Phân tích đoạn trích: Con sông đà tuôn dài...lũ thác ngay đấy

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Diệp Lam Lạc, 3 Tháng mười hai 2022.

  1. Diệp Lam Lạc

    Bài viết:
    111
    Đề 4: "Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình[..] chốc chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy."

    Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng con sông Đà trong đoạn trích trên đây. Từ đó nhận xét về chất thơ trong đoạn trích.

    Bài làm


    "Dù ong phải bay ngàn cánh bay mới giọt mật

    Hay tằm giam mình tại chỗ nhả ra tơ

    Trong sáng tạo, chúng ở đầu hai cực

    Nào con nào đã được nhởn nhơ.."

    ( "Thơ bình phương – Đời lập phương" – Chế Lan Viên)

    Thật vậy, bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo. Và lao động nghệ thuật chưa bao giờ là dễ dàng: Thầm lặng. Chán nản. Đơn độc. Vất vả. Giằng xé. Mỗi một tác phẩm chân chính ra đời là sự lao động miệt mài không ngừng nghỉ, là kếtquả của quá trình dấn thân, nhập cuộc, tích lũy, một quá trình cọ xát dữ dội của người nghệ sĩ. Và Nguyễn Tuân cũng không nằm ngoài điều đó. Ông đã viết nên tập "Sông Đà" mà linh hồn của nó chính là tùy bút "Người lái đò sông Đà". Thưởng thức bài kí, độc giả không khỏi ấn tượng với vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông, từ đó, ta thấy được chất thơ mà nhà văn thể hiện:

    "Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình[..] chốc chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy."

    Là cây đại thụ của rừng đầu nguồn Việt Nam, Nguyễn Tuân được mệnh danh là "nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp". Trước và sau cách mạng, câu bút ấy luôn thể hiện vẻ đẹp của lối viết tài hoa, uyên bác, độc đáo, phóng túng. Tùy bút "Người lái đò sông Đà" in trong tập "Sông Đà" (1960) là một tiêu biểu. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế gian khổ và đầy hào hứng của tác giả đến vùng Tây Bắc xa xôi hòng kiếm tìm "chất vàng mười" trong thiên nhiên và con người nơi đây. Sông Đà trong cái nhìn của Nguyễn Tuân như một thực thể sống động vừa mang vẻ đẹp hùng vĩ của thác, nước, đá; vừa mang vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng. Đoạn trích trên khắc họa vẻ đẹp hung vĩ của dòng sông.

    Đoạn văn bản nằm ở phần giữa tác phẩm. Nếu như phần thượng nguồn Nguyễn Tuân đã khắc họa Sông Đà đầy hung bạo và dữ đội với những thác đá "dựng vách thành", "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuồn" trên mặt ghềnh Hát Loong hay những hút nước sâu đầy nguy hiểm. Thì đến phần hạ nguồn ta sẽ không còn bắt gặp những sự nguy hiểm trên nữa mà ở đây ta lại cảm nhận một vẻ đẹp khác của Sông Đà rất thơ mộng trữ tình như một bức tranh sơn thủy đầy thu hút. Từ đó, ta thấy được chất thơ mà nhà văn thể hiện trong đoạn trích.

    Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ ấy đã đóng vai trò của một nhà địa lí học, đi đến tận cùng để tìm hiểu, để đưa vào trang văn của mình những thông tin chính xác về hình tượng sông Đà. Qua những trang viết tài hoa, con sông thơ mộng và dữ dội đã trở thành dòng chảy huyền thoại, người lái đò vật lộn với thác lũ đã trở thành dũng sĩ. Nguyễn Tuân luôn là như vậy, đã cầm bút viết là phải đi đến tận cùng của cái đẹp, không ưa những gì bằng phẳng, phải chọn cho mình những tích cách phi thường và ông đã đến với sông Đà như một điều tất yếu. Qua những trang văn của người nghệ sĩ, bạn đọc biết đến khai sinh của dòng sông để biết sông Đà ở huyện Canh Đông – tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) lấy tên gọi ban đầu là Ly Tiên, khi đi qua một vùng núi Ác đến nửa đường thì xin nhập quốc tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên đến ngã ba Trung Hà thì nhập vào với sông Hồng. Có thể thấy rằng, tuy không phải là một nhà địa lí học, nhưng tất cả kiến thức Nguyễn Tuân đem đến cho ta qua trang văn của mình đều là những kiến thức bổ ích và có giá trị nghiên cứu cao. Bên cạnh đó, ông còn phát hiện ra một đặc điểm của con sông này và thể hiện nó đầy đủ trên trang viết qua lời đề từ: "Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu" có ý nghĩa là mọi dòng sông đều đổ theo hướng Đông, duy chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Chi tiết ấy cho ta thấy sự khác biệt của dòng sông này, nó rất phù hợp với tạng văn, tạng người của Nguyễn Tuân.

    Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của nàng Đà giang trước hết được thể hiện ở điểm nhìn nghệ thuật:

    Văn chương luôn đòi hỏi người nghệ sĩ phải tìm tòi những điều mới lạ. Bởi chính sự mới lạ là một trong điều cần có dẫn đến sự thành công trong sáng tác của người nghệ sĩ. Vẫn quan sát con sông Đà ở chiều không gian, nhưng trong tùy bút "Người lái đò Sông Đà", Nguyễn Tuân đã tạo ra sự mới lạ khi ông quan sát và miêu tả Sông Đà với một điểm nhìn khác biệt là nhìn từ trên cao nhìn xuống. Nếu trước đó nhà văn viết rằng mình ngồi trên máy bay mà quan sát sông Đà Tôi có bay tạt ngang qua sông Đà mấy lần, và cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc thì trong đoạn văn này tác giả vẫn thể hiện điểm nhìn ấy: Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà.

    Không chỉ dừng ở điểm nhìn nghệ thuật, con sông Đà còn mang vẻ đẹp của một mĩ nhân:

    Từ điểm nhìn đặc biệt đó, tác giả đã cho người đọc thấy Sông Đà thật mềm mại, thướt tha chảy dọc trên mảnh đất Tây Bắc rộng lớn. Tác giả còn nhìn thật sâu vào dòng Sông Đà để thấy "con Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình . Hai từ" tuôn dài "được lặp lại hai lần cho ta thấy được dòng chảy của Sông Đà dường như nó vô cùng, vô tận như không có điểm dừng cùng với nhịp câu toàn là thanh bằng đã phần nào diễn tả sự chảy trôi của con sông sao nó chậm rãi êm đềm đến như thế! Nó thật khác so với sự cuồn cuộn của" nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió "của mặt ghềnh Hát Loóng phần thượng nguồn. Không chỉ thế ta còn bắt gặp được sự tài hoa, cái chất" ngông "của Nguyễn Tuân trong cách bỏ dấu câu khiến cho dòng sông nó cứ chảy trôi, chảy trôi êm ả giữa miền đất rộng lớn Tây Bắc. Sự tuôn dài tuôn dài của dòng sông được Nguyễn Tuân so sánh như" một áng tóc trữ tình ". Với việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh đã làm cho dòng Sông Đà như một làn tóc đầy thướt tha, bồng bềnh của người thiếu nữ ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc. Tác giả còn sử dụng một từ rất đặc biệt đó chính là từ" áng ". Nghe sao có sự quen thuộc? Ta thường bắt gặp từ" áng "ở áng văn, áng thơ này được Nguyễn Tuân gắn với tóc thành" áng tóc trữ tình ". Cả cụm từ ấy đã nói lên chất thơ, chất trẻ trung và đẹp đẽ, thơ mộng của dòng sông. So sánh Sông Đà như áng tóc trữ tình tác giả còn khẳng định vai trò, vị thế của dòng sông đối với thiên nhiên Tây Bắc. Nếu như coi con Sông Đà là tóc trữ tình thì mảnh đất Tây Bắc chính là một cơ thể sống. Cơ thể ấy đẹp hơn, trẻ trung hơn, tươi mới hơn là nhờ có dòng Sông Đà.

    Sông Đà ẩn hiện giữa thiên nhiên Tây Bắc đầy thơ mộng: Sông Đà như mái tóc của người thiếu nữ kiều diễm mà" đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân " . Vẻ đẹp của dòng sông được tác giả điểm tô như mái tóc được cài lên những những bông hoa đầy sắc màu như màu trắng tinh khôi của hoa ban, màu đỏ thắm của hoa gạo trong tiết tháng Ba. Ngoài ra, dòng sông còn mang vẻ đẹp ấm áp, mơ màng khi nó ẩn hiện giữa mù khói Mèo đốt nương xuân . Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc thêm mĩ miều. Có thể nói những câu văn đầu tiên trong đoạn văn này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những câu văn đẹp được coi là" tờ hoa "," trang hoa "trong văn học Việt Nam.

    Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà được thể hiện qua màu sắc nước:

    Văn chương luôn đòi hỏi người nghệ sĩ phải tìm tòi những điều mới lạ.
    Bởi chính sự mới lạ là một trong điều cần có dẫn đến sự thành công trong sáng tác của người nghệ sĩ. Trong tùy bút" Người lái đò Sông Đà "cũng vậy! Nguyễn Tuân không miêu tả Sông Đà với một phương diện là nhìn từ trên cao nhìn xuống theo chiều không gian để nhìn ngắm hình dáng con Sông Đà đầy thướt tha, êm ả mà ông có sự quan sát theo chiều thời gian để thấy rõ sự biến đổi khôn lường của màu nước Sông Đà theo mùa. Khi miêu tả sắc nước Sông Đà Nguyễn Tuân đã bộc lộ sự mê hoặc trước khi miêu tả sắc nước Sông Đà trong hai mùa: Xuân và thu:" Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống nước Sông Đà ". Về mùa xuân sông Đà hiện lên với màu " xanh ngọc bích " – đó là một màu xanh vừa trong vừa sáng, đầy hấp dẫn . Ta như bắt gặp màu xanh này trong bài thơ" Đây thôn Vĩ Dạ "của nhà thơ Hàn Mạc Tử khi miêu tả khu vườn thôn Vĩ:" Vườn ai mướt quá xanh như ngọc ". Điểm độc đáo ở đây của cả hai tác giả đều lựa chọn sắc xanh ngọc bích để tăng thêm vẻ đẹp của đối tượng miêu tả. Nhưng có lẽ việc sử dụng màu xanh ngọc bích để miêu tả sắc Sông Đà của Nguyễn Tuân vào mùa xuân như đang là tăng thêm sự quý giá của Sông Đà như" chất vàng "mà Nguyễn Tuân luôn tìm kiếm. Không chỉ thế Nguyễn Tuân còn khẳng định sự khác biệt về màu sắc của Sông Đà không " xanh như màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô ". Đến đây ta nghĩ đến lời nhận xét của TS. Trịnh Thu Tuyết: " Việc so sánh màu ngọc bích của Sông Đà với màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô không phải chỉ là biểu hiện quen thuộc của một nhà văn thị tài, thích khoe tài, khoe uyên bác mà còn là 1 sự thiên vị của một niềm yêu ". Có lẽ Nguyễn Tuân yêu Sông Đà quá nhiều nên bất cứ con sông nào với ông cũng không đẹp như sông Đà.

