huy thống lãnh 30 vạn quân tiến đánh Nam Văn Lang.

– Trước thế giặc hung hãn An Dương Vương ra lệnh cho Dương Sàn cùng Tây Lương, bình tỉnh vừa đánh vừa chủ động vừa rút lui. Dân chúng ở mọi Châu mọi vùng miền tạm thời duy cư sâu vào Nam Văn Lang, theo kế sách (Vườn không nhà trống)

– Giặc Tần đi đến đâu cũng không thấy dân, nên không cướp bóc được gì, chờ cho quân Tần chia ra nhiều nhánh tiến sâu vào các châu quận địa phận Nam Văn Lang. Thống soái Dương Sàn, cùng phó thống soái Tây Lương, cho quân Văn Lang mai phục những nơi địa hình hiểm trở nơi sông suối, đèo, dốc mai phục, bất ngờ tấn công quân Tần. Đại quân di chuyển nhanh chóng, nhất là đội quân cung nỏ, phóng lao tinh nhuệ, cũng như áp dụng chiến thuật bắn tỉa, dồn quân Tần vào nơi phục kích, dùng nỏ tên hạ gục chúng.

– Với chiến thuật trên kéo dài trận chiến, dưới dồn ép quân Tần vào chỗ hiểm nghèo quân Tần chết vô số kể, lại không cướp bóc được gì của dân. Đứng trước nguy cơ thiếu lương thực. Quân Tần không làm chi được, tiến đánh không xong mà lùi cũng bị kẹt, tình thế vô cùng bất lợi, càng kéo dài càng nguy, hơn nữa quân dân Bách Việt tinh thần yêu nước quật khởi rất cao. Có thể nói là không sao quân Tần đánh bại được.

– 211 trước công nguyên Tướng Đồ Thư quyết định rút lui về Việt Trung Nguyên, không tiến đánh Nam Văn Lang nữa. Quân Tần rút lui vừa tới nơi hiểm trở. An Dương Vương trực tiếp thống lãnh đại quân xạ thủ đuổi theo truy kích, quân Tần quay lại chống trả. Quân Âu Lạc nhiều ngã kéo tới xáp chiến. Quân Tần bị động, lại thêm thiếu lương thực nhiều ngày đã mệt mỏi, tinh thần chiến đấu không còn cao. Quân Âu Lạc thời khí thế dâng trào. Những mũi tên thép bắn ra từ quân Âu Lạc. Xuyên thủng giáp thủng nón đồng quân Tần chết như rạ. Tướng giặc Đồ Thư chỉ huy la hét. An Dương Vương liền bắn một phát tên thép xé gió vút nhanh cắm thẳng vào cổ tướng giặc Đồ Thư. Thống soái Đồ Thư tướng giặc ngã nhào. An Dương Vương nhanh như con mèo phi ngựa lao tới vớt cho một đao, tướng Đồ Thư đầu lìa khỏi cổ.

– Đại quân binh mã nhà Tần như rắn mất đầu khiếp kinh hốt hoảng tháo chạy dẫm đạp lên nhau lớp chết lớp bị thương vô số những quân binh sống sót chạy về Việt Trung Nguyên Bắc Văn Lang hú hồn hú vía.

– Sau lễ ăn mừng đánh đuổi quân Tần. An Dương Vương chọn đất Phong Khê (nay là vùng Cổ Loa) lập kinh đô. Phòng thủ trước âm mưu xâm lược từ phương bắc.

– Khu vực chọn để đắp thành là một quả đồi Rắn. Quân binh cùng dân chúng ra sức hì hục đắp lũy đào hào hết ngày nọ sang ngày kia. Thành rộng hơn nghìn trượng, gồm lớp tường thành quây tròn lại với nhau giống hình trôn ốc. Dân quen gọi là loa thành. Việc xây dựng An Dương Vương ủy quyền cho vị tướng thân tín là Cao Lỗ. Vị Tướng học rộng hiểu nhiều, lại lắm biệt tài không ai sánh kịp toàn quyền xây dựng.

– Kiến trúc thành cổ loa vô cùng phức tạp xen giữa khu chung cư là lũy hào chiến đấu. Nền móng của tòa thành vừa có nước vừa có thành, lũy. Nên việc đào, đắp vô cùng công phu. Với sức người sỏi đá cũng thành cơm, việc khó khăn chi cũng làm nổi. Tòa thành cao lần, hào càng sâu thẳm. An Dương Vương cùng các quan đến xem lấy làm hài lòng. Cho rằng một tòa thành có thể đứng vững muôn đời, không ai có thể làm cho nó sụp đổ được, mưa bão sấm sét không lay chuyển, quân giặc cũng không thể nào phá nổi.

– Nhưng ai ngờ sau một đêm, cả tường thành quanh co đều sụp đổ xuống như đất bằng. An Dương Vương đến xem vô cùng tức giận. Cho người dò hỏi chúng dân gần đó cũng như quân dân đắp lũy xây thành kể lại rằng ban đêm họ nghe thấy những bước chân rầm rập có thể nói là rất đông khắp các ngã kéo đến, với những tiếng xì xào. Quân dân sợ quá nên không dám ra nhìn, chỉ nghe những tiếng đổ ầm ầm như sấm dậy.

– An Dương Vương sai các tướng lĩnh đốc thúc quân dân đắp lại, nhưng hổi ôi xây lên rồi lại đổ xuống chỉ trong vòng một đêm. An Dương Vương lại sai người dọ hỏi, thời dân chúng vẫn kể y như những lời kể trước, ban đêm họ nghe thấy rầm rầm như thiên binh vạn mã đi qua, rồi lại nghe những tiếng huỳnh huỵch ầm ầm đùng đùng như sấm dậy.

– Dân chúng nói đã lâu rồi, ở núi Thất Diệu có con Ma Quỷ hiện con gà trắng đêm đêm hiện về phá quấy phá cuộc sống an lành dân chúng, nhất là gần đây quấy phá dân quân đắp thành. Những người có trách nhiệm trong công cuộc xây thành nghe dân địa phương nói thế thời lấy làm chán nản sợ hãi.

– An Dương Vương không nản lòng, Vua động viên ba quân tướng sĩ cũng như những người có trách nhiệm đôn đốc xây thành nhất tâm không bỏ cuộc, nhất là động viên Cao Lỗ tiếp tục công trình. An Dương Vương nói với quân binh cùng dân chúng "sống chết có số ma quỷ làm gì nổi chúng ta"

– An Dương Lập đàn cầu Trời phù hộ đắp cho được loa thành. Cao Lỗ nói hãy cầu Thần Kim Quy sẽ có cách chỉ cho Bệ Hạ xây thành. An Dương Vương theo lời Cao Lỗ vừa cầu Trời vừa cầu Thần Kim Quy. Quả đúng như lời Cao Lỗ nói Thần Kim Quy xuất hiện chắp tay bái lạy An

Dương Vương rồi nói. Thần là Thần Kim Quy, ở vào thời dựng nước. Thần được Cao Tổ cứu sống nên nhớ mãi ơn người, nay có Cao Lỗ con cháu nhiều đời của Cao Tổ mách bảo Bệ Hạ cầu Thần, Thần liền xuất hiện.

– Tâu Bệ Hạ ở núi Thất Diệu có một con Gà Trắng to lớn Hồn của con Gà Trắng chính là Hồn Hồ Tinh có phép biến hóa khôn lường, nó thường hảm hại dân lành nhất là những cô gái đẹp, cũng như những khách trọ trong vùng nầy.

– Ở vào thời dựng nước Bách Việt Văn Lang giết chết không biết bao nhiêu là yêu tinh quỷ dữ trong đó có họ nhà Hồ Tinh. Đến thời Hậu Hùng Vương thời Hùng Vân Lang yêu tinh lại nổi lên quấy phá, bị quân dân Bách Việt tiêu diệt chôn lấp dưới núi Thất Diệu có đến hàng vạn, những u hồn yêu tinh quỷ quái đến nay vẫn chưa tan. Lẩn khuất trong khe đá, ở hang sâu có cơ hội là phục thù.

– Con Gà Trắng sống ở núi Thất Diệu vì có chơn dương rất cao nên bị Hồ Tinh cướp xác tu luyện thành Tinh, có pháp thuật thần thông biến hóa khôn lường, tụ tập những linh hồn tiểu yêu tiểu quỷ. Chúng có mối thù truyền kiếp với Bách Việt Văn Lang nay là Bách Việt Âu Lạc.

– Chính con Gà Trắng nầy điều động những u hồn đến chân thành xúm nhau phá đổ tường thành gần sáng lại kéo về núi. Nếu không có cách thời không dễ gì tiêu diệt được chúng. Hồ Tinh Gà Trắng vốn thích gái. Thường hiện ra chàng trai, đến nhà lão chủ quán, ân ái với con gái lão chủ quán gần chân núi Thất Diệu.

– Bệ Hạ muốn xây được thành thời phải trừ khử cho được con Gà Trắng, và giết đứa con gái của lão chủ quán kia đi. Con gái của lão chủ quán chính là Hồ Tinh Cái đầu thai. Thần Kim Quy tấu trình xong thời biến mất.

– Nghe theo lời Thần Kim Quy mách bảo An Dương Vương liền sai vài viên tướng có võ công cao cường, dẫn quân vào rừng mai phục. Những mũi tên tẩm máu chó mực. An Dương Vương cùng hai vị tướng có tài trừ yêu diệt quỷ cải trang làm khách bộ hành, đến quán xin ngủ trọ qua đêm viện cớ là trời sắp tối. Chủ quán từ chối lấy cớ nói là trong núi có nhiều yêu quái hay làm hại khách trọ.

– An Dương Vương cùng hai vị tướng nói to nói nhỏ năn nỉ chủ quán, cũng như trả vàng bạc với giá cao, cuối cùng chủ quán đành phải chiều theo ba vị khách lạ.

– Đêm đến An Dương cùng hai vị tướng nghe thấy bước chân rầm rập mỗi lúc một rộn ràng. Một con Gà Trắng to lớn xuất hiện hóa ra chàng trai lao nhanh vào buồn người con gái ông chủ quán. Theo lời dặn của Thần Kim Quy trời hừng sáng mới ra tay.

– An Dương cùng hai vị tướng vẫn chờ đợi tiếng gà đã gáy, không bao lâu nơi phương đông hừng sáng. Liền thấy một con Gà Trắng từ trong phòng con gái ông chủ quán đi ra, có lẽ suốt đêm thỏa giấc vu sơn chàng trai đã hiện nguyên hình là con Gà Trắng, thần thông pháp thuật đã giảm sút. Đây chính là cơ hội để giết chết con Gà Trắng.

– Không thể bỏ lỡ cơ hội An Dương Vương liền bắn một phát tên trúng ngay vào con Gà. Con Gà không chết kêu quát quát cất cánh bay lên, hai vị tướng liền phối hợp nhau nhanh như chớp phi tới chém mỗi người mỗi đao giết chết con Gà Trắng. Con Gà Trắng vừa chết thời người con gái ông chủ quán cũng lăn đùng ra chết. Hóa thành con chim lớn từ trong phòng bay ra. An Dương Vương liền bắn một phát con chim trúng tên chết ngay lập tức.

– An Dương Vương ra lệnh cho quân binh đuổi theo đám u hồn yêu tinh mà bắn. Cứ một loạt tên bay đi, liền nghe thấy tiếng Ma kêu Quỷ khóc vô cùng rùng rợn. Tiếng thét hãi hùng mỗi lúc một thưa dần.

– Đến khi mặt trời mọc thời yêu khí tan biến hết, quân binh theo lệnh của An Dương Vương đào được rất nhiều hài cốt bỏ vào từng đống, chất thành đống cao, đốt đi rồi đổ tro xuống suối, không cho u hồn trụ bám tan biến hết.

– Yêu Ma đã trừ xong An Dương Vương ra lệnh cho quân, dân, cùng binh lính xây lại thành. Dưới sự chỉ huy của Cao Lỗ dùng những tảng đá lớn chèn vào chân thành. Lũy Thành xây đến đâu, hệ thống sông đào đến đó. Tạo thành vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ Thủy Binh, Bộ Binh, Kỵ Binh, hùng mạnh. Cuối cùng thành Cổ Loa cũng xây xong. Vua, Vương, Quan, nhân dân vui mừng khôn xiết thành Cổ Loa rộng tới nghìn trượng, Tường thành vừa dày vừa cao, sông hào vừa sâu vừa rộng. Xoáy tròn như hình trôn ốc nên gọi là Loa Thành.

– Thành Cổ Loa là một công trình Văn Hóa vào loại phi thường nhất trong lịch sử Văn Minh nhân loại vào thời cổ đại của người Việt.

– Thành Cổ Loa có chín vòng, chu vi vòng ngoài cùng 8km2 vòng giữa 6, 5 km2. Vòng trong cùng 1, 6 km2 Diện tích trung tâm thành lên tới 2km2 lũy cao 4, 5 m, có chỗ cao đến 8m đến 12 m. Mặt lũy rộng đến 6- 12 m chân lũy tường thành rộng đến 20- đến 30 m. Đây là một duy chứng, di tích lịch sử quý báu nhất. Nhiều lớp tường cổ vẫn còn.

– Nói về An Dương Vương xây xong thành Cổ Loa ra sức tổ chức quân đội, tập dợt chiến đấu. Tướng Lĩnh và Binh Lính hàng ngày cần mẫn thao luyện.

– Những đội thợ chuyên rèn vũ khí, sản xuất hàng loạt mũi tên đồng. Cũng như, lao, côn, kiếm, thương, đao, giáo, mác đều đạt đến kỹ thuật cao.

Nhất là kỹ thuật chế tạo mũi tên thép là cả sự bí mật của Âu Lạc. Chỉ riêng Cao Lỗ mới chế tạo được những mũi tên thép nầy, trên toàn thế giới ở vào thời kỳ ấy chưa có nước nào sản xuất được.

– Cao Lỗ không những chế tạo ra mũi tên thép, mà còn phát minh ra liên châu nỏ thần. Loại vũ khí bắn ra một lần hàng trăm mũi vô cùng lợi hại. Tên đồng, tên sắt, tên thép bay thẳng vào mục tiêu.

– An Dương Vương làm chủ hai thứ vũ khí vô cùng lợi hại đó là mũi tên phép, và nỏ thần liên châu.

– An Dương Vương đặc nỏ Thần Liên Châu vào những chỗ trọng yếu loa thành. Để thử sự lợi hại nỏ Thần Liên Châu bằng ra lệnh cho Cao Lỗ bắn thử. Đám mưa tên dày đặc bắn ra, sức mạnh thật kinh hồn, hàng trăm mũi tên xé gió đến rợn người. An Dương Vương lấy làm hài lòng lắm, không hết lời khen tài bác học Cao Lỗ.

* Đây nói về Hồ Tinh Gà Trắng cùng con gái Ông Chủ quán chết. Thân Gà tuy chết nhưng Linh Hồn Hồ Tinh Gà Trắng vẫn còn do tu luyện nghìn năm Linh Hồn chúng vô cùng lợi hại bám sát An Dương Vương, có cơ hội là báo thù. Hồ Tinh Gà Trắng nói với Hồ Tinh cái muốn diệt được An Dương Vương thời chúng Ta phải đầu thai làm người một đàng làm con Triệu Đà, một đàng làm con An Dương Vương. Hai ta sẽ có cơ hội trả thù. Thế là Hồ Tinh Gà Trắng đầu thai làm con Triệu Đà trở thành Trọng Thủy. Hồ Tinh cái trước đây cướp xác người con gái Ông Chủ Quán, trở thành con gái Ông Chủ Quán, đêm nào cũng ái ân với Hồ Tinh Gà Trắng, bị An Dương Vương giết chết, Liền đầu thai làm con An Dương Vương trở thành Mỵ Châu.

– Nói về An Dương Vương có người con gái xinh đẹp tuyệt trần mắt phụng mày ngài giọng nói ngọt ngào như mật rót vào tai. Một hôm Mỵ Châu đang ngồi soi mặt xuống giếng thời thấy một con Chồn xuất hiện dưới mặt giếng. Mỵ Châu hoảng sợ thét ré lên nhưng thật ra con chồn cái Mỵ Châu thấy khi soi mặt dưới giếng chính là tiền Thân của Mỵ Châu Hồ Tinh Cái. Mỵ Châu sau cơn thấy Chồn liền trở nên khôn khéo hơn xưa nhất là càng về sau càng xinh đẹp. Lúc nào cũng dạ dạ vâng vâng ngọt ngào còn hơn lúc trước. An Dương Vương lấy làm mừng lắm nghĩ mình có phúc mới mới có đứa con như Mỵ Châu. Vừa thông minh, vừa xinh đẹp, vừa có hiếu. An Dương Vương coi Mỵ Châu hơn châu báu, còn quý hơn sanh mạng của mình.

– Nói về Triệu Đà có nhiều người con nhưng Trọng Thủy là khôi ngô tuấn tú thông minh hơn cả. Một hôm Trọng Thủy thấy mình biến thành con Chồn to lớn bị người ta chém máu me đầy mình con Chồn thét lên Trọng Thủy liền mê mang không biết gì nữa. Khi tỉnh dậy như người bịnh nặng tính tình Trọng Thủy đổi khác, đôi lúc làm phật ý Triệu Đà. Triệu Đà không mấy quan tâm về tánh tình Trọng Thủy. Vì nghĩ Trọng Thủy là người tài giỏi lại khôi ngô tuấn tú nên tánh tình kiêu căng là chuyện bình thường. Quả đúng như vậy Trọng Thủy từ khi thấy Chồn trở nên khôn lanh đáo để, ma mị ít ai bì kịp.

– Quân Triệu càng ngày càng trở nên hùng mạnh lên đến 30 vạn quân Triệu Đà trực tiếp chỉ huy, nhờ có móng Rồng đội lên đầu Triệu Đà đánh bại quân Tây Lương, bắn chết Dương Sàn vị thống soái tài ba của An Dương Vương Thục Phán qua trận giao tranh khốc liệt chiếm trọn Trung Văn Lang. Quân Triệu vì thế mạnh lên gấp bội.

– Triệu Đà lên ngôi xưng Triệu Việt Vương rắp tâm chiếm nước Âu Lạc, tức là Nam Văn Lang.

– Triệu Đà ngày đêm luyện tập binh mã, cách đánh thành, những binh pháp được coi như là tối ưu nhất.

– Mùa đông năm 210 trước công nguyên Triệu Đà thống lãnh ba quân Bộ Binh, Thủy Binh, Kị Binh, tấn công vào Nam Văn Lang, thế mạnh như chẻ tre. Tướng Tây Lương chống cự không lại đành bỏ mạng. Quân Triệu hung hãn tiến quân vào thành Cổ Loa. Triệu Đà xua quân công thành hai bên xáp chiến long trời lở đất. Bao chiến thuật cao nhất Triệu Đà bằng sử dụng hết.

Thơ rằng:

Thang lớp lớp bắt lên tường đất

Người trùng trùng lớp lớp leo lên

Máy xe đá bắn lên không ngớt

Tiếng gươm đao, dậy sóng cùng tên

Mù trời mịt đất tấn công

Long trời lở đất khiếp kinh hãi hùng

Nói về An Dương Vương thấy quân Triệu trèo lên tường lớp lớp đông như kiến cỏ. Liền ra lệnh cho Cao Lỗ sử dụng nỏ Thần Liên Châu.

– Cao Lỗ phất cờ ra hiệu bắn tức thời nỏ Thần Liên Châu phản pháo nhã tên quân Triệu chết thôi là chết chỉ trong nháy mắt quân Triệu đi tiêu hơn mười vạn quân. Triệu Đà khiếp vía hoảng kinh. Đánh trống thổi kèn lui binh.

Thơ rằng:

Quân Âu Lạc bừng bừng khí thế

Thành Cổ Loa, huyền bí lạ lùng

Quân Triệu khiếp vía kinh hồn

Chết không kịp ngáp tàn đời xác thân

Thành trôn ốc, vòng quanh khép kín

Lũy tường thành nào khác mê cung

Có vào thời hết đường ra

Ăn tên ăn giáo gươm đao tàn đời

Thân trúng tên ngã nhào như rạ

Khiếp kinh hồn bỏ mạng vùi thây

Loa thành bí hiểm biết bao

Chỉ trong chớp mắt đi tiêu mười vạn quân binh không còn

Triệu Đà khiếp vía kinh hồn

Thua to nhục nhã hết còn xâm lăng.

Triệu Đà thua to nhục nhã rút quân về. An Dương Vương đại thắng mở tiệc ăn mừng ba ngày ba đêm. Không bao lâu Triệu Đà sai sứ cầu hòa. Hai bên thỏa thuận lấy sông Thiên Đức làm ranh giới. An Dương Vương lấy đó cho là thắng lợi mới, mở tiệc chiêu đãi ăn mừng cả tháng, quần thần trong triều ai nấy cũng hào hứng say sưa.

– Cao Lỗ thấy vậy lo lắng bằng quỳ xuống tâu rằng.

– Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Quốc Vương nên bớt tiệc tùng, hãy chăm lo chận đứng mưu đồ của quân Triệu.

– An Dương Vương nghe Cao Lỗ tâu như thế liền cười lớn nói "Ta có loa thành hiểm hóc lại có nhiều dàn nỏ Thần Liên Châu vô địch bày binh bố trận" kẻ nào dám gây sự với Ta.
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
111. TRỌNG THỦY MỴ CHÂU

Nói về Triệu Đà thua trận Cổ Loa đi tiêu hơn mười vạn quân, nếu tiếp tục tấn công thời chết sạch. Bằng rút quân về đầm Nhất Dạ. Biết mình khó đánh bại được quân Âu Lạc nhất là có thành trì vững chắc, nỏ thần kinh khiếp. Bằng sai sứ cầu hòa, lấy sông Thiên Đức làm ranh giới.

– Đã hơn một năm Triệu Đà ngày đêm buồn bực âu sầu nghĩ đến nỏ thần mà ớn lạnh da gà, nghĩ đến Cổ Loa thành mà rợn tóc gáy, không biết làm sao đánh bại được nước Âu Lạc. Triệu Đà bằng nghĩ ra một kế, muốn thắng được Âu Lạc thời phải biết được bí mật luyện thép, cách làm nỏ Thần Liên Châu. Cũng như vẽ được sơ đồ Cổ Loa thành.

– Triệu Đà liền gọi con trai là Trọng Thủy vừa thông minh lại khôi ngô tuấn tú, có tài ăn nói lưu loát ít ai bằng. Nhất là hai năm vừa rồi Trọng Thủy học đâu nhớ đó cái gì cũng biết quả là một nhân tài khôn khéo ít ai bì. Triệu Đà bằng tính kế với Trọng Thủy là phải tiêu diệt cho được An Dương Vương Thục Phán. Trọng Thủy nghe nói lấy làm ưng ý, bằng nói Cha có kế sách gì chưa. Triệu Đà nói kế sách thời có nhưng con có chịu giúp Cha không? Trọng Thủy nói miễn là tiêu diệt được An Dương Vương Thục Phán thời chuyện gì con cũng làm. Triệu Đà bằng nói nhỏ với Trọng Thủy chỉ thấy Trọng Thủy gật đầu lia lịa.

– Nói về Triệu Đà với âm mưu thôn tính nước Âu Lạc liền đem lễ vật thật hậu nào là gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, nhân sâm nghìn năm, chim trĩ trắng, nào là vàng bạc châu báu, ngà voi, sừng tê giác, nhiều vô số kể chính thức cầu hôn công chúa Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Cũng như ở rễ làm phò mã nước Âu Lạc.

– An Dương Vương nào biết mưu sâu kế độc của Triệu Đà. Triệu Đà lúc nào cũng nói cầu hòa, nhưng trong lòng lại khác. An Dương Vương luôn tự đắc ỷ vào cung thành cũng như nỏ Thần không sợ Triệu Đà bằng vui vẻ nhận lời gả Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Với những lời cam kết, đất ai nấy ở, nước ai nấy lo, nước ao không phạm nước giếng.

– Cao Lỗ có vẻ nghi ngờ thận trọng khuyên An Dương Vương, không nên chấp nhận vội việc Triệu Đà cầu hôn Mỵ Châu cho Trọng Thủy, đề phòng âm mưu của Triệu Đà.

– An Dương Vương không nghe, Cao Lỗ chỉ biết thở dài dù sao đề phòng cũng là tốt hơn.

