

Đề 3: ".. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò [..] Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo". Phân tích nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận xét cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
"Dù ong phải bay ngàn cánh bay mới giọt mật
Hay tằm giam mình tại chỗ nhả ra tơ
Trong sáng tạo, chúng ở đầu hai cực
Nào con nào đã được nhởn nhơ.."
( "Thơ bình phương – Đời lập phương" – Chế Lan Viên)
Thật vậy, bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo. Và lao động nghệ thuật chưa bao giờ là dễ dàng: Thầm lặng. Chán nản. Đơn độc. Vất vả. Giằng xé. Mỗi một tác phẩm chân chính ra đời là sự lao động miệt mài không ngừng nghỉ, là kếtquả của quá trình dấn thân, nhập cuộc, tích lũy, một quá trình cọ xát dữ dội của người nghệ sĩ. Và Nguyễn Tuân cũng không nằm ngoài điều đó. Ông đã viết nên tập "Sông Đà" mà linh hồn của nó chính là tùy bút "Người lái đò sông Đà". Thưởng thức bài kí, độc giả không khỏi ấn tượng với hình tượng ông lái đò, thể hiện cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân:
".. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn[..] Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo".
Là cây đại thụ của rừng đầu nguồn Việt Nam, Nguyễn Tuân được mệnh danh là "nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp". Trước và sau cách mạng, câu bút ấy luôn thể hiện vẻ đẹp của lối viết tài hoa, uyên bác, độc đáo, phóng túng. Tùy bút "Người lái đò sông Đà" in trong tập "Sông Đà" (1960) là một tiêu biểu. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế gian khổ và đầy hào hứng của tác giả đến vùng Tây Bắc xa xôi hòng kiếm tìm "chất vàng mười" trong thiên nhiên và con người nơi đây. Sông Đà trong cái nhìn của Nguyễn Tuân như một thực thể sống động vừa mang vẻ đẹp hùng vĩ của thác, nước, đá; vừa mang vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng. Đoạn trích trên khắc họa vẻ đẹp hung vĩ của dòng sông.
Đoan văn bản nằm ở phần giữa tác phẩm, khắc họa rõ nét vẻ đẹp của người lái đò sông Đà. Không chỉ mang những phẩm chất của người lao động mà còn sáng ngời vẻ đẹp của một vị anh hùng đầy dũng cảm, của một người nghệ sĩ tài hoa với thứ nghệ thuật cao tường. Qua đó, cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân được bộc lộ rõ nét.
Vũ Ngọc Phan đã từng có nhận xét thế này: "Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức". Tại sao vậy? Bởi trong tác phẩm của Nguyễn Tuân, ta luôn thấy chất tài hoa nghệ sĩ, đầy uyên bác, nếu không thực sự muốn tìm hiểu, khám phá, độc giả khó có thể hiểu hết những gì nhà văn viết. Ông luôn xây dựng hình ảnh nhân vật trong hiện thân của người nghệ sĩ trong lĩnh vực và nghề nghiệp của nhân vật ấy. Đôi khi họ chỉ là những người sống một cuộc đời bình thường trong tấm áo của bác lái xe, anh dân quân, chú bộ đội.. nhưng khi bước vào trang văn của Nguyễn Tuân họ trở thành một người nghệ sĩ thực thụ. Và ông lái đò trên dòng sông Tây Bắc là một điển hình như vậy.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đặt tên tùy bút "Người lái đò sông Đà" trong khi lại vẽ một bức tranh hùng vĩ về sông Đà. Phải chăng do khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc chỉ là cái cớ để tôn vinh vẻ đẹp con người? Quả đúng vậy, vẻ đẹp của ông đò trước hết được miêu tả ở nghề nghiệp của mình giống như Nguyễn Thái đã từng thể hiện trong những dòng thơ của mình:
"Ông ngồi đó cắm sào chờ khách gọi
Đôi mắt buồn vời vợi thả dòng trôi
Ba phần tư thế kỉ của kiếp người
Sống lặng lẽ buồn vui cùng con nước."
( "Ông lái đò")
Trên thác đá đầy đủ tướng dữ quân tợn, những hút nước chết người, những yết hầu chật hẹp, lạnh lẽo và "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió" bỗng hiên ngang một người lái đò đầy khỏe khoắn, tráng kiệt, oai phong như khắc như trạm. Bước vào cái tuổi bảy mươi đầu tóc bạc trắng, thân hình ông "vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch". Cánh tay "lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như đang kẹp lấy một cuống lái". Cặp mắt tinh anh, nhã lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một "củ nâu" thương tích "chiến trường sông Đà" mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là "thứ Huân chương lao động siêu hạng". Ông lái đò Lai Châu này có "tay lái ra hoa" đã vượt bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với "lũ đá nơi ải nước". Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có sáu mái chèo đã ngược xuôi trăm chuyến, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá. Có thể nói, ông lái đò là một người lao động lành nghề và đặc biệt là vô cùng yêu công việc của mình.
