118
0
- Kiếm tiền
- nguyen xuan hoat đã kiếm được 1180 đ
thiên hạ đại tỉnh
Global Awakening
Global Awakening
Lời mở đầu:
Chúng ta không được sinh ra để giết nhau
Không một đứa trẻ nào đáng phải chết vì một lá cờ, vì biên giới, vì một khẩu súng.
Trong suốt hàng chục ngàn năm, con người đã đổ máu vì những đường kẻ vô hình trên bản đồ gọi là quốc gia.
Chúng ta dựng lên tường rào, chia cắt ngôn ngữ, màu da, tín ngưỡng, rồi gọi những kẻ ở bên kia là "kẻ thù"
Chúng ta xây hàng nghìn nhà máy vũ khí, tốn hàng nghìn tỷ đô la chỉ để chuẩn bị cho một ngày giết nhau "hợp pháp".
Và.. Có một nghịch lý là chúng ta tự nhận mình là loài văn minh nhất tinh cầu này. Trong khi đó hàng triệu con người vẫn chết đói mỗi năm. Trẻ em nằm co ro giữa chiến trường. Người già gục xuống bên nền gạch lạnh vì không còn mái nhà.
Đã đến lúc phải thay đổi
Không phải bằng vũ lực.
Không phải bằng chính trị
Mà bằng lý tưởng
Bằng trí tuệ
Bằng tình yêu
Bằng sự thức tỉnh của hàng tỷ tâm hồn.
Đây là câu chuyện không bắt đầu bằng một vị vua hay một đạo quân.
Mà bắt đầu từ một con người, mang trong tim một ước mơ thật giản dị nhưng táo bạo.
Xây dựng một thế giới chỉ có một quốc gia- không còn chiến tranh, không còn đói nghèo, không còn hộ chiếu, không còn vũ khí hạt nhân- mà chỉ còn lại con người và hy vọng.
Anh ta không mang kiếm.
Không có vương miện.
Chỉ mang theo lời nói và một câu chuyện đủ mạnh để lay động cả nhân loại.
Nếu bạn đang đọc những dòng này, bạn chính là một phần trong hành trình đó.
Một hạt giống.
Một chứng nhân.
Và có thể là một người thức tỉnh kế tiếp.
Tôi không biết từ khi nào trong tôi lại có cảm giác ấy – một sự thôi thúc âm ỉ nhưng ngày càng mãnh liệt. Nó không đến từ lý trí, cũng chẳng đến từ khát vọng danh vọng hay nổi tiếng, mà là sự đồng cảm với nỗi đau hóa thành ánh sáng.
Bao năm qua, nhất là từ khi có hai đứa con nhỏ. Nhìn chúng quấn quýt nô đùa, miệng thơm mùi sữa làm khát vọng trong tôi ngày càng lớn lao hơn. Tôi muốn sự bình an vĩnh cửu cho loài người. Mong muốn ấy càng cháy bỏng thì tôi càng cảm thông, thấu hiểu được những dòng người chạy trốn khỏi bom đạn, những đứa trẻ khóc đến khàn giọng trong đêm không còn cha mẹ, những người lính ngã xuống mà không biết mình chiến đấu cho điều gì. Nhìn lại dòng lịch sử, quả thật thế giới này đã già đi trong máu và nước mắt.
Có lẽ, khi nỗi đau và sự đồng cảm tích tụ đến cực hạn, nó không còn là nước mắt nữa - mà là hạt giống. Hạt giống ấy nếu không nảy mầm, nó sẽ mục rữa cùng nhân loại.
Nhưng nếu nảy mầm.. Nó sẽ thành cây, và cây ấy đến ngày, nó sẽ nở hoa. Tôi cảm thấy rõ điều đó trong từng hơi thở, như thể có một trí tuệ linh thiêng đang mách bảo: "Đã đến lúc rồi". Đã đến lúc phải viết ra, đến lúc phải nói thay những linh hồn đã ngã xuống vì chiến tranh, vì biên giới, vì lòng tham.
Tôi chỉ là kẻ cầm bút, nhưng tôi biết, đằng sau trang sách này là hàng triệu trái tim đang cùng nhịp đập. Thế nên tôi viết.
Tôi viết bằng đôi tay run rẩy, bằng một trái tim đồng cảm, bằng nỗi đau, bằng tình thương.
Tôi viết như cây ra hoa, không phải để khoe sắc, mà vì đã đến mùa. Vì nhân loại đã đi qua quá nhiều đêm tối, và bình minh – bình minh của thiên hạ đại tỉnh – phải được ai đó thắp lên.
Hưng Yên ngày 30 – 10 – 2025 Tác giả: Nguyễn Xuân Hoạt.
Đây là bản gốc đã đăng ký bản quyền, cấm sao chép, re-up hoặc
Chỉnh sửa khi chưa có sự đồng ý. Mọi hành vi vi phạm sẽ bị xử
Lý pháp lý và yêu cầu bồi thường
Trước giờ thứ 25.
Thế giới năm 2030.
Trái đất nóng lên. Băng tan. Dịch bệnh quay lại.
Nhưng điều khiến loài người lo sợ hơn tất cả - là con người.
Lần đầu tiên trong lịch sử 7 quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân đều đưa quân vào trạng thái Cảnh báo đỏ.
Các vệ tinh tình báo quét thấy đầu đạn di chuyển về vị trí phóng.
Bộ trưởng quốc phòng các nước lớn lần lượt đặt tay lên mã phóng- chỉ chờ 1 cái gật đầu.
Trong bầu không khí đặc quoánh như sắp rơi xuống, một câu nói cũ được truyền nhau trong các phòng họp kín, mạng xã hội và cả tầng hầm trú ẩn
"Tôi không biết Thế chiến thứ ba sẽ diễn ra như thế nào, nhưng tôi biết chắc Thế chiến thứ tư sẽ dùng gậy gộc và đá"
Albert Einstein -
Câu nói ấy- không phải là một lời tiên tri-mà là một lời cảnh báo.