– Mỵ Châu gặp Trọng Thủy liền say đắm. Trọng Thủy cũng thế chẳng khác gì Mỵ Châu vừa gặp Mỵ Châu liền say đắm. Hai người tâm đầu ý hợp chớp nhoáng đã yêu nhau quên trời quên đất. Như đã từng yêu nhau ở kiếp trước giờ gặp lại nhau như keo, sơn, bám chặt dính nhau.

– Trọng Thủy ở lại thành cổ loa say đắm Mỵ Châu đến nổi quên mất lời Cha dặn suốt ngày quấn quít bên Mỵ Châu. Vốn Linh Hồn Hồ Tinh về đường ái dục thời khỏi chê suốt ngày suốt đêm không biết ớn.

– Nói về Triệu Đà lúc bây giờ là Chúa Tể đất Nam Hải quân binh hùng mạnh, nhưng lại sợ tên thép, nỏ Thần, loa thành vô cùng bí hiểm. Ngày đêm trông đợi sự thành công của Trọng Thủy. Nhưng không thấy Trọng Thủy báo tin gì, bằng cho người giả làm thường dân đến Cổ Loa đưa cho Trọng Thủy một phong thơ, hối thúc Trọng Thủy làm theo kế hoạch như đã bàn trước đây. Trọng Thủy xem thơ xong liền giật mình gần một năm trôi qua chỉ lo yêu đương chưa làm gì cả.

– An Dương Vương cho người theo dõi Trọng Thủy thấy gần một năm, thấy Trọng Thủy ngoài yêu thương Mỵ Châu ra không hề để ý đến chuyện gì khác An Dương bắt đầu tin tưởng nên lơ là đề phòng. Trọng Thủy Mỵ Châu hai người yêu nhau đến nổi Trọng Thủy làm gì, nói gì Mỵ Châu cũng nghe theo, làm theo.

– Một hôm Trọng Thủy nói với Mỵ Châu em dẫn anh đi dạo trong trong thành. Trọng Thủy đòi xem hết chỗ nầy đến chỗ kia không chỗ nào mà Mỵ Châu không dẫn đến. Trọng Thủy là người có trí nhớ vô cùng chỉ cần xem qua một lần là nhớ rõ in không sót một chi tiết. An Dương Vương không nghi ngờ gì cả. Thấy đôi trẻ yêu nhau đến nổi không còn xa nhau được nữa.

– Từ đó Trọng Thủy Mỵ Châu hai người như một không chuyện gì bí mật mà dấu nhau.

– Một đêm trăng sao vằng vặc bầu trời rất đẹp, muôn vạn vì sao nhấp nháy, một cơn gió lạnh lùa qua. Mỵ Châu nép sát vào người Trọng Thủy. Đây là cơ hội cho Trọng Thủy khai thác bí mật luyện thép. Cũng như nỏ Thần Liên Châu.

– Trọng Thủy hỏi vợ

Nàng ơi bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được. Mỵ Châu nói:

Có bí quyết gì đâu, chẳng qua là có thành cao, hào sâu, lại có tên thép cũng như nỏ Thần Liên Châu, bắn một phát chết hàng trăm quân địch, thời có kẻ nào đánh được.

– Trọng thủy nhìn Mỵ Châu vờ như lần đầu mới nghe nói đến tên thép cũng như nỏ Thần Liên Châu bằng nói ước gì được nhìn xem qua. Mỵ Châu nói muốn xem thời mai thiếp dẫn chàng đi xem chuyện nhỏ nhoi như thế có gì là mơ ước.

– Đêm ấy Trọng Thủy nhìn Mỵ Châu trằn trọc không ngủ được, vì nghĩ đến tương lai u ám không biết sẽ ra sao. Trọng Thủy vờ như ngủ Linh Hồn Trọng Thủy chính là Linh Hồn Hồ Tinh Gà Trắng tu luyện hàng nghìn năm. Nên trí nhớ không ai bằng chỉ cần một con cọp nhảy ngang qua là vẽ lại y chang.

– Mặt trời đã lên cao hơi ấm tràn về khắp lối, ánh nắng ngập tràn khắp quê hương ruộng đồng sông núi. Mỵ Châu dẫn Trọng Thủy đi xem nỏ Thần Liên Châu. Trọng Thủy chú tâm khám phá cấu trúc hình thành lên nỏ Thần Liên Châu. Cũng như nơi vị trí hiểm yếu đặc nỏ Thần trong loa thành. Mỵ Châu giải thích không thiếu sót bày cách bắn, cách lắp tên.

– Trọng Thủy thành công khám phá hai phần ba sự bí mật của Âu Lạc. Chỉ còn lại phương pháp bí quyết luyện thép nữa là xong. Trọng Thủy là người rất thông minh sau khi khám phá hai phần ba bí mật của Âu Lạc liền nghĩ ra một kế đang đi chơi với Mỵ Châu liền ôm bụng đau đớn rên la Mỵ Châu hoảng kinh đưa Trọng Thủy về phòng chăm sóc. Cứ lâu lâu chứng bệnh lại tái phát Mỵ Châu vô cùng lo lắng hỏi Chàng bị chứng bệnh gì Trọng Thủy chỉ lắc đầu làm thinh không nói. Trọng Thủy lại lên cơn đau dữ dội Mỵ Châu phát hoảng nói đã là vợ chồng anh đau cũng chính là em đau. Bệnh của Chàng không có thuốc chữa sao? Trọng Thủy ngập ngừng không nói. Mỵ Châu hỏi đến lần thứ năm sắc mặt vô cùng lo lắng. Trọng Thủy biết đã đến lúc cần nói chỉ cần một ít bột trong lò luyện thép pha chế uống vào là khỏi. Mỵ Châu ngần ngừ đôi chút. Trọng Thủy nói nàng là Công Chúa thời nơi nào mà đến không được.

Mỵ Châu nói không vào chỗ đó được đâu, đó là chỗ Cao Lỗ luyện kim một nơi bí mật, quân canh lính giác khó vào.

– Trọng Thủy ôm bụng la đau Mỵ Châu hốt hoảng nói vào đó hốt nhanh rồi rút lẹ không được ở lâu.

– Mỵ Châu dẫn Trọng Thủy đến một nơi bí mật vào chỗ luyện kim của Cao Lỗ. Quân binh canh giữ nhìn thấy Công Chúa không ai ngăn cản chỉ cúi đầu.

– Trọng Thủy xem qua nơi luyện thép có mấy thùng đựng bột kim loại pha chế, cũng như cách thức đắp lò luyện kim, Trọng Thủy liền hốt nhanh mỗi thứ một ít rồi đi ra.

– Nói về Trọng Thủy đã được cả ba, bằng nói với Mỵ Châu ở đây không có dụng cụ để sắc uống. Một dụng rất đặc biệt. Trọng Thủy lại nói đã có những thứ bột đặc biệt nầy thời không còn tái đi tái lại nữa. Anh về Nam Hải mấy ngày sẽ trở lại ngay. Mỵ Châu không muốn chia tay nhưng chàng về bên ấy chữa bệnh, nên không có cách gì giữ Trọng Thủy ở lại bằng chấp thuận cho chàng về bên Nam Hải.

– Qua hôm sau Mỵ Châu xin phép An Dương Vương cho Trọng Thủy về bên ấy chữa bệnh. An Dương Vương liền chấp thuận, vì lúc nầy An Dương Vương đã tin Trọng Thủy. Trọng Thủy vô cùng khôn khéo lại có trí nhớ đến kinh người, chỉ cần nhìn qua là trở thành bản in sao chép không bỏ sót một chi tiết nhỏ. Coi như những bí mật Âu Lạc không còn che dấu được nữa. Kinh Dương Vương không ngờ Trọng Thủy lại tài giỏi như vậy ăn cắp nghề nhưng không lộ ra cho người ta thấy.

– Lúc chia tay với Mỵ Châu Trọng Thủy nói "Anh về bên ấy rồi nhỡ có chuyện gì xảy ra, thời làm thế nào để tìm được nàng". Mỵ Châu sụt sùi đáp, thiếp có chiếc áo lông ngỗng sáng rực khác thường, nếu phải đi đâu thiếp sẽ rút lông ngỗng thả dọc đường chàng cứ theo dấu lông ngỗng mà tìm.

– Trọng Thủy trở về Nam Hải họa lại sơ đồ thành Cổ Loa. Chỗ đặt nỏ Thần Liên Châu, họa lại nỏ Thần Liên Châu và cách sử dụng.

– Trọng thủy lấy trong người ra những thứ bột pha chế, cũng như cách thức luyện kim, lò luyện kim cấu kết thành thép.

– Triệu Đà dồn hết thợ luyện kim. Thợ pha chế, Thợ rèn kiếm, thợ rèn đao, nghiên cứu suốt tháng, chỉ luyện được thép, nhưng chưa đạt được đến đỉnh cao, không bằng những mũi tên thép do Âu Lạc chế ra. Nhưng so với mũi tên đồng tên sắt thời hơn xa. Triệu Đà lấy làm mừng.

– Nói về Triệu Đà gấp rút hơn tháng chửng bị quân hùng tướng mạnh, tập dợt phá thế trận Cổ Loa, Tránh né thế trận nỏ Thần Liên Châu. Đánh đúng lúc, chiếm đúng chỗ, sử dụng chiêu thức phá trận đúng nơi. Tiến quân lui quân đúng cách. Quân lương vận hành thông suốt, phát động chiến tranh lâu dài.

– Triệu Đà dốc toàn lực lượng hùng mạnh nhất chưa từng có tiến đánh thành Cổ Loa.

– Cao Lỗ nghe tin vào tâu An Dương Vương, chuẩn bị quân cơ sẵn sàng chiến đấu.

An Dương Vương nghe xong cười ngất nói rằng. Giặc không muốn sống nữa hay sao, có lẽ hơn hai năm chúng đã quên nỏ thần, kệ chúng, chúng đến sẽ đánh lo gì

– An Dương Vương tiếp tục đánh cờ, không lo lắng gì cả, không đầy ba ngày quân giặc kéo tới vây kín loa thành.

– Nhờ có bản đồ loa thành do Trọng Thủy vẻ ra, chỗ nào đặc nỏ Thần Liên Châu, quân địch đều rõ hết. Triệu Đà xua quân đánh chỗ không phải tầm ngắm nhả tên của nỏ Thần. Biết chỗ nào bắc thang trèo tường, lại hiểu rõ đường đi nước bước trong loa thành. Quân Triệu trèo tường như nước lở. An Dương Vương ra lệnh dùng nỏ Thần Liên Châu bắn quân địch. Tên bắn ra nhiều mà chẳng trúng được bao nhiêu. Quân Triệu tràn vào thành như nước lũ. Quân nội thành chỉ hơn ba vạn, còn đại quân ở xa làm sao cứu được lửa. Chống làm sao lại tên sắt, tên thép, tên đồng quân Triệu bắn ra. Quân Triệu phá cổng thành tiến sâu vào trong. Hàng trăm nỏ Thần Liên Châu bị những tay cao thủ thượng đẳng phá nát. Thế là hết quân Triệu từ các ngã tiến vô ồ ạt như nước vỡ bờ. Quân Âu Lạc trở thành con mồi cho hổ báo.

– Vị Trung Thần Cao Lỗ khuyên vua chạy về phương nam, điều động quân binh chống trả lại quân Triệu. Cao Lỗ xông lên phía trước ngăn cản quân giặc không cho đuổi theo An Dương Vương, một mình Cao Lỗ cùng một số quân binh tả xông hữu đột liều thân ngăn sự rượt đuổi quân Triệu đông như kiến cỏ.

Sau có thơ rằng;

Ôi khí phách, trung thần Cao Lỗ

Cùng quân binh, quyết tử hi sinh

Chận đứng quân Triệu rượt theo

Để An Dương Vương thoát khỏi vòng vây quân thù

– Trận đánh không cân sức cuối cùng Cao Lỗ chết một cách hiên ngang, người cắm đầy mũi tên Quân Triệu cũng phải khiếp kinh.

Vì nước non, một lòng dốc sức

Thà chết đi, trọn hiếu trọn trung

Sợ gì cái chết vì non

Một lòng một dạ trung kiên anh hùng

Người đời sau có thơ kính tặng ông

"Thành Ốc Treo Cao Vầng Nhật Nguyệt

Tất dạ Trung Trinh Thục Sử Truyền"

– Nói về An Dương Vương giục ngựa ngõ sau phi nước đại chạy về biển đông.

– Mỵ Châu ngồi sau lưng Cha bứt lông ngỗng ở áo thả khắp dọc đường. Trời tối mù tối mịt Trọng Thủy đang lúc hoang mang không biết tìm Mỵ Châu nơi đâu, bỗng nhìn thấy lông ngỗng. Trọng Thủy nhớ tới lời Mỵ Châu, bằng dẫn theo một toán quân binh cứ theo vết lông ngỗng mà truy đuổi. Đường núi gập ghềnh hiểm trở ngựa chạy cả trong ngày lẫn đêm, đến dạ sơn gần biển. Hai cha con định xuống ngựa ngơi nghỉ, thời quân giặc đã đuổi tới gần.

– Trời đã hừng đông đường núi quanh co dốc ngược không còn lối nào chạy. An Dương Vương liền hướng ra biển khấn vái Thần Kim Quy phù hộ cho mình. Vừa khấn xong tức thời một cơn gió nổi lên cát bụi mịt mù Thần Kim Quy hiện ra nói với An Dương Vương rằng giặc ở sau lưng nhà vua đấy.

– An Dương Vương liền tỉnh ngộ rút gươm chém Mỵ Châu một luồng khí xanh bay lên hiện ra con chồn rồi biến mất, An Dương Vương vô cùng sửng sốt. Nhìn Mỵ Châu không hiểu nó là yêu tinh hay con mình. Nếu con mình sao làm hại mình như vậy.

– An Dương Vương nhìn thấy từ xa cát bụi mịt mù biết là số mình đã tận liền nhảy xuống sông tự tử.

– Nói về Trọng Thủy dẫn theo một toán quân rượt đuổi theo sau An Dương Vương theo dấu lông ngỗng đi tìm Mỵ Châu. Đến gần bờ biển thấy xác vợ nằm trên đám cỏ. Tuy chết mà nhan sắc không phai mờ Trọng Thủy khóc òa lên. Thu nhặt thi hài đêm về chôn trong thành. Rồi đâm đầu xuống giếng trong thành mà Mỵ Châu thường soi mặt cũng như thường tắm.

– Ngày nay ở thành Cổ Loa trước đền thờ An Dương Vương còn có cái giếng, gọi là giếng Trọng Thủy.

– Đời sau truyền rằng Mỵ Châu bị Cha giết, máu chảy xuống biển, loài trai ăn được làm cho ngọc trai sáng đẹp ra.

– Cuộc đời An Dương Vương Thục Phán, Hồ Tinh Gà Trắng. Hồ Ly con gái Ông Chủ Quán. Oan Gia tương báo thành câu chuyện Trọng Thủy, Mỵ Châu. Phá tan cơ nghiệp An Dương Vương, Là một tấm bi kịch.

– Tuy vậy nhiều thế hệ người Việt coi An Dương Vương là vị vua thông minh tài ba lỗi lạc.

– Đền thờ của Ông được lập ở ngay chân núi Mộ Dạ. Quanh năm hương khói. Còn có đền Thần thờ vị tướng tài Cao Lỗ. Nhà Bác học, Khoa Học, Chính Trị, Quân Sự, Kiến Trúc, Luyện Kim, Chế Tạo Tên Thép. Có một không hai trong thời ấy.
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
112. SỰ HỒN NHIÊN

Một ngôi nhà nhỏ cạnh đầu làng

Hàng cau trong nắng, đứng chịu tang

Bảy mùa thu đến, mùa lá rụng

Cô đơn người Mẹ sáu xuân sang

Mới đó giờ đây, Hân đã lớn

Tiếng cười giọng nói dậy ngân vang

Mẹ giá con côi theo ngày tháng

Đôi lúc vẫn còn, tiếng thở than

Dưới cơn mưa tầm tã. Bé Hân đang ngồi với mẹ thấy người ta kẻ đội nón, người che dù đi vào nhà Ông Hai, mỗi lúc một đông.

– Bé Hân hỏi; Mẹ ơi hôm nay nhà Ông Hai làm gì vậy? Bà Vân nghe con hỏi liền nói, hôm nay là ngày kị cơm Chú Ba Ổi con Ông Hai đấy con.

– Bé Hân hồn nhiên hỏi Chú Ba Ổi vì sao chết vậy mẹ. Bà Vân nghe Bé Hân hỏi như nhớ lại, một đêm tối không trăng tiếng chó sủa inh ỏi, sau đó thời tiếng súng nổ như bắp rang, canh nông, đại bác, đạn cối, thi nhau nổ ầm ầm kinh hồn bạt vía. Tiếng máy bay gầm rú đầy trời tiếng bom rền sông núi. Hình ảnh người chồng Ông Vân trúng mảnh bom không qua khỏi đành bỏ mạng, bỏ lại mẹ giá con côi Bà Vân càng nghĩ càng rơi nước mắt.

– Bé Hân thấy Mẹ rơi lệ liền lấy khen lau nước mắt cho Mẹ rồi nói, Mẹ lớn rồi mà con khóc. Bà Vân ôm con vào lòng dằn cảm xúc. Nhớ lại những ngày bom rơi đạn nổ như mới đây mọi việc hiện ra trước mắt thấy rõ như in. Trận giao tranh giữa Quốc Gia và Cộng Sản cho tới sáng, thây người rải rác khắp nơi. Ở đời người ta thường nói Trâu Bò húc nhau ruồi muỗi chết. Cộng Sản, Quốc Gia đánh nhau dân mang họa. Bà ngồi bên xác chồng lòng nghẹn ngào đau đớn không sao tả hết.

– Cuộc chiến tranh đầy phi lý, hai bên đều cho mình là đúng, đã làm đúng sao còn phải đánh nhau. Súng đã nổ thời không chết cũng bị thương, hai bên thi nhau ngã xuống không phải yêu nước thương nòi gì, mà là anh em tương tàn, nồi da xáo thịt. Dù cho bên nào bị tiêu diệt cũng là Đồng Loại, anh em Đồng Bào, máu đỏ da vàng nào phải kẻ thù gì đâu. Bà Vân càng nghĩ càng thấy lòng đau, chỉ tội cho người dân vô can cũng phải chịu khổ lây, cái chết của chồng Bà do hai bên gây ra nhưng nào ai chịu trách nhiệm đâu. Sự chết đi chỉ vì trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết. Bà Vân nhớ lại chồng bà nằm trên vũng máu sự hi sinh vô lý trở thành nạn nhân do hai bên chém giết lẫn nhau.

Chiến tranh ơi hỡi chiến tranh

Cướp đi sinh mạng, người dân thiện lành

Làm cho chồng vợ chia lìa

Tiêu tan nhà cửa xóm làng xác xơ

Dù cho Cọng Sản, Quốc Gia

Cũng là Đồng Loại anh em Đồng Bào

Tương tàn chém giết hận thù

Gây bao thảm kịch hiểm nghèo cho dân

Chiến tranh phi lý chiến tranh

Đớn đau dân tộc tiêu tan nước nhà

Đầu xanh tuổi trẻ không còn

Gò hoang chôn xác nấm mồ quạnh hiu

Tấm chồng cũng bỏ ra đi

Để cho mẹ giá con côi tháng ngày

Trò hề ai đã đặt bày

Khói mây rồi cũng trở khói mây

Nhưng rồi biết trách ai đây

Trách cho con tạo trớ trêu cuộc đời

Càng nghĩ nước mắt tuôn dài

Nghĩ thương dân chúng họa đày gian nan

Bà Vân nước mắt chảy tuôn

Bé Hân nhìn Mẹ, Mẹ ơi Mẹ khóc nữa nè

Bà Vân lau nước mắt gượng cười. Bé Hân nhìn qua nhà Ông Hai như nhớ ra điều gì nói, Mẹ chưa trả lời Chú Ổi vì sao mà chết. Cơn mưa như trút đã tạnh Bà Vân nhìn rõ từng người đi vào nhà Ông Hai.

– Bà Vân nói nhỏ Chú Ba Ổi đi Lính Quốc Gia chết đó con.

– Bé Hân ngơ ngác hỏi hôm nay là ngày kị cơm Chú Ba Ổi Lính Quốc Gia. Sao con thấy những người đến ăn giỗ không ít người đội nón cối, không lẽ những người đội nón cối quân giải phóng kia, không hiểu Chú Ba Ổi là lính Quốc Gia họ đã giết chết hay sao?

– Bà Vân bụm miệng con gái nói nhỏ thôi. Những người đội nón cối quân giải phóng kia là anh em ruột với Chú Ba Ổi người đã chết đấy, không phải người ngoài đâu.

– Bà Vân nói người đội nón cối bận đồ xám là Chú Dừa anh cả của Chú Ba Ổi đã chết. Còn người đội nón cối mặc bộ đồ xanh là Chú Mận em ruột Chú Ba Ổi người đã chết. Họ là anh em cùng một mẹ một cha. Người đi theo Quốc Gia, kẻ đi theo Cộng Sản thế là chém giết lẫn nhau. Anh em họ chẳng thấy đau, người ngoài như mẹ đây nhìn anh em họ giết nhau mà thấy xót dạ.

– Bé Hân nghe mẹ nói thế lấy làm lạ nói Anh Em nhà họ có vấn đề gì không, Anh Em như thể tay chân sao họ lại làm như thế kẻ đi bên nầy, người đi bên kia chém giết nhau. Bà Vân nói là do tình thế tạo ra không đi theo Cộng Sản thời phải theo Quốc Gia mà thôi không còn cách nào khác. Khi con lớn lên con sẽ biết hai bên tranh nhau giành lấy từng người thi nhau bắt đi lính. Con muốn trốn cũng không được. Trong thế buộc không theo Cộng Sản thời cũng phải theo Quốc Gia. Đối lập nhau coi như không đội trời chung đi đến chém giết lẫn nhau tạo ra bi kịch đó con. Bé Hân như chợt nhớ ra bài học tuần trước liền đọc lên cho Mẹ nghe.

Gà con lạc Mẹ đá nhau

Đá cho sức trán u đầu chưa thôi

Đá cho ruột thịt tả tơi

Đá cho bỏ mạng rồi đời anh em

Đá cho lem luốt tèm lem

Máu tanh thầm đỏ hết mong sống còn

Đá cho xanh cỏ xanh mồ

Hồn Ma bóng Quỉ bạn đời gió sương

Đá cho xốm nát làng tan

Ngư ông đắc lợi ngoại bang vui mừng

Cũng vì đánh mất Cội Nguồn

Gà con lạc Mẹ tranh giành đá nhau

Bà Vân nghe xong khen bài học hay quá. Nghe mà thấm thía, mắn yêu con gái, con coi vậy mà thông minh ghê.

– Tà áo hồng vừa đi ra khỏi ngõ thời có người lên tiếng hỏi, hai mẹ con chị đi đâu mà ăn diện xinh đẹp vậy,

– Bà Vân quay đầu nhìn lại hỏi. Cô Hằng cũng đi đền thờ phải không? Cô Hằng cười nói con cháu Tiên Rồng không đi đền thờ thời còn đi đâu. Thời nay những người không quên Cội Nguồn khác gì hạt gạo trên sàng mà chị. Bà Vân nhìn Hằng rồi nói cô nói cũng phải, đi đền thờ lễ lạy Cha Trời Lạc Long Quân, Mẹ Trời Âu Cơ cũng như lễ lạy Quốc Tổ, Cội Nguồn của chúng Ta.

Ta về Ta tắm ao Ta

Dù trong dù đục đạo nhà vẫn hơn

Đạo nhà truyền thống Cha Ông

Con thuyền Nguồn Cội biết bao đẹp lành

Hiếu Trung, Trung Hiếu một lòng

Theo chân Quốc Tổ về trời cõi tiên

Đạo nhà cũng lắm linh thiên

Cha Ông phù hộ Hồn Thiên phù trì

Mắc gì ta lại mắc gì

Quên Nguồn bỏ Cội để rồi bơ vơ

Ta về Ta tắm ao Ta

Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn

– Bà Vân Cô Hằng phải nói là tâm đầu ý hợp kẻ xướng người họa, vừa mới lạ vừa văn minh ai nghe cũng thấm thía trong lòng. Hai người kẻ nói lại người nói qua, không bao lâu thời đến đền thờ.