Đoạn văn đã tái hiện cuộc giao chiến của ông lái đò với dòng sông Đà một cách sinh động, đầy gay cấn. Sông Đà càng hung bạo, cuồng nộ bao nhiêu, khi chiến thắng nó người lái đò càng được tôn vinh bấy nhiêu. Ông lái đò hiện lên uy nghi, sừng sững trước con sông hung bạo. Vẻ đẹp của ông lái đò được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả rất độc đáo, sáng tạo qua trận thủy chiến với ba thạch trận. Phải khẳng định rằng, ba thạch trận chính là thiên la địa võng, là trận đồ bát quái mà thiên nhiên, thần sông thần đá giăng ra để tiêu diêt ông lái đò. Ba thạch trận là thách thức không nhỏ buộc ông lái đò phải vượt qua.
Ở thạch trận thứ nhất có năm cửa trong đó có bốn cửa tử và một cửa sinh, cửa sinh được bố trí bên phía tả ngạn. Ở thạch trận này, con Sông Đà đã tung ra những món đòn hiểm độc như đá trái, thúc gối, túm chặt lấy thắt lưng, rồi đánh đòn âm, đòn tỉa, đòn hồi lùng, truy kích. Chúng đã có sự hợp sức của sóng, nước, đá đánh phủ đầu ông lái đò khi tung ra những đội "quân liều mạng" hò la vang dậy "ùa vào bẻ gãy cán chèo". Rồi chúng tung ra cả món đòn hiểm độc nhất khi "bóp chặt hạ bộ của người lái đò" khiến ông lái đò bị thương mặt méo bệch đi. Dòng nước quá nham hiểm, độc ác, quá hung bạo, chúng là đại diện cho sức mạnh của uy vũ cuồng nộ. Mặc dù bị đánh phủ đầu, tấn công vào chỗ hiểm khiến ông lái đò mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái. Bị đánh dồn dập, liên tiếp bằng nhiều mảng miếng biến ảo nhưng ông lái đò vẫn ông nao núng tinh thần, ông vẫn kìm nén vết thương để chỉ huy con thuyền một cách ngắn gọn tỉnh táo trên một chiếc thuyền có sáu bơi chèo. Vâng, sự tỉnh táo, rõ ràng trong hoàn cảnh này không phải ai cũng làm được, điều đó chỉ xuất hiện đối với những bậc anh hùng, cao nhân. Chi tiết này khiến ta liên tưởng đến Quan Vũ khi được Hoa Đà mổ cạo chất độc ở xương, ông vẫn ung dung chơi cờ. Và ông lái đò cũng vậy: Uy vũ bất năng khuất . Rõ ràng, ở thạch trận một, ông lái đò mang dáng dấp của một vị tướng chỉ huy bản lĩnh, kiên cường, dũng cảm.
Sang thạch trận hai, thách thức dành cho ông lái đò càng chồng chất. Con Sông đã tăng thêm nhiều cửa, cửa sinh được bố trí bên phía hữu ngạn. Điều đặc biệt, thạch trận hai được bố trí gần ngay sát thạch trận một khiến cho người lái đò không được nghỉ ngơi một phút mà phải luôn tay luôn cả tim. Hơn nữa, khi tiến vào thạch trận hai, ông lái đò đã bị thương, bị hao mòn sức lực, giờ lại bị đặt trong thế "tiến thoái lưỡng nan". Mặc dù khó khăn chồng chất, hiểm nguy rình rập, nhưng do nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá ở nơi ải nước hiểm trở, cho nên có chỗ thì ông lái đò "cưỡi lên thác nước Sông Đà như cưỡi hổ phải cưỡi tới cùng". Có lúc thì ông rảo bơi chèo, có khi đè sấn lên chặt đôi mà mở đường tiến. Ở thạch trân hai này ông lái đò rất mạnh mẽ "nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng, ông ghì cương lái phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo"; có lúc nhớ mặt bọn đá, ông khi thi tránh mà rảo bơi chèo ung dung tự tại. Ông lái đò đã chiến thắng bằng trí nhớ siêu việt của một con người tự do khi đã "nắm chắc được binh pháp của thần sông thần đá".