    Mùa xuân qua đi mùa thu lại đến sắc nước Sông Đà có sự biển đổi đầy rõ nét không chỉ còn là sắc xanh ngọc bích đầy hấp dẫn đấy nữa mà thay vào đó là màu " lừ lừ chín đỏ ". Thật khó có thể hình dung được? Có lẽ nó phải chăng là màu đỏ của " Những dòng sông đỏ nặng phù sa "m à Nguyễn Đình Thi miêu tả hay không? Để giải thích được điều này vế sau tác giả đã cho người đọc dễ hình dung hơn khi miêu tả sắc đỏ đấy " lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bỗi gì mỗi độ thu về "hay" như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa " . Nhà văn đã sử dụng thành công biện pháp tu từ so sánh màu sắc của con sông với sắc thái, tâm trạng của con người lúc " bất mãn "," bực bội " khi mỗi đợt thu về đã làm cho con sông Đà hiện lên không còn vô tri, vô giác nữa mà khiến nó trở nên có hồn và có cảm xúc. Ngoài ra ta còn thấy được cái tài của Nguyễn Tuân khi đặt hai màu của 2 mùa khác nhau trong năm, xanh và đỏ ở cạnh nhau cũng vô cùng tinh tế. Hai màu đó tuy đối chọi nhau giờ lại hài hòa, êm dịu một cách lạ thường.. Như vậy bên cạnh vẻ đẹp duyên dáng thì Sông Đà còn có vẻ đẹp đầy biến ảo linh hoạt, hấp dẫn không lặp lại mình. Nếu như vào mùa xuân sắc nước gợi lên sự êm dịu trong trẻo thì sang mùa thu sắc nước chuyển mình đỏng đảnh ẩn chứa nhiều sức mạnh tiềm tàng trên Sông Đà.

    Với cái nhìn của tình yêu và tinh thần dân tộc nên trong đoạn văn, Nguyễn Tuân còn thể hiện sự am hiểu tường tận về dòng sông hơn nữa. Ông khẳng định chưa bao giờ, sông Đà có màu đen như" thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào rồi gọi bằng một cái tên láo lếu, rồi cứ thế mà phết vào bản đồ lai chữ ".

    Nếu như ở đoạn trước tác giả đã tiếp cận và miêu tả Sông Đà như một mĩ nhân, thì đến đoạn văn này, Nguyễn Tuân miêu tả con sông như một cố nhân.

    Theo Nguyễn Tuân, Sông Đà rất gợi cảm, đối với mỗi người Sông Đà lại có một cách gợi nhưng đối với ông Sông Đà" như một cố nhân "xa thì mong nhớ đợi chờ, bên nhau trân trọng từng giờ phút giây. Chính vì thế, khi có chuyến đi núi đi rừng đã lâu, nhà văn Nguyễn Tuân " quên mất mình sắp đổ ra Sông Đà xuống một cái dốc núi trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch gương chiếu vào mắt mình rồi bỏ chạy ". Chính cái ánh sáng ấy, dưới con mắt của Nguyễn Tuân nó đã lóe lên màu nắng tháng ba Đường thi" Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu ". Nhà văn Nguyễn Tuân thật tài tình khi dùng câu danh cú bậc nhất của thơ Đường trong bài" Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng "để miêu tả vẻ đẹp của dòng Sông Đà. Trong mắt Nguyễn Tuân, Sông Đà rất thơ mộng, rất trữ tình như những vần thơ tuyệt bút của Lý Bạch. Màu nắng tháng ba Đường thi thật đặc biệt gợi cảm và trữ tình mới diễn tả được hết vẻ đẹp thơ mộng của Sông Đà. Màu nắng của thơ, của mộng, ấm áp và sáng lên lấp lánh. Sông Đà yên ả, thanh bình và phẳng lặng trong sáng như một tấm gương phẳng khổng lồ được ánh mặt trời chiếu vào lấp lánh. Chính vể đẹp ấy làm nhà văn Nguyễn Tuân cảm thấy vui sướng đằm đằm ấm ấm như gặp lại một cố nhân. Với việc sử dụng từ Hán Việt" cố nhân "cộng với từ láy" đằm đằm, ấm ấm "ta thấy được hết tấm lòng trân trọng, sự ấm áp, vui tươi của nhà văn khi được ở bên Sông Đà. Hai chữ" cố nhân "là bao tình cảm yêu mến, nâng niu trân trọng của nhà văn dành cho dòng sông quê hương xứ sở. Hai chữ cố nhân ấy thật đặc biệt và được sử dụng rất đắc địa. Ngày xưa, Lý Bạch đã từng khẳng định: Vàng 300 trăm lạng kiếm dễ, để tìm được một tri kỉ khó muôn đời. Câu nói của Lý Bạch đánh giá rất cao vai trò, tầm quan trọng của cố nhân, tri kỉ trong cuộc đời mỗi con người.