– Bé Hân nhìn thấy người đông quá áo chen sắc áo, người chen lấy người, chật ếm như nêm. Trong lòng bé Hân vô cùng thích thú, nắm lấy tay Mẹ giục giật rồi nói người đông như thế có phải là người cách mạng hết không? Hằng trả lời thay cho Bà Vân, đã về Cội Nguồn thời không còn phân biệt Cộng Sản hay Quốc Gia. Tất cả đều là anh em Đồng Bào đoàn kết yêu thương như anh em một nhà. Tôn Giáo, Đảng Phái cũng chỉ là con Rồng cháu Tiên. Tình Đồng Bào nghĩa anh em, chung nhau một đất nước quê hương, đâu còn phân biệt chia rẽ nữa. Bé Hân nhìn Mẹ rồi hỏi đã về Nguồn thời tất cả đều là anh em phải không Mẹ. Bà Vân gật đầu thay cho lời nói.

– Bé Hân nói Cô Hằng giải thích con hiểu rồi, con thường nghe bài hát Dòng Giống Tiên Rồng đâu chỉ cho người nào tất cả Đồng Bào Dân Tộc Việt Nam đều là anh em. Cọng Sản, Quốc Gia chỉ là thời thế, thế thời, khi tỉnh lại rồi thời Cộng Sản, Quốc Gia cũng chỉ là anh em. Hằng nhìn Bé Hân khen con giỏi lắm.

– Trời đã khuya, ngôi nhà nhỏ của Bà Vân ánh điện vẫn còn sáng. Hân đang học bài chăm chú, như chợt nhớ ra điều gì liền hỏi Mẹ.

– Đáng lý ra dân tộc mình thời phải mạnh như Rồng đẹp như Tiên. Nhưng vì Phụng Hoàng đang bệnh xù lông xù cánh nên trông không được đẹp. Rồng thời trúng độc nên đau bụng không bay lên được bị người ta đè đầu cưỡi cổ phải không Mẹ.

Bà Vân nghe xong không nhịn được cười, cười sặc sụa mắn yêu, cái tổ cha mầy không lo học mà nghĩ những chuyện vu vơ.
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
113. KHA VÀ ĐÀO

Tấn Nam là một cây cao trong thượng viện chế độ Việt Nam Cộng Hòa, một mẫu người khá đẹp trai, địa vị cao để bao cô gái ước mơ. Nhìn cái vẻ bề ngoài hào hoa đẹp trai của Nam, cũng đã làm ngã gục bao cô gái, huống chi là có tài ăn nói, nhất là tài đánh bóng biết chiều chuộng phái đẹp. Thời có khối cô nàng chết mê chết mệt.

– Nhất là Hương quên ăn bỏ ngủ vì Nam. Hương biết rằng mình nhà nghèo khó tranh lại, với những cô gái nhà giàu tiền muôn bạc tỉ. Hương yêu Nam đến nỗi, Nam muốn gì thời Hương cũng cho, kể cả những thứ quý giá nhất cuộc đời của cô. Cô đã có bầu hơn tháng ý định nói cho Nam biết

– Nào ai ngờ ba mươi tháng tư quân giải phóng cách mạng nuốt trọn miền nam, trong tình thế hỗn loạn. Hương tới nhà Nam thời gia đình Nam đã bỏ đi đâu không biết. Quân Cách Mạng sau đó làm chủ đất nước. Chế Độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, Sài Gòn không còn nữa trở thành tên khác Thành Phố Hồ Chí Minh.

– Binh Lính Quốc gia những người còn sống thời bỏ nước ra đi, cũng như cải tạo ở tù. Bóng hình Nam vẫn biền biệt mịt mù, Hương không còn hi vọng gì nữa, sống một mình lủi thủi sanh con ra rồi nuôi.

Hai mươi năm sau:

– Trời đã khuya Kha vẫn chưa đi ngủ ngồi bên cửa sổ nhìn mãi về ngôi nhà của Đào.

– Đào là con cán bộ cấp cao của Đảng, nhà Đào rất giàu không những thế Đào còn rất đẹp, với chiếc áo dài màu trắng ôm sát người những đường cong đẹp lạ kỳ, trông Đào như một nàng tiên, nữ sinh hoa khôi trong thời đại Hồ Chí Minh.

– Kha là con của Tấn Nam cấp cao của Quốc Gia. Kha chỉ biết vậy thôi chưa bao giờ biết mặt Cha. Tuy đất nước đã đi qua hai chục năm, nhưng thân phận Kha dính dấp đến Quốc Gia vì Kha là con của Tấn Nam, tuy đã hơn hai mươi năm trôi qua nhưng nói về kỳ thị chế độ vị thế xã hội thời Kha vẫn còn nơi đất cái. Còn bên giai cấp thắng cuộc chiến thắng thời ở tận trên mây.

– Kha biết thân phận là con ngụy quân, nên chỉ thầm yêu Đào. Một tình yêu đơn phương không bao giờ có kết quả.

– Có lẽ nhờ vào tình yêu đơn phương nầy Kha không nghĩ đến tình yêu nào khác, chỉ lo đèn sách chăm học nên Kha học rất giỏi, luôn đỗ đạt cao tiếng tăm lừng lẫy. Một hôm Kha ngồi bên cửa sổ nhìn ánh trăng vằng vặc trên trời ngâm mấy dòng thơ, cho bớt nỗi buồn.

Trăng kia ở tận trên trời

Chỉ nhìn trăng sáng dịu hiền mà thôi

Ước ao cũng chỉ ước ao

Mấy đời chiếu rách trãi lên giường ngà

Đũa tre khó để mâm vàng

Vốn thân con cóc đâu cùng Thiên Nga

Hoa Hồng cắm ở bình hoa

Có đâu cắm chỗ ở nơi sình lầy

Mấy ai hiểu được sự đời

Hoa sen thường ở vũng bùn tỏa hương

Thương người thời cứ mà thương

Không hình thời bóng vấn vương tháng ngày

Trăng kia ở tận trên trời

Chỉ nhìn trăng sáng cuộc đời cũng vui

– Tiếng ngâm thơ trong màn đêm u tịch, gió rầm rì như chuyển vận lời thơ. Gửi ai kia một bóng hình xa thẳm, trong nỗi niềm ẩn chứa những lời thơ.

– Đào ngồi bên cửa sổ dưới ánh đèn khuya chợt nghe tiếng ngâm thơ từ nhà Kha vọng lại. Tim Đào run lên hồi hộp Đào không hiểu vì sao mỗi lần nghe Kha ngâm thơ, là Đào không kìm nổi quả tim nó cứ run lên theo giọng ngâm thơ của Kha.

Đào cố xua đuổi hình bóng của Kha, những lời tỏ tình yêu đơn phương của Kha, như một ma lực làm cho Đào không quên được, càng xua đuổi. Thời hình ảnh của Kha càng hiện lên rõ nét, những lời thơ thi nhau thấm vào óc không cách nào xua đuổi ra được.

– Đào phải thừa nhận Kha phong độ khá đẹp trai, nét mặt trông rất hiền từ có sức thu hút đối với giới nữ. Kha học giỏi con đường tương lai của Kha rộng mở thênh thang. Đào thở dài tâm Đào mãi giao động hồ thu đã gợn sóng lăng tăng.

– Thế thời, thời thế nào phải đứng yên, thời bao cấp lùi xa thay vào đó là cơ chế thị trường bắt đầu hé mở. Bao tháng năm Đào luôn đấu tranh tư tưởng có những đêm Đào quá mệt mỏi rồi thiếp đi.

– Từ hôm nghe được những dòng thơ tỏ tình bâng quơ không đi vào đối tượng mục đích rõ ràng, nhưng đối với Đào thời Đào biết Kha yêu mình nhưng không dám ngỏ lời vì ngăn cách giàu nghèo, cũng như cách biệt hai dòng sông kẻ ở bên nầy người ở bên kia.

– Nhà Đào với nhà Kha không xa mấy chỉ vài mươi thước chung nhau trên một con đường. Đào thấy Kha liền né tránh. Kha càng đau nhói càng dồn tâm vào việc học. Kha tốt nghiệp Thạc Sĩ ngành kinh tế loại ưu. Còn Đào thời tốt nghiệp trường đại học mở kế toán.

– Ở đời người ta thường nói có duyên xa mấy cũng thấy gần, vô duyên đối mặt nhưng lòng cách xa. Những ngày qua Kha nhìn bóng hình Đào qua gần bên nhau thế mà như xa tận chân trời.

Đêm đã khuya trời trở lạnh, để quên đi nỗi buồn Kha ngâm mấy dòng thơ.

Trời sinh ra người, để người chịu khổ

Trời sinh ra cây cỏ, để cây cỏ chịu sầu

Chiến tranh kia, đã chia lìa Nam Bắc

Để giờ đây, diềm chết quả tim đau

Lạnh lùng chi, tim đã đầy băng giá

Tránh mặt chi, tim đã chết từ lâu

Ông tơ bà nguyệt đi đâu

Để cho chú Cuội ngồi rầu gốc đa

Đào nghe những lời thơ của Kha như vạn mũi kim đâm vào quả tim. Đào thổn thức em đã yêu anh từ lâu lắm từ khi ta mới gặp nhau. Đào liền khẻ ngâm thơ.

Đêm về những giọt mưa ngâu

Trời kia ngăn cách mỗi nơi mỗi người

Ngưu Lang, Chức Nữ trên trời

Gần nhau chẳng được Thiên Hà cách ngăn

Chàng nào biết được lòng em

Con tim cũng đã rộn lên vì chàng

Bao đêm trong lúc mơ màng

Đôi chim vượt khó trong làn bão dông

Trải bao thử thách gian nan

Mới mong tìm được bình an cùng người

Tim em đã có chủ rồi

Bóng người ở tận chân trời xa xăm

– Kha ngồi bật dạy nhìn qua khu nhà bên cạnh thấy Đào ngồi bên cửa sổ. Như sợ bóng hình kia sẽ biến mất, Kha càng ra sức mà nhìn, hình như Đào cũng biết là Kha đang nhìn Đào. Đào để cho Kha ngắm nhìn như mây cùng gió xích gần lại nhau.

– Thế là từ đó hai người một sợi dây vô hình càng ngày càng trói chặt vào nhau, nụ cười ánh mắt càng thêm đậm đà. Vườn xuân đã có người làm, bón phân tưới nước rực hồng hồn xuân.

– Kha, Đào, yêu nhau không thể xa nhau được nữa Kha nói với Mẹ là Bà Hương. Qua nói Đào về làm dâu nhà mình. Bà Hương nói tuy con là thạc sĩ cũng đã ổn định việc làm, đối tượng nào thời được. Nhưng đối tượng chỗ nầy thời con đừng mơ mộng. Kha thôi thúc mãi, Kha nói Mẹ cứ qua bên ấy khi nào họ không gả thời thôi. Cuối cùng Bà Hương đành phải nghe theo, qua nhà Ông Bộ dạm hỏi Đào cho Tấn Kha. Ông Bộ lạnh lùng nói xin lỗi Bà Hương Bà đến hơi muộn con Đào đã có chỗ rồi. Bà Hương nghe xong thời lấy làm thẹn thùng như bị gáo nước lạnh tạt vào mặt. Bà Hương từ giả ra về nói lại tình hình cho Kha Nghe.

– Kha không lấy gì làm lạ cách từ chối khéo vì họ là người trên mây. Còn mình thời chỉ là cỏ dại ở dưới đất, hai giai cấp khác nhau quá xa, lại là kẻ bên địch người bên ta để khỏi xót xa, cũng như mỗi lần nhìn thấy Đào cầm lòng không được. Càng yêu Đào thời gia đình càng thêm tủi nhục. Kha bán nhà cùng Mẹ đến nơi ở khác, trước khi từ biệt Đào. Kha nói anh vẫn chờ đợi, khi nào em có chồng thời anh mới tính tới chuyện trăm năm.

– Kha cùng Bà Hương đến nơi ở mới trong một con hẻm lớn, Kha cũng tìm nơi làm mới. Kha xin làm cho một công ty nước ngoài, giám đốc công ty là Tấn Nam. Một việc kiều về nước làm ăn, công ty Tấn Nam có mặt trên nhiều nước Châu Á. Kha lương rất khá tháng năm sáu chục triệu, không bao lâu thời leo lên trợ lý cho Tổng Giám Đốc. Kha ăn nói lưu loát làm việc trôi chảy không chỗ nào thiếu sót. Lúc ngồi bên Tổng Giám Đốc ai nấy cũng đều kinh ngạc vì Kha rất giống Tổng Giám Đốc y như là Cha Con.

– Tấn Nam Tổng Giám Đốc cũng lấy làm kinh ngạc, nhưng rồi Ông nghĩ người giống người, nên Ông cũng không quan tâm nữa.

– Một hôm Tấn Nam Tổng Giám Đốc xem lại hồ sơ của Tấn Kha thời Ông giật cả mình. Chỉ có một điều ở đây là cha Tấn Kha, là Tấn Nam đã chết. Ông sững sờ giây lác lấy lại sự bình tỉnh, hồi tưởng lại quá khứ cách đây đã hơn hai mươi năm. Có lẽ bây giờ Hương đã có chồng, mình không nên quấy phá.

– Một hôm Ông gọi Tấn Kha đến hỏi trợ lý còn mấy anh em, Tấn Kha thật thà trả lời con làm gì có anh em, con chỉ biết khi con lớn lên đã mồ côi cha. Ông lại hỏi Mẹ Trợ Lý không có chồng nữa sao? Kha nghe Ông hỏi lấy làm kinh ngạc nhưng cũng trả lời Mẹ con không có chồng chỉ ở vậy nuôi con, biết rằng không biết bao nhiêu người đeo đuổi. Ông nhìn Kha rồi hỏi Trợ Lý có biết mặt Cha Trợ Lý không. Kha lại càng thêm kinh ngạc Ông Tổng Giám Đốc bữa nay hơi là lạ. Nhưng rồi Kha cũng trả lời, tôi không hiểu vì sao Cha tôi lại rất giống Ông Chủ. Xin lỗi Ông Chủ tôi không có ý gì khác, Ông nghe Tấn Kha nói như vậy trầm ngâm giây lát rồi hỏi người Mẹ Trợ Lý thờ rất giống Ta phải không? Kha gật đầu như xác nhận.

– Ông Chủ Tấn Nam đã biết chắc Tấn Kha là con của mình Ông trở nên nghiêm khắc, Ông dạy từng cách ứng xử, cũng như cách điều hành công ty. Tấn Kha vô cùng ngạc nhiên Ông ấy đối xử với mình như con của Ổng. Tấn Kha trở nên quan trọng, trong công ty. Cũng là đối tượng bao cô gái bám theo. Nhà Bà Hương từ đó không ít người lui tới toàn là con gái xinh đẹp. Bà Hương lắc đầu thở dài thằng Kha giờ đây không khác gì thằng cha của nó, chỉ tổ làm khổ người ta.

– Mấy cô ăn mặc xinh đẹp vừa ra, thời một người con gái xinh đẹp từ xa đi đến. Người con gái xinh đẹp ấy chính là Đào. Đào bước vào nhà lễ phép nói con chào thím, Bà Hương niềm nở tiếp Đào như người thân. Đào cảm động muốn rơi nước mắt.

– Bà Hương nhìn Đào rồi hỏi Cha Mẹ con vẫn khỏe. Đào nói Cha con đã về hưu rồi không còn quyền lực như trước đây nên Cha con cũng có phần dễ dãi hơn trước. Công ăn việc làm của con, con tự quyết định lấy. Bà Hương hỏi con ở riêng hay còn ở với Cha Mẹ? Đào hơi ngạc nhiên nhưng chợt nhớ ra nói. Cha con không muốn gả con cho anh Kha nên nói con đã có chỗ có nơi. Thời nay là thời văn minh hiện đại con tự quyết định tương lai hạnh phúc cho mình, ép buộc làm gì người con không yêu.

– Đào xuống bếp phụ một tay làm cơm thân thiện nói đáng lý ra con đến sớm hơn, nhưng vì tìm mãi không được nơi ở của anh Tấn Kha, con mới tìm ra đây thôi.

– Tiếng đồng hồ đã gõ Bà Hương nói năm giờ rồi thằng Kha sắp về, nó đi nó về đúng giờ đúng giấc lắm Bà Hương vừa nói xong thời Kha cung đã về tới nhà, nhìn thấy Đào đang loay hoay làm cơm với Mẹ. Kha nhìn Đào sửng sốt cảm động. Đào thấy Kha nhìn sững mình cúi đầu thỏ thẻ nói, lạ lắm sao mà nhìn người ta dữ vậy, chỉ mới hơn năm mà anh đã câu hàng tá.

– Bà Hương tằng hắng không có đâu con, đó là những cô làm ở công ty đến thăm. Tấn Kha bật cười thời ra em cũng giống như bao người khác, ớt nào mà ớt chẳng cay. Đào bỉm môi nhìn Kha ý anh nói gái nào mà chẳng thường hay ghen chồng, Tấn Kha không nhịn cười được nữa cười vang cả nhà.

– Căn nhà Bà Hương hôm nay vui vẻ khác thường, Đào thời cười nói luôn miệng hết chuyện nầy đến chuyện khác, hết chuyện nọ đến chuyện kia. Đào nói em tìm việc khắp nơi, nạp đơn nhiều chỗ, chỗ em ưng ý thời người ta không nhận thành ra lang bang hơn cả năm nay, cha em đã nghỉ hưu, đâu còn quyền lực để xin việc cho em, nghe Đào nói thế. Tấn Kha suy nghĩ hồi lâu rồi nói, anh sẽ xin cho em vào nơi công ty nơi anh làm.

– Đào nghe nói vô cùng mừng rỡ anh xin được không? Kha nói anh hiện giờ đang là trợ lý cho Tổng Giám Đốc. Việc tuyển chọn người làm trong công ty là do anh, nhưng phải qua Tổng Giám Đốc ký nhận thời mới được vào làm.

– Nói về Đào đến công ty nạp đơn xin việc, công ty Việt Á bề thế tầm cỡ thành phố. Đào cũng không ngờ địa vị vai vế của Kha lại lớn như vậy. Muốn gặp Kha rất khó phải lên phòng Tổng Giám Đốc mới gặp được. Đào không gặp được Kha chỉ nạp hồ sơ xin việc rồi ra về.

– Đào được nhận vào công ty Việt Á với mức lương khá cao. Kha trực tiếp đem giấy trúng tuyển của công ty đến nhà Đào. Thật bất ngờ gia đình Đào tiếp đãi Kha thật chu đáo.

Mới hay vật đổi sao dời

Thế thời thay đổi vận thời đổi thay

Nghỉ hưu quyền lực nghỉ theo

Tìm xin công việc cho con bầm trầy

Mới hay thế sự ở đời

Còn quyền còn lực thời còn ông tôi

Hết quyền hết lực như vôi

Làm dân vạn đại làm quan nhất thời

Đến khi thức tỉnh lại rồi

Mới hay cơ sự ở đời chuyển xoay

Láy lay, lắm chuyện láy lay

Lúc mưa lúc nắng đổi thay cuộc đời

Nói về Cha, Mẹ, của Đào thấy Kha đến, không còn lạnh ngạc như trước kia Ông gọi Đào tiếp đãi Kha thật chu đáo, còn Ông thời lui vào trong.

– Kha hôm nay là trợ lý cho Giám Đốc công ty đi chiếc xe con bóng loáng đâu còn như trước mang đôi dép trành. Kha, Đào thoải mái chuyện trò bờ rào ngăn cách đâu còn biến tan.

– Ông Bà Bộ nhìn theo chiếc xe con, mà tiếc thầm trong bụng, thương cho Đào vuột mất con rồng lên mây.

Đào làm trong công ty Việt Á hơn cả tuần mà không gặp được Kha. Vì Kha đã đi công tác cùng Tổng Giám Đốc qua nhiều nước đến các công ty chi nhánh của công ty Việt Á.

– Đào làm chung với một số nhân viên làm trong công ty cô nào cô nấy cũng xinh đẹp, đều luôn nhắc đến tên Kha. Ở đời mèo biết mèo, chuột biết chuột, Đào nhìn ra họ cũng yêu Kha. Có những cô đã đến nhà Kha, Đào vô cùng lo lắng, con đại bàng đã sải cánh thời khó mà giữ chân cho được. Đã hai tháng rồi cô không gặp được Kha.

– Tấn Kha đã hai tháng chưa về nhà nghe nói đi cùng Ông Chủ Bà Hương lòng suy nghĩ Ông Chủ Việt Á là người thế nào mà đối xử với con Bà tốt như vậy. Hôm nay trông Bà thật xinh đẹp, có lẽ vì thấy con đã đạt được ước mơ, tiền của dư ăn, không còn vất vả, khi có của thời dũa ra người, có xấu cũng thành đẹp, huống chi Bà Hương là hoa khôi thời trai trẻ, giờ đây lòng thỏa mãn hưng chí nên người đẹp ra.

– Thật bất ngờ một chiếc xe con đến trước nhà bà đậu lại, Bà đang kinh ngạc mình làm gì có bà con sang trọng như vậy, cánh cửa xe mở ra, một người khách trông rất giống Tấn Kha bước xuống. Bà Hương quá đỗi bất ngờ đứng như trời trồng nhìn người khách lạ. Người khác lạ sau khi đóng cửa xe nhìn thấy Bà Hương thời không khỏi xúc động suýt chút nữa thời chạy tới ôm Bà Hương.

Ông khách dằn lòng lấy lại bình tĩnh nói Tấn Kha về nhà chưa? Bà Hương cũng dằn xúc động nói nó đi cùng Ông Chủ hai tháng nay chưa về nhà. Bà dụi mắt xem mình đang mơ hay ngủ. Người xưa biền biệt hơn hai mươi năm bỗng dưng xuất hiện trước mặt bà. Bà gọi nhỏ anh Tấn Nam phải không? Tấn Nam cố dằn lòng không cho nước mắt trào ra Ông bước tới nắm lấy tay bà Hương. Hai người nắm tay nhau vào nhà, Bà Hương ngã vào lòng Tấn Nam người mà Bà đã hơn hai mươi năm chờ đợi, tưởng đâu đã chết giờ sống lại trở về với Bà. Bà không xúc động sao được.

– Ông Tấn Nam nhìn Bà Hương nói em vẫn đẹp như ngày nào. Anh không ngờ anh lại có người con giống anh như đúc. Nó thông minh không khác gì anh thời con trẻ. Bà Hương nói anh gặp nó rồi sao? Tấn Nam nói Tấn Kha ở bên anh hơn năm nay rồi Tấn Kha làm trong công ty của anh. Bà Hương sững sờ thế ra là vậy, anh đã biết tất cả Tấn Nam gật đầu chỉ biết mới đây.

– Bà Hương bỗng nổi lên một cơn buồn vô tả hỏi. Anh được mấy người con. Tấn Nam nói trong cuộc hỗn loạn ấy anh đâu còn cơ hội để gặp lại em. Mạng sống chỉ nghìn cân treo sợi tóc. Anh cũng không ngờ em lại mang thai, từ nơi quê hương nửa vòng trái đất xa xôi. Anh đã bỏ lại bao cô gái đã yêu anh. Họ đã có chồng, còn em thời chờ đợi ở vậy mà nuôi con. Anh nợ em quá nhiều biết bao giờ mới trả hết được đây. Anh không có con trai, chỉ có hai người con gái một đứa hiện giờ đang ở Thái Lan. Một đứa hiện giờ đang ở singapore, vợ anh đã ly dị ưng người chồng mỹ từ lâu.

Cảm thấy cuộc đời tẻ nhạt nên anh mới trở về Châu Á mở ra nhiều công ty để làm ăn quên đi người vợ Tây. Bà Hương nghe Tấn Nam kể Bà khóc vùi như hồi còn trẻ, tiếng điện thoại reo làm hai người sực tỉnh, thì ra có người từ công ty gọi đến. Tấn Nam liền từ giả Bà Hương hai người như không muốn xa nhau. Nhưng rồi Tấn Nam cũng phải trở về công ty giải quyết một số công việc.

– Năm giờ Tấn Kha đã về chiếc xe con đã đậu trước nhà. Kha lấy trong xe ra nào đủ thứ, thứ nào cũng đắc tiền toàn là hàng ngoại của nhiều nước. Kha nói đáng lý ra con đã về từ sớm, nhưng Ông Chủ vì bận việc đi đâu đó con phải thay thế tiếp khách nên con mới về muộn.