Ở thạch trận này ông mang vẻ đẹp của Triệu Tử Long tả xung hữu đột xông vào giữa quân Tào để cứu ấu chúa; có lúc ta lại thấy ông như một cao bồi miền Tây đang thuần phục con ngựa bất kham; có khi ông như Võ Tòng đánh hổ rất dũng mãnh; có lúc ông ung dung tự tại như một người nghệ sĩ. Ở thạch trận này ta vừa thấy được sức mạnh của thể chất, trí dũng vô song của ông lái đò. Ông như mang sức mạnh của một chàng trai tuổi đôi mươi, khi thì là một con người đã lão luyện trong trận mạc. Nói tóm lại, bằng đoạn văn, Nguyễn Tuân đã miêu tả rất sống động vẻ đẹp của ông lái đò là một con người lao động trí dũng nhưng vẫn toát lên cốt cách của một người nghệ sĩ. Ông lái đò là sự tổng hòa của những hình tượng anh hùng để đời trong các pho sử nổi tiếng trên toàn thế giới. Chất anh hùng và tâm hồn nghệ sĩ đã hòa làm một.
Ở thạch trận thứ ba, ít của tử hơn khi chỉ có hai cửa, cửa sinh được bố trí ở giữa những cánh cửa đá khép mở trong làn hơi nước. Tuy chỉ có hai cửa tử nhưng khó khăn chồng chất, hiểm nguy dữ dội. Sông Đà quá nham hiểm, quá mưu mô, xảo quyệt khi bố trí cửa sinh ở những cánh cổng đá khép mở để đánh lừa thị giác của người lái đò. Nhìn thì tưởng "ngon ăn" khi cửa sinh đã được mở toang, nhưng chỉ cần một chút sơ suất nhỏ, chỉ cần thiếu chính xác một chút xíu thôi ông lái đò sẽ phải trả giá bằng cả tính mạng. Hơn nữa, ở thạch trận này ông lái đò phải đi với một tốc độ rất cao, vút vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng theo một đường zich zắc để lượn qua những cánh cổng đá khép mở là điều không hề dê dàng gì. Ấy vậy, những khó khăn hiểm nguy không làm cho ông lái đò lùi bước, mà ngược lại tay lái của ông lái đò lại thăng hoa để vượt qua những cánh cổng đá đó rồi cho "con thuyền tự động lượn được lái được". Có thể nói, con thuyền đi với một tốc độ rất cao, tốc độ của tia chớp xé gió "vút vút" kinh hoàng như vậy đòi hỏi người lái đò phải có bản lĩnh và sự khéo léo mới có thể vẽ được một đường cong rất mềm mại giữa sóng nước Sông Đà, giữa mây trời Tây Bắc.
Ở thạch trận này ông lái đò hiện lên như một tay đua công thức một, một người nghệ sĩ trên sân cỏ đã đi bóng với tốc độ rất cao, mềm mại, khéo léo vượt qua các cầu thủ đối phương và rỗi tạo ra một siêu phẩm với một đường cong tuyệt mĩ. Ông lái đò đã để lại một tuyệt phẩm có một không hai, một siêu phẩm để đời "xưa nay chưa từng có". Để đi với tốc độ cao như thế khi vào đường cua, ô tô và xe máy có sự hỗ trợ của côn, phanh, ga, số, còn ông lái đò chỉ có sự hỗ trợ của cán chèo vậy mà ông vẫn vẽ được một đường cong tuyệt mĩ khi cho con thuyền tự động lượn được và lái được thì quả thực quá tài hoa, quá vi diệu. Với siêu phẩm này, ông lái đò đã đạt đến trình độ thượng thừa trong nghệ thuật vượt thác ghềnh. Ông chính là người nghệ sĩ trên sông nước có tay lái ra hoa. Trong cuộc chiến đấu sinh tử với con Sông Đà quá hung bạo mà chất nghệ sĩ vẫn được phát huy thì thật là bản lĩnh, thật tài hoa. Chất nghệ sĩ trong ông lái đò bỗng chốc thăng hoa để tạo nên một kiệt tác cho đời.
Có thể nói quy luật trên Sông Đà là một quy luật khắc nghiệt chỉ cần thiếu bình tĩnh, một chút nghỉ tay, nghỉ mắt, lỡ tay là phải trả giá bằng cả mạng sống. Tuy nhiên, trong cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, chiến thắng đã thuộc về con người.
Ông đò – người được Nguyễn Tuân nhìn nhận: "Không chỉ là người lao động trí dũng tuyệt vời mà còn là một nghệ sĩ thực thụ trong công việc sông nước của mình, trong nghệ thuật vượt thác, leo ghềnh". Thật vậy, không chỉ là một ông lái đò tài ba trí dũng mà ở ông còn hội tụ vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ:
Quy luật trên sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác đá lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quay lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác "sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ".