    Có lẽ chính vì thế, khi gặp lại cố nhân Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân không thể kìm nén được cảm xúc trước vẻ dẹp quá thơ mộng khi " Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà ". Đây là một câu văn, xét về hình thức là câu thiếu vị ngữ, nhưng đặt trong chỉnh thể nghệ thuật là một sự sáng tạo độc đáo của của nhà văn Nguyễn Tuân. Câu văn bỏ lửng này đã cho ta nhiều liên tưởng thú vị. Thứ nhất, câu văn đã mở ra một không gian tuyệt mĩ khi bờ Sông Đà, bãi Sông Đà và trên mặt Sông Đà đã được phủ kín bởi những cánh chuồn chuồn, bươm bướm mỏng tang sặc sỡ sắc màu đang dập dờn bay lượn trong màu nắng tháng ba Đường thi. Thứ hai, câu văn buông lửng khiến ta liên tưởng đến nhà văn Nguyễn Tuân như đứng lặng người trước vẻ đẹp tuyệt mĩ của dòng sông, sức mạnh ngôn từ của ông như đang bất lực trước cảnh sắc tuyệt diệu ấy. Thứ ba, câu văn được sử dụng chủ yếu thanh bằng (11/13 âm tiết) cùng với điệp từ Sông Đà (lặp lại 3 lần) đã tạo ra một giai điệu êm ả, ngọt ngào, làm sống dậy khung cảnh sắc thơ mộng, thanh bình.

    Trước vẻ đẹp diệu kì của thiên nhiên ban tặng, của Sông Đà dành tặng cho người cố nhân, Nguyễn Tuân chỉ còn biết thốt lên trong niềm reo vui ngỡ ngàng " Chao ôi, trông thấy con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng " . Với việc sử dụng thán từ" chao ôi "kết hợp với biện pháp tu nghệ thuật so sánh, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, nhà văn Nguyễn Tuân đã diễn tả trọn vẹn niềm vui vô bờ bến của mình khi gặp lại con sông sau nững ngày xa cách. Trong văn học xưa nay, có rất nhiều cách diễn tả niềm vui như: vui như hội, vui như Tết, vui như mở cờ trong bụng. Hay nhà thơ Chế Lan Viên đã diễn tả niềm vui vô bờ bến của mình khi trở về với nhân dân Tây Bắc, người mẹ của hồn thơ và cội nguồn của sự sáng tạo:

    " Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ,

    Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,

    Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

    Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa "


    Nếu như Chế Lan Viên có một loạt hình ảnh so sánh diễn tả niềm vui của mình thì nhà văn Nguyễn Tuân cũng vậy. Ông đã có những câu văn so sánh tuyệt diệu, giúp người đọc hình dung rõ hơn, cụ thể hơn về những cảm xúc của ông khi gặp lại cố nhân Sông Đà. Cách so sánh " vui như thấy nằng giòn tan " thật đáng yêu, nhưng vi diệu hơn khi tác giả so sánh " vui như nối lại chiêm bao đứt quãng " . Đây là cách so sánh rất mới lạ, độc đáo và rất Nguyễn Tuân mà khó ai có thể sánh kịp. Với cách so sánh này, nhà văn mới diễn tả được tận cùng của niềm vui khi gặp lại cố nhân mình hằng yêu mến, quý trọng. Đó là niềm vui bắt nguồn từ tình cảm yêu quý của một nhà văn không còn thiếu quê hương. Chỉ có tình yêu vô bờ bến, Nguyễn Tuân mới có niềm vui như vậy khi gặp lại cố nhân Sông Đà.

    Bằng những cảm nhận tinh tế tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã phác thảo hình sắc của nước Sông Đà bằng những đường nét uyển chuyển, bằng những màu sắc biến ảo lung linh. Nếu ví sông Đà là một sản phẩm nghệ thuật thì đây là một tác phẩm hội họa tuyệt mỹ. Và để làm rõ vẻ vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà, Nguyễn Tuân đã miêu tả từ nhiều thời điểm: Mùa xuân, mùa thu, từ nhiều góc độ: Khi thì ngồi trên trực thăng để bao quát toàn cảnh, khi thì xuôi thuyền dọc theo sông Đà thậm chí có khi còn dừng hẳn lại để chiêm ngưỡng và miêu tả một cách cặn kẽ, kĩ càng. Việc làm đó của Nguyễn Tuân vừa cho thấy con sông Đà mang trong mình một vẻ đẹp đa chiều, phải soi ngắm từ nhiều phương diện, góc độ mới có thể thấy hết cái thơ mộng trữ tình của nó, vừa cho thấy tinh thần lao động nghiêm túc ở Nguyễn Tuân.

    Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc. Thì đối với Nguyễn Tuân ở đây cũng vậy. Ông đã sử dụng kiến thức hội họa, thơ ca để miêu tả; vận dụng nhiều những biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, những ví von, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị; từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; câu văn đa dạng, nhiều tầng, giọng điệu mượt mà, sâu lắng; lời văn bay bổng, phóng túng – viết không theo nguyên tắc các dấu chấm, dấu phẩy, bỏ đi để tạo nên sự dịu dàng uyển chuyển liền mạch của dòng chảy Sông Đà. Cùng với việc sử dụng nhiều thanh bằng tạo một con sông êm ả giống như một thiếu nữ Tây Bắc rất mực nữ tính mà vẫn hùng vĩ lớn lao.

    Đọc đoạn trích, ta ấn tượng với chất thơ mà Nguyễn Tuân thể hiện. Trước hết, đó là cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông: Sông Đà như một người gái đẹp của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha thướt, gài buông lơi những bông hoa ban trắng ngần hay những bông gạo đỏ rực, thấp thoáng ẩn hiện giữa núi rừng mùa xuân mù sương khói.. Vẻ trữ tình của dòng sông mang vẻ đẹp của Đường thi khi nó gợi nhớ câu thơ của Lí Bạch. Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữ tình: Cảm giác đằm đằm ấm ấm và niềm vui như gặp lại cố nhân sau chuỗi ngày chia biệt. Đặc biệt, thán từ chỉ cảm xúc" Chao ôi "được nhà văn sử dụng để bày tỏ tình cảm với con sông thương nhớ. Ở phương diện nghệ thuật: điểm nhìn nghệ thuật khác biệt, những biện so sánh, liên tưởng thú vị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như một người con gái đẹp, như một cố nhân, nước Sông Đà đổi màu liên tục qua mỗi mùa trong năm, cách sử dụng ngôn từ giàu xúc cảm.. Để tôn thêm tính trữ tình của dòng sông, nhà văn sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng gợi cảm và đầy chất thơ. Nhịp điệu câu văn khi thì chậm rãi, lúc thì hối hả, mau lẹ do cách ngắt câu và diễn đạt theo lối điệp (bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà) để diễn tả niềm sung sướng đang trào dâng trong lòng tác giả. Vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà như những lời thơ. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo, sử dụng kiến thức hội họa, thơ ca để miêu tả.. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.

    " Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo ". Những tác phẩm đạt đến chuẩn mực của cái hay cái đẹp sẽ" vượt qua mọi sự bang hoại của thời gian "để sống mãi trong lòng bạn đọc. Cũng như dù thời gian có chảy trôi nhưng giá trị tác phẩm" Người lái đò sông Đà "của nhà văn Nguyễn Tuân vẫn nguyên vẹn và tỏa sáng.

    " Riêng những câu thơ còn xanh

    Riêng những đôi mắt còn xanh

    Và đôi mắt em long lanh

    Như hai giếng nước ".

    (" Thời gian"– Văn Cao)
     
    Tramnhao, Sunshine08, Admin1 người nữa thích bài này.
  2. Đăng ký Binance
  3. Diệp Lam Lạc

    Bài viết:
    111
    Đề 4: " Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.. chốc chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy. (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr. 191-192) Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng con sông Đà trong đoạn trích trên đây. Từ đó nhận xét về chất thơ trong đoạn trích.

    I. MỞ BÀI

    - Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung

    - Đoạn trích sau đây ca ngợi vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà thể hiện chất thơ trong sáng tác của Nguyễn Tuân " Con sông Đà tuôn dài.. ngay đấy ".

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    - Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

    - Lời đề từ: " Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu ": Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng Sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình. Ở lời đề từ " Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông " tác giả lại thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp trữ tình của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông ấy, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.

    - Nguyễn Tuân là nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan. Ông không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là" con "và viết hoa tên của nó thành Sông Đà. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần miêu tả tính cách trữ tình, thơ mộng của Đà giang.

    2. Hình tượng con Sông Đà qua đoạn trích: Sông Đà có vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng

    - Điểm nhìn nghệ thuật: Văn chương luôn đòi hỏi người nghệ sĩ phải tìm tòi những điều mới lạ. Bởi chính sự mới lạ là một trong điều cần có dẫn đến sự thành công trong sáng tác của người nghệ sĩ. Vẫn quan sát con sông Đà ở chiều không gian, nhưng trong tùy bút" Người lái đò Sông Đà ", Nguyễn Tuân đã tạo ra sự mới lạ khi ông quan sát và miêu tả Sông Đà với một điểm nhìn khác biệt là nhìn từ trên cao nhìn xuống. Nếu trước đó nhà văn viết rằng mình ngồi trên máy bay mà quan sát sông Đà Tôi có bay tạt ngang qua sông Đà mấy lần, và cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc thì trong đoạn văn này tác giả vẫn thể hiện điểm nhìn ấy: Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà.