– Tấn Kha hỏi hai tháng nay Đào có đến nhà chơi không Mẹ. Bà nói Đào cũng thường xuyên đến. Đào nói không gặp con hai tháng nay. Bà nhìn Kha rồi hỏi con thấy Ông Chủ tổng giám đốc là người thế nào?

– Kha nói con thấy hơi lạ, có lẽ con giống ổng nên ổng coi con như con. Những trọng yếu nơi công ty ổng đều giao cho con. Đôi lúc con thấy có gì đó không ổn làm cho con hết bất ngờ nầy đến bất ngờ khác. Hai đứa con gái Tổng Giám Đốc con đã gặp rồi. Một người ở Thái, một người ở Singapore, đang điều hành công ty. Bà nói hai người con gái giống tây phải không? Kha kinh ngạc sao Mẹ biết Bà hương cười bí mật nói mấy cô nhân viên làm ở công ty nói cho Mẹ nghe. Kha nói hai người con gái Tổng Giám Đốc người Việt pha Tây đẹp lắm mẹ.

– Bà nhìn Kha rồi nói Cha con còn sống chưa có chết. Và Cha con cũng đã mới đến đây, Mẹ đem hình trên bàn thờ xuống rồi không thờ nữa, ai lại thờ người còn sống. Kha vui mừng không kể xiết Cha lâu nay ở đâu vậy Mẹ làm sao Cha biết Mẹ ở đây mà tìm tới ai chỉ cho vậy.

– Có lẽ từ ngày Mẹ về đây con hẻm lớn nhà mình là con hẻm lớn đường Âu Cơ, Mẹ hàng đêm thường nghĩ đến Mẹ Âu Cơ nên khiến xui cho Mẹ cùng con gặp được người cha của con. Cha con đã nhận ra con từ lâu con không hay không biết đó thôi. Kha nghe Mẹ nói đã có ý nghi ngờ nhưng không dám chắc. Nhưng vẫn hỏi người đó là ai vậy Mẹ.

– Con là người thông minh tự mình suy nghĩ hỏi Mẹ làm gì. Kha nói thì ra là Ông ấy, thảo nào Ông coi mình như con, truyền dạy tất cả tài năng kinh nghiệm của Ông, như muốn giao sự nghiệp lại cho mình, Kha thấy mình đã chuyển sang một cuộc đời mới.

Bà Hương nhìn Kha thở dài nói đúng là con với Đào lắm tường rào ngăn cách, tường rào kia chưa phá vỡ nổi lại thêm tường rào mới. Cha của con vốn trước đây là thượng nghị sĩ trong thượng viện Việt Nam Cọng Hòa.

– Kha nói con nghe Mẹ kể cha con là Thượng Nghị Viện thời Việt Nam Cộng Hòa, như giờ Việt Nam Cộng Hòa đâu còn đi vào quá khứ làm gì có chuyện ngăn cách giữa con và Đào. Con có biết cha con hiện giờ là ai không? Tấn Kha như nói giỡn không lẽ con là con Ông Tổng Giám Đốc Việt Á. Bà Hương nói không sai. Tổng Giám Đốc tập đoàn Việt Á chính là cha con, Ông Tấn Nam. Lời xác nhận của Mẹ Kha không còn nghi ngờ gì nữa Kha chỉ biết lặng thinh hai gia đình như hai bức tường cao cả mình và Đào khó vượt qua. Tấn Kha thở dài lắc đầu.

Ở đời lắm chuyện éo le

Xưa thời chiếu rách hôm nay son vàng

Nhận cha duyên phận khó thành

Trong hai chọn một thật là khó khăn

Nghĩ mình thời hiểu người ta

Bấy lâu Đào chịu biết bao trận đòn

Vượt tường nào có dễ dàng

Đến nay vẫn giữ chung tình cùng ai

Kha nói Đào rất giống Mẹ tấm lòng vô cùng cao thượng Đào thương con chỉ là một gia đình nghèo. Trong khi gia đình Đào rất giàu. Đào cũng biết con là con của Quốc Gia nhưng vẫn thương yêu con. Mẹ ơi con phải vượt qua lẽ nào con không bằng Đào.

– Cả đêm Kha trằn trọc không ngủ khổ sở vô cùng nên ngã bệnh may là bữa chủ nhật Kha không đi làm. Bà Hương hoảng quá mau điện thoại cho cha con. Kha nói con không dám điện Mẹ điện đi. Bà Hương liền gọi a lô a lô anh Nam đó hả thằng Kha bệnh rồi, chưa đầy nửa tiếng xe con đã tới. Trời xui đất khiến Đào cũng nghé chơi.

– Đào chứng kiến tất cả Cha của Kha đã trở về người Cha thương con không khác gì từng chung sống với Kha Ông lo lắng cho Kha. Lại nữa Cha của Kha là Tổng Giám Đốc tập đoàn công ty Việt Á. Đào choáng váng định lén đi về. Kha ngồi dậy nắm tay Đào ở lại, giới thiệu với Cha. Đây là người yêu của con, chúng con yêu nhau từ lâu.

– Bà Hương liền kể lại tất cả những gì đã xảy ra Tấn Kha nghe đến đâu thời tái mặt đến đó. Bà nói tuy Đào là con cấp cao của Đảng. Nhưng Đào không bao giờ chê Kha là con của Ngụy. Đào vẫn yêu Kha vượt qua bao nỗi khó khăn.

– Tấn Nam ngồi yên lặng một hồi. Đào nảy giờ đã khóc giờ đây lại đào thêm hố sâu ngăn cách. Cô định lao ra cửa Kha nắm chặt tay không cho Đào đi.

– Tấn Nam nói vết thương nào lâu ngày rồi cũng khỏi chúng con thế hệ sau nào có tội tình gì. Nam Bắc còn nối liền được thay, miễn là đời sau quên đi quá khứ không còn ngăn cách vứt bỏ thương đau. Cha đã về Nguồn theo chân Quốc Tổ Vua Hùng, cha không phản đối tình yêu hai con. Miễn là Cha Mẹ Đào chấp thuận là được.

– Kha nghe xong vô cùng cảm động, người cha thật là vĩ đại vượt qua hận thù, hàn gắn lại những vết thương. Đào đã khóc. Tấn Kha nghe Cha không ngăn cản tình yêu liền khỏe mạnh trở lại, liền nói với Tấn Nam con uống mấy liều thuốc là khỏi.

– Tấn Nam nhìn Bà Hương như nói rằng sức mạnh tình yêu chân thật là sức mạnh không gì ngăn cản nổi.

Tấn Kha cùng Đào không bao lâu nên nghĩa vợ chồng sống với nhau thật hạnh phúc. Tấn Kha trở thành cô đông lớn thứ nhì trong Việt Á trở thành phó Tổng Giám Đốc. Đào trở thành Bà chủ trong công ty Việt Á.

– Ba năm sau Ông Bộ dẫn theo một đứa cháu trai đi dạo phố, Ông nói mệt chưa Tấn Thành. Tấn Thành nói con muốn đi chơi nữa Ông Ngoại.
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
114. ĐI TÌM CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG

Thời nay phải nói là rất nay, mới rợi những năm gần đây. Có một cậu con trai nhà giàu Họ Nguyễn tên là Văn Ba, muốn tìm gặp cho được Chuyển Luân Thánh Vương mà kinh sấm thường nhắc đến đã lâm phàm, nhưng không biết người là ai ở đâu.

Từ ngày có vợ, vợ Văn Ba là Hồng Liên rất phiền lòng không thấy chồng làm ăn mà chỉ suốt ngày nghe ngóng có ai tài giỏi, nhất là xưng Di Lặc thời tìm đến.

Một hôm Hồng Liên nói thời đại bây giờ nhiều người xưng Di Lặc lắm không dễ gì nhận ra ông nào thật ông nào giả. Em là vợ cũng hiểu thế nào là đúng sai, nên không ngăn cản anh tìm Đức Chuyển Luân Thánh Vương. Nếu tìm được thời đời anh lên mây cả em nữa, còn tìm lầm người tin lầm người giả, không những tiền mất tật mang, bệnh mù quáng mê muội sanh ra làm hại đời anh mà cả đời em. Em ủng hộ anh đi tìm Chuyển Luân Thánh Vương, nhưng với một điều kiện khi anh gặp được Chuyển Luân Thánh Vương anh phải về kể lại cho em biết không bỏ sót một chi tiết nào.

Văn Ba nghe vợ nói thế thời lấy làm mừng.

Qua mấy ngày sau Văn Ba lặn lội đường xa tìm người xưng là Di Lặc khi đến nơi thấy người ta theo về khá đông Văn Ba lấy làm mừng vị nầy đích thực là Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương rồi, nên người ta mới theo về khá đông như vậy Văn Ba có bề khúm núm trước một vị thầy tuổi đã cao ăn mặc uy nghi có kẻ hầu người hạ. Văn Ba thành tâm cúng dường như bao nhiêu người khác hầu cầu mong được phúc báo cũng như sự quan tâm của Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương.

Văn Ba nhớ theo lời dặn của vợ

1, là biết rõ việc làm của người ấy

2, là họ đang làm gì nói gì

3, là chí hướng họ ra sao

4, là họ đã làm được những gì

5, là có lợi gì cho nhân loại, cho non sông đất nước

6, là họ để lại những gì, con đường của họ ấy.

Văn Ba ở lại nơi ấy tìm hiểu việc làm của bậc bề trên Đức Chuyển Luân Thánh Vương, Văn Ba thấy Ông Ta giảng thao thao bất tuyệt chuyện trên trời chuyện dưới đất, ba hồi Ông nói theo lời Phật. Ba hồi Ông nói theo lời Chúa. Ba hồi Ông nói theo sấm, ba hồi thời Ông nói theo lệnh Thượng Đế. Văn Ba về kể lại cho vợ nghe. Hồng Liên nghe xong rồi nói Ông ấy không phải Chuyển Luân Thánh Vương đâu Ông ta tự xưng đấy thôi.

Hồng Liên nói Chuyển Luân Thánh Vương là Vua trên tất cả Vua là Chúa trên tất cả Chúa. Người đến trần gian, là làm cho trần gian trở thành thiên đàng cực lạc. Cần gì phải nói theo Ông nầy Bà Kia. Mà tự mình trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, giải thoát nô lệ, kể cả nô lệ Thần Quyền. Người phải có đường mới ra cho nhân loại đi theo, không lệ thuộc vào Chúa hay là Phật, nói chung là không lệ thuộc bất cứ Tôn Giáo, Đạo Giáo nào. Kể cả Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Chuyển Luân Thánh Vương thường là làm việc theo Thiên Ý không có ý riêng chỉ làm theo Ý Trời.

Còn vị mà anh đã gặp không phải làm việc theo Thiên Ý mà là làm việc cho Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Nên ba hồi nói Phật, ba hồi nói Chúa, ba hồi nói Thượng Đế giáng cơ, làm theo sắc lệnh của Ông nầy Bà kia, một trăm phần trăm là Di Lặc dỏm Chuyển Luân Thánh Vương giả. Chuyển Luân Thánh Vương dễ tìm như vậy thời đâu gọi là Chuyển Luân Thánh Vương. Chỉ khi nào người lộ diện cho biết mà thôi. Còn không phải nhờ những người gặp được Chuyển Luân Thánh Vương chỉ cho. Giả sử dù cho gặp cũng không nhận ra được Chuyển Luân Thánh Vương đâu. Văn Ba nghe vợ nói thế liền tỉnh ngộ vô cùng chán nản.

Không bao lâu Văn Ba nghe người ta đồn rầm lên là Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương đã lộ diện đáng mừng hơn nữa chính là người Việt Nam đang chuyển pháp luân ở nước ngoài. Văn Ba liền lặn lội đường xa tìm qua nước bạn. Đến nơi nhìn thấy cơ ngơi của Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương phải nói là bề thế hoành tráng đệ tử lớp lớp phần đông là người Việt Nam đang sanh sống nơi nước bạn ngồi nghe thuyết pháp. Có cả đội ca múa hát ca ngợi Chuyển Luân Thánh Vương, Văn Ba nghĩ đây mới thật là Chuyển Luân Thánh Vương Văn Ba mừng lắm bằng chen lấn vào đảnh lễ cúng dường hầu mong vị Thầy, vị Cha, quan tâm chú ý. Văn Ba cúng dường xong ngồi lắng nghe Chuyển Luân Thánh Vương thuyết giáo.

Vị Thánh Vương nói Ta là đấng tối cao xuống trần chỉ cần quy y Ta, là Ta đưa về Trời, không còn sa đọa xuống địa ngục. Quyền năng của Ta sao thời Ta nói vậy. Mỗi lần vị Chuyển Luân Thánh Vương quan tâm đến ai là mỗi lần bắt ấn niệm chú làm tiêu tan hết mọi tội lỗi, thọ ký cho lên cõi thiên đàng. Văn Ba mừng quá trở về nước kể lại cho vợ nghe. Hồng Liên nghe xong rồi hỏi.

Người ấy có nói đến năm màu da Anh Em không? Có nói đến chủ nghĩa Đại Đồng không? Văn Ba nói Ông ấy không làm việc cho chủ nghĩa Đại Đồng cũng như không nói đến năm màu da anh em, chỉ ca ngợi tài năng của Ông mà thôi.

Hồng Liên lại hỏi. Ông Ấy đang làm việc cho ai? Thiên Ý Cha Trời Thiên Luật Vũ Trụ. Văn Ba nói Ông Ấy làm việc cho quyền năng của Ông.

Hồng Liên lại hỏi:

Vị Chuyển Luân Thánh Vương Di Lặc ấy có để lại Kinh Giáo không? Làm rạng danh cho dân tộc Việt Nam không Có ca ngợi Cội Nguồn không? Có nói đến Rồng Tiên không? Văn Ba nói không có Kinh Giáo để lại, cũng không ca ngợi Cội Nguồn, không đá động gì đến con Rồng cháu Tiên. Hồng Liên nghe xong, rồi nói cũng chỉ là Di Lặc dỏm Chuyển Luân Thánh Vương giả.

Theo đúng những gì cơ sấm nói Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương sanh xuống đất nước nào dân tộc nào, thời đất nước đó tỏa sáng, dân tộc đó trổi dậy anh linh, trở thành dân tộc bá chủ năm châu Văn Minh về Tinh Thần lẫn Vật Chất. Đời, Đạo cũng chỉ là một. Tất cả đều tôn thờ Thiên Luật sống theo Thiên Ý. Biến trần gian thành Thiên Đàng Cực Lạc. Theo như lời anh kể vị Chuyển Luân Thánh Vương ấy tự cho mình còn hơn cả quyền Tạo Hóa. Nên mới nói chỉ cần quy y Ông Ta là Ông Ta đưa lên thiên đàng cực lạc. Chỉ cần vài câu Ấn Chú là đủ. Luật Nhân Quả, Luật Vay Trả, Luật Siêu Đọa là do Ông Ta tạo ra chắc. Quả là lừa dối có tầm cỡ.

Đã là người Việt Nam không làm cho đất nước Việt Nam tỏa sáng, mà chỉ khoe khoang ca ngợi quyền năng quyền phép của mình. Không làm cho dân tộc Việt Nam trổi dậy anh linh trở thành Dân Tộc Thần Thánh. Thời sự giáng sanh xuống Dân Tộc Việt Nam có ý nghĩa gì. Cũng không để lại Kinh Luân Giáo Pháp lấy gì mở hội Long Hoa, vì Hội Long Hoa chính là Truyền Thống Anh Linh Rồng Tiên kết trái đơm hoa kéo dài đến ba nghìn năm. Văn Ba nghe vợ giải thích liền nói không lẽ Di Lặc dỏm Chuyển Luân Thánh Vương giả. Hồng Liên nói giả hiệu một trăm phần trăm. Văn Ba lại một phen nữa thất vọng.

Cho đến một hôm Văn Ba vô tình thấy trên Faecbook xuất hiện Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương, người nầy thay mặt cho Thượng Đế. Hàng phục nhân loại mở hội Long Hoa đi vào cơ Thánh Đức, Văn Ba mừng lắm qua mấy ngày sau thời tìm đến lễ lạy cúng dường, người ấy xưng là Cha. Qua sự tìm hiểu kỹ người ấy cũng không để lại kinh luân, đôi lúc nói theo Phật, Chúa, nhất là tiếp điển tối cao Thượng Đế, nhưng được cái là ca ngợi Cội Nguồn, Ca Ngợi Quốc Tổ, đề cao con cháu Tiên Rồng. Không lẽ lại là người nầy Di Lặc tái sanh Chuyển Luân Vương xuất thế. Bằng trở về nói lại với vợ. Hồng Liên nghe xong liền lắc đầu đây cũng chỉ là Di Lặc dỏm Chuyển Luân Thánh Vương giả hiệu. Vì sao lại nói như thế.

Theo như kinh sấm nói Chuyển Luân Thánh Vương xuất thế hàng phục nhân loại con người, đi vào cơ Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Có nghĩa là Chuyển Luân Thánh Vương hàng phục nhân loại con người bằng Trí Huệ chính là giáo pháp chân lý của Ngài. Thế gian có gì thời Ngài có nấy để hàng phục.

Ví dụ: Nhân loại thế gian nhiều thành phần. Thành phần chuyên môn về Văn, thành phần chuyên môn về Sử, thành phần chuyên môn về Triết, thành phần chuyên môn về Thơ, thành phần chuyên môn về Truyện, thành phần chuyên môn về Kinh, thành phần chuyên môn về luận. Thành phần chuyên môn về Khoa Học, chuyên môn về Kinh Tế, v. V.. Người nầy tuy xưng là Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương, nhưng không có để lại Kinh, Thơ, Văn, Triết, Sử, Truyện, Luận. Chuyển Luân Thánh Vương là vị Tối Cao Trị Quốc người xuất hiện là Luật Tạng Vũ Trụ cũng xuất hiện, trở thành Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Pháp Vương của thời Thánh Đức.

Còn người tự xưng là Chuyển Luân Thánh Vương không có gì cả. Thời lấy gì để hàng phục nhân loại đi vào Cơ Thánh Đức cũng như mở Hội Long Hoa. Văn Ba nghe vợ phân tích xong lấy làm thất vọng nói. Trên đời nầy làm gì có người như thế nội giỏi về Sử không cũng đã khó, nói gì đến giỏi Kinh, giỏi Thơ, Giỏi Triết, giỏi Truyện, giỏi Luật, giỏi Luận. Giỏi Khoa Học. Đời Đạo đều ở đỉnh cao như vậy. Làm gì có con người nầy. Hồng Liên nói khi nào anh tìm ra được con người nầy dù ở giai cấp thành phần nào không quan trọng. Dù người ấy không xưng mình là Di Lặc hay Chuyển Luân Thánh Vương. Thời nhân loại cũng suy tôn Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương.

Như vậy muốn tìm ra Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương phải nhìn thấy Kinh, Thơ, Triết, Truyện, Văn, Sử, Đạo, Luật, Luận, do người để lại. Đi vào Cơ Tận Độ. Hết lớp thừa kế nầy truyền trao cho lớp thừa kế tiếp theo cứ như thế theo con đường do Chuyển Luân Thánh Vương đã mở ra đi vào cơ tận độ nhân loại con người kéo dài hàng nghìn nghìn năm.

Và cho đến một hôm Văn Ba vô tình thấy trên Faecbook Kinh, Thơ, Triết, Truyện, Văn, Sử, Đạo, Luật Văn Hóa Cội Nguồn, liền nói với vợ anh đã tìm ra Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương rồi. Hồng Liên nghe nói cũng vui mừng từ đó hai vợ chồng thi nhau đọc Kinh, Thơ, Triết, Truyện, Văn, Sử, Đạo Luận.

Hồng Liên nói Kinh, Thơ, Triết, Truyện, Văn, Sử, Đạo, Luật, Luận chính là Huệ Mạng Anh Linh Chuyển Luân Thánh Vương. Vì sự thành tâm mong cầu nên gặp được người mình xưa nay muốn tìm. Nghe được những lời truyền dạy cao siêu phải nói là không thể nghĩ bàn hay luận bàn sự vi diệu của sự truyền dạy ấy.
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
115. CÂU CHUYỆN LY KỲ NGU NHƯ BÒ

Ngày xửa ngày xưa có một đồng cỏ, ngày nào đàn Trâu đàn Bò cũng đến đó ăn, nhưng có một cái ao để uống, nên đàn Bò đàn Trâu không ai muốn nhường cho ai, nên thường xảy ra xung đột lẫn nhau.

Vào một ngày kia, đàn Trâu nói với đàn Bò để có sự công bằng hể bên nào thắng thời làm chủ cái ao kia, đàn Bò vốn tự cho mình là thông minh, nên gật đầu bằng lòng. Hai bên đấu lý qua đấu lý lại bên nào cũng cho mình thắng không ai chịu mình thua ai. Khi ấy có một đàn sáo bay đến nói lũ Trâu Bò kia dù cho đấu lý đến cả tháng cũng không phân được thắng thua vì không có trọng tài. Vì bên nào cũng cho mình thắng. Đàn Trâu đàn Bò nghe đàn Sáo nói thế cũng có lý bằng nói để có sự thắng thua một cách Công Bằng xin đàn Sáo làm trọng tài cho, đàn Sáo gật đầu.

Đã có đàn Sáo làm trọng tài bên nào cũng muốn ra đề trước không ai chịu nhường cho ai. Đàn Sáo thấy vậy nói tôi có một cách là hai bên đánh tù tì bên nào thắng bên đó ra đề trước. Đàn Trâu đánh tù tì thắng cuộc bằng ra đề.

Nầy đàn Bò ai là người ban cho chúng Ta ơn huệ nhiều nhất. Đàn Bò hội ý với nhau rồi trả lời, đàn Bò nói Ông Chủ của chúng Ta chứ còn ai nữa. Đàn Trâu nghe xong lắc đầu nói không đúng, tuy rằng Ông chủ làm chuồng cho chúng ta ở, bỏ rơm cắt cỏ cho chúng ta ăn, xách nước cho chúng ta uống, nuôi lớn chúng ta. Đàn Bò cắt ngang nói thấy công lao của Ông Chủ chưa ngoài Ông chủ ra còn ai ban cho chúng ta nhiều ân huệ như thế, đàn Bò nói lũ Trâu các ngươi thua rồi, ao nước kia thuộc về đàn Bò chúng tôi. Đàn Trâu các ngươi phải tìm ao khác để mà uống.

Đàn Trâu nói thua hay thắng phải do trọng tài phán quyết đâu phải đàn Bò các ngươi. Đàn Trâu nói người ban cho chúng ta nhiều ân huệ nhất chính là Trời. Trời tạo ra quả địa cầu cho chúng ta sống, quả địa cầu rộng lớn để cho chúng ta tự do muốn đi đâu thời đi, tạo ra cây cỏ cho chúng ta ăn. Trời tạo ra không khí cho chúng ta hít thở, tạo ra nước để cho chúng ta uống. Trời tạo ra mặt trời để chúng ta sưởi ấm, tạo ra những trận mưa có nước tắm mát chúng ta. Nhưng Trời nào đòi hỏi ở chúng ta gì cả.