Một lời cảnh báo đã bị phớt lờ suốt gần một thế kỷ.
Chương 1: Hành trình vào cõi trắng
Giữa bờ vực tận diệt.
Khi khói thuốc súng đã ngấm vào từng lớp tầng khí quyển, khi những vị tướng ngồi trước bản đồ hủy diệt, và khi người cuối cùng còn tin vào hòa bình đã lặng lẽ đứng dậy- Một quốc gia nhỏ bé ở Châu Á đã đưa ra quyết định lớn nhất trong lịch sử của mình:
"Chúng ta không thể ngăn chiến tranh, nhưng chúng ta không để nền văn minh của mình bị chôn vùi trong tro bụi."
Không sở hữu bom nguyên tử.
Không có ảnh hưởng toàn cầu.
Nhưng họ có thứ mà các siêu cường đã đánh mất từ lâu:
Lý trí. Hy vọng. Và niềm tin vào sự sống.
Trong vòng 7 ngày, họ tuyển chọn:
Mười nghìn lính tinh nhuệ, huấn luyện sinh tồn vùng cực, chiến đấu, cứu nạn, chiến tranh sinh học.
Bốn mươi trực thăng vận tải hạng nặng, cùng nhiều xe chuyên dụng đủ để chở hết con người, hàng hóa và vật tư khác.
2000 kỹ sư, bác sĩ, nhà khoa học, giáo viên, triết gia, nghệ sĩ, nông học và kỹ thuật viên công nghệ- những người ưu tú nhất của cả quốc gia cũng được biên chế khẩn cấp vào quân đội để thực hiện nhiệm vụ tối quan trọng.
Hàng ngàn loại hạt giống cây trồng, từ lúa gạo tới dược liệu quý hiếm.
Chó nghiệp vụ và thiết bị hỗ trợ sinh tồn, drone trinh sát, thiết bị lọc nước, bộ dữ liệu văn hóa- lưu trữ toàn bộ lịch sử, nghệ thuật và tư tưởng nhân loại.
Trước quảng trường trung tâm thủ đô, phía đối diện là phủ thủ tướng, dưới nền trời màu xám bạc, gió bấc rít qua từng hàng cờ nặng trĩu tuyết,
12000 người con ưu tú nhất của quốc gia- bác sĩ, kỹ sư, nhà khoa học, quân nhân, nhà văn hóa, tôn giáo-đứng thẳng hàng trong quân phục xám bạc, ngực đeo phù hiệu 'hy vọng dân tộc'
Trước mặt họ, lãnh đạo cao nhất của đất nước – một người già nua nhưng đầy uy nghiêm, tay chống gậy ngọc, áo choàng đen theo truyền thống cổ xưa- bước lên bệ đá đọc bài tiễn biệt cuối cùng:
"Hỡi những người con ưu tú của tổ quốc, từ thời khói lửa lập quốc đến nay, dân tộc ta đã trải qua hàng ngàn kiếp nạn. Nhưng chưa có lúc nào như lúc này, - khi cái chết sắp đổ lên đầu toàn nhân loại, chúng ta không chọn đầu hàng, cũng không chọn tuyệt vọng"
Chúng ta chọn gửi các con, những giọt tinh huyết cuối cùng- lên phương bắc lạnh giá, tới thánh địa trắng, để giữ lại mầm sống cho giống nòi
Hôm nay, ta không trao cho con vũ khí, mà trao cho con lời thề: "Nếu đất nước này có diệt vong, thì lịch sử vẫn nhớ tên những người đã gánh trên vai vận mệnh loài người".
Nghi lễ cổ xưa, lời thề sống thay muôn người
Hàng trăm vị thầy tế già tiến lên, tay cầm bát trầm hương, rắc tro trắng lên vai từng người.
"Từ nay các người không còn là cá nhân nữa. Mỗi bước đi, mỗi hơi thở, là sống thay cho hàng triệu người đang không còn được thở, các ngươi là ký ức, là hạt giống, là di sản của cả một nền văn minh"
Hơn một vạn con người đồng loạt quỳ gối, tay đặt lên ngực, miệng đồng thanh đọc lời thề trong tuyết rơi:
"Chúng tôi thề sống- để một ngày nào đó, nhân loại có thể lại được mỉm cười. Nếu phải chết- xin chết như ngọn lửa soi rọi bóng tối ngàn năm"
Tiếng kèn đồng vang lên- dàn kèn tiễn biệt cuối cùng.
Tiếng kèn ngân dài, vang vọng như tiếng gọi của tổ tiên
Người dân đứng bên dưới, hàng ngàn người không cầm nổi nước mắt
- "Người mẹ ôm con nhỏ, nước mắt tràn mi, miệng thì thầm: Khi con lớn, nếu mẹ con ta còn sống, mẹ sẽ kể cho con về những người đã rời đi hôm nay".
Trên bậc thềm của phủ thủ tướng, bốn vị lãnh đạo cấp cao của quốc gia đứng im, đầu cúi nhẹ, không phát biểu, không kêu gọi. Các vị chỉ đặt tay lên tim mình- một lời chào vĩnh biệt- và ánh mắt thì như muốn truyền đi chút sức lực cho đoàn người ra đi.
Đây không phải là một cuộc tiễn đưa đơn thuần, đây là lời nguyện ước sâu thẳm gửi về tương lai.
"Nếu thế giới này có thể tái sinh sau chiến tranh, xin các con hãy là mầm xanh đầu tiên đâm chồi giữa đống tro tàn".
Đoàn xe lăn bánh chầm chậm rời khỏi thủ đô, tiến về hướng bắc, vùng lạnh lẽo, hoang vu nhất của trái đất. Họ gánh trên vai một sứ mệnh thiêng liêng: Giữ lại ngọn lửa cuối cùng của nền văn minh nhân loại.