    - Con sông Đà mang vẻ đẹp của một mĩ nhân: Từ điểm nhìn đặc biệt đó, tác giả đã cho người đọc thấy Sông Đà thật mềm mại, thướt tha chảy dọc trên mảnh đất Tây Bắc rộng lớn. Tác giả còn nhìn thật sâu vào dòng Sông Đà để thấy" con Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình . Hai từ "tuôn dài" được lặp lại hai lần cho ta thấy được dòng chảy của Sông Đà dường như nó vô cùng, vô tận như không có điểm dừng cùng với nhịp câu toàn là thanh bằng đã phần nào diễn tả sự chảy trôi của con sông sao nó chậm rãi êm đềm đến như thế! Nó thật khác so với sự cuồn cuộn của "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió" của mặt ghềnh Hát Loóng phần thượng nguồn. Không chỉ thế ta còn bắt gặp được sự tài hoa, cái chất "ngông" của Nguyễn Tuân trong cách bỏ dấu câu khiến cho dòng sông nó cứ chảy trôi, chảy trôi êm ả giữa miền đất rộng lớn Tây Bắc. Nhà văn còn so sánh Sông Đà như "một áng tóc trữ tình" làm cho dòng Sông Đà giống như một làn tóc mây thướt tha, bồng bềnh và mang vẻ đẹp của người thiếu nữ kiều diễm. Từ "áng" vừa có sự quen thuộc bởi ta thường bắt gặp từ "áng" ở áng văn, áng thơ vừa có sự mới lạ vì ở đây nó được Nguyễn Tuân gắn với tóc thành "áng tóc trữ tình". Cả cụm từ ấy đã bộc lộ vẻ đẹp đầy chất thơ, sự trẻ trung và mềm mại đầy nữ tính của con sông Tây Bắc.

    - Sông Đà ẩn hiện giữa thiên nhiên Tây Bắc đầy thơ mộng: Sông Đà như mái tóc của người thiếu nữ kiều diễm mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân . Vẻ đẹp của dòng sông được tác giả điểm tô như mái tóc được cài lên những những bông hoa đầy sắc màu như màu trắng tinh khôi của hoa ban, màu đỏ thắm của hoa gạo trong tiết tháng Ba. Ngoài ra, dòng sông còn mang vẻ đẹp ấm áp, mơ màng khi nó ẩn hiện giữa mù khói Mèo đốt nương xuân . Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc thêm mĩ miều. Có thể nói những câu văn đầu tiên trong đoạn văn này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những câu văn đẹp được coi là "tờ hoa", "trang hoa" trong văn học Việt Nam.

    - Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà được thể hiện qua màu sắc nước: Nhà văn còn có sự quan sát theo chiều thời gian để thấy rõ sự biến đổi khôn lường của màu nước Sông Đà theo mùa. Khi miêu tả sắc nước Sông Đà Nguyễn Tuân đã bộc lộ sự mê hoặc trước khi miêu tả sắc nước Sông Đà trong hai mùa: Xuân và thu: "Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống nước Sông Đà". Về mùa xuân sông Đà hiện lên với màu "xanh ngọc bích" – đó là một màu xanh vừa trong vừa sáng, đầy hấp dẫn. Ta như bắt gặp màu xanh này trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của nhà thơ Hàn Mạc Tử khi miêu tả khu vườn thôn Vĩ: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Điểm độc đáo ở đây của cả hai tác giả đều lựa chọn sắc xanh ngọc bích để tăng thêm vẻ đẹp của đối tượng miêu tả. Nhưng có lẽ việc sử dụng màu xanh ngọc bích để miêu tả sắc Sông Đà của Nguyễn Tuân vào mùa xuân như đang là tăng thêm sự quý giá của Sông Đà như "chất vàng" mà Nguyễn Tuân luôn tìm kiếm. Không chỉ thế Nguyễn Tuân còn khẳng định sự khác biệt về màu sắc của Sông Đà không "xanh như màu xanh canh hến của sông Gâm sông Lô". Đến đây ta nghĩ đến lời nhận xét của TS. Trịnh Thu Tuyết: "Việc so sánh màu ngọc bích của Sông Đà với màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô không phải chỉ là biểu hiện quen thuộc của một nhà văn thị tài, thích khoe tài, khoe uyên bác mà còn là một sự thiên vị của một niềm yêu". Có lẽ Nguyễn Tuân yêu Sông Đà quá nhiều nên bất cứ con sông nào với ông cũng không đẹp như sông Đà.

    Mùa xuân qua đi mùa thu lại đến sắc nước Sông Đà có sự biển đổi đầy rõ nét không chỉ còn là sắc xanh ngọc bích đầy hấp dẫn đấy nữa mà thay vào đó là màu "lừ lừ chín đỏ". Phải chăng là màu đỏ của "Những dòng sông đỏ nặng phù sa" mà Nguyễn Đình Thi miêu tả? Và như để giải thích rõ hơn về màu đỏ của nước sông Đà nên sau đó tác giả đã miêu tả và so sánh sắc đỏ ấy với hai đối tượng khác nhau là khiến người đọc dễ hình dung hơn là "lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bỗi gì mỗi độ thu về" hay "như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa" . Nhà văn đã sử dụng thành công biện pháp tu từ so sánh màu sắc của con sông với sắc thái, tâm trạng của con người lúc "bất mãn", "bực bội" khi mỗi đợt thu về đã làm cho con sông Đà hiện lên không còn vô tri, vô giác nữa mà khiến nó trở nên có hồn và có cảm xúc. Ngoài ra ta còn thấy được cái tài của Nguyễn Tuân khi đặt hai màu của hai mùa khác nhau trong năm, xanh và đỏ ở cạnh nhau cũng vô cùng tinh tế. Hai màu đó tuy đối chọi nhau giờ lại hài hòa, êm dịu một cách lạ thường.. Như vậy bên cạnh vẻ đẹp duyên dáng thì Sông Đà còn có vẻ đẹp đầy biến ảo linh hoạt, hấp dẫn không lặp lại mình. Nếu như vào mùa xuân sắc nước gợi lên sự êm dịu trong trẻo thì sang mùa thu sắc nước chuyển mình đỏng đảnh ẩn chứa nhiều sức mạnh tiềm tàng của nó.