Còn Ông Chủ ban cho ta chuồng để ở là nhốt chúng ta lại, bắt chúng ta nằm trong khuôn khổ cướp mất quyền tự do chúng ta. Ông Chủ nuôi chúng ta thời cũng bắt chúng ta cày ruộng kéo bừa, đạp mía, kéo xe đủ thứ khó nhọc. Ông Chủ bỏ rơm cắt cỏ cho ta ăn, xách nước cho ta uống để ta có thịt Ông Chủ bán chúng ta vào lò mổ. Ông Chủ kiếm tiền trên xương máu của chúng ta, có qua có lại chúng ta đâu thiếu nợ gì Ông Chủ không nói là Ông Chủ bóc lột tận xương tủy của chúng ta, ăn trên xương máu của chúng ta. Đâu như Ông Trời ban cho chúng ta đủ thứ. Ban cho chúng ta chúng ta sự sống, sự tự do, sự mưu cầu hạnh phúc. Nhưng Trời nào có đòi hỏi ở chúng ta, dù đó chỉ là một lời cảm ơn. Phi Ân Bất Cầu Báo. Đàn Bò nghe xong chẳng hiểu gì cả nhìn đàn Sáo. Đàn Sáo nói đàn Bò các ngươi thua rồi. Đàn Bò cải thua ở chỗ nào? Đàn Sáo nói Trời có bán các ngươi vào lò mổ không? Đàn Bò nói làm gì có chuyện đó, đàn Sáo lại nói sống bị nhốt, sống tự do lũ Bò ngươi chọn cái nào. Đàn Bò trả lời thế mà cũng hỏi đương nhiên sống tự do hơn hẳn sống bị nhốt rồi. Đàn Sáo lại nói người tạo ra cỏ cho đàn Bò ngươi ăn, tạo ra nước cho đàn Bò ngươi uống, tạo ra không khí cho đàn Bò ngươi thở. Tạo ra quả địa cầu to lớn cho đàn bò ngươi được đi đây đi đó tự do sung sướng, tự do mưu cầu hạnh phúc nhưng không đòi hỏi gì ở đàn Bò các ngươi dù là một lời cảm ơn. Người ấy có hơn Ông Chủ không? Đàn Bò nói hơn hẳn Ông Chủ gấp vạn lần. Đàn Sáo nói đàn Bò các ngươi thua rồi đàn Bò cải thua ở chỗ nào. Đàn Trâu nghe trọng tài đàn chim Sáo phán thế reo hò ùa xuống ao uống nước khoái chí ngâm mình tắm mát dưới ao. Đàn bò thua cuộc kéo nhau bỏ đi đàn chim sáo nhìn theo nói ngu như Bò.
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
116. TU VẠN KIẾP NGỘ NHẤT THỜI

Ngày xửa ngày xưa có một vị thầy tên là Pháp Hải thường cho mình thông thạo đạo pháp ít ai bì kịp. Để chọn một người học trò thật ưng ý liền nghĩ ra một cách người nào từ bỏ lòng Ái Dục, cũng như lòng Mong Cầu Ham Muốn, thời sẽ nhận làm đệ tử.

Sự chọn lựa ấy cuối cùng Thầy Pháp Hải cũng tìm được một người đệ tử như ý tên là Thông Tuệ.

Thông Tuệ được nhận làm đệ tử theo học chăm chỉ tu luyện tinh tấn kinh kệ thông suốt, cho đến một hôm Thông Tuệ hỏi thầy Pháp Hải.

Thưa Thầy đoạn diệt lòng Ái Dục chấm dứt sự Ham Muốn Mong Cầu của mình mới đạt đến đỉnh cao của sự tu hành phải không thầy.

Thầy Pháp Hải nói đúng vậy:

Nếu không đoạn được Ái Dục, cũng như sự Ham Muốn Mong Cầu thời không bao giờ đi đến thành quả được.

Thông Tuệ nói theo con nghĩ sự Ái Dục cũng như lòng Ham Muốn Mong Cầu chính là căn bản của Đạo Giải Thoát đó thầy. Thầy Pháp Hải nghe xong lắc đầu nói con bị Tà Ma nhập rồi nên mới nói như thế Ái Dục, Ham Muốn, Mong Cầu chính là căn bản của Phiền Não. Các bậc chân tu đều đoạn diệt sự Ái Dục cũng như lòng Ham Muốn, Mong Cầu giải thoát sự đau khổ.

Thông Tuệ nói Thầy là bậc chân tu, tu mấy mươi năm mà không bỏ được sự Ái Dục lòng Ham Muốn ý Mong Cầu. Phải nói sự Ái Dục lòng Ham Muốn ý Mong Cầu của thầy phải nói là rất mạnh, ít ai theo kịp Thầy.

Bằng chứng Thầy lúc nào cũng ưa mến Tây Phương Ham Muốn Mong Cầu siêu sanh về Tây Phương cực lạc. Thầy là bậc cao siêu còn bỏ không được sự Ái Dục lòng Ham Muốn ý Mong Cầu phải nói là liên tục không lúc nào quên, chỉ một đệ tử tầm thường như con làm sao bỏ được. Thầy Pháp Hải nghe xong như bị một cú sốc mạnh.

Thông Tuệ lại nói sự Ái Dục lòng Ham Muốn ý Mong Cầu là điều tất yếu tự nhiên của con người, là căn bản cái Gốc của Đạo làm sao mà bỏ được. Nhưng Ham Muốn Ái Dục Mong Cầu cái gì, mới là đều đáng nói.

Nếu đó là sự Ham Muốn Ái Dục Mong Cầu bất chính thời không nên, còn Ham Muốn Ái Dục Mong Cầu chân chính là việc đáng nên làm. Dù sống trên Tây Phương cũng thế, sống nơi Trần Gian cũng vậy. Biết cái nào cần phải loại bỏ cái nào cần phải duy trì. Thời đó mới chính là quả Trí Tuệ.

Đã là sự sống thời có lòng Ái Dục sự Ham Muốn Mong Cầu. Ngay cả A Di Đà phát 48 lời đại nguyện không phải là sự Ham Muốn Ái Dục Mong Cầu độ tận nhân loại con người hay sao, quyết chí làm cho ai cũng được như mình đều có sự an vui tự tại cực lạc. Bỏ mất lòng Ham Muốn sự Ái Dục Mong Cầu thời lấy đâu đi đến quả Phật, tuy chân Tâm là Phật, Lương Tâm là Phật Tánh, nhưng muốn thành quả Phật thời phải phát nguyện độ chúng sanh. Thầy Pháp Hải lặng thinh không nói vì Thầy Pháp Hãi đã tỉnh ngộ hiểu rõ lòng Ham Muốn sự Ái Dục ý Mong Cầu chính là căn cội của Đạo Bồ Đề. Lòng Ái Dục sự Ham Muốn ý Mong Cầu không sáng suốt thời chính lòng Ái Dục sự Ham Muốn ý Mong Cầu chính là căn bản tạo ra Phiền Não dẫn đến vô lượng khổ. Còn lòng Ái Dục sự Ham Muốn ý Mong Cầu chân chính. Thúc Dục con người mau thành Đạo Quả chứng quả Ba La Trí Huệ thành tựu vô lượng phước đức an vui tự tại.

Cho đến một hôm Thông Tuệ lại hỏi thưa Thầy từ bỏ sự giàu sang, xa lánh những báu vật mới thật sự là chân tu có phải không thầy.

Thầy Pháp Hải nói người tu chân chính đương nhiên phải là như thế.

Thông Tuệ nghe xong trầm ngâm giây lát rồi nói, thế thời những người ở trên cõi Cực Lạc Tây Phương, hay những cõi Thiên Đàng đều sống trên thế giới châu báu đều là những người phạm giới không phải chân tu. Trong kinh nói cõi Linh Sơn nơi Phật ở cũng toàn là châu báu. Cõi Tây Phương Cực Lạc cũng toàn là châu báu. Nói như Thầy sống trên châu báu đều không phải là chân tu. Như vậy những vị chân tu không nên cầu siêu sanh về thế giới Cực Lạc toàn là châu báu. Mà cầu sanh về Sa Mạc để ở đúng với chân tu là từ bỏ sự giàu sang.

Thầy Pháp Hải nghe xong tái mặt nói Tao là Thầy hay là Mầy. Thấy Thầy nổi giận quát tháo Thông Tuệ nói con chỉ nói lên sự thật. Tu hành chẳng qua là bỏ cái Ác đi đến cái Thiện. Bỏ sự Mê Muội đi đến Giác Ngộ mà thôi. Lìa bỏ sự giàu sang nơi cõi tạm trần gian, tìm đến sự giàu sang vĩnh hằng trên Thiên Giới. Thầy Pháp Hải nghe những lời ấy liền tỉnh ngộ. Tìm Phật cũng chẳng ở đâu xa mà ngay tại nơi Tâm của chính mình. Quả Phật cũng rất gần chính là tận độ con người hành thiện. Cực Lạc không phải chỉ ở Tây Phương, mà ngay tại trần gian nầy cũng tìm thấy Tây Phương Cực Lạc. Ở ngay trong Chân Tâm của chính mình. Dù ở đâu cũng thế mà thôi. Thiên Đàng, Trần Gian, hay Địa Phủ. Liền ra khỏi tam giới an vui tự tại.

Thông Tuệ cũng không còn ở đó nữa mà đã bỏ đi không biết là đi đâu. Thầy Pháp Hải tự nói cho mình nghe đi đâu nữa nơi đâu cũng là nhà. Chỗ nào cũng là Cực Lạc an vui tự tại.
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
117. GIẢI THOÁT SANH TỬ

Ngày xửa ngày xưa có vị Tu Sĩ tu mãi mà không chứng được quả Sanh Tử dù đã có lục thông, thấy rõ Thiên Đàng, Địa Phủ. Cho đến một hôm vị Tu Sĩ tìm đến Tôn Sư Chân Nhân hỏi.

Thưa Tôn Sư: Tu hành giải thoát Sanh Tử là sao?

Vị Tôn Sư nói: Chân Tâm Chân Tánh làm gì có sanh tử mà tu giải thoát. Chỉ hội ngộ Chân Tâm Chân Tánh cũng như thấu hiểu Lương Tâm của chính mình Minh Tâm Kiến Tánh mà thôi.

Vị Tu Sĩ lại hỏi: Khi chứng ngộ Minh Tâm Kiến Tánh thành phật rồi có sanh tử không?

Vị Tôn Sư trả lời: Thành Phật là sống theo Chân Tâm Chân Tánh hành động theo Lương Tâm làm gì có sanh tử. Nhưng xác thân thể tướng của Phật đã có sanh thời phải có tử. Đã vay mượn xác thân tứ đại, thời phải trả xác thân về cho tứ đại. Dù cho đó là xác thân kim cương thời cũng phải có tuổi thọ của nó. Cho nên nói thấy 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp chưa phải là thấy được Chân Tâm Chân Tánh cũng như Lương Tâm Phật Tánh, Thánh Tánh nên chưa diện kiến được Như Lai.

Những người sống theo Lương Tâm Phật Tánh, Thánh Tánh làm chủ Chân Tâm Chân Tánh, không bao giờ thấy mình sanh tử. Chỉ vay mượn xác thân rồi trả lại xác thân mà thôi. Hết xác thân nầy đến xác thân khác. Kiếp thời mang xác thân Tiên Thiên, kiếp thời mang xác thân Phàm Tục. Kẻ chưa Minh Tâm Kiến Tánh nghĩ xác thân tứ đại là của mình nên tưởng rằng mình có sanh có tử.

Còn những người sống theo Lương Tâm Phật Tánh làm chủ Chân Tâm Chân Tánh dù trải qua hàng nghìn xác thân cũng không thấy mình sanh tử. Vì đã ra khỏi sanh tử, hiểu rõ chính mình, cũng như hiểu rõ xác thân vay mượn. Đã vay mượn thời phải trả thế thôi.

Thân xác vay mượn dù có chết, nhưng Linh Hồn nào có mất. Đừng bao giờ sợ chết, vì chết chỉ là trả lại xác thân tạm mượn mà thôi. Bằng chứng là Tu Sĩ đã trải qua vô lượng kiếp. Có những kiếp Tu Sĩ đã từng làm vua Trời. Có những kiếp Tu Sĩ đã từng làm người giàu, cũng có kiếp làm người nghèo vì đã hết phước, có những kiếp làm Quan. Kiếp nầy làm Tu Sĩ. Chân Tâm Chân Tánh, Lương Tâm của Tu Sĩ khi ở kiếp nghèo cũng bấy nhiêu. Khi làm Vua Trời cũng chẳng thêm, giờ đây làm Tu Sĩ cũng chẳng bớt nói chung là Chân Tâm, Chân Tánh, Lương Tâm Phật Tánh, Thánh Tánh dù trả qua vô lượng kiếp cũng không thêm không bớt, dù cho là kiếp chúng sanh hay kiếp phật. Bất Tăng, Bất Giảm, Bấu Cấu, Bất Nhiễm Như Như thường còn mãi mãi.

Nhưng điều đáng nói ở đây hể Chân Tâm Chân Tánh bị vô minh che lấp hành động trái ngược lại Lương Tâm gieo bao nghiệp ác, thời nhất định bị sa đọa theo nghiệp ác của mình không sao tránh khỏi theo định luật tự nhiên của vũ trụ.

Nói Tóm Lại: Người sống theo Chân Tâm Chân Tánh, Sống Theo Lương Tâm, Minh Tâm Kiến Tánh thời coi như ra khỏi Sanh Tử.

Vị Tu Sĩ nghe xong liền tỉnh ngộ thầm nghĩ thì ra giải thoát Sanh Tử chỉ là như vậy, nhận ra Chân Tâm Chân Tánh Lương Tâm của mình là thôi. Thì ra nhân loại con người ai cũng như ai không ai khác ai Chân Tâm Chân Tánh, Lương Tâm đồng nhất y chang nhau. Nên Phật nói Ta thành Phật trước các ngươi, chúng sanh thành Phật sau. Chỉ khác nhau ở cảnh giới Mê và Ngộ. Ác và Thiện mà thôi. Vị Tu Sĩ nói Văn Hóa Cội Nguồn quả là Văn Hóa Chánh Đẳng Chánh Giác. Vị Tôn Sư nói đúng vậy. Vì Văn Hóa Cội Nguồn chính là Văn Hóa Thiên Ý Cha Trời. Văn Hóa Tối Cao Vũ Trụ. Văn Hóa giải thoát sanh tử. Văn Hóa Thầy Nhân Loại và Chư Thiên.
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
118. CHỨNG NGỘ GIẢI THOÁT

Trong thời đại xã hội văn minh, có một người giàu có tên là Ông Hộ sanh được hai trai một gái. Nhất là cô gái út tên là Mỹ Duyên cực kỳ xinh đẹp càng lớn càng mộ đạo, lại thông minh hơn người. Bao chàng trai nhà giàu đem lòng mơ ước tán tỉnh, nhưng không có chàng nào lọt vào mắt xanh của cô.

Ông Hộ thấy con lớn tuổi bằng khuyên Mỹ Duyên con nên lấy chồng lập gia đình vì tuổi con đã lớn. Mỹ Duyên nghe cha nói vậy bằng nói thời nay mà cha, lấy chồng làm gì cho sớm ba mươi không ế đâu mà sợ. Mấy đứa bạn của con có chồng rồi chẳng may duyên phận rủi ro gặp phải hoàn cảnh không như ý muốn than thở sầu khổ, có đứa không tìm thấy hạnh phúc bằng ly dị. Cuộc thế vô thường sự đời luôn thay đổi, đang hạnh phúc trở thành buồn tẻ, con không chịu được cái cảnh mười hai bến nước trong nhờ đục chịu. Ông Hộ nghe Mỹ Duyên nói như vậy nên làm thinh không nói gì nữa.

Mỹ Duyên theo Văn Hóa Cội Nguồn thường đến đền thờ nghe Tôn Sư Thiện Hạnh thuyết giáo giảng đạo, đệ tử theo về rất đông. Hôm ấy có một số đệ tử trong đó có Mỹ Duyên thỉnh cầu Tôn Sư Thiện Hạnh giảng về đạo giải thoát. Tôn Sư Thiện Hạnh liền giảng chân lý giải thoát cho hàng đệ tử nghe.

Tôn Sư Thiện Hạnh thuyết giáo giảng rằng chân Lý giải thoát vô cùng đơn giản, nhưng đi vào hành động giải thoát thời mới khó.

Ví Dụ: Người mê bài bạc, càng mê bài bạc thời càng khổ, dẫn đến tan nhà nát cửa, liền tỉnh ngộ lìa bỏ bài bạc thoát ra khỏi đam mê bài bạc, có nghĩa là quyết tâm giải thoát ra khỏi cảnh giới bài bạc, tìm lại sự bình yên đó là Đạo. Đi vào cốt lõi của tứ diệu đế. Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế một cách tự nhiên, dù biết rằng mình chưa bao giờ học qua Tứ Diệu Đế. Vì nhận ra cái Khổ, đi vào cái khổ chính là thói quen kết tập mê bài bạc. Để dứt khổ thời phải đoạn Diệt dứt bỏ thói quen mê bài bạc. Ra khỏi cảnh giới cờ bạc tìm lại sự bình yên cho bản thân đó là Đạo. Thức tỉnh con người xa lánh bài bạc đó là Đức.

Lại nữa người nghiện rượu càng nghiện càng khổ. Thức tỉnh giác ngộ lìa bỏ thói quen nghiện rượu, thói quen nghiện rượu chính là tập quán kết Tập ưa thích trong tâm, đoạn Diệt thói quen ưa thích kết Tập trong tâm, ra khỏi cảnh giới nghiện rượu tìm lại sự bình yên trong tâm đó là Đạo. Đi vào cốt lõi của tứ diệu đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo như một định luật tự nhiên. Muốn giải thoát sự Khổ thời phải đi vào quy luật Tứ Diệu Đế, theo Định Luật Tứ Diệu Đế thời nhất định giải thoát khổ. Tứ Diệu Đế là một công thức tự nhiên công thức Diệt Khổ đi đến an vui gọi đó là Đạo. Biết nghiện rượu là khổ, đoạn diệt thói quen tập quán nghiện rượu là Giải, ra khỏi cảnh giới nghiện rượu là Thoát, đem lại sự bình yên cho bản thân gọi đó là Đạo. Thức tỉnh con người không nên sa đọa nghiện ngập đó là Đức.

Lại nữa đấu tranh chém giết lẫn nhau dẫn đến kết Tập Hận Thù là khổ. Lấy oán trả oán không sao dứt được Hận Thù khổ chồng lên khổ. Muốn dứt khổ cần phải dứt bỏ sự kết tập lấy oán trả oán gọi là Giải, thoát ra khỏi sự Hận Thù gọi là Thoát. Giải Thoát Hận Thù đem lại sự bình yên cho cuộc sống gọi đó là Đạo. Khuyên người nên mở rộng lòng thương yêu tha thứ cho nhau đó là Đức.

Lại nữa đất nước mãi rơi vào Nô Lệ là Khổ, nỗi khổ nô lệ là do bỏ Cội lạc Nguồn dẫn đến kết Tập bất nhân, bất nghĩa, bất trung, bất hiếu. Muốn dứt trừ từ bỏ nô lệ dẫn đến Khổ. Thời phải đoạn Diệt kết Tập bất nhân, bất nghĩa, bất trung, bất hiếu đối với Cha Ông. Sống có Nhân, có Nghĩa, có Trung, có Hiếu đối với Cha Ông Cội Nguồn đó là Đạo. Khuyên con cháu Tiên Rồng trở về Cội Nguồn tôn thờ Ông Cha đó là Đức. Nói chung chân lý giải thoát sự khổ đi đến an vui là như vậy. Diệt cái Nhân gây ra sự Khổ thời Đạo an vui sẽ thành.

Rộng lớn hơn nữa là sự Giải Thoát toàn diện, trở lại Thiên Đàng Cực Lạc. Khi nhận thức Trần Gian Bể Khổ, không những là Bể Khổ, mà còn là Trần Gian Cõi Tạm. Là trường thi tiến hóa Linh Hồn. Từ Mê sang Ngộ, từ Ác sang Thiện. Đã gọi là Trường Thi Trần Gian Cõi Tạm Bể Khổ, không có sự Vĩnh Hằng. Vì thế càng Dục Vọng nơi Trường Đời Giả Tạm thời càng khổ do đó phải đoạn Diệt sự ham muốn nơi Trần Gian đi vào kết Tập. Ham muốn Tiền Tài Danh Lợi. Ham muốn ăn sung mặc sướng. Nói chung là Ham Muốn đủ thứ thường tục dẫn đến sự Khổ. Khổ sa đọa xuống các tần Địa Phủ vì hành Ác. Khổ do gieo Nhân bất chính nên gặt quả chẳng lành. Để có được sự an vui Vĩnh Hằng như siêu thoát về Thiên Đàng. Chuyển hướng sự Ham Muốn theo một lộ trình khác. Tức là đi theo con đường Đạo Đức, mà Quốc Tổ đã truyền lại cho đời. Đi theo con đường Đại Đạo Vũ Trụ Thiên Ý Cha Trời. Trở thành Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mệnh, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định. Như một Định Luật Tự Nhiên. Không cần học Bát Thánh Đạo trong tâm cũng tự có Bát Thánh Đạo. Đi đến giải thoát toàn diện qua Định Luật Thập Nhị Nhân Duyên.

Con đường đi đến kết quả an vui, hay đi đến kết quả khốn khổ đều trải qua Thập Nhị Nhân Duyên. 12 móc xích liên kết tạo ra.

1, là Chân Tâm Chân Tánh, 2, là Hành, 3, là Thức ý thức nhận thức, 4, là Danh Sắc lục trần, 5, là Lục Nhập lục trần nhập vào lục căn, 6, là Xúc sự tiếp xúc, 7, là Thụ Thọ cảm nhận, 8, là Ái ưa thích, 9, là Thủ bảo thủ, 10 là Hữu hữu là có, căn nghiệp hình thành đầy đủ. Hể có quả nghiệp đầy đủ liền khởi sanh. Khởi sanh là đi vào kiếp mới hễ có sanh thời có tử như một Định Luật Tự Nhiên.

Nếu Chân Tâm Chân Tánh Bất Minh có nghĩa là không sáng Vô Minh. Đi vào Hành Động Ác tạo ra một chuỗi dài từ Vô Minh Mê Muội. Sanh ra Hành Ác, tạo ra Nhận Thức Bất Chính. Tiếp nhận Danh Sắc Bất Chính từ lục trần. Lục trần xâm Nhập vào 6 giác quan. Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, sự tiếp Xúc ấy thành thói quen gọi là Thụ. Thụ Thọ lãnh đi đến là Ái ưa thích, đã ưa thích liền bảo Thủ bám chặt gắng bó không rời. Sanh ra có hình có tướng của nghiệp Ác gọi là Hữu. Đã có nghiệp Ác thời khởi sanh tướng mạng, có tướng mạng thời phải chịu theo Định Luật Tuần Hoàn. Sanh Trụ, Dị, Diệt có nghĩa là Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Đi đến chu kỳ một vòng đời. Nếu Chân Tâm Chân Tánh Bất Minh Hành ác thời kết quả một vòng đời con người từ quá khứ đến hiện tại phải nhận lấy nhiều thảm họa tai ương khốn khổ.

Còn nếu Chân Tâm Chân Tánh Minh Chánh tỏa sáng hành động Chân Thiện tạo ra một chuỗi dài từ Chân Tâm Chân Tánh, hành động tạo tác phúc lành, nhận thức Giác Ngộ. Tiếp nhận Danh Sắc từ lục trần những gì tốt đẹp. Nhập vào 6 giác quan, Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý. Sự tiếp xúc Lục Nhập ấy kết tập thành thói quen. Sanh ra cảm tình yêu mến tức là ưu Ái ưa thích. Đi đến Bảo Thủ bám chặc gắng bó. Cảnh giới chân thiện đi vào kết quả. Đã có kết quả liền khởi sanh đi vào sự sống kiếp mới. Thai sanh hoặc hóa sanh. Đương nhiên có sanh thời phải có tử đó là Định Luật của Tạo Hóa. Nhưng kiếp đời của vị nầy phải nói là phước báo vô cùng vô tận vô biên.

Mỹ Duyên nghe xong liền giác ngộ làm chủ chân lý Định Luật giải thoát đi vào Đạo. Truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn độ người gieo trồng Phước Đức. Về sau trở thành Thánh Mẫu. Làm Vương Mẫu một cõi trời. Trường sanh bất tử an vui tự tại.

* * *
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
THIÊN ẤN THIÊN BÚT

GÒ HỘI

ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI

2014

Cao Đức Thắng

QUYỂN 1

LỜI NÓI ĐẦU

Long Hoa Lược Truyện là bộ truyện nhân văn đỉnh cao khai mở trí huệ toàn diện, trên nhiều lãnh vực kinh tế chính trị, quân sự, thương nghiệp, ngoại giao, không thể nghĩ bàn.

Long Hoa Lược Truyện là món ăn bổ ích cho tâm hồn dù bất cứ hoàn cảnh nào Long Hoa Lược Truyện cũng đem lại cho cuộc sống bao tốt đẹp, nhất là về nhân cách, phẩm hạnh đạo đức, trí huệ anh hùng, loại bỏ cái ác vươn tới cái thiện, tạo ra cuộc sống mùa xuân của muôn nghìn sắc hoa sôi động rực rỡ hạnh phúc.

Long Hoa Lược Truyện là tấm gương phản ảnh hiện thực cuộc sống ca ngợi Đạo Đức, phê phán gian ác, loại bỏ phi nghĩa, tôn vinh chính nghĩa.