Bánh xe nghiến trên mặt đường lạnh buốt, tiếng động cơ gầm khẽ như lời từ biệt nghẹn ngào. Hai bên đường, người dân đứng lặng trong mưa tuyết. Không ai lên tiếng, không ai cười, không ai vẫy tay. Chỉ có những ánh mắt đỏ hoe, những bàn tay nắm chặt lấy nhau mà run rẩy, và vô số giọt nước mắt rơi xuống như mưa.
Bên cửa kính xe, những người lính, kỹ sư, bác sĩ – những con người ưu tú được chọn mặt gửi vàng – đưa ánh mắt trở lại nhìn quê hương lần cuối. Một vài người ôm chặt chiếc khăn tay thấm đẫm mùi của mẹ, vài người ghi âm lời dặn dò vội vàng cho đứa con mới chập chững biết đi. Có người áp sát vào cửa kính khẽ thì thầm hai chữ "tạm biệt"
Đoàn xe ẩn dần vào màn sương tuyết trắng, và không ai dám ngoái đầu lại – vì ngoái đầu lại sợ nước mắt tuôn trào.
Trên nóc tháp tòa điều phối, Quốc kỳ dần hạ xuống một nửa.
Hành trình băng giá – tiến về cực bắc
Vài tuần sau ngày chia ly- đoàn người bắt đầu tiến vào vùng hoang lạnh của địa cực.
Gió bấc thổi gào như tiếng khóc của linh hồn lang thang. Trước mắt họ, chỉ có băng trắng kéo dài vô tận, mặt trời mùa đông không lên quá ba giờ mỗi ngày, và màn đêm dày đặc như muốn nuốt chửng từng con người một.
Nhiệt độ: Âm 27 độ C
Độ ẩm ; gần như bằng 0
Kẻ thù; không phải quân thù, mà là thiên nhiên vô cảm và tàn khốc
Đoàn người – những hạt giống của văn minh
Mười ngàn binh sĩ tinh nhuệ chia thành từng đơn vị cơ động.
Hai ngàn chuyên gia, kỹ sư, bác sĩ, nhà khoa học, mỗi người một nhiệm vụ sống còn
Từng chiếc xe bánh xích, xe chở nhiên liệu, xe cứu trợ, phòng thí nghiệm di động, nhà kính.. Được sắp xếp như một pháo đài di động. Mỗi đêm, đoàn quân chúng tôi cắm trại thành vòng tròn như thời cổ đại, ở giữa là trạm phát điện xung quanh là lính gác với súng trường bán tự động và chó nghiệp vụ canh chừng đàn sói trắng và gấu trắng.
- Ngày thứ 14 cơn bão tuyết dữ dội bất ngờ ập đến gió xoáy đến mức tưởng như sắp sửa cào nát bề mặt các xe bọc thép, một trạm hậu cần bị chôn vùi trong 3 mét tuyết, 6 người mất tích.
Đêm đó trong màn trắng lạnh buốt cả đoàn người đứng im bên lửa. Không ai nói gì. Tư lệnh trưởng- một người đàn ông có mái tóc hoa râm, rút tấm bản đồ ra, vẽ một đường về hướng bắc: "Chúng ta không dừng lại. Nếu dừng ta sẽ chết lạnh ở đây. Phía trước có thể là địa ngục nhưng phía sau là sự tuyệt diệt của cả dân tộc".
- Ngày thứ 23 băng nứt dưới chân xe đặc chủng, một chiếc xe chứa hạt giống lương thực bị sụp hố băng khiến cho những thùng hàng ở phía trên cùng của chiếc xe bị trôi theo chiều nghiêng, rơi xuống dòng nước lạnh giá.
Ngay lập tức, Tôi – Trung úy quân y Gia Bảo và tám người lính cùng đứng gần hiện trường, không một chút do dự nhảy xuống, dùng dây và thiết bị thang dây cứu vớt khoang hàng, bất chấp nước lạnh có thể đông cứng chỉ sau 6 phút. Hai kỹ sư suýt chết cóng, được đưa về khoang y tế khẩn cấp.
Thế nhưng, vẫn còn một thùng hạt giống ngô cao sản loại cho năng suất cực cao vẫn chưa ai vớt lên được, tôi ngoi lên lấy hơi rồi lặn xuống, trong tay vẫn cầm chắc sợi dây dù quân dụng – loại nhỏ nhưng mà cực kì bền chắc, để mặc bên tai tiếng gọi và tiếng la hét của mọi người:
"Lên ngay, chết cóng bây giờ"
"Không ai chịu nổi nước lạnh này quá sáu phút đâu – Gia Bảo!"
Dưới lớp băng, tôi cố nín thở và chịu đựng cái lạnh, buộc được sợi dây dù vào phần tay cầm của thùng hạt giống. Thùng hạt giống của chúng tôi được thiết kế đặc biệt, có hai tay cầm hai bên, gắn vào bản lề hơi sâu vào phía trong lòng thùng để khi vận chuyển thì hai người đàn ông trưởng thành xách hai bên là vừa sức. Nhưng khi thả tay ra. Dưới sự tác động của trọng lực, tay cầm tự động gấp xuống, tạo thành một hình hộp chữ nhật vuông vắn, rất tiện cho việc xếp vào kho lưu trữ hoặc xếp lên thùng xe.
Tôi đang định ngoi lên đưa một đầu sợi dây dù đó cho đồng đội, còn mình vào khoang ấm trong xe thay quần áo khẩn cấp thì..