Lái đò, chở hàng vốn dĩ đã trở thành công việc thân thuộc, "cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác.." Chẳng bao giờ, ông lái đò Lai Châu đi khoe khoang hay nói gì nhiều về những lần vượt thác chèo ghềnh gian nan ấy, bởi "nó cũng không có gì hồi hộp đáng nhớ". Vượt sông Đà xong, những người lái đò lại quay về cuộc sống bình thường, giản dị, "nướng ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá, hang cá mùa khô nổ như mìn bộc phá cá túa ra tràn đầy ruộng.." Cuộc sống tiếp diễn suốt mấy chục năm trời như vậy, bởi suy cho cùng đều là người lao động, nghề lái đò cũng chẳng ghê gớm gì, cũng chẳng hơn bao nghề khác, cũng là nghề kiếm kế sinh nhai cả. Nhưng trong trang văn của Nguyễn Tuân nó lại đẹp vô cùng!
"Nếu Xuân Diệu xem tình yêu là tôn giáo thì Nguyễn Tuân xem cái đẹp như là tôn giáo của mình" (Gs Trần Đình Sử). Thật vậy, Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, suốt đời đi tìm cái đẹp, là người nghệ sĩ ý thức đầy đủ về thiên chức sáng tạo. Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật, ông luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái đẹp, cái thật, cái mới lạ, độc đáo "xưa nay chưa từng có". Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông và cuộc giao chiến giữa những người lái đò với dòng sông hung bạo, Nguyễn Tuân nhằm đến một mục đích lớn là ca ngợi vẻ đẹp của ông lái đò, ca ngợi sự dũng cảm, tài trí và chiến thắng vĩ đại của ông.
Với tình huống đầy thử thách giúp nhân vật bộc lộ phẩm chất, lối dựng cảnh đặc sắc, giàu giá trị tạo hình, cách kể chuyện kịch tích, các phép liên tưởng tưởng tượng độc đáo, đầy bất ngờ và thú vị, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, điệp ngữ, sử dụng tri thức ở nhiều lĩnh vực như điện ảnh, võ thuật, thể thao; nghệ thuật xây dựng nhân vật chú trọng tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ; ngôn ngữ sống động, biến hóa phong phú, những câu văn co duỗi nhịp nhàng, giàu hình ảnh và sắc thái, mà nói như nhà thơ Phạm Tiến Duật là những câu nói "tỉa tót mà vẫn mạch lạc góp phần miêu tả cuộc chiến hào hùng và khẳng định vẻ đẹp tài ba trí dũng, tâm hồn nghệ sĩ của nhân vật.
Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về người lao động mới: Ông đò chính là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người lao động miền Tây Bắc âm thầm, giản dị, bình thường, nhỏ bé nhưng đã làm nên những kì tích lớn lao trong công cuộc chiến đấu với thiên nhiên hung dữ. Hình tượng ông lái đò nơi thác sông Đà hoang vu, khuất nẻo là bản anh hùng ca ca ngợi con người, là bức tượng đài sừng sững về con người trong công việc lao động chính phục tự nhiên để giành lấy miếng cơm manh áo. Thông qua hình tượng ông lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện sự trân trọng, cảm phục, ca ngợi con người Tây Bắc với chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn, đồng thời thể hiện rõ sự tin tưởng của nhà văn với công cuộc xây dựng đất nước. Qua nhân vật ông đò cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân sau cách mạng: Trước cách mạng, con người Nguyễn Tuân hướng tới ca ngợi là những" con người đặc tuyển, những tính cách phi thường ". Sau cách mạng, nhân vật tài hoa của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong công cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân. Nhà văn bộc lộ quan niệm về con người, tài hoa nghệ sĩ và anh hùng: Với Nguyễn Tuân con người dù làm bất cứ nghề nghiệp, công việc nào nếu đạt đến trình độ thành thạo và điêu luyện thì đều rất đáng quý đáng trọng vì khi đó ở họ bộc lộ sự tài hoa nghệ sĩ. Những người tài hoa nghệ sĩ không chỉ có ở những lĩnh vực có tính nghệ thuật mà còn có ở trong những lĩnh vực tưởng không liên quan đến nghệ thuật. Người nghệ sỹ không chỉ là người sáng tạo ra cái đẹp mà còn là người biến công việc lao động của mình trở thành một nghệ thuật.. Như ông lái đò trong tác phẩm đã trở thành người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh và biến công việc lái đò thành một nghệ thuật. Những người anh hùng không chỉ có ở nơi chiến trường mà còn có ngày ở trong cuộc sống hằng ngày trong cuộc vật lộn với tự nhiên để giành lấy cuộc sống.
" Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo ". Những tác phẩm đạt đến chuẩn mực của cái hay cái đẹp sẽ" vượt qua mọi sự bang hoại của thời gian "để sống mãi trong lòng bạn đọc. Cũng như dù thời gian có chảy trôi nhưng giá trị tác phẩm" Người lái đò sông Đà "của nhà văn Nguyễn Tuân vẫn nguyên vẹn và tỏa sáng.
" Riêng những câu thơ còn xanh
Riêng những đôi mắt còn xanh
Và đôi mắt em long lanh
Như hai giếng nước ".