    Với cái nhìn của tình yêu và tinh thần dân tộc nên trong đoạn văn, Nguyễn Tuân còn thể hiện sự am hiểu tường tận về dòng sông hơn nữa. Ông khẳng định chưa bao giờ, sông Đà có màu đen như "thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào rồi gọi bằng một cái tên láo lếu, rồi cứ thế mà phết vào bản đồ lai chữ".

    - Cách nhìn nhận của tác giả về dòng sông Đà: Nguyễn Tuân đã nhìn dòng sông Đà không đơn thuần với quan hệ giữa nhà văn và đối tượng miêu tả mà còn là quan hệ giữa những người bạn tri âm tri kỉ. Bởi vậy, tác giả không chỉ dừng lại trên bề mặt để ghi lại chất thơ của dòng sông mà còn đi sâu vào tâm hồn để nhận thấy chất trữ tình trong tính cách, trong quan hệ của dòng sông với con người. Tác giả dùng từ "cố nhân" rất gần gũi, thiêng liêng để gọi sông Đà. Trong văn hóa của người Việt Nam thì "cố nhân" dùng để chỉ những tình bạn thân thiết, gắn bó, những tình bạn đã được tạo nên từ sự đồng điệu tri âm, đã được thử thách bởi những thăng trầm của thời gian. Hơn nữa, từ "cố nhân" còn gợi lên cảm xúc bâng khuâng, da diết của một nỗi nhớ đậm sâu về người cũ, xa cách lâu ngày. Và như vậy, khác hẳn với con thủy quái hung dữ luôn tìm cách đe dọa, tiêu diệt con người ở thượng nguồn, về đến hạ nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng và đằm thắm, trở thành đối tượng chia sẻ mọi buồn vui với con người. Bởi vậy khi phải xa cách dòng sông, Nguyễn Tuân nhớ dòng sông như nhớ một người bạn thân thiết.

    Vì tác giả dành cho dòng sông nỗi nhớ da diết, mãnh liệt nên khi được gặp lại con sông yêu thương, nhà văn có cảm giác "đằm đằm, ấm ấm" và niềm vui vỡ òa và tràn ra trên bề mặt câu chữ. Niềm vui được tác giả diễn tả bằng những hình ảnh so sánh độc đáo liên tiếp đặt cạnh nhau: "Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nổi lại chiêm bao đứt quãng". Có thể nói đây là hai hình ảnh so sánh rất lạ. Cách so sánh giúp tác giả diễn tả chính xác niềm vui căng tràn, mãnh liệt của mình. Trong đó, Vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm gợi ra niềm vui vì sự mong đợi đã được thỏa mãn vì sự thay đổi theo chiều hướng lạc quan, tươi sáng. Vui như nối lại chiêm bao đứt quãng lại gợi ra được niềm vui hiếm hoi nhưng vô cùng mãnh liệt, vì mãnh liệt nên nó có thể nối lại được những giấc mơ đã đứt.

    Khi gặp lại Sông Đà, với một cái nhìn rất gần nhà văn nhận ra vẻ đẹp mang đầy chất thơ của nó. Vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng của nước Sông Đà gợi nhớ đến một trò chơi của con trẻ "trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy" . Vẻ đẹp của nắng sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới Đường thi "tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi" Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" "(Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói). Vẻ đẹp của bờ bãi sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới thần tiên, kì ảo trong khu vườn cổ tích: Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Ở đây, Nguyễn Tuân sử dụng những câu văn ngắn, giữa các vế có sự trùng điệp về cấu trúc tạo nên nhịp điệu nhanh, dồn dập, cụm từ" sông Đà "được điệp lại liên tiếp thể hiện tình cảm ấm nóng như đang cố gắng mở rộng tất cả biên độ của mình để ghi lại tất cả những gì là đẹp đẽ, thơ mộng dị nhất của sông Đà.

    3. Đánh giá về đoạn văn

    3.1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

    Bằng những cảm nhận tinh tế tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã phác thảo hình sắc của nước Sông Đà bằng những đường nét uyển chuyển, bằng những màu sắc biến ảo lung linh. Nếu ví sông Đà là một sản phẩm nghệ thuật thì đây là một tác phẩm hội họa tuyệt mỹ. Và để làm rõ vẻ vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà, Nguyễn Tuân đã miêu tả từ nhiều thời điểm: Mùa xuân, mùa thu, từ nhiều góc độ: Khi thì ngồi trên trực thăng để bao quát toàn cảnh, khi thì xuôi thuyền dọc theo sông Đà thậm chí có khi còn dừng hẳn lại để chiêm ngưỡng và miêu tả một cách cặn kẽ, kĩ càng. Việc làm đó của Nguyễn Tuân vừa cho thấy con sông Đà mang trong mình một vẻ đẹp đa chiều, phải soi ngắm từ nhiều phương diện, góc độ mới có thể thấy hết cái thơ mộng trữ tình của nó, vừa cho thấy tinh thần lao động nghiêm túc ở Nguyễn Tuân.

    Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc. Thì đối với Nguyễn Tuân ở đây cũng vậy. Ông đã sử dụng kiến thức hội họa, thơ ca để miêu tả; Vận dụng nhiều những biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, những ví von, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị; Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giọng điệu mượt mà, sâu lắng; Lời văn bay bổng, phóng túng – viết không theo nguyên tắc các dấu chấm, dấu phẩy, bỏ đi để tạo nên sự dịu dàng uyển chuyển liền mạch của dòng chảy Sông Đà. Cùng với việc sử dụng nhiều thanh bằng tạo một con sông êm ả giống như một thiếu nữ Tây Bắc rất mực nữ tính mà vẫn hùng vĩ lớn lao.

    3.2. Nhận xét chất thơ thể hiện trong đoạn trích

    - Chất thơ là sự pha trộn những đặc điểm của thơ ca vào tác phẩm văn học thuộc thể loại khác. Chất thơ trong văn xuôi nói chung được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.

    - Biểu hiện của chất thơ trong đoạn trích:

    + Cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông: Sông Đà như một người gái đẹp của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha thướt, gài buông lơi những bông hoa ban trắng ngần hay những bông gạo đỏ rực, thấp thoáng ẩn hiện giữa núi rừng mùa xuân mù sương khói.. Vẻ trữ tình của dòng sông mang vẻ đẹp của Đường thi khi nó gợi nhớ câu thơ của Lí Bạch.

    + Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữ tình: Cảm giác đằm đằm ấm ấm và niềm vui như gặp lại cố nhân sau chuỗi ngày chia biệt. Đặc biệt, thán từ chỉ cảm xúc" Chao ôi "được nhà văn sử dụng để bày tỏ tình cảm với con sông thương nhớ.

    + Ở phương diện nghệ thuật: điểm nhìn nghệ thuật khác biệt, những biện so sánh, liên tưởng thú vị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như một người con gái đẹp, như một cố nhân, nước Sông Đà đổi màu liên tục qua mỗi mùa trong năm, cách sử dụng ngôn từ giàu xúc cảm.. Để tôn thêm tính trữ tình của dòng sông, nhà văn sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng gợi cảm và đầy chất thơ. Nhịp điệu câu văn khi thì chậm rãi, lúc thì hối hả, mau lẹ do cách ngắt câu và diễn đạt theo lối điệp (bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà) để diễn tả niềm sung sướng đang trào dâng trong lòng tác giả. Vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà như những lời thơ. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo, sử dụng kiến thức hội họa, thơ ca để miêu tả.. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.

    3.3. Nhận xét về cái tôi trữ tình của Nguyễn Tuân

    - Trong đoạn trích, người đọc cảm nhận được cái tôi uyên bác, tài hoa nghệ sĩ của một người suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân luôn nhìn nhận mọi sự vật, sự việc dưới phương diện thẩm mỹ, luôn đi tìm cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật, tô đậm những cái phi thường để tạo cảm giác mãnh liệt gây ấn tượng.

    - Một cái tôi am tường và đầy suy tư trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước là cái tôi yêu nước mà sau cách mạng đã tìm thấy sự hòa nhập với cuộc sống mới, con người mới.

    MỞ BÀI CHUNG

    MB1:


    Pautopxki từng nói " Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp ". Hơn ai hết, Nguyễn Tuân chính là nhà văn như thế. Ông là người theo chủ nghĩa duy mĩ với quan niệm cuộc đời là một cuộc hành trình đi tìm cái đẹp và" Suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp ". Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của con người, của cuộc sống với tình cảm, sự gắn bó sâu nặng với quê hương, đất nước. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo mà phong cách ấy được gắn với chữ" ngông "và sự tài hoa, uyên bác. Nếu như trước cách mạng, văn học của Nguyễn Tuân chạm đến lòng người bởi vẻ đẹp tài hoa của những con người" một thời vang bóng "như Huấn Cao thì sau cách mạng, ông khiến người đọc rung cảm bởi sự tinh tế và tài năng trong việc vẽ nên những nét đẹp gân guốc nhưng gần gũi, bình dị của thiên nhiên và đời sống con người." Người lái đò sông Đà "là tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng.

    MB2:

    TừVang bóng một thời (1940) đến Sông Đà (1960), con đường sáng tạo văn chương cùa Nguyễn Tuân đã trải qua 20 năm tròn. Tùy bút Sông Đà làm cho chân dung văn học của Nguyễn Tuân thêm tươi sáng, rạng rỡ. Với 15 tùy bút và một bài thơ phác thảo, Sông Đà đã khẳng định vị trí vẻ vang của Nguyễn Tuân trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, tô đậm một phong cách nghệ thuật uyên bác, độc đáo và tài hoa để ta thêm yêu mến tự hào.

    Người lái đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà thể hiện cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân trên một tầm cao phát triển mới. Là nhà văn của những tính cách phi thường, Nguyễn Tuân phát hiện, miêu tả con người Tây Bắc mang bao phẩm chất tuyệt đẹp mà ông gọi đó là" chất vàng mười"của tâm hồn. Là một con người yêu thiên nhiên tha thiết, ông nói về cảnh sắc sông Đà với những phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi và sông, về cây cỏ trên một vùng đất nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng
     
    Admin thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 5 Tháng mười hai 2022
Trả lời qua Facebook
Đang tải...