Bỗng.. Ầm.. Có lẽ vì mọi người ở phía trên lo lắng sốt ruột đi lại quá nhiều, hay đơn giản chỉ là do tôi đen đủi mà một tảng băng to gần bằng cái nồi quân dụng nấu cho bốn mươi người ăn phía trên rơi trúng đầu tôi, từ khoảng cách tầm hai mét. Máu tuôn xối xả, tôi từ từ lịm đi Mọi thứ tối sầm, ánh sáng biến mất, cơ thể không thể cử động được. Nhưng, thật kỳ lạ, thay vào cảm giác rét buốt đến tận xương tủy, trong làn nước lạnh giá, tôi lại cảm giác thấy ấm áp và bình yên đến lạ. Cái cảm giác này quen thuộc lắm. Thật, rất thật, rất tuyệt, y như ngày bé nằm trong vòng tay của mẹ tôi vậy.
Khi tỉnh lại trong giường bệnh – được đặt trong xe cứu thương quân đội, nghe mọi người kể lại, tôi đã chìm sâu dưới làn nước lạnh gần mười phút mà vẫn sống, thật là một kỳ tích. Quá hai phút, rất nhiều đồng đội nữ của chúng tôi đã khóc. Sang đến phút thứ tám, lại có vài người đàn ông mạnh mẽ của sư đoàn chúng tôi mắt rưng rưng.
Đồng đội kể, khi nhìn thấy tôi trong làn nước lạnh dưới lớp băng, một đầu dây dù được quấn vào tay tôi đến năm vòng, mọi người cùng nhau đưa tôi lên trước, sau đó từ trên mặt băng chắc chắn, họ mới kéo được thùng hạt giống mà tôi đã buộc trước đó lên. Đang khi bị mấy nữ quân y trách mắng thì một giọng nói quen thuộc vang lên:
"Chúng tôi không cứu một thùng hạt giống, chúng tôi đang cứu tương lai hàng triệu con người" – Một đồng đội khác trong số những người cùng nhảy xuống cứu những thùng hạt giống cùng tôi nói đỡ cho, trong khi tôi vẫn còn đang áy náy vì để mọi người lo lắng cho mình. Biệt danh của cậu ta là Voi Còi.
Ngày thứ 40, chúng tôi đến được biên giới Bắc cực- khu thung lũng gần như biệt lập với thế giới nơi mặt trời chỉ mọc vài lần trong năm.
Ở đây, các kỹ sư dựng lên từng khối nhà địa nhiệt dưới lòng đất, được bảo vệ bởi bê tông cách nhiệt và lớp vỏ băng nhân tạo. Chúng tôi gọi nơi này là tử huyệt sống.
Trong lòng băng giá chúng tôi bắt đầu xây dựng 1 thành phố nhỏ. Không ai biết chiến tranh hạt nhân sẽ xảy ra lúc nào. Không ai biết ngày nào được trở lại. Nhưng chúng tôi tin rằng mình không đến bắc cực để trốn chạy. Chúng tôi đến để trở thành ngọn lửa cuối cùng, thắp sáng lại nhân loại sau tận thế.
Ngày thứ 50 tại trạm thử nghiệm hệ thống thời gian của căn cứ bắc cực;
Gió bắc cực rít gào bên ngoài lớp vỏ composite của hầm trú ẩn cấp chiến lược. Bên trong, đoàn người gồm mười hai ngàn người đang ổn định vị trí cho cuộc diễn tập khẩn cấp kéo dài 24 giờ, mô phỏng một vụ tấn công hạt nhân toàn cầu. Hệ thống máy điều hướng không gian và thời gian, phát triển từ lý thuyết "sự dao động ngẫu nhiên của hạt Tachyon trong môi trường hấp dẫn nhân tạo" đang lần đầu được thử nghiệm ở quy mô thực tế.
"Kích hoạt lớp chắn lượng tử cấp 3. Bắt đầu giai đoạn nén không- thời gian trong 30 phút"
Trong khoảnh khắc ai cũng nghĩ đó chỉ là một buổi kiểm tra kỹ thuật như mọi lần, thì có một hiện tượng chưa từng có xảy ra:
Mặt đất rung nhẹ, không phải do địa chấn- mà như thể trường hấp dẫn ngừng hoạt động trong 0, 3 giây.
Mọi thiết bị điện tử- điện thoại, đồng hồ điện tử, cảm biến từ - tắt đồng loạt, mặc dù nguồn vẫn hoạt động.
Không có tiếng nổ, không có ánh sáng chói, chỉ là mọi thứ im bặt, như thể cả thế giới ngùng thở.
Và rồi chúng tôi cảm giác như bị rơi, một cảm giác rơi kỳ lạ, không theo phương thẳng đứng, không trọng lực, chỉ là cảm giác bị hút về một hướng nào đó mà không thể diễn tả thành lời.
Nhiều người ngất xỉu, một số cố bám víu vào tay vịn. Giáo sư thắng- đội trưởng đội khoa học vật lý hét lên: "Đây.. Không phải là sụp đổ vật lý.. Đây là.. Giãn thời gian"
Chương 2 thức dậy ở một nơi không tồn tại
Chúng tôi tỉnh dậy. Không phải trong lòng đất, mà trên một thảm cỏ mượt mà kéo dài đến tận chân trời. Mặt trời rực rỡ nhưng dịu, không phải kiểu ánh sáng bị lọc qua tầng ozone mỏng của bắc cực
Không có tuyết, không có trạm kiểm soát, không có vệ tinh, chúng tôi khẳng định điều đó vì tất cả thiệt bị dò sóng vô tuyến không bắt được tín hiệu nào từ vệ tinh. Không một tín hiệu GPS
Flycam khẩn cấp được phóng lên- phát hiện dòng sông lạ cách doanh trại tạm khoảng 3km, với một cây cầu treo bằng dây thừng và gỗ- kiểu kiến trúc hoàn toàn không có trong bất kỳ báo cáo hiện đại nào.
Ngay lập tức chỉ huy trưởng Dương Hùng cử 4 đội trinh sát mỗi đội gồm 5 người cùng 2 chú chó nghiệp vụ, mỗi đội một hướng, mang theo Flycam, thiết bị bay do thám và thiết bị đo phóng xạ đi khám phá khu vực xung quanh xem xét tình hình.