Đọc qua Long Hoa Lược Truyện chúng ta phân biệt được cái xấu và cái tốt rung động trước mối tình chung thủy cao đẹp nhất của tình yêu.

Ở đâu có Long Hoa Lược Truyện, thời ở đó luôn mở màn cho cuộc sống mới, cuộc sống được chọn lọc tinh tế. Từ xa xưa chưa có chữ viết. Ông Cha ta cũng đã sáng tạo ra dòng văn chương ngôn ngữ truyền miệng lưu truyền mãi cho đến ngày nay, nhờ có chữ viết đa dạng trên toàn thế giới dù cho đó là chữ viết gì, thời dòng văn chương ngôn ngữ truyền miệng được lưu chép phổ rộng tỏa sáng lên.

Có chữ viết giúp con người tiến gần với nhau hơn biết nhau hơn sống hòa hợp vui vẻ trong cuộc sống, mỗi một cốt truyện Cội Nguồn lịch sử, mẫu truyện tình yêu chung thủy, mẩu truyện anh dũng là để cho chúng ta tham quan hoặc tắm mình trong dòng thơ truyện, lau sạch những lớp bụi bám vào làm mờ kiến tánh trí huệ chúng ta, làm cho trí huệ chúng ta tỏa sáng. Nhận thấy chân trời hạnh phúc chân trời của Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa trên quê hương thiên đàng cực lạc. Quê hương không có sự chết sự chia ly và đau khổ quê hương an vui vĩnh hằng quê hương của những con người có tấm lòng yêu thương rộng lớn, cũng như tôn vinh Nguồn Cội tôn vinh Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu ba ngôi tối cao vũ trụ. Hãy yêu Long Hoa Lược Truyện chúng ta sẽ thấy vui vẻ quên đi tất cả cực nhọc, cũng như bao sự ngang trái trong đời sống chúng ta. Nhất là chửng bị cho chúng ta những hành trang văn hóa, khi mãn kiếp trần thế chúng ta mang theo về trời làm sự giàu có cho chúng ta.

* * *

LƯỢC TRUYỆN

Long Hoa Lược Truyện kinh thư

Tiên Thiên diệu pháp hà như lạc đồ

Huyền thâm cao diệu hư vô

Ứng linh trải khắp hà đồ nước non

Trời cao dìu dắt cháu con

Rồng Tiên mở hội vinh quang Cội Nguồn

Thành tâm nhớ tưởng thường ngày

Thiên cơ ứng hóa mọi đường rõ thông

Đạo Trời là Đạo Cha Ông

Đường mây tỏ rạng con Rồng cháu Tiên

Hà sa ức kiếp vô biên

Lúc nào cũng có con thuyền đón đưa

Nghe lời Trời dạy sớm trưa

Bệnh chi cũng khỏi của thừa dư ăn

Truyền kinh thuyết giáo Trời khen

Muốn chi được nấy lộc hằng ức muôn

Phước vào thời nghịch cũng suôn

Thăng hoa tới đích mọi đường công danh

Trời ban, khô héo cũng xanh

Cuộc đời tỏa sáng đẹp lành biết bao

Hiếu, trung thời được danh thơm

Vì Nguồn vì Cội vinh quang cuộc đời

Cháu con luôn mãi sáng ngời

Thông minh trí tuệ sang giàu bình yên

Về Nguồn thời phải kính tin

Những lời Trời dạy nhớ ghi trong lòng

Lời kinh lược truyện ngọc vàng

Kính tin thoát khỏi địa đàng âm ti

Nghiền ngẫm cho hiểu rõ thông

Mãn thân hồn đặng ung dung về trời

Long Hoa Lược Truyện sáng ngời

Thành tâm tu học sớm thành Phật, Tiên

Lập công trong hội kỳ ba

Vua Hùng Quốc Tổ sắc phong bảng vàng

Thắp lên ngọn đuốc Đạo, Đời

Ra công ra sức bảng vàng ghi tên

Công danh sự nghiệp vẻ vang

Cũng nhờ truyền giáo lập công hội nầy

Long Hoa Lược Truyện diệu kỳ

Truyền cho hậu thế đạt thành ước mơ

* * *

1. NỤ CƯỜI THỎA MÁI

Ông Tám Nhị, đi Thái Lan vừa về tới nhà con cái đứa lớn đứa nhỏ mừng rỡ chạy ra đón. Tám Nhị cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Bước xuống xe trên tay Tám Nhị vừa xách vừa cầm trông có vẻ nhiều quà hơi nặng.

Con cái thấy Cha xách nhiều quà đứa nào đứa nấy hớn hở nói để con xách bớt cho, nhất là con gái út hăm hở đòi xách cái nầy cái kia. Bước vào nhà Ông Tám thở phào nhẹ nhõm như trút hết cơn mệt nhọc đi đường.

Con gái út tên Hạnh đòi quà nhanh hơn các anh chị, quà của con đâu?

Tám Nhị ôm bé Hạnh vào lòng nói quà cục cưng của Ba đây nè. Ông thò tay vào xách lấy ra một món đồ chơi thứ xịn có lẽ rất đắt tiền, trông đẹp mắt vô cùng.

Bé Hạnh vừa nhìn thấy món quà thời mừng rỡ reo lên con thương Cha quá.

Bé Hạnh say sưa nhìn món đồ chơi rồi ngước nhìn Cha hỏi. Người Thái Lan ba đầu sáu tay phải không Cha?

Tám Nhị nghe con hỏi lấy làm ngạc nhiên, nhưng rồi cũng trả lời họ có ba đầu sáu tay gì đâu, họ cũng như mình thôi con à, đôi khi còn thua người Việt nữa là khác.

Bé hạnh nói họ đâu hơn gì người Việt mình, thế sao họ giỏi dữ vậy, cái gì cũng hơn hẳn Việt Nam, thậm chí món đồ chơi Cha mua về cho con, Việt Nam mình cũng chưa làm được, tại sao vậy hả Cha.

Tám Nhị nghe con hỏi thở dài nói, người Thái họ có Nhân Quyền Dân Chủ tự do, còn Việt Nam mình thời không con ạ. Người Thái họ tự do bay nhảy, tự do mưu cầu hạnh phúc, tự do sáng tạo sáng tác không cần phải xin ai, thi nhau mà phát triển văn minh.

Người Việt Nam mình lại khác như con chim bị nhốt trong lồng.

Bé Hạnh nói con hiểu rồi Người Việt Nam bị trói chân, còn người Thái thời thoải mái mà chạy. Người Việt Nam bị bó tay, nên làm cái gì cũng xấu, người Thái tay chân không bị bó cột. Nên chạy lẹ hơn người Việt Nam, nắn nót tạo ra cái gì cũng xinh cũng đẹp phải không Cha?

Cả nhà nghe bé Hạnh nói thế thời nhịn không được mà cười ồ lên. Bé Hạnh cũng cười theo nói con nói đúng quá phải không? Những người đi đường nghe gia đình Tám Nhị cả nhà cười vui vẻ thời xầm xì, nhà Tám Nhị không biết trúng mánh gì mà vui dữ quá.

2. CÂU CHUYỆN TỰ HÀO

Bà Tám đang chăm sóc luống rau trước sân nhà, bà nhìn những cọng rau muống xanh mướt trông phát thèm, định cắt vài bó đem kho luộc cho bữa ăn tối ngon miệng.

Bỗng có tiếng người phụ nữ vang lên, chị Tám siêng nhỉ lúc nào cũng thấy ở ngoài sân vườn, định cắt rau muống hả, cắt bán cho tôi vài lọn đem về luộc ăn cho đỡ tức trong lòng.

Bà Tám nghe xong lấy làm ngạc nhiên nói ai mà dám chọc bà chằn lửa, không sợ bị thiêu đốt ra tro sao. Người phụ nữ mới đến tên là Hạnh, nói ai thời tôi đốt ra tro rồi đằng nầy ông xã mới tức chứ. Bà Tám nhìn người phụ nữ mới đến nghĩ, thôi chuyện người ta hỏi làm gì.

Nhưng người phụ nữ mới đến tên Hạnh trông có vẻ bực tức lắm, hằn học nói, chị Tám nghĩ xem nền Văn Hiến Bách Việt Văn Lang có gì tự hào mà ông xã nhà tôi lúc nào cũng ca ngợi còn hơn pháo nổ. Đúng là mèo khen mèo dài đuôi, các nước phương Tây họ mới thật sự là văn minh.

Bà Tám nhìn người phụ nữ mới đến lắc đầu nói tôi thừa nhận chị rất thông minh, nhưng không phải chuyện gì cũng biết, lần nầy thời chị sai rồi.

Nền Văn Hiến Bách Việt Văn Lang, là nền Văn Hiến khai sinh ra nước Văn Lang, khai sinh ra Dân Tộc Văn Lang, nền Văn Hiến Văn Hóa Cội Nguồn độc nhất vô nhị trên thế giới, ngay cả thời đại bây giờ cũng không có nước nào có nền Văn Hiến tối cao như thế.

Trên thế giới, mỗi Dân Tộc ra đời đều có niềm tự hào nền Văn Hiến của Dân Tộc đó, chồng chị Anh Lân là người Việt tự hào về Nguồn Cội của Dân Tộc mình cũng là sự đương nhiên, xét về diện văn minh ở vào thời ấy không có một Dân Tộc nào trên trái đất văn minh hơn Dân Tộc Bách Việt Văn Lang, không tự hào sao được. Chị Hạnh nghe Bà Tám nói thế liền bỉm môi nói: Té ra chị cũng chẳng khác gì ông nhà tôi, được cái là nổ cho cố, mèo khen mèo dài đuôi.

Mỗi lần thấy ông nhà ca ngợi nền Văn Hiến Cội Nguồn quá tôi cảm thấy ngượng không rõ thực hư thế nào.

Tôi hỏi thật chị Tám, chị lấy cơ sở nào nói rằng nền Văn Hiến Bách Việt Văn Lang văn minh nhất thời đó, chị nói cho tôi nghe thử nào?

Bà Tám nhìn Bà Hạnh như thông cảm cho sự lạc Cội lạc Nguồn, lúc nào cũng hướng ngoại, chạy theo xu thế ngoại bang, xem thường Nguồn Cội Dân Tộc mình, vô tình trở thành trọng tội không đáng có. Bà Tám nghĩ thương cho Bà Hạnh; liền nói câu chuyện cũng hơi dài để tôi cắt xong mấy lọn rau muống tôi sẽ kể cho chị nghe. Bà Tám cắt xong rau muống vừa bó vừa kể.

* Cách đây năm nghìn năm, Quốc Tổ Vua Hùng dùng Văn Hóa Cội Nguồn gồm thâu Bách Tộc khai sinh ra nước Văn Lang, Bách Tộc trở thành Bách Việt Văn Lang không cần động đến gươm đao giáo mác Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Trên thế giới ở vào thời đó không có nước nào khai sinh ra đời tốt đẹp như vậy, chỉ riêng có nước Văn Lang. Anh Lân nhà chị tự hào về Nguồn Cội Dân Tộc mình cũng đúng, thể hiện lòng trung, hiếu, nhân, nghĩa đối với Cha Ông. Không những tự hào về truyền thống dựng nước giữ nước, mà còn tự hào về Ông Quốc Tổ có một không hai trên địa cầu từ ngàn xưa cho đến thời nay. Chị Hạnh biết không, ở vào thời đó chỉ riêng Bách Việt Văn Lang có nền Văn Minh lúa nước đem lại no cơm ấm áo cho người dân. Đã là Văn Minh lúa nước thời Dân Tộc Văn Lang nắm rõ quy luật bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Tạo ra niên lịch vụ mùa nắm rõ quy trình trồng ngô cấy lúa cho năng xuất cao. Và lấy đầu năm sự khởi đầu mùa xuân, mở đầu cho việc đi vào mùa vụ, các lễ hội từ đó cũng ra đời, lễ hội gieo trồng, lễ hội tạ ơn trời đất, lễ hội uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây. Thành lễ hội tết Nguyên Đán, lễ hội nhân văn lớn nhất trong năm, mùng một tết Cha, mùng hai tết Mẹ, mùng ba tết Thầy. Nói chung là tạ ơn công sanh thành Ông Bà Cha Mẹ, công ơn dạy bảo của những bậc thầy. Trên thế giới ở vào thời ấy không có đất nước nào văn minh như thế, không tự hào sao được.

* Lại nữa ngoài Văn Minh lúa nước, văn minh niên lịch, còn có Văn Minh hội họa biết dùng tượng hình làm sơ khai chữ viết đi vào giao tiếp cuộc sống, không có đất nước nào Văn Minh như vậy, chưa kể đến Văn Minh sắt, thép, đồng, thau, vàng, bạc, dùng vào công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, khai thác. Khai hoang vỡ hóa, gươm đao giáo mác cung tên tạo lên sức mạnh quân lực Bách Việt Văn Lang kéo dài độc lập mấy nghìn năm không có nước nào dám động đến.

* Nhưng theo cơ Tạo Hóa việc suy thịnh là chuyện bình thường, quy luật tuần hoàn luôn xoay chuyển, thịnh mấy nghìn năm thời phải đi vào suy mấy nghìn năm, không phải do con người mà do Ý Trời.

Sự truyền khẩu lâu dài dẫn đến tam sao thất bổn. Đi vào thất truyền Hiến Pháp Đạo Pháp nền Văn Hiến Văn Minh Văn Lang dần dần biến mất. Dẫn đến suy yếu đi vào đại loạn chia bè rẽ phái mở ra cơ hội cho ngoại bang xâm lược, bị Phương Bắc đô hộ đi vào nô lệ. Dân Tộc Việt Nam con cháu Tiên Rồng vùng lên quật khởi chiến tranh triền miên giành lại độc lập đánh bại ngoại xâm trên mười bốn lần, nhưng đâu lại vào đấy tiếp tục lệ thuộc Phương Bắc. Nguyên nhân dẫn đến lệ thuộc giặc Tàu là do lạc Cội lạc Nguồn mà ra.

Bà Hạnh nhìn Bà Tám vừa bó rau vừa kể thao thao bất tuyệt sắc mặt hiện lên vẻ tự hào không thua kém gì sắc mặt tự hào của ông xã khi nhắc về truyền thống anh linh dựng nước giữ nước của các thế hệ Ông Cha. Bà như tỉnh ngộ té ra sự thông minh của mình xưa nay cãi vã với chồng chỉ là sự ngu dốt của sự lạc Cội lạc Nguồn. Bà cảm thấy hổ thẹn mình không xứng đáng là con Rồng cháu Tiên nếu ai cũng như mình thời đi vào nô lệ, dẫn đến mất nước tiêu tan giống nòi.

Bà nhìn Bà Tám với lòng đầy kính phục liền nói: Tôi bữa nay như đã sáng mắt ra, cái ngu dốt bấy lâu nay tự cho mình thông minh của tôi cũng biến mất không còn từ đây, cảm ơn Cô Tám rất nhiều.

Bà Tám nhìn Bà Hạnh đầy vẻ ngạc nhiên nhưng sau đó nhìn ra vẻ chân thật của Bà Hạnh, Bà Tám trong lòng cảm thấy vui vì làm cho một người giác ngộ coi như đã xây cho mình một ngôi chùa. Bà Tám cầm mấy lọn rau muống đưa cho Bà Hạnh nói: Tôi biếu chị.

Bà Hạnh nhận lấy mấy bó rau muống như nhận lấy cái gì đó trân quý từ Bà Tám. Bà Hạnh cảm ơn rồi ra về. Từ đó Bà Hạnh luôn tôn trọng sự ca ngợi cũng như lòng tự hào của chồng về truyền thống dựng nước giữ nước của Dân Tộc mình.

3. VỢ CHỒNG HAI KÈO

Nhà hai Kèo vừa mua ti vi mặt phẳng loại mỏng thứ xịn hình ảnh trông rõ nét. Cả nhà Hai Kèo đêm nào cũng xúm xít để coi.

Đến chương trình thời sự. Bà Hai Kèo không chú ý đến chuyện gì khác, mà chỉ để ý đến các phu nhân Tổng Thống.

Bà hỏi nầy Hai Kèo; phu nhân Tổng Thống các nước họ xách gì vậy? Hai Kèo nói, mấy bà phu nhân Tổng Thống các nước họ xách danh dự, xách nhân cách, xách tài năng của đất nước họ, phô trương với thế giới, để thế giới hâm mộ đất nước họ.

Bà Hai Kèo lại hỏi; Còn phu nhân cấp cao của đất nước mình thì sao? Có xách theo những thứ ấy không?

Hai Kèo nói; Bà không nhìn thấy sao, các phu nhân của nước mình đâu cần xách theo danh dự, nhân cách, tài năng. Nếu muốn xách cũng không có những thứ ấy lấy đâu mà xách để phô trương với thế giới.

Mà chỉ xách vàng xách bạc, xách đô la, xách kim cương châu báu. Bà thấy có khôn không?

Bà Hai Kèo nói Ông nói rất đúng, phu nhân cấp cao nước ta khôn đấy chứ, có đô la vàng bạc, thời mặc sức mà xây cung son biệt thự, chỗ nào cũng có, muốn gì được nấy nhờ học thuyết mác lê đó Hai Kèo. Tư Bản làm gì mà hiểu thuyết Mác Lê.

Hai Kèo phụ họa thêm, Bà là con sâu trong bụng chủ nghĩa vô thần nên Bà hiểu còn sâu sắc hơn tôi. Thế giới các nước văn minh, họ nhìn thấy Mác, Lê là khiếp vía kinh hồn, tránh xa nghìn dặm làm gì học được cái tài của Mác, Lê là tóm sạch sự giàu sang của thiên hạ về túi riêng của mình, tôi cố học, học mãi mà không vô. Thời thế bây giờ mà rớ vào mấy ông tư bản đỏ kết xù, chỉ cần đụng vào của để ngoài bờ rào cũng đã ở tù mục xương không có ngày về. Tôi không dám học theo cái tài Mác Lê. Của người ta không cho mà lấy phạm luật thiên, tôi sợ quả báo, sợ tù quá.

Mấy đứa con của Hai Kèo thấy Cha Mẹ nói móc nói méo hay quá xúm nhau bịt miệng mà cười.

Hai Kèo thấy các con bụm miệng cười nhìn các con rồi nói, các con có biết không giàu chân chính, phú quý sanh lễ nghĩa đi ngõ trước.

Giàu bất chính phú quý sanh lễ nghĩa đi cửa sau, hai bên mà đụng nhau thời sứt đầu mẻ trán. Lễ nghĩa thành tang lễ. Cầu siêu hơn 40 mươi năm không biết có siêu thoát được không. Kẻ chân chính thời lên thiên đàng, người bất chính thời nơi địa ngục, rốt cuộc gieo nhân nào gặt quả nấy. Hai Kèo nói xong thời cười, lắc nghiêng lắc ngửa, con cái cũng cười theo làm dậy rạp cả nhà.

4. CUỘC ĐIỆN THOẠI

A lô a lô Chó đây Mèo đó hả. Mèo suốt ngày ca ngợi Ông Cha, Ông Cha có gì mà ca ngợi dẹp bỏ đi.

Mèo nghe xong mừng rỡ nói. A Lô anh Chó đó hả anh tài quá tôi không theo kịp anh đâu. Tài chống phá Tổ Tiên của anh đã đến đỉnh. Tài đã thái quá là tài liền với chữ tai một vòng. Tôi sợ mang họa cho bản thân cũng như con cái ra ăn mày cả đám, nên không dám theo lời dạy bảo của anh đâu.

A lô a lô Anh Chó anh không sợ Tổ Tiên, anh chả cần Cội Nguồn, anh chống phá Cha Ông, có lẽ vì anh quá tài nên anh làm đảo lộn luân thường đạo lý. Đảo lộn cả càn khôn, đảo ngược truyền thống Ông Cha. Nghịch lại Thiên Ý tự nhiên. Con ngồi lên đầu Cha, cháu ngồi lên đầu Ông. Tài như vậy, ai mà theo kịp Anh Chó anh đã trở thành vô địch tội lỗi rồi. Chống phá Tổ Tiên quá xuất sắc. Chúc anh mau nhận bằng khen quả báo tai ương họa kiếp.

A lô a lô Anh Chó còn ở đầu giây không. Mèo tôi thời sợ xúc phạm đến Cội Nguồn Tổ Tiên Cha Ông, không dám nói những lời thất kính như thế. Tôi sợ nhất là đại nghịch vô đạo.

A lô a lô. Tôi nhắc cho anh một điều. Tổ Tiên ở trên đầu anh, hồn thiên sông núi ở sát bên anh. Thần linh có mặt khắp nơi chỗ nào cũng có. Tài hủy bán Cội Nguồn Tổ Tiên của anh là tài kéo theo vô số tai họa, tài quá hóa ra làm hại mình chữ tài liền với chữ tai một vòng. Gieo ác khẩu hành ác nghiệp, đương nhiên sẽ gặt họa không sớm thời chầy. Chúc anh Chó sớm gặt những gì mình đã gieo ra.

A lô a lô, Mèo đây còn Chó đâu rồi

Mới khoe khoang đó, cút rồi hay sao

Cây mất gốc, đổ nhào khô héo

Người lạc Nguồn, cuộc sống bơ vơ

Chữ tài liền với chữ tai

Phản Nguồn phản Cội vùi chôn cuộc đời

A lô anh Chó đâu rồi

Tài mà như thế về chầu Diêm Vương

Nghĩ đi nghĩ lại mà thương

Tài như anh Chó hết phương cứu rồi

Chờ ngày kiếp nạn phản hồi

Tiêu tan hết thảy dập vùi hồn linh

A lô anh Chó lâm nạn rồi sao

Sao không bắt máy để tôi gọi hoài

A lô a lô

5. CHẾT LÀ NIỀM VUI CỦA NGƯỜI HÀNH THIỆN; LÀ SỢ HÃI CỦA NGƯỜI HÀNH ÁC

Nói đến thôn Lộc An thời ai cũng biết Ông Ba Cảnh. Vì Ông là người mộ Đạo nhất là tôn thờ Nguồn Cội.

Ông Ba Cảnh vừa ngã bệnh, thời cả nhà lo lắng có người khóc lóc. Ông thấy thế nói rằng chết là lẽ công bằng của Tạo Hóa. Cha đã làm lành mấy mươi năm nếu sống mãi, cũng chỉ là Ông Ba cảnh nghèo lại còn mang thân xác bệnh tật già nua vầy sao? Lẽ công bằng Tạo Hóa ở đâu? Cái xác thân già nua nầy là Cha tạm mượn của Tinh Cha Huyết Mẹ nào phải cái thân của Cha. Khi Cha đến cõi trần nầy chỉ mỗi một linh hồn với hai bàn tay trắng. Khi Cha ra đi thời cũng phải trả lại hết cho trần những gì Cha đã tạm mượn.

Sự tạm mượn cũng có thời gian nhất định, sống bao nhiêu? Có chừng đã được định sẵn rồi. 60- 70- 80 những gì vay mượn của trần phải trả lại cho trần. Các con nên hiểu mượn thời phải trả, không trả chẳng lẽ muốn lấy luôn. Tạo Hóa không cho phép điều đó đâu các con. Trả lại xác thân cho trần cũng là lúc Linh Hồn của Cha thấy nhẹ nhõm.

Để thay đổi vận mệnh số kiếp con người đi vào cuộc sống mới. Cha sẽ không còn nghèo khổ, đó là nói tái sanh lại kiếp người trần gian. Với sự tu hành của Cha lúc nào cũng nghĩ đến Cội Nguồn tôn vinh ba ngôi tối cao vũ trụ. Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu thời Cha sẽ siêu sanh về thiên giới sống an vui hạnh phúc trên cõi trời.

Các con nên biết kiếp sống con người trần gian chỉ là kiếp tạm, cõi tạm, trần gian chỉ là trường thi Tạo Hóa mà thôi, thời hạn kiếp tạm con người cũng đã định số rồi, thân xác con người sẽ chết đi, Linh hồn chuyển sang kiếp mới. Thay đổi hoàn toàn số phận của Linh Hồn ở kiếp tới theo luật nhân quả gieo gì thời gặt nấy.

Những người làm ác nếu họ sống mãi, thời luật công bằng Tạo Hóa để đâu? Tạo hóa không cho phép con người trần gian sống mãi mà phải chết đi khi hết thời gian kiếp người.