(" Thời gian"– Văn Cao)
Bài làm
"Dù ong phải bay ngàn cánh bay mới giọt mật
Hay tằm giam mình tại chỗ nhả ra tơ
Trong sáng tạo, chúng ở đầu hai cực
Nào con nào đã được nhởn nhơ.."
( "Thơ bình phương – Đời lập phương" – Chế Lan Viên)
Thật vậy, bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo. Và lao động nghệ thuật chưa bao giờ là dễ dàng: Thầm lặng. Chán nản. Đơn độc. Vất vả. Giằng xé. Mỗi một tác phẩm chân chính ra đời là sự lao động miệt mài không ngừng nghỉ, là kếtquả của quá trình dấn thân, nhập cuộc, tích lũy, một quá trình cọ xát dữ dội của người nghệ sĩ. Và Nguyễn Tuân cũng không nằm ngoài điều đó. Ông đã viết nên tập "Sông Đà" mà linh hồn của nó chính là tùy bút "Người lái đò sông Đà". Thưởng thức bài kí, độc giả không khỏi ấn tượng với hình tượng ông lái đò, thể hiện cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân:
".. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn[..] Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo".
Là cây đại thụ của rừng đầu nguồn Việt Nam, Nguyễn Tuân được mệnh danh là "nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp". Trước và sau cách mạng, câu bút ấy luôn thể hiện vẻ đẹp của lối viết tài hoa, uyên bác, độc đáo, phóng túng. Tùy bút "Người lái đò sông Đà" in trong tập "Sông Đà" (1960) là một tiêu biểu. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế gian khổ và đầy hào hứng của tác giả đến vùng Tây Bắc xa xôi hòng kiếm tìm "chất vàng mười" trong thiên nhiên và con người nơi đây. Sông Đà trong cái nhìn của Nguyễn Tuân như một thực thể sống động vừa mang vẻ đẹp hùng vĩ của thác, nước, đá; vừa mang vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng. Đoạn trích trên khắc họa vẻ đẹp hung vĩ của dòng sông.
Đoan văn bản nằm ở phần giữa tác phẩm, khắc họa rõ nét vẻ đẹp của người lái đò sông Đà. Không chỉ mang những phẩm chất của người lao động mà còn sáng ngời vẻ đẹp của một vị anh hùng đầy dũng cảm, của một người nghệ sĩ tài hoa với thứ nghệ thuật cao tường. Qua đó, cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân được bộc lộ rõ nét.
Vũ Ngọc Phan đã từng có nhận xét thế này: "Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức". Tại sao vậy? Bởi trong tác phẩm của Nguyễn Tuân, ta luôn thấy chất tài hoa nghệ sĩ, đầy uyên bác, nếu không thực sự muốn tìm hiểu, khám phá, độc giả khó có thể hiểu hết những gì nhà văn viết. Ông luôn xây dựng hình ảnh nhân vật trong hiện thân của người nghệ sĩ trong lĩnh vực và nghề nghiệp của nhân vật ấy. Đôi khi họ chỉ là những người sống một cuộc đời bình thường trong tấm áo của bác lái xe, anh dân quân, chú bộ đội.. nhưng khi bước vào trang văn của Nguyễn Tuân họ trở thành một người nghệ sĩ thực thụ. Và ông lái đò trên dòng sông Tây Bắc là một điển hình như vậy.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đặt tên tùy bút "Người lái đò sông Đà" trong khi lại vẽ một bức tranh hùng vĩ về sông Đà. Phải chăng do khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc chỉ là cái cớ để tôn vinh vẻ đẹp con người? Quả đúng vậy, vẻ đẹp của ông đò trước hết được miêu tả ở nghề nghiệp của mình giống như Nguyễn Thái đã từng thể hiện trong những dòng thơ của mình:
"Ông ngồi đó cắm sào chờ khách gọi
Đôi mắt buồn vời vợi thả dòng trôi
Ba phần tư thế kỉ của kiếp người
Sống lặng lẽ buồn vui cùng con nước."
( "Ông lái đò")
Trên thác đá đầy đủ tướng dữ quân tợn, những hút nước chết người, những yết hầu chật hẹp, lạnh lẽo và "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió" bỗng hiên ngang một người lái đò đầy khỏe khoắn, tráng kiệt, oai phong như khắc như trạm. Bước vào cái tuổi bảy mươi đầu tóc bạc trắng, thân hình ông "vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch". Cánh tay "lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như đang kẹp lấy một cuống lái". Cặp mắt tinh anh, nhã lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một "củ nâu" thương tích "chiến trường sông Đà" mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là "thứ Huân chương lao động siêu hạng". Ông lái đò Lai Châu này có "tay lái ra hoa" đã vượt bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với "lũ đá nơi ải nước". Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có sáu mái chèo đã ngược xuôi trăm chuyến, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá. Có thể nói, ông lái đò là một người lao động lành nghề và đặc biệt là vô cùng yêu công việc của mình.