Ba ngày sau, tất cả trở về mang theo gương mặt trắng bệch, lo lắng.. Không có chất phóng xạ, không có sóng viễn thông, không có dấu vết nào của bắc cực hiện đại, Nhưng.. Bên phía tiểu đội của thượng úy Trần Lâm mang về một tấm da thuộc- với chữ hán cổ!
"Chúng tôi tìm thấy nó trong lều của dân du mục.. Họ nói mình là người Khiết Đan, sống ở phía đông dãy núi Đại Hưng An.."
"Khiết Đan? –Đại tá Vũ Thiên chết lặng." Không thể nào.. "
Một học giả trong nhóm run rẩy mở bản đồ lịch sử:
" Nếu đúng là Khiết Đan, mà lại cư trú nơi này thì.. Chúng ta đang ở vào khoảng cuối thế kỷ thứ 9 hoặc đầu thế kỷ thứ 10.. "
" Khoảng năm.. 850 đến 950 sau công nguyên. "
Một cơn lạnh buốt sương xuyên thấu tim gan tất cả mọi người. Không ai tin được, nhưng những bằng chứng cổ xưa, những ngôi làng không có công nghệ hiện đại, những đền miếu thờ thần gió và thần mặt trời.. Mọi thứ đều chỉ về một sự thật không thể chối cãi:
Chúng tôi đã xuyên không
Không ai biết bằng cách nào, có người nói do hệ thống máy điều hướng không gian và thời gian của chúng tôi trục trặc, có người nói do vụ nổ hạt nhân của thế chiến 3 mạnh đến mức làm lệch dòng thời gian, có người cho rằng là do vũ khí bí mật của các cường quốc, có người cho rằng bên dưới bắc cực là cánh cổng thời gian cổ xưa- được người xưa gọi là" Thiên Môn Băng ".
Dẫu lý do là gì, thì chúng tôi đã trở thành những kẻ lưu đày khỏi thời đại của mình.
Từ một doanh trại sinh tồn, chúng tôi bị buộc phải trở thành một cộng đồng- sống sót trong thế giới của ngựa, cung tên và những bộ tộc man di chưa thống nhất. Trong cái rủi cũng có cái may, hầu hết những thứ mà đoàn chúng tôi mang theo hầu như còn nguyên vẹn.
Các kỹ sư xây lò sưởi bằng pin năng lượng mặt trời, Bác sĩ mở trạm y tế chữa bệnh cho dân du mục. Các sĩ quan huấn luyện dân làng khỏi bọn cướp vùng biên..
Đêm xuống dãy tuyết sơn hoang dã, ánh lửa từ hơn một ngàn trại nhỏ rực lên như một thành phố lấp lánh giữa băng nguyên. Trong một hang đá lớn được gia cố thành hội trường, năm trăm đại diện của hơn một vạn hai nghìn con người – những nhà khoa học, quân nhân, kỹ sư, bác sĩ, thợ mộc, nông dân, đang ngồi ngay ngắn, tay áo dày cộm, ánh mắt nghiêm nghị.
Đứng trên bục phát biểu là Đại tá Dương Hùng- vị chỉ huy tối cao của đội xuyên không, gương mặt lạnh lùng, nhưng ánh mắt cháy bỏng:
" Chúng ta đã không thể trở về được nữa, không có vệ tinh, không có tín hiệu thời đại. Không có tổ quốc nào đón ta về. Nhưng chúng ta vẫn còn điều quý giá nhất: "Tri thức của nhân loại sau hàng nghìn năm tiến hóa".
Chúng ta là 12000 người đến từ tương lai- hãy trở thành 12000 hạt giống của một nền văn minh nhân đạo và công bằng hơn, bắt đầu từ hôm nay, ngay tại nơi này! "
Tiếng vỗ tay vang dội. Cuộc họp chính thức được ghi danh trong sử sách nội bộ là HỘI NGHỊ THIÊN MÔN.
Kế hoạch 100 ngày đầu tiên
Cuộc họp kéo dài 3 ngày 3 đêm. Từng nhóm chuyên gia được chia việc rõ ràng, đặt mục tiêu cụ thể:
1-Nhóm hậu cần sinh tồn;
- Thiết lập hệ thống nhà ấm bằng kính kết hợp pin năng lượng mặt trời
- Đào hầm cách nhiệt, dùng đá muối để giữ nhiệt cho trại đông.
- Dự trữ thực phẩm bằng công nghệ đóng gói hút chân không- ưu tiên cung cấp thực phẩm cho trẻ nhỏ và người già.
2- nhóm nông nghiệp và thực phẩm:
- Tìm khu đất gần các nguồn sông, suối, mà chưa có người khai phá để trồng thử các loại lúa mì, khoai lang và các loại hạt giống mang theo.
- Phân loại động vật bản địa, và tiến hành thuần hóa gia súc, hoặc trao đổi với dân các vùng phụ cận để lấy sữa, kéo xe..
Lập hệ thống thủy canh đơn giàn cho ruộng đồng mới được khai phá.
3- nhóm kỹ thuật- năng lượng.
- Dò mỏ dầu bằng kỹ thuật hiện đại
- Lập nhà máy lọc dầu đơn giản chạy bằng nhiệt điện, sản xuất xăng dầu phục vụ xe tải, máy phát điện và các phuơng tiện còn hoạt động được.
- dựng 3 tháp thu phát sóng bằng pin mặt trời- khuếch đại tín hiệu bộ đàm trong bán kính 50 km.
4- Nhóm y tế và khoa học;
- Các bác sĩ thiết lập 4 trung tâm y tế hiện đại nhỏ, ưu tiên các trường hợp cấp cứu.
- Nhóm dược sĩ đi tìm cây ngân hoàng và cỏ thanh diệp có thể tạm thời thay thế kháng sinh.