Linh Hồn phải chuyển đổi số kiếp. Gieo ác sẽ gặt họa ở kiếp tới, gieo thiện sẽ gặt lành ở kiếp tiếp theo. Những người hành ác dù giàu có đến đâu, quyền lực đến đâu, khi Linh Hồn rời khỏi xác, không thể mang theo sự giàu có. Cũng như quyền lực cõi tạm nơi chốn trần gian ấy được. Mà phải trả lại tất cả cho chốn trần gian.

Chỉ hai bàn tay trắng những thứ họ mang theo chính là nghiệp ác. Và chính nghiệp ác ấy đã hại họ đưa họ xuống Địa Ngục âm phủ chịu đủ thứ cực hình vô cùng đau đớn và khốn khổ chết đi sống lại hàng vạn vạn lần

Tóm lại: Những Linh Hồn đầu thai làm kiếp người nơi chốn trần gian không mang theo gì cả, mượn tinh Cha huyết Mẹ Âm- Dương giao hợp chuyển hóa thành thai người. Tinh Cha Huyết Mẹ được vay mượn từ Tạo Hóa tứ đại Đất, Nước, Gió, Lửa. Đã là sự vay mượn bao giờ cũng phải trả lại. Theo định số hết thời hạn của sự vay mượn. Không ai có thể làm chi khác được.

Chết có nghĩa là sự vay mượn đã hết, thời gian vay mượn không còn, mà huyền cơ tạo hóa đã ấn định cho số mạng con người. Phải trả lại tất cả những gì mình đã vay mượn nơi chốn trần. Công danh, sự nghiệp, giàu có, quyền lực.

Chỉ còn lại Linh Hồn với hai bàn tay trắng trước khi rời khỏi trần gian. Tiếp tục cuộc hành trình đi vào cuộc sống mới. Khổ vui, họa phúc, siêu đọa. Do nghiệp ác hay nghiệp thiện của mỗi linh hồn. Ông Ba cảnh giảng giải xong liền ngâm bài thơ mà Ông đã chuẩn bị từ lâu.

Nếu mai Cha chết, các con sẽ vui lên

Vì Cha đã, chuẩn bị hành trang

Mang đi theo, vào kiếp sống mới

Chết là mang đến niềm vui cho người tu phước

Là khốn khổ, cho kẻ làm ác hại người

Ông Ba Cảnh nói xong, thời cười ha hả

Nhắm mắt xuôi tay, Hồn thong thả ra đi

Cõi trần chỉ là trường thi

Dù đậu, không đậu cũng ra khỏi trường

Một là lên thiên đàng

Hai là sa Địa Phủ

Chết là chuyển kiếp sợ chi

Nếu mà sống mãi còn chi công bằng
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
6. YÊU NƯỚC KIỂU MỚI

Cả nhà ăn sớm mai vừa xong. Ông Hợi đi về phòng hơn mười phút sau thời bước ra. Bà Hợi nhìn không chớp mắt chà bữa nay tân trang bộ mình ăn diện, trông vừa sang vừa trẻ đẹp phong độ quá, làm le với con mèo nào vậy? Con mèo nào mà qua con mèo nầy.

Ông Hợi cười khà khà nói chà coi bộ mà cay dữ quá, nhìn móng vuốt mèo nhà đã thấy phát khiếp còn dám kiếm con mèo nào nữa. Bữa nay tôi đến thăm anh Tân sau ba năm mãn tù anh được trả tự do trở về nhà.

Bà Hợi hỏi có phải Ông Tân yêu nước đó không? Ông Hợi nói người như Tân bây giờ hiếm lắm. Bà Hợi nói tôi lạ gì Ông Tân, có điều tôi thấy hơi lạ yêu nước mà quên đi người dựng nước. Tôi chưa bao giờ nghe Ông Tân nhắc đến Quốc Tổ Vua Hùng, yêu nước kiểu mất gốc như thế thời khó mà tươi cành xanh lá, đôi khi rũ ngọn héo cành nữa là khác.

Bà Hợi nói tiếp, họ thời tin Ông Tân còn tôi thời chưa tin lắm vì Ông Tân luôn là bài toán không có đáp số, hay nói một cách khác là không có đáp số. Cuộc yêu nước mơ hồ không có mục đích rõ ràng. Dân tộc Việt Nam có truyền thống dựng nước giữ nước tốt đẹp, kéo dài năm nghìn năm nào phải mới đây. Thế hệ chúng ta chỉ là thế hệ thừa kế bảo vệ đất nước, nào phải thế hệ dựng nước. Thế hệ tiếp nối truyền thống Đạo Đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam (ăn quả nhớ người trồng cây, uống nước nhớ nguồn) Đạo lý đơn giản như vậy thế mà Ông Tân cũng không hiểu được. Đất nước Việt Nam đâu phải tự nhiên mà có, có người dựng lên mới có. Dù cho con cháu có mở rộng thêm ra, hay bị ngoại xâm lấn lần hẹp lại nước non vẫn là nước non có Tổ có Tông có người khai dựng lên đất nước.

Yêu nước kiểu gì khó hiểu quá. Cái gì cũng phải có đầu có đuôi, yêu nước cái kiểu ngang chạng không cần đến Cội Nguồn. Không lẽ định làm Quốc Tổ nữa loạn mất.

Tôi nói thật với Ông với những người yêu nước kiểu mới như vậy. Tây không ra Tây, Tàu không ra Tàu. Chỉ biết tranh giành non sông đất nước không cần biết đến Ông Quốc Tổ xem thường bao thế hệ Cha Ông giữ nước, đổ không biết bao nhiêu là xương máu mới giữ vững cho đến ngày hôm nay. Thế mà Ông Tân phớt lờ không nghĩ đến.

Con gái út tên Liên nghe mẹ nói thế liền nói, con hiểu mẹ nói gì rồi. Mấy Ông yêu nước gì đó họ chỉ yêu những gì Quốc Tổ để lại thôi, cần chi kính yêu Quốc Tổ. Cũng như mấy tay ăn trộm chỉ yêu xách tiền của Mẹ cần chi tôn vinh mẹ tuy biết rằng Mẹ là chủ của xách tiền. Lấy được xách tiền rồi thời nói là của tao. Tao là chủ xách tiền, nổi tiếng là con Cáo Già ăn cháo đá bát. Nổi danh nghe ngầu đấy chứ Mẹ.

Bà Hợi nghe Liên ví dụ phân tích hay quá liền khen đúng là con hơn cha nhà có phúc. Ông Hợi tỉnh ngộ liền không đi thăm Ông bạn yêu nước nữa.

7. CHIA NĂM XẺ BẢY

Theo sự ở đời ai mà được như gia đình Ông Đại, phải nói là sự mơ ước của khối đại gia đình.

Ông Đại có năm người con: Thằng Cả làm việc cho Mĩ, thằng Ba làm việc cho Nga, thằng Tư làm việc cho Pháp, thằng Năm làm cho Tàu, thằng Sáu làm việc cho Nhật.

Một gia đình như thế thời còn gì để nói, không phải là sự mơ ước của nhiều người hay sao?

Nhìn bề ngoài không ai là không nói gia đình Ông Đại hạnh phúc tốt đẹp ít ai bằng, Nếu đánh giá một sự tốt đẹp chỉ nhìn bề ngoài thôi thời chưa đủ. Mà phải xem bên trong nội cảnh của nó. Cũng như con người bề ngoài trông thật bảnh bao ăn mặc lộng lẫy, nhưng bên trong thời bệnh tật đầy người không những bệnh về thân thể mà còn cả về Linh Hồn. Nếu lột trần hiển lộ sự thật thời cả một sự ê chề không nói là phát ớn.

Ông Đại luôn rất khổ tâm bởi những người con của Ông, chúng nó chỉ biết hướng ngoại tôn thờ cái mà chúng nó đeo đuổi. Còn hướng nội thời chúng không giờ nghĩ đến. Cái tật của chúng nó là hễ theo nước nào thời bảo thủ nước đó. Vì thế sự đối đầu cũng như bất đồng ý kiến thường xảy ra.

Có một hôm các con Ông về nhà đông đủ, không hiểu vì lý do gì chúng cãi nhau dữ quá, thậm chí còn đòi không nhìn mặt nhau. Ông lắng tai để nghe vì sao chúng lại cãi vã dữ vậy. Thì ra thằng Cả binh vực cho Mĩ nói Mĩ cái gì cũng nhất, thằng Ba phản đối, nói về súng đạn thời Nga phải nói là đứng đầu, thằng Tư nói Nga, Mĩ chẳng là gì đối với tài kiến trúc của Pháp, thằng Năm nói Tàu mới là số một nói đến Văn Hóa Tàu cả thế giới chỉ theo ngửi khói Văn Hóa Tàu mà thôi, thằng Sáu nói Văn Hóa Nhật mới là số một chỉ nhìn sơ về tinh thần đoàn kết cũng như nhân cách của người Nhật, thế giới phải cúi đầu chào thua.

Thế là năm anh em không thằng nào chịu nhường nhịn nhau, thằng nào cũng có cái đúng của nó, cãi tới cãi lui không có hồi kết thúc, kẻ theo Nga, Pháp người theo Mĩ, kẻ theo Tàu, người theo Nhật, cuộc chiến cãi cọ kéo dài dẫn đến chia năm xẻ bảy, thề không nhìn mặt nhau.

Ông Đại nghe các con cãi lộn mà đau đầu nhức óc bằng nói phải chi các con biết hướng nội thời hay biết mấy. Đem cái tài học hỏi thế giới về phục vụ cho quê hương đất nước, làm cho dân giàu nước mạnh. Nhất là giữ vững truyền thống Ông Cha, tôn vinh Quốc Tổ xây dựng Cội Nguồn không những các con tăng thêm vinh dự ai cũng kính phục các con. Đằng nầy các con chỉ biết hướng ngoại mà quên đi Cội Gốc của chính mình. Như cây mất gốc héo cành rũ ngọn, nhỏ thời tan nát đầm ấm gia đình, lớn thời tan nát đất nước chia năm xẻ bảy. Gia đình thời không nhìn mặt nhau, xã hội thời nồi da xáo thịt Đồng Bào anh em tương tàn lẫn nhau. Dẫn đến nô lệ ngoại bang cụ thể là nghìn năm nô lệ giặc Tàu, trăm năm lệ thuộc giặc Tây, ba mươi năm nội chiến từng ngày do hướng ngoại dại khờ mà ra.

Bà Đại nói Cha con nói đúng đấy. Nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn. Theo Mĩ, Nga, Pháp, Tàu, Nhật để mà làm gì. Dân tộc Việt Nam có ngôi nhà Đại Việt để sanh sống, hết thế hệ nầy sang thế hệ khác, chúng ta học là học cái hay của thế giới, không phải chạy theo tôn thờ lệ thuộc nô lệ các nước. Đây là một bước đi sai của các con, mới có cảnh xảy ra như ngày hôm nay. Làm tan nát gia đình.

Ông Đại nhìn vợ nở nụ cười Bà nói nghe đã lỗ tai quá, năm người con Ông Đại như chợt tỉnh cơn mê liền cười lên nói Cha Mẹ bao giờ cũng hơn con cái. Thế là cả nhà cười lên vui vẻ. Một nụ cười hơn mười thang thuốc bổ phải không các bạn.

8. CÂU CHUYỆN HỒI SINH

Thời bây giờ;

Gia đình Hai Cần không phải là hiếm, chồng Phật Giáo vợ Thiên Chúa. Thế mà gia đình Hai Cần hạnh phúc vô cùng Ông tôn trọng vợ. Bà Hai Cần cũng tôn trọng chồng. Ông Bà xưa đã có câu thuận vợ thuận chồng biển đông tác cũng cạn. Theo Văn Hóa Cội Nguồn, Phật, Chúa, Tiên, Thánh gì cũng phải sống theo luật Trời. Vợ chồng Hai Cần đều hiểu rõ như vậy nên không phân biệt Phật, Chúa nữa.

Luật Trời là những định luật do Thiên Ý tạo ra. Như luật tự nhiên, luật nhân duyên, luật nhân quả, luật vay trả, luật tuần hoàn, luật hiển nhiên, luật ngẫu nhiên, luật sanh tử. Luật siêu đọa, luật phước họa vân v. V..

Những định luật nầy không phải do Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa tạo ra. Mà bị tất cả những định nầy xoay chuyển, nếu Thần, Chúa hành ác cũng bị sa đọa như thường. Quỉ Ma mà biết hành thiện tôn thờ Cội Nguồn cũng được siêu sanh về cõi trời.

Những định luật ấy là do bản thể Tối Cao Tạo Hóa khai tạo ra để cho tất cả mọi hoạt động vũ trụ đi vào trật tự trước sau như một không gì thay đổi. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa hiểu rõ những định luật nầy. Tự làm chủ các định luật làm chủ định mệnh của mình.

Ví dụ: Muốn vui phải hành thiện, muốn sa đọa phải hành ác, không ai hành thiện mà sa xuống Địa Phủ cả. Sự luân chuyển đều phải theo định luật Thiên Ý vũ trụ.

Vợ chồng Hai Cần nắm vững những định luật nầy, nên không bao giờ sợ sa đọa xuống Địa Phủ.

Lúc nào cũng tự tin, những hành động gieo nhân kết quả của mình. Hễ gieo giống nào thời gặt quả nấy. Gieo giống Thiên Ý thời gặt vô lượng quả phước đức. Nghịch lại Thiên Ý thời gặt vô lượng quả báo tai ương.

Cũng như dân tộc Việt Nam sắp đi vào hủy diệt, không ai có thể cứu được mà chính dân tộc Việt Nam cùng nhau trở về Cội Nguồn đoàn kết chung tay chống trả lại ngoại xâm cứu nguy non sông Tổ Quốc. Được sự dẫn dắt của Quốc Tổ, mà cũng chỉ Quốc Tổ mới đủ quyền năng làm được điều nầy. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa chỉ theo trợ giúp mà thôi.

Nước Việt Nam sắp mất vào tay giặc phương bắc coi như xóa sổ không còn nữa, không ai có thể cứu được, buộc Quốc Tổ phải trở lại cõi trần cứu dân tộc Việt Nam con cháu Tiên Rồng cũng như non sông đất nước đã tồn tại năm nghìn năm. Chỉ còn chờ ngày sát nhập vào Trung Cộng thời coi như chấm hết.

Ông Bà Hai Cần hiểu rõ điều nầy, nên tin tuyệt đối vào Quốc Tổ.

Bà Hai Cần nhìn Ông Hai Cần nhìn các con rồi nói. Thật lòng mà nói không ai như Quốc Tổ Vua Hùng đã về trời mà còn trở lại trần gian chi cho khổ.

Chẳng hạn như đâu thấy Phật Thích Ca trở lại trần gian. Đâu thấy Chúa Giê xu trở lại trần gian. Cả Khổng Tử cũng thế đâu thấy trở lại trần gian.

Mà chỉ thấy Chí Tôn Quốc Tổ, tức là Quốc Vương Thỉ Tổ trở lại trần gian sau năm nghìn năm về trời.

Sự minh chứng Quốc Tổ trở lại là kể rõ những gì trước đây năm nghìn năm như trong lòng bàn tay không ai làm được việc nầy dù đã trải qua mấy nghìn năm.

Nhìn việc làm Quốc Tổ lâm phàm, người truyền lại Văn Hóa Cội Nguồn, truyền lại truyền thống dựng nước giữ nước không thể nào tưởng tượng nổi. Nếu người nào Phật, Chúa, Khổng, tái sanh thời phải làm được như Quốc Tổ tái sanh, Phải kể rõ tất cả những chuyện quá khứ của mình, cũng như thể hiện tài năng y như mình hồi đó, không nói nhân loại cũng nhận ra Phật, Chúa, Khổng xuất hiện trở lại trần gian.

Hai Cần khâm phục sự hiểu biết của Bà Hai Cần khen rằng Bà nói rất phải. Tôi cũng đã chứng kiến nhiều người xưng Ông nầy Bà nọ, chỉ là cái vỏ, còn ruột thời trống rỗng giả danh giả tạo thấy mà phát ớn.

Các con của Hai Cần ngồi chú ý lắng nghe Cha Mẹ đàm luận về câu chuyện hồi sinh trở lại của Quốc Tổ lấy làm vui reo lên nói, chúng con đến bây giờ mới hiểu được sự hồi sinh phục sinh, tái sanh là sao. Không giống như những gì người ta truyền giảng chỉ là những câu chuyện mê tín mà thôi không có cơ sở chứng minh là sự thật.

Chỉ có Quốc Tổ mới đúng là Hồi Sinh, Phục Sinh, tái sanh mà thôi. Bằng chứng là Kinh Giáo Quốc Tổ Lâm Phàm để lại. Không ai là không bái lạy khi đã xem những gì Quốc Tổ truyền lại.

Vợ chồng Hai Cần khen các con thông minh lắm, thảo nào các con học giỏi quá lúc nào cũng đứng đầu cả lớp. Như thằng Hai thằng Ba nhận bằng tốt nghiệp đại học loại giỏi. Con người ta xin việc làm không ra, còn thằng Hai thằng Ba họ đón mời vào công ty làm việc đấy chớ.

Cả nhà vui vẻ cười lên, như đang uống phải linh được khỏe cả người, Sự Hồi Sinh, Phục Sinh, Tái Sanh phải có cơ sở phải không các bạn. Thời đại khoa học mà cái gì thiếu khoa học thời khó mà tin, phải có chứng tích mới đáng tin. Sự hồi sinh, tái sinh, phục sinh phải để lại chứng tích rõ ràng.

9. NHƯỢC ĐIỂM CỦA QUẠ VÀ SỰ THÔNG MINH CỦA CÔNG

Lớp năm A vẫn như ngày nào các em luôn chăm chỉ học giỏi. Cô giáo Mẫn vẫn thường hay kể chuyện để làm rõ thêm những môn đã học.

Đứng trên bục giảng cô giáo Mẫn hỏi hôm nay các em học môn gì? Cả lớp đồng dơ tay lên tiếng.

Thưa Cô; Hôm nay chúng em học môn Nhược Điểm Của Quạ và Sự Thông Minh Của Công. Cô giáo Mẫn khen các em giỏi quá.

Cô lại hỏi; các em có thể hình dung được nhược điểm của Quạ và Sự Thông Minh Của Công không? Thưa cô chúng em không thể nào hình dung được.

Cô giáo Mẫn nói, cô sẽ kể cho các em một mẫu chuyện Công và Quạ. Cả lớp vui mừng mấy mươi em học sinh im lặng chú ý lắng nghe.

Cô Giáo Mẫn kể rằng:

Ở vào thời xa xưa Công và Quạ là đôi bạn chí thân, Quạ, Công đều rất xinh đẹp. Công thời ngay thẳng lại khôn ngoan. Quạ đã ngu mà lại có tính tham lam và háo ăn, đây là nhược điểm của Quạ nên bị Công lừa. Một hôm Quạ đến nhà Công chơi nhưng con mắt cứ láo lia láo lịa hết ngó chỗ nầy đến ngó chỗ khác. Quạ nhìn miếng mồi của Công đang treo lơ lửng thời thèm nhỏ dãi. Công lạ gì cái tánh tham lam và háo ăn của Quạ.

Công nói miếng mồi tôi đang treo kia ít quá lại không được ngon, tối nay con người làm thịt heo, thịt gà, thịt lợn để mai cúng làng cúng xóm chỉ nơi được một miếng thịt thời thoải mái mà ăn. Quạ nghe Công nói đến thịt thời thèm nhỏ dãi nhưng lắc đầu nói khó lắm không ăn trộm được đâu. Công nói dễ lắm chờ khi trời tối bay vào gắp một miếng. Quạ nói con người thấy được thời chết, thịt lấy chưa được thời mạng đã toi.

Công nói không sao đâu, tôi có cách, Quạ nghe nói mừng lắm hối lia hối lịa mau có cách gì bày cho tôi với. Công nói chuyện nầy dễ thôi muốn lấy được miếng thịt thời phải nhuộm đen hết đi bộ lông thời người ta mới không nhìn thấy. Quạ nghe tới thịt thời không còn nghĩ gì nữa nói, anh Công mau làm cho tôi đen thui đi.

Công liền vào nhà lấy thùng thuốc nhuộm tưới lên mình Quạ. Quạ lấy làm khó chịu rụt cổ lại số lông bị che lấp bởi số lông khác che phủ lên nên không bị nhuộm đen thành thử cổ của Quạ có một cái ngấn trắng không bị mực đen thấm đến trở thành Quạ Khoang có khoang trắng ở cổ. Còn những chỗ khác trở thành đen thui đen thủi chỉ còn lại ngấn trắng nơi khoang cổ mà thôi.

Chờ tối theo lời chỉ đường của Công, Quạ bay đến khu làng thấy thịt để la liệt nhờ mình đen thui Quạ bay xuống đớp miếng thịt rồi bay đi. Quạ ăn no ngủ một giấc cho tới sáng. Quạ nghĩ đến Công bày kế ăn trộm có hiệu quả liền đến nhà Công để tạ ơn. Khi quạ đến nhà Công thời thấy Công đang mở tiệc đãi khách nhộn nhịp vô cùng. Khách mời của Công thấy Quạ đi vào. Ai nấy cũng xầm xì anh Quạ hôm nay trông xấu xí quá đen thui đen thủi như cục than, đâu còn rực rỡ như ngày xưa hay do tính tham ăn nên đã bị người ta tạc thuốc nhuộm lên mình nên mới trở thành đen thui như lọ nồi. Đâu như anh Công nhà mình rực rỡ đẹp hết chỗ chê.

Quạ đến lúc nầy mới hiểu là mình đã bị lừa, thịt đâu có mà ăn hoài một năm chỉ cúng làng cúng xốm một lần chắc gì năm khác người ta làm thịt nhiều như vậy, nhưng Công lừa quá khéo trách Công sao được. Quạ lủi thủi bỏ đi biệt dạng đúng là khôn ba năm dại một giờ thời coi như xong hết, ăn được miếng thịt trả giá sự xấu xí cả đời đi đâu ai cũng chê cười cho sự ngu dốt của mình.

Cho đến một hôm Quạ và Công gặp lại nhau.

Công nói chào anh Quạ, Lâu nay anh cũng mạnh khỏe đấy chứ?

Quạ làm thinh không trả lời.

Công nói tiếp anh thấy tôi thế nào. Công tôi mỗi ngày mỗi đẹp ra còn đẹp hơn xưa nữa là khác anh có thấy như vậy không? Quạ càng nghe càng tức cành hông, nhưng cũng dằn cơn giận nói.

Quạ nghĩ bữa nay mình phải hạ gục Công, cho Công thấy rằng cái tài của Quạ không phải là vừa, trả lại mối hận ngày xưa. Bằng nói trông bộ vó thời anh đẹp hơn tôi, nhưng nói về sự hiểu biết thời anh thua tôi cái chắc làm gì theo kịp tôi.

Công nghe Quạ nói thế liền cười hì hì nói, ai thua ai thắng chưa biết hai ta so tài đấu trí với nhau vậy.

Quạ liền ra chiêu: Nếu tôi có đủ gươm đao giáo mác súng đạn hiện đại, thời không còn ai hơn được tôi, tôi sẽ là người vô địch thiên hạ, Quạ nhìn Công tỏ vẻ đắc ý.

Công nói nếu tôi có được không khí làm chủ không khí, thời gươm đao giáo mác, súng đạn kia chẳng là gì.

Quạ nghe Công nói lấy không khí chống trả lại gươm đao giáo mác, súng đạn hiện đại thời cười ngất nói. Tưởng gì chứ không khí kia thời làm gì được ai. Chỉ để thổi mát mà thôi, cái thứ nhìn không thấy chẳng làm nên trò trống gì đâu. Công thua tôi rồi.

Công nói anh Quạ thua thời có, Quạ nên biết gió cấp ba cấp bốn chỉ là thứ gió mát dịu thổi mát. Nhưng khi gió nổi giận trở thành cuồng phong bão tố lên cấp 20 thời sẽ gào thét đinh tai nhức óc nếu lên cấp 7 trăm 8 trăm cây số. Anh Quạ tưởng tượng xem gươm đao giáo mác, súng đạn chỉ là tờ giấy bị cuốn bay theo cuồng phong bão tố tơi tả chẳng còn gì.