Đoạn văn đã tái hiện cuộc giao chiến của ông lái đò với dòng sông Đà một cách sinh động, đầy gay cấn. Sông Đà càng hung bạo, cuồng nộ bao nhiêu, khi chiến thắng nó người lái đò càng được tôn vinh bấy nhiêu. Ông lái đò hiện lên uy nghi, sừng sững trước con sông hung bạo. Vẻ đẹp của ông lái đò được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả rất độc đáo, sáng tạo qua trận thủy chiến với ba thạch trận. Phải khẳng định rằng, ba thạch trận chính là thiên la địa võng, là trận đồ bát quái mà thiên nhiên, thần sông thần đá giăng ra để tiêu diêt ông lái đò. Ba thạch trận là thách thức không nhỏ buộc ông lái đò phải vượt qua.
Ở thạch trận thứ nhất có năm cửa trong đó có bốn cửa tử và một cửa sinh, cửa sinh được bố trí bên phía tả ngạn. Ở thạch trận này, con Sông Đà đã tung ra những món đòn hiểm độc như đá trái, thúc gối, túm chặt lấy thắt lưng, rồi đánh đòn âm, đòn tỉa, đòn hồi lùng, truy kích. Chúng đã có sự hợp sức của sóng, nước, đá đánh phủ đầu ông lái đò khi tung ra những đội "quân liều mạng" hò la vang dậy "ùa vào bẻ gãy cán chèo". Rồi chúng tung ra cả món đòn hiểm độc nhất khi "bóp chặt hạ bộ của người lái đò" khiến ông lái đò bị thương mặt méo bệch đi. Dòng nước quá nham hiểm, độc ác, quá hung bạo, chúng là đại diện cho sức mạnh của uy vũ cuồng nộ. Mặc dù bị đánh phủ đầu, tấn công vào chỗ hiểm khiến ông lái đò mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái. Bị đánh dồn dập, liên tiếp bằng nhiều mảng miếng biến ảo nhưng ông lái đò vẫn ông nao núng tinh thần, ông vẫn kìm nén vết thương để chỉ huy con thuyền một cách ngắn gọn tỉnh táo trên một chiếc thuyền có sáu bơi chèo. Vâng, sự tỉnh táo, rõ ràng trong hoàn cảnh này không phải ai cũng làm được, điều đó chỉ xuất hiện đối với những bậc anh hùng, cao nhân. Chi tiết này khiến ta liên tưởng đến Quan Vũ khi được Hoa Đà mổ cạo chất độc ở xương, ông vẫn ung dung chơi cờ. Và ông lái đò cũng vậy: Uy vũ bất năng khuất . Rõ ràng, ở thạch trận một, ông lái đò mang dáng dấp của một vị tướng chỉ huy bản lĩnh, kiên cường, dũng cảm.
Sang thạch trận hai, thách thức dành cho ông lái đò càng chồng chất. Con Sông đã tăng thêm nhiều cửa, cửa sinh được bố trí bên phía hữu ngạn. Điều đặc biệt, thạch trận hai được bố trí gần ngay sát thạch trận một khiến cho người lái đò không được nghỉ ngơi một phút mà phải luôn tay luôn cả tim. Hơn nữa, khi tiến vào thạch trận hai, ông lái đò đã bị thương, bị hao mòn sức lực, giờ lại bị đặt trong thế "tiến thoái lưỡng nan". Mặc dù khó khăn chồng chất, hiểm nguy rình rập, nhưng do nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá ở nơi ải nước hiểm trở, cho nên có chỗ thì ông lái đò "cưỡi lên thác nước Sông Đà như cưỡi hổ phải cưỡi tới cùng". Có lúc thì ông rảo bơi chèo, có khi đè sấn lên chặt đôi mà mở đường tiến. Ở thạch trân hai này ông lái đò rất mạnh mẽ "nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng, ông ghì cương lái phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo"; có lúc nhớ mặt bọn đá, ông khi thi tránh mà rảo bơi chèo ung dung tự tại. Ông lái đò đã chiến thắng bằng trí nhớ siêu việt của một con người tự do khi đã "nắm chắc được binh pháp của thần sông thần đá".