- Lập ngân hàng máu, ngân hàng hạt giống, thư viện dữ liệu số mục đích để bảo tồn tri thức loài người.
5- Nhóm địa chất-bản đồ:
Dùng Flycam vẽ bản đồ 500 km bán kính xung quanh.
- Trợ giúp thêm nhóm kỹ thuật năng lượng trong việc tìm mỏ dầu.
- Khảo sát vị trí các bộ tộc du mục xung quanh đề phòng bị tấn công bất ngờ, việc này có sự trợ giúp thêm từ các tinh anh quân đội.
- Sau 30 ngày ổn định, các nhóm y tế và kỹ sư bắt đầu tiếp cận các bộ tộc lân cận, mang theo thuốc men, thức ăn và dụng cụ sửa chữa. Ban đầu bị nghi ngờ là thần linh, họ dần dần được gọi bằng cái tên:
" Người Của Trời Tuyết "-những người có thể chữa lành, làm ra lửa từ ánh sáng, đi lại trên xe sắt biết chạy.
Các tộc trưởng ngỡ ngàng khi thấy:
Trẻ em của họ được chữa bệnh không cần tế lễ
Cánh tay bị gãy được nẹp lại mà không bị chặt bỏ
Hố nước bẩn được lọc sạch mà không cần đá trắng.
Lòng người lay động, một truyền thuyết mới bắt đầu được lan truyền..
Chương 3: Ánh sáng từ phương bắc
Gió bấc rít lên trên những dãy núi băng giá. Trên con đường hiểm trở xuyên qua rừng rậm tuyết phủ, một đoàn người áo choàng dày cộm, cắm cờ triều đình lặng lẽ tiến bước. Gương mặt ai cũng hằn rõ nỗi mệt mỏi và tuyệt vọng.
Phía trước là vị lão tể tướng-người đã từng bị phế truất vì những lời điên rồ về người đến từ tương lai, nay được nhà vua gọi lại như tia hy vọng cuối cùng.
" Thưa tể tướng.. Chuyện đó.. Liệu có thật không? "–Một vị quan trẻ lặng lẽ hỏi.
" Ta từng thấy họ.. Chữa khỏi cả một làng nhiễm bệnh chỉ trong hai ngày. Họ có những chiếc xe chạy không cần ngựa, có thiết bị truyền âm xuyên núi rừng. Họ không giống thần tiên, nhưng còn đáng kinh ngạc hơn thần tiên ".
Đoàn người cứ thế đi suốt mười ngày mười đêm. Cuối cùng, họ tới một vùng núi kỳ lạ- nơi mà từ xa đã thấy những ăng-ten phát sóng, những cột khói mờ bay lên và những con người đang di chuyển. Những chiếc xe bọc thép được phủ lớp ngụy trang trườn ra từ sườn núi như mãnh thú canh gác.
Chuông báo động vang lên trong khu định cư tương lai..
Gặp gỡ giữa hai nền văn minh
Đại diện đội an ninh là đội trưởng Long- một lính đặc nhiệm, dẫn đầu nhóm lính tinh nhuệ bước ra.
" Họ là ai? Trang phục cổ đại, vũ khí lạc hậu, nhưng ánh mắt.. Họ đang cầu cứu ".
Sau khi xác minh không có dấu hiệu đe dọa, đoàn khách được đưa vào khu tiếp đón. Lúc này, lãnh đạo nhóm- nữ tiến sĩ Tuyết Mai, chuyên gia xã hội học, kiêm cố vấn chiến lược bước ra tiếp.
TỂ TƯỚNG:" Chúng tôi đến từ vương quốc Vạn Xuân. Quân thù đang tàn phá quê hương tôi. Triều đình đã sắp tận diệt. Nhưng thần nhớ đến các vị.. Những người có trí tuệ và sức mạnh vượt thời đại.. "
TIẾN SĨ TUYẾT MAI:" Chúng tôi không đến để làm vua, nhưng nếu nhân dân cầu cứu, chúng tôi sẽ làm những gì cần thiết ".
Cuộc họp chiến lược diễn ra ngay sau đó, bên trong một căn lều chỉ huy- nơi các kỹ sư, chuyên gia quân sự, bác sĩ, nhà nghiên cứu tụ họp
Thiếu tá tuấn – phó chỉ huy tiểu đội trực thăng:" nếu giúp họ, ta phải can thiệp quân sự, đó là phá luật "không xâm lược" nhưng nếu không giúp họ, hàng triệu người sẽ bị tàn sát ".
Tiến sĩ Tuyết Mai:" Nếu chúng ta là niềm hy vọng cuối cùng, thì im lặng chính là tội ác ".
Sau rất nhiều ý kiến được đưa ra, mọi người tiến hành bỏ phiếu, quyết định cuối cùng: GIÚP ĐỠ.
Vì thời gian cấp bách, mà tể tướng thì lại không thể quyết định được những vấn đề đàm phán mà chúng tôi đưa ra, nên ngay lập tức hai chiếc trực thăng vận tải được chỉ huy trưởng Dương Hùng điều tới chở đoàn đàm phán của chúng tôi và đoàn tùy tùng của tể tướng tới kinh thành hội kiến với nhà vua đất nước Vạn Xuân.
Tể Tướng (nhìn qua cửa kính) :
(thì thầm) Chư thần.. Chẳng lẽ thật sự là thiên binh giáng thế?
Sau khoảng bốn giờ bay, chúng tôi đến được kinh thành, dưới mặt đất, người dân kinh thành đang tất bật dọn dẹp những mũi tên, những viên đạn của máy bắn đá thời cổ của quân giặc, một vài tháp canh bị đốt cháy.. Bỗng tiếng cánh quạt vang lên như sấm động, gió từ trời xô ngả cả rừng cờ và nhà tranh mái lá.