Quạ nghe nói đến cuồng phong bão tố thời khiếp vía, chỉ cần cấp 15 đã cuốn phăn cây cối nhà cửa, bỏ mạng không biết bao nhiêu là sinh mạng, Quạ sợ quá bay đi mất. Công nhìn theo cười ngất đồ yếu bóng vía tài trí như vậy mà cũng so tài.

Cô Giáo Mẫn nói, qua câu chuyện Quạ và Công các em thấy gì, tham lam, cũng như tham ăn đều dễ bị mắc bẫy, Quạ chỉ ăn có miếng thịt mà phải trả giá xấu xí cả đời, cũng như bị chê bai khắp cùng thiên hạ. Cái trí chẳng bằng ai mà lúc nào cũng tự cao tự phụ. Bị Công hù dọa chạy quên cả thở.

Ở đời con người thường hay bị lầm, cứ tưởng nước, gió chẳng làm gì được ai chỉ dùng để hít thở, tắm rửa mà thôi, Nhưng khi nước trở thành đại hồng thủy, gió biến thành cuồng phong bão tố, thời không có một sức mạnh nào bằng. Gió, Nước tàn phá khủng khiếp. Thiên binh vạn Mã cũng tiêu đời.

Các em có biết không;

Ví như Văn Hóa Cội Nguồn chỉ là Văn Hóa để đọc để học, mở mang kiến thức nào có thấy sức mạnh gì đâu. Như đến khi nó trở thành bão tố Văn Hóa, thời tất cả chế độ gian ác bạo tàn sẽ sụp đổ tan tành. Dân chính là nước theo gió trở thành những cơn sóng dữ, vùi dập tất cả những con thuyền vô đạo. Nước sẽ biến thành những trận hồng thủy cuốn trôi tất cả các em hiểu chưa.

Trong lớp có nhiều em dơ tay lên xin nói. Cô Giáo Mẫn chỉ em Lâm. Hề Lâm phát biểu.

Thưa Cô chúng em hiểu rồi, Văn Hóa Cội Nguồn chỉ là Văn Hóa ý tưởng vô hình không thấy ví như gió. Nhưng khi Văn Hóa Cội Nguồn tràn ngập nổi lên cơn thịnh nộ. Thời kẻ gian ác phải chui xuống bàn mà trốn, vì sợ lầu đài cung điện sụp đổ đè chết phải không cô. Cả lớp nghe Hề Lâm phát biểu như thế không nhịn được cười ngã nghiêng ngã ngửa. Cười ra nước mắt dậy rạp cả lớp.
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
10. SỨC MẠNH RỒNG TIÊN

Lớp năm A em nào cũng mến cô giáo Mẫn dạy văn, ngày nào có tiết mục dạy văn các em luôn háo hức để nghe cô giáo kể chuyện.

Dù có đau bệnh các em cũng không nghĩ học ráng đến lớp để nghe cô giảng bài kết hợp với kể chuyện. Những mẫu chuyện hay đến nỗi phát nghiện. Nhờ sự giảng bài qua kể chuyện không những các em nhớ bài nhanh chóng, mà còn hiểu rõ sâu sắc những thâm ý của bài học.

Cô giáo Mẫn vừa bước vào lớp thời các em đã thấy vui lên. Cô giáo Mẫn nhìn qua một lượt thấy các em mặt đứa nào đứa nấy tươi như hoa, trong lòng cảm thấy vui, cô giáo phất tay nói. Chào các em hôm nay chúng ta học bài gì?

Thưa cô: Hôm nay chúng em học bài sức mạnh Rồng Tiên, cô giáo khen các em giỏi quá.

Các em có biết không, con Rồng cháu Tiên không phải bây giờ mới có. Mà có từ khi Cha Trời Mẹ Trời xuất hiện sanh ra nhân loại con người tức là Ông Bà Tổ Tổ Tổ của chúng ta từ giữa tiểu kiếp thứ năm, sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống con người cho đến tận ngày nay.

Ở vào thời dựng nước con Rồng cháu Tiên vô cùng hùng mạnh, yêu tinh, quỷ dữ kinh hồn bạt vía, thấy con cháu Tiên Rồng thời trốn chạy biến mất, không những vậy mà còn làm cho các nước xung quanh xa gần nể phục, không nước nào dám hó hé xâm lược kéo dài độc lập 2701 năm thời niên đại Hùng Vương.

Ở vào thời niên đại Hùng Vương sau hai nghìn năm Văn Hóa Cội Nguồn đã thất truyền gần hết do truyền miệng quá lâu, có chữ viết nhưng quá đơn sơ khó mà ghi chép thành kinh văn được, đến khi kết thúc niên đại Hùng Vương coi như Văn Hóa Cội Nguồn đã mất hẳn. Bách Việt Văn Lang trở thành lạc Cội lạc Nguồn kể từ thời An Dương cho đến tận bây giờ.

Con Rồng cháu Tiên vì lạc mất Cội Nguồn đi vào giấc ngủ Nam Kha kéo dài trên 2 nghìn 270 năm cho đến tận ngày nay. Trong lúc tinh thần con Rồng cháu Tiên ngủ, có nhiều loại giặc đến xâm lược nước ta. Như giặc Tần, giặc Hán, giặc Mông, giặc Nguyên, giặc Minh, giặc Tống, giặc Thanh, và còn nhiều thứ giặc nữa, v. V..

Con Rồng cháu Tiên tuy đang ngủ, nhưng chỉ cần cựa mình một cái là giặc Tần cuốn vó chạy dài. Ngáp một cái là giặc Hán thi nhau chui qua lỗ chó chạy trốn. Con Rồng cháu Tiên chỉ cần trở mình một cái là giặc Mông, giặc Nguyên, Giặc minh tan tành không còn manh giáp. Chỉ cần nhích chân động tay một cái là vùi chôn giặc Tống, giặc Thanh dưới lòng sông.

Các em có thấy con Rồng cháu Tiên lợi hại ghê chưa. Ngủ mà còn lợi hại như vậy huống chi con Rồng cháu Tiên thức thời có nước nào mà dám xâm lược. Sợ không dám nhìn về phương nam nước ta nữa là khác.

Lại nữa con Rồng cháu Tiên luôn là trường sanh bất tử không bao giờ mất đi.

Triều đại nầy ra đời rồi tan biến, triều đại khác tiếp theo cũng trở thành mây khói. Từ thời An Dương Vương, đến hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Trịnh, Nguyễn, Quang Trung, Gia Long, Minh Mạng. Cũng như nhiều triều đại tiếp theo sinh ra rồi tan biến chẳng khác gì khói mây.

Chỉ có con Rồng cháu Tiên không gì thay đổi trước sau như một, trường tồn theo thời gian, không ai làm gì nổi.

Huống chi giờ đây con Rồng cháu Tiên đã thức dậy nở hoa Trí Tuệ, kết quả Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Mở con mắt sáng ngời quét qua, quét lại, ngoại xâm mà không chạy trốn thời toi mạng như không. Con Rồng cháu Tiên giờ đây chỉ cần nhích chân động tay thời cuồng phong bão tố nổi lên cát bay đá chạy yêu tinh ma quỷ chui hang không dám thò đầu ra nữa. Hai lỗ mũi Rồng Tiên chỉ cần hít thở vài cái là sấm sét nổi lên rung trời chuyển đất giặc nghe sấm sét liền sợ hãi chạy bỏ giày bỏ dép mặt mày tái mét cắt không còn chút máu. Rồng Tiên mà há miệng thổi ra một cái tức thời thiên binh vạn mã bay như giấy chết không kịp ngáp, các em có thấy sướng không uy linh tột thế đấy chứ. Rồng Tiên chỉ cần há miệng hớp một cái là nuốt sạch quân xâm lược vào bụng, các em thấy khiếp chưa. Rồng Tiên chỉ cần nghiến răng trợn mắt là quân thù bò la bò lết sợ quá lưng mật mà chết hết còn đâu dám xâm lược nước Việt Nam ta. Cô giáo Mẫn giảng bài xong liền hỏi có em nào phát biểu ý kiến không?

Cả lớp đồng dơ tay, cô giáo Mẫn chỉ một em ngồi bàn trên tên là Đại Tiếu em phát biểu ý kiến đi.

Đại Tiếu đứng lên nói; Thưa cô em đã hiểu sức mạnh của con Rồng cháu Tiên rồi. Lúc ngủ mà giặc còn bỏ mạng, huống chi con Rồng cháu Tiên đã thức dậy, lại còn múa tay động chân tập thể dục, làm cho đất trời chao đảo, cả nhân loại năm châu khiếp vía kinh hoàng. Nói gì đến giặc ngoại xâm mặt cắt không còn chút máu sợ quá tự chết cần gì đánh đập cho mệt tay. Bất Chiến Tự Nhiên Thành phải không cô. Cả lớp nghe Đại Tiếu phát biểu ý kiến như thế cười ngã nghiêng ngã ngửa. Cô giáo Mẫn nói các em đừng cười nữa Đại Tiếu phát biểu đúng đấy. Ngoại xâm mà thấy con Rồng cháu Tiên thức dậy ngâm nga vài câu thơ thời bỏ chạy không cần đánh cũng thắng đó các em.
 
127 ❤︎ Bài viết: 637 Tìm chủ đề
11. TÈO VÀ TẸO

Ngày xưa ở nước Ma Hạ, tại xã hòa Vân, huyện Đồng Giao có một người tên Tèo không những trí huệ võ nghệ hơn người mà còn có tài chạy nhanh hơn đằng vân của Thần Tiên, tiếng tăm lan ra cả nước. Tèo chỉ vài bước chân là vượt qua hơn chục nước, ma quỷ cũng phải kinh hồn cho cái tài chạy nhanh nầy.

Khi ấy tại xã Tiêu Dao, huyện Su Phì cũng có một người chạy nhanh như thế tiếng tăm lừng lẫy không kém gì Tèo tên là Tẹo. Một hôm Tẹo nghĩ trên đời nầy không thể có hai mặt trời, không thể có hai cọp chúa trong một khu rừng được, phải phân cao thấp, tuy hai người cách xa hàng nghìn dặm nhưng Tẹo chỉ nhích vài bước chân liền đến nhà Tèo.

Tẹo đưa một phong thơ thách đấu trên đỉnh núi Vu Sơn. Các vị Thần núi, Thần sông, Thần rừng, Thần hồ, Thần mây, Thần Gió, Thần nắng, Thần mưa. Nói chung là các vị Thần đến xem trận đấu giữa Tèo và Tẹo.

Tẹo đến sớm hơn, vai mang bảo kiếm trông như thiên tướng nhà trời. Tèo đến chậm hơn mấy phút, oai phong không kém gì Tẹo. Tẹo nhìn Tèo cười ha hả nói ta tưởng đâu ngươi sợ quá cút luôn rồi chứ. Tèo cười nói làm gì có chuyện đó, ta cũng thấy hơi lo nhưng vì chữ tín cút làm sao được. Tèo nói hai ta thắng thua bằng cách nào đây?

Tẹo nói ai làm rách áo người kia trước thời coi như là thắng trong thời gian hai giờ giao đấu thôi, nếu không ai làm rách áo ai thời coi như huề, chờ cơ hội khác vậy. Tèo nói lấy ai làm chứng thắng thua. Tẹo nói các vị Thần kia sẽ làm chứng cho chúng ta. Tèo nói tôi ném hòn đá lên trời hòn đá rớt xuống đất là giao đấu. Tức thời hòn đá được quăng lên trời vừa rớt xuống, thời các vị Thần không thấy Tèo, Tẹo đâu nữa mà chỉ thấy kiếm khí ù ù cát bay đá chạy cây cối đổ nhào ngã lăn, kiếm chạm nhau như bắp rang đinh tai nhức óc, hai giờ đã trôi qua hai người dừng lại mời các vị Thần xem qua ai là bị rách áo, các Thần xem qua không thấy ai bị rách áo cả liền nói hai người chẳng ai thắng ai, thủ hòa. Tèo, Tẹo cảm ơn các vị Thần rồi nhích chân biến mất, có lẽ Tèo, Tẹo đã trở về nhà rồi.

Nói về Vua Bát La nước Ma Hạ chỉ có một người Công Chúa độc nhất tuổi mười tám sắc nước hương trời, đẹp như tiên giáng trần nhưng chưa chịu lấy chồng vì không có ai vừa ý cả. Nhiều vị hoàng tử các nước lân cận dạm hỏi nhưng công chúa Tiên Nga đều chê là không có trí huệ, chỉ biết dùng sức mạnh để thắng người, lúc nào cũng phô trương là tài giỏi quyền thế.

Một hôm thấy Phụ Vương có vẻ buồn Công Chúa nói thưa Cha nghe nói trong nước Ma Hạ ta có hai người vô cùng tài giỏi sao Cha không mời họ đến đây xem thử có đúng như lời đồn không?

Vua Bát La như chợt nhớ ra, nhưng rồi lắc đầu nói họ chỉ là dân thường làm sao xứng với Công Chúa, nhất là kế vị ngôi vua sau nầy.

Công Chúa nói không phải ngày xưa Phụ Vương cũng là thường dân sao? Vua Bát La nghe Tiên Nga nói thế liền tỉnh ngộ cho người mời Tèo, Tẹo về hoàng cung trước là xem mặt, nếu tướng tá không ra gì thời khỏi phải thi. Tèo và Tẹo nhận được chỉ thị của Vua Bát La liền mừng rỡ nghĩ đây là cơ hội để phân thắng thua, không nghĩ là Vua Bát La chọn rễ. Hai người liền vào cung quỳ lạy thưa rằng chúng thần nhận được chỉ thị của Bệ Hạ liền vào cung không dám chậm trễ.

Vua Bát La ngắm nhìn hai người một hồi khen thầm trong bụng quả là loài rồng không phải người thường, không khác gì Thần Tiên giáng hạ. Vua Bát La hỏi qua sở trường của hai chàng trai trẻ là gì. Tèo, Tẹo đáp rằng muôn tâu Bệ Hạ văn võ trí tuệ có thừa. Vua Ma Hạ chưa biết ra đề thi gì thời Công Chúa Tiên Nga xuất hiện xinh đẹp lộng lẫy vô cùng. Tèo, Tẹo nhìn thấy nhưng thái độ lạnh lùng. Tiên Nga có vẻ hơi tự ái, nhưng trầm tĩnh trở lại. Vua Bát La cũng vô cùng kinh ngạc vì sự thờ ơ của hai chàng trai trẻ trước sắc đẹp lộng lẫy của Tiên Nga.

Tiên Nga mỉm cười nhìn Tèo, Tẹo nói Công Chúa tôi đã nghe hai người từ lâu, quả là khí phách hơn người thần khí minh chính. Sở trường của hai người chính là chạy nhanh, hai người chỉ cần chạy ra biên giới bôi thuốc đỏ lên cột mốc rồi trở về đây, ai nhanh chân hơn người đó thắng. Ta có con ngựa Thiên Lý Mã ngày đi nghìn dặm cho người theo khảo sát sự thắng thua của hai người. Tẹo nghe xong nói thưa Công Chúa từ đây đến biên giới chỉ có hơn hai nghìn dặm làm sao thi được. Công Chúa kinh ngạc nói Thiên Lý Mã ta vừa đi vừa về cũng đã mất ba ngày, đó là chạy hết tốc lực. Hai ngươi chạy nhanh hơn Thiên Lý Mã của ta sao?

Tèo nói thưa Công Chúa chúng tôi muốn chạy thi vòng quanh trái đất. Công Chúa hãy nói với Bệ Hạ cắm một lá cờ trước cung điện nếu ai tới trước cầm lấy lá cờ người ấy thắng. Công Chúa nghe xong lấy làm ngơ ngác. Vua Bát La cũng biến sắc, tưởng mình nghe lầm liền hỏi lại hai chàng trai trẻ muốn chạy thi vòng quanh trái đất sao? Tèo, Tẹo đồng thưa đúng thế Bệ Hạ. Vua Bát La hỏi thời gian mấy tháng hay là cả năm. Tèo, Tẹo nói thưa Bệ Hạ chỉ trong vòng nửa giờ, nhiều khi chưa tới nửa giờ. Vua Bát La nghe xong nói việc nầy phải có sự chuẩn bị trước, sáng mai bàn với các quan trong triều rồi sẽ tính. Vua Bát La sai người dẫn Tèo, Tẹo đến một cung điện sang trọng tiếp đãi hết sức tử tế.

Ánh bình minh vừa ló dạng đã nghe tiếng Tèo, Tẹo nói chuyện với nhau. Tèo nói trong cuộc so tài nầy ai thắng ai thua chúng ta vẫn là bạn với nhau. Tẹo nói đương nhiên rồi chỉ là so tài thôi mà.

Vua Bát La nhìn thấy các vương quan đến chầu đông đủ liền nói lên câu chuyện so tài của hai chàng trai, các vương quan nghe xong đều ngơ ngác tưởng là mình nghe lầm, nhưng không có ai lên tiếng cả. Vua Bát La nói tiếp các khanh có thể làm chứng cho cuộc so tài nầy.

Vua Bát La cho người cắm một cây cờ trước sân rồng, có đầy đủ bá quan văn võ ở đó, đương nhiên phải có Công Chúa Tiên Nga. Vua Bát La tuyên bố đầu giờ thìn khởi hành cuối giờ thìn mà hai người chưa trở về thời coi như cuộc thi hủy bỏ. Tèo và Tẹo nai nịt ăn mặc gọn gàng trông như hai Thiên Thần giáng thế. Đầu giờ thìn một tiếng trống đánh lên, tức thời Tèo và Tẹo biến mất, người ta bất chợt nhìn thấy Tèo không chạy thi gì cả vẫn còn nguyên chỗ cũ, còn Tẹo thì biến đi đâu mất không nhìn thấy nữa. Tèo từ từ bước đến cây cờ nằm tréo cẳng ngủ, chẳng ai hiểu nếp tẻ gì cả. Công Chúa nói nhỏ với Phụ Vương người nầy mới là người thông minh nhất trần gian, chẳng tốn chút hơi sức nào cũng thắng được, người kia quả là bậc kỳ nhân trên đời, thảo nào thấy gái đẹp vẫn trầm tĩnh như thường.

Nói về Tèo biết Tẹo sắp chạy về đến nơi liền ôm chặt cây cờ. Công Chúa vô cùng hồi hộp mau đến thế sao. Công Chúa vừa nghĩ xong thời Tèo cầm cây cờ giơ lên, một cơn lốc ập tới, Tẹo đã hiện ra mồ hôi ướt ròng cả áo. Tẹo nhìn Tèo không đổ chút mồ hôi la lớn ngươi chạy nhanh đến thế sao? Lấy lại bình tĩnh Tẹo hỏi ngươi không chạy thi? Tèo nói ta chạy đến trước ngươi bằng chứng là ta đang cầm lấy cây cờ. Tẹo bái một bái nói ta thua ngươi rồi, ngươi quả là trí, đức song toàn. Tẹo định bỏ đi Tèo nắm lấy tay nói chúng ta đã giao kèo với nhau rồi dù thắng hay thua cũng là anh em. Tẹo liền không bỏ đi nữa. Các quan đại Thần như vừa trải qua một giấc mơ không thể tin là có thật trên đời.

Đức Vua Bát La thấy Tẹo đã nhận thua liền công bố Tèo thắng cuộc. Vua Bát La gả Công Chúa Tiên Nga cho Tèo, gả Quận Chúa em họ Công Chúa Tiên Nga cho Tẹo, Tẹo nhìn thấy Quận Chúa xinh đẹp trong lòng cảm thấy làm vui.

Nói về Hoàng Tử nước Cô Tô luôn ôm hận vì bị Công Chúa Tiên Nga từ chối kết duyên mà còn bị Công Chúa cho là kém trí thiếu đức, chờ có cơ hội là đem quân tiến đánh nước Ma Hạ. Đất nước Cô Tô vô cùng hùng mạnh, nhiều nước tùng phục Cô Tô. Vua Cô Tô vô cùng hung bạo, điều nầy đã làm cho Vua Bát La vô cùng lo sợ, nhất là Công Chúa từ chối sự cầu hôn của Hoàng Tử Cô Tô.

Vua Bát La cũng đã lường trước thế nào nước Cô Tô cũng tiến đánh nước Ma Hạ, không ngờ chuyện lại xảy ra nhanh đến thế, quân Cô Tô tiến sang biên giới như nước lở bờ. Quân Ma Hạ không chống trả nổi, không bao lâu quân Cô Tô kéo đến thành Ma Hạ bao vây lớp trong lớp ngoài đông như kiến cỏ, buộc Vua Bát La đầu hàng giao nạp Công Chúa trở thành chư hầu nước Cô Tô thời may ra còn sống bằng không nước Ma Hạ coi như bị xóa sổ.

Vua Bát La chưa biết làm thế nào thời có vị Vương Quan Cha Vợ của Tẹo liền tâu. Muôn tâu Bệ Hạ đã đến nước nầy thời Bệ Hạ hãy trao quyền thống lãnh quân binh Ma Hạ cho Phò Mã. Để Phò Mã thống lãnh quân binh tử chiến với quân giặc. Các quan cũng đồng tâu như thế, Vua Bát La liền cho đòi Phò Mã Tèo cùng Quận Công Tẹo đến phong cho Thống Tướng, phó Thống Tướng thống lãnh toàn bộ quân binh đối đầu tử chiến với quân xâm lược.

Nhận ấn soái xong Tèo và Tẹo thống lãnh binh mã mở cửa thành xông ra tử chiến với quân Cô Tô. Công Chúa, Quận Chúa ở trên thành phất cờ khích lệ ba quân tướng sĩ tử chiến cũng như động viên tinh thần phu quân sẵn sàng một còn một mất với giặc.

Tèo, Tẹo nhìn quân xâm lược hét lớn, nước Ma Hạ không oán thù gì với nước Cô Tô, sao nước Cô Tô xâm lược nước Ma Hạ. Làm trái ý Trời hãy rút quân trở về Cô Tô giữ hòa khí láng giềng với nhau. Hoàng Tử Cô Tô cười ha hả thét lớn bỏ khí giới đầu hàng đi, may ra còn cái đầu để sinh sống. Bằng không không còn con gà con chó, ta thổi ba hồi còi không quy hàng tức là nước Ma Hạ coi như bị xóa sổ. Tèo phi ngựa đến nói nhỏ với Tẹo giết sạch các tướng lĩnh không cần giết quân lính giảm bớt sự chết chóc coi như chúng ta đã làm phước thiện, đáng lý quân Cô Tô phải bỏ mạng chết sạch nơi đây.

Tiếng còi thứ ba vừa kết thúc quân Cô Tô ào ào như nước lũ lao tới. Công Chúa, Quận Chúa trên thành nhìn thấy quân Cô Tô đông như kiến lao tới chém giết quân Ma Hạ, liền phất cờ thét lớn tiến lên tử chiến, tiến lên tử chiến. Không còn chần chờ gì nữa Tèo, Tẹo hét như sấm nổ làm kinh khiếp quân Cô Tô. Tèo, Tẹo biến mất chỉ thấy kiếm khí phủ tới đâu, đầu các tướng lĩnh quân Cô Tô bay lông lốc. Hoàng Tử Cô Tô bị chặt làm ba khúc. Quân Cô Tô như rắn mất đầu khiếp hoảng dẫm đạp lên nhau mà chạy, quân Ma Hạ thừa thắng xông lên chém thôi là chém, Công Chúa Quận Chúa thấy quân Cô Tô bỏ chạy tay phất cờ miệng thét lớn tiến lên tử chiến chém sạch quân thù, chém cho lũ giặc ngã nhào, chém cho chết sạch chẳng còn một tên. Công Chúa, Quận Chúa thi nhau hò hét phất cờ đến nổi kiệt sức ngồi bệt xuống đất miệng mũi tranh nhau mà thở. Quân Cô Tô dẫm đạp lên nhau chạy thục mạng bị quân địa phương Ma Hạ rượt đuổi chém giết chạy về tới nước Cô Tô chết hơn phân nửa. Vua Cô Tô nghe Hoàng Tử bị chặt làm ba khúc chết hơn trăm tướng tài nhất nước Cô Tô liền thét lên một tiếng trào máu họng qua đời hồn sa địa phủ xong đời bạo chúa.

Vua Bát La nhường ngôi cho Tèo. Tèo lên ngôi đời thứ hai Mạ Hạ dân chúng an lạc thái bình không còn đất nước nào dám xâm lược nữa. Công Chúa sinh được hai trai hai gái. Sống an vui hạnh phúc.
 
Chia sẻ bài viết

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back