Ở thạch trận này ông mang vẻ đẹp của Triệu Tử Long tả xung hữu đột xông vào giữa quân Tào để cứu ấu chúa; có lúc ta lại thấy ông như một cao bồi miền Tây đang thuần phục con ngựa bất kham; có khi ông như Võ Tòng đánh hổ rất dũng mãnh; có lúc ông ung dung tự tại như một người nghệ sĩ. Ở thạch trận này ta vừa thấy được sức mạnh của thể chất, trí dũng vô song của ông lái đò. Ông như mang sức mạnh của một chàng trai tuổi đôi mươi, khi thì là một con người đã lão luyện trong trận mạc. Nói tóm lại, bằng đoạn văn, Nguyễn Tuân đã miêu tả rất sống động vẻ đẹp của ông lái đò là một con người lao động trí dũng nhưng vẫn toát lên cốt cách của một người nghệ sĩ. Ông lái đò là sự tổng hòa của những hình tượng anh hùng để đời trong các pho sử nổi tiếng trên toàn thế giới. Chất anh hùng và tâm hồn nghệ sĩ đã hòa làm một.
Ở thạch trận thứ ba, ít của tử hơn khi chỉ có hai cửa, cửa sinh được bố trí ở giữa những cánh cửa đá khép mở trong làn hơi nước. Tuy chỉ có hai cửa tử nhưng khó khăn chồng chất, hiểm nguy dữ dội. Sông Đà quá nham hiểm, quá mưu mô, xảo quyệt khi bố trí cửa sinh ở những cánh cổng đá khép mở để đánh lừa thị giác của người lái đò. Nhìn thì tưởng "ngon ăn" khi cửa sinh đã được mở toang, nhưng chỉ cần một chút sơ suất nhỏ, chỉ cần thiếu chính xác một chút xíu thôi ông lái đò sẽ phải trả giá bằng cả tính mạng. Hơn nữa, ở thạch trận này ông lái đò phải đi với một tốc độ rất cao, vút vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng theo một đường zich zắc để lượn qua những cánh cổng đá khép mở là điều không hề dê dàng gì. Ấy vậy, những khó khăn hiểm nguy không làm cho ông lái đò lùi bước, mà ngược lại tay lái của ông lái đò lại thăng hoa để vượt qua những cánh cổng đá đó rồi cho "con thuyền tự động lượn được lái được". Có thể nói, con thuyền đi với một tốc độ rất cao, tốc độ của tia chớp xé gió "vút vút" kinh hoàng như vậy đòi hỏi người lái đò phải có bản lĩnh và sự khéo léo mới có thể vẽ được một đường cong rất mềm mại giữa sóng nước Sông Đà, giữa mây trời Tây Bắc.
Ở thạch trận này ông lái đò hiện lên như một tay đua công thức một, một người nghệ sĩ trên sân cỏ đã đi bóng với tốc độ rất cao, mềm mại, khéo léo vượt qua các cầu thủ đối phương và rỗi tạo ra một siêu phẩm với một đường cong tuyệt mĩ. Ông lái đò đã để lại một tuyệt phẩm có một không hai, một siêu phẩm để đời "xưa nay chưa từng có". Để đi với tốc độ cao như thế khi vào đường cua, ô tô và xe máy có sự hỗ trợ của côn, phanh, ga, số, còn ông lái đò chỉ có sự hỗ trợ của cán chèo vậy mà ông vẫn vẽ được một đường cong tuyệt mĩ khi cho con thuyền tự động lượn được và lái được thì quả thực quá tài hoa, quá vi diệu. Với siêu phẩm này, ông lái đò đã đạt đến trình độ thượng thừa trong nghệ thuật vượt thác ghềnh. Ông chính là người nghệ sĩ trên sông nước có tay lái ra hoa. Trong cuộc chiến đấu sinh tử với con Sông Đà quá hung bạo mà chất nghệ sĩ vẫn được phát huy thì thật là bản lĩnh, thật tài hoa. Chất nghệ sĩ trong ông lái đò bỗng chốc thăng hoa để tạo nên một kiệt tác cho đời.
Có thể nói quy luật trên Sông Đà là một quy luật khắc nghiệt chỉ cần thiếu bình tĩnh, một chút nghỉ tay, nghỉ mắt, lỡ tay là phải trả giá bằng cả mạng sống. Tuy nhiên, trong cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, chiến thắng đã thuộc về con người.
Ông đò – người được Nguyễn Tuân nhìn nhận: "Không chỉ là người lao động trí dũng tuyệt vời mà còn là một nghệ sĩ thực thụ trong công việc sông nước của mình, trong nghệ thuật vượt thác, leo ghềnh". Thật vậy, không chỉ là một ông lái đò tài ba trí dũng mà ở ông còn hội tụ vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ:
Quy luật trên sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác đá lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quay lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác "sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ".