Người dân hốt hoảng la lớn:" -Thần tiên, thần tiên giáng trần rồi,
- "Chư thiên cứu quốc"
- "Quỳ xuống, mau quỳ xuống".
Toàn bộ quảng trường trước hoàng cung như ngừng thở. Hàng ngàn người dân, lính gác, và bá quan văn võ đều quỳ rạp dưới ánh sáng chói lòa của hai chiếc trực thăng đang hạ cánh xuống nền đá hoa cương trước của cung điện.
Tể tướng bước xuống trước, sau đó chúng tôi được mời vào trong hoàng cung diện kiến vua của nước Vạn Xuân:
Vua nước ấy- một người đàn ông trung niên, nét mặt u sầu, long bào xộc xệch vì chiến tranh triền miên đứng bật dậy khi cửa điện mở ra.
Tể tướng bước vào, theo sau là hai sĩ quan mặc giáp kháng đạn, và hai chuyên gia đàm phán Tuyết Hoa và Trần Bình, tôi đi sau cùng và mang theo
Bản điện tử (bên trong lưu trữ tất cả bản đồ mà chúng tôi đã vẽ được trong suốt thời gian qua)
Tể tướng (quỳ gối)
Bệ hạ, thần đã đến được nơi đó.. Và trở về với những điều không thể tin được. Thiên binh không ở trên trời, họ là những người thế hệ sau, đến từ thời đại khác. Họ có thể cứu lấy giang sơn.
Dương Hùng- chỉ huy trưởng của chúng tôi bình thản đáp ;
"Thưa bệ hạ, nếu ngài đồng ý cải cách triệt để - trao quyền lại cho dân, tổ chức bầu cử minh bạch, và đảm bảo sự bình đẳng tuyệt đối trong trị quốc – thì chúng tôi sẽ cứu đất nước ngài thoát khỏi diệt vong"
Nhà vua suy tư, vì chưa từng nghe đến từ bầu cử, với trao quyền cho dân bao giờ..
Đúng lúc đó, hai chuyên gia đàm phán cũng lên tiếng:
"Thưa bệ hạ, người hãy nghĩ kỹ đi, nếu giặc tràn vào thành tính mạng ngài e rằng khó giữ, tất cả phi tần của ngài, bao gồm cả cũng nữ, thậm chí hoàng thân quốc thích đều có nguy cơ bị làm nhục, nếu ngài đồng ý nhượng quyền lại cho dân- và tiến hành bầu cử, cứ một triệu người dân bầu lên một người lãnh đạo, tất cả những người được dân tin yêu đó sẽ cùng nhau họp bàn và lãnh đạo đất nước, chúng tôi đảm bao ngài và tất cả người thân của ngài được an toàn, nếu ngài không đồng ý, thậm chí nơi yên nghỉ của tổ tiên ngài cũng bị quân địch giày xéo.."
Nhà vua (nét mặt nghiêm nghị, sau một hồi trầm mặc) :
"Nếu quả thật là ý trời, thì trẫm thuận theo thiên ý. Trẫm nguyện ký vào bản chiếu nhường ngôi cho dân, chỉ mong dân được sống, núi sông không tan".
Không khí trong điện lặng như tờ, có vài quan đại thần quỳ xuống can gián, có tiếng khóc lặng lẽ của một vị lão thần từng hô vang "trung thân ái quốc suốt đời"
Nhà vua :(sau một hồi nhắm mắt trầm tư rất lâu) :
"Trẫm không thể thắng thời cuộc, nếu đây là cách duy nhất cứu lê dân bách tính.. Thì trẫm nguyện buông kiếm báu. Soạn giao ước đi."
Bên trong căn phòng phía sau điện, các học sĩ bắt đầu mài mực, trải giấy da. Họ ngồi đối diện với những người hiện đại chúng tôi- mở lap top, hiển thị văn bản mẫu, dùng thuật ngữ chính trị như "hiến chương lâm thời, ủy ban chuyển tiếp, bầu cử toàn dân" khiến các học sĩ toát mồ hôi mà vẫn cố bắt kịp.
Một buổi đêm dài diễn ra trong im lặng và tập trung. Các học giả cũ và mới tranh luận gay gắt, một bên dùng sách cổ, một bên viện dẫn nhân quyền. Cuối cùng, vào lúc canh ba, bản giao ước được hoàn tất, trải dài ba tờ da trâu, đóng dấu son của hoàng triều, và chữ ký điện tử của đại diện tương lai.
Tại lễ ký kết:
Đức vua ngồi ngay ngắn, trước mặt là bản giao ước. Ông lấy cây bút lông được mài đặc biệt, chấm mực son và ký tên bằng thủ bút của mình- một nét chữ rồng bay phượng múa. Sĩ quan tương lai đặt tay lên màn hình cảm ứng, xác nhận chữ ký sinh trắc học.
Nhà vua (lặng lẽ) – "trẫm giao lại giang sơn cho dân. Nguyện họ dùng nó tốt hơn trẫm từng có thể.
Tiếng chuông đồng ngân vang từ phía xa, báo hiệu bước chuyển mình của thời đại,
Ngoài sân, những người dân đang chờ đợi dưới ánh đèn đuốc. Bên trên là những lá hoàng kỳ hạ xuống, và một lá cờ trắng có 12 ngôi sao đang dâng lên (vì theo như thông tin phía nhà vua, trước chiến tranh, đất nước này có khoảng 12 triệu dân, nên đoàn chúng tôi thống nhất để 12 ngôi sao tượng trưng cho 12 triệu dân).