Lái đò, chở hàng vốn dĩ đã trở thành công việc thân thuộc, "cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác.." Chẳng bao giờ, ông lái đò Lai Châu đi khoe khoang hay nói gì nhiều về những lần vượt thác chèo ghềnh gian nan ấy, bởi "nó cũng không có gì hồi hộp đáng nhớ". Vượt sông Đà xong, những người lái đò lại quay về cuộc sống bình thường, giản dị, "nướng ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá, hang cá mùa khô nổ như mìn bộc phá cá túa ra tràn đầy ruộng.." Cuộc sống tiếp diễn suốt mấy chục năm trời như vậy, bởi suy cho cùng đều là người lao động, nghề lái đò cũng chẳng ghê gớm gì, cũng chẳng hơn bao nghề khác, cũng là nghề kiếm kế sinh nhai cả. Nhưng trong trang văn của Nguyễn Tuân nó lại đẹp vô cùng!
"Nếu Xuân Diệu xem tình yêu là tôn giáo thì Nguyễn Tuân xem cái đẹp như là tôn giáo của mình" (Gs Trần Đình Sử). Thật vậy, Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, suốt đời đi tìm cái đẹp, là người nghệ sĩ ý thức đầy đủ về thiên chức sáng tạo. Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật, ông luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái đẹp, cái thật, cái mới lạ, độc đáo "xưa nay chưa từng có". Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông và cuộc giao chiến giữa những người lái đò với dòng sông hung bạo, Nguyễn Tuân nhằm đến một mục đích lớn là ca ngợi vẻ đẹp của ông lái đò, ca ngợi sự dũng cảm, tài trí và chiến thắng vĩ đại của ông.
Với tình huống đầy thử thách giúp nhân vật bộc lộ phẩm chất, lối dựng cảnh đặc sắc, giàu giá trị tạo hình, cách kể chuyện kịch tích, các phép liên tưởng tưởng tượng độc đáo, đầy bất ngờ và thú vị, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, điệp ngữ, sử dụng tri thức ở nhiều lĩnh vực như điện ảnh, võ thuật, thể thao; nghệ thuật xây dựng nhân vật chú trọng tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ; ngôn ngữ sống động, biến hóa phong phú, những câu văn co duỗi nhịp nhàng, giàu hình ảnh và sắc thái, mà nói như nhà thơ Phạm Tiến Duật là những câu nói "tỉa tót mà vẫn mạch lạc góp phần miêu tả cuộc chiến hào hùng và khẳng định vẻ đẹp tài ba trí dũng, tâm hồn nghệ sĩ của nhân vật.
Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về người lao động mới: Ông đò chính là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người lao động miền Tây Bắc âm thầm, giản dị, bình thường, nhỏ bé nhưng đã làm nên những kì tích lớn lao trong công cuộc chiến đấu với thiên nhiên hung dữ. Hình tượng ông lái đò nơi thác sông Đà hoang vu, khuất nẻo là bản anh hùng ca ca ngợi con người, là bức tượng đài sừng sững về con người trong công việc lao động chính phục tự nhiên để giành lấy miếng cơm manh áo. Thông qua hình tượng ông lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện sự trân trọng, cảm phục, ca ngợi con người Tây Bắc với chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn, đồng thời thể hiện rõ sự tin tưởng của nhà văn với công cuộc xây dựng đất nước. Qua nhân vật ông đò cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân sau cách mạng: Trước cách mạng, con người Nguyễn Tuân hướng tới ca ngợi là những" con người đặc tuyển, những tính cách phi thường ". Sau cách mạng, nhân vật tài hoa của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong công cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân. Nhà văn bộc lộ quan niệm về con người, tài hoa nghệ sĩ và anh hùng: Với Nguyễn Tuân con người dù làm bất cứ nghề nghiệp, công việc nào nếu đạt đến trình độ thành thạo và điêu luyện thì đều rất đáng quý đáng trọng vì khi đó ở họ bộc lộ sự tài hoa nghệ sĩ. Những người tài hoa nghệ sĩ không chỉ có ở những lĩnh vực có tính nghệ thuật mà còn có ở trong những lĩnh vực tưởng không liên quan đến nghệ thuật. Người nghệ sỹ không chỉ là người sáng tạo ra cái đẹp mà còn là người biến công việc lao động của mình trở thành một nghệ thuật.. Như ông lái đò trong tác phẩm đã trở thành người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh và biến công việc lái đò thành một nghệ thuật. Những người anh hùng không chỉ có ở nơi chiến trường mà còn có ngày ở trong cuộc sống hằng ngày trong cuộc vật lộn với tự nhiên để giành lấy cuộc sống.
" Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo ". Những tác phẩm đạt đến chuẩn mực của cái hay cái đẹp sẽ" vượt qua mọi sự bang hoại của thời gian "để sống mãi trong lòng bạn đọc. Cũng như dù thời gian có chảy trôi nhưng giá trị tác phẩm" Người lái đò sông Đà "của nhà văn Nguyễn Tuân vẫn nguyên vẹn và tỏa sáng.
" Riêng những câu thơ còn xanh
Riêng những đôi mắt còn xanh
Và đôi mắt em long lanh
Như hai giếng nước ".
(" Thời gian"– Văn Cao)