Trời còn chưa sáng hẳn, những làn sương mỏng vẫn còn vương trên mái ngói hoàng cung. Tiếng gió buốt luồn qua từng khe đá, trong lòng chúng tôi đều bùng lên chung một nhiệt huyết:" CỨU DÂN ", cũng không hiểu sao mọi người lại bùng lên cảm giác này, cảm giác sốt sắng và khẩn trương, cảm giác vui mừng vì được bảo vệ những người yếu thế trong cuộc sống. Đó là bản năng của người lính? Hay là vì chúng tôi không được bảo vệ quê hương, nhưng giờ đây chúng tôi bảo vệ những người yếu thế nên nỗi đau trong lòng nguôi đi? Dù sao thì chúng tôi cũng không biết. Nhưng tôi dám chắc rằng tất cả những người lính như chúng tôi sẵn sàng đổ máu để bảo vệ em bé mới tập đi, bảo vệ cụ già lưng đã còng, tóc đã bạc thậm chí cho dù có hy sinh thì chúng tôi vẫn sẽ mỉm cười.
Từ sân rồng, hai chiếc trực thăng quân sự hiện đại gầm rú khởi động. Các cánh quạt quay nhanh, cuốn tung cả lớp bụi đất và y phục của bá quan đứng thành hàng hai bên. Dân chúng chen nhau đứng ngoài cổng hoàng cung, ngửa mặt lên nhìn thứ" thần vật "bay lên từ nóc điện vàng son, ánh mắt vừa hoang mang vừa tràn ngập niềm tin.
Chiếc thứ nhất: Bay thẳng về căn cứ của chúng tôi cách khoảng bốn giờ bay, nơi hơn mười ngàn con người sẵn sàng chờ lệnh,
Chiếc thứ 2: Bay vòng quanh kinh thành xem có chỗ tường thành nào bị hư hỏng không thì báo cho chính quyền nhà vua đến sửa nhanh, cộng thêm nhiệm vụ cứu trợ, cứu nạn nếu gặp trường hợp cần thiết.
Tại căn cứ chính của chúng tôi:
Nơi chiếc trực thăng thứ nhất vừa đáp xuống, vì có liên lạc qua bộ đàm từ trước (bộ đàm của chúng tôi có thể liên lạc quanh bán kính 50km tính từ căn cứ trung tâm) hai nghìn người lính tinh nhuệ đã xếp hàng đợi lệnh.
Không chậm trễ giây phút nào, chỉ huy Dương Hùng ra lệnh, đội súng máy và đội bắn tỉa lập tức lên trực thăng, mang theo hai mươi khẩu súng máy sáu nòng xoay, số còn lại trong hai ngàn người lập tức lên xe đặc chủng, xe chở quân và xe cơ giới đường bộ đã được chuẩn bị từ trước đến kinh thành yểm trợ.
Ngay lập tức, tiếng động cơ gầm lên, xe quân sự nối đuôi nhau như một đàn rồng thép bắt đầu di chuyển, đèn pha xé toạc màn đêm.
Mười chiếc trực thăng bay phía trên vội vã tiến về phía kinh thành đất nước Vạn xuân, như sợ rằng quân địch sẽ tiến như thác lũ xóa sổ kinh thành bất cứ lúc nào.
Tại kinh thành đất nước vạn xuân
Bầu trời phía xa đã đỏ rực, khỏi và lửa đang nuốt chửng từng rặng cây. Quân thù áp sát kinh thành. Cờ máu bay ngập trời. Tiếng trống trận vang như sấm, kéo dài vô tận.
Và rồi..
Âm thanh gầm rú từ rời cao, mười bóng trực thăng từ phía chân trời bay đến, quân địch không hiểu chuyện gì, ngơ ngác nhìn nhau, họ chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì bay trên trời mà lại to lớn đến thế, chỉ huy địch- một tên tướng râu hùm và dày dạn kinh nghiệm trận mạc, ngay lập tức ra lệnh cho đội quân tiên phong dừng tấn công, để thăm dò tình thế chiến trận – và bảo toàn lực lượng, tránh rơi vào phục kích khiến cho tổn thương vô ích.
Lợi dụng chút thời gian quý hơn vàng mà quân địch cẩn thận thăm dò, chỉ huy của chúng tôi: Đại tá Dương Hùng ngay lập tức giơ tay ra hiệu, phát lệnh dứt khoát
Triển khai trận địa phòng thủ cấp tốc, đặt súng máy lên nóc thành, đội bắn tỉa và đội súng máy khẩn trương vào vị trí.
Mệnh lệnh nhanh chóng được thực thi, hai mươi khẩu súng máy sáu nòng xoay đa hướng bố trí tại những điểm cao quanh tòa thành, đề phòng quân địch tấn công, đồng thời mười tám xạ thủ bắn tỉa tinh nhuệ cũng đã vào vị trí, tất cả đã thống nhất: Sẽ nhắm vào mời bảy tên tướng lĩnh tối cao của quân địch.
Từ trên cao, nòng súng thép đen như mắt rồng, mỗi khẩu có thể phun ra hàng nghìn viên đạn chỉ trong vài phút, những khẩu súng bắn tỉa thì như nhưng con ong đang phục kích, sẵn sàng châm đốt vào những điểm yếu nhất của quân giặc.
Ở phía quân thù, sau khi tất cả các đội do thám được cử đi đều báo về là xung quanh kinh thành không có đội quân đáng kể nào cả, chỉ còn chưa đến hai vạn tàn quân già yếu, bệnh tật co cụm lại phòng thủ ở kinh đô vạn xuân thôi, tên tướng giặc cười ha hả:
-" Với hai vạn quân già yếu của hắn (ý nói đức vua nước vạn xuân) chúng ta chỉ cần dẫm đạp thôi là cũng đủ để chiến thắng chúng rồi. Tất cả nghe lệnh, tổng tấn công toàn lực cho ta, giết sạch không chừa một mống ";
- Ba mươi vạn kỵ binh của giặc giăng hàng dài như sóng biển với binh lính mặc giáp dày, giáo mác tua tủa như rừng gươm lạnh ùn ùn kéo đến. Phía xa xa là hàng loạt xe công thành, tháp công thành cao ngất ngưởng như những con quái vật cũng đang lầm lũi hướng về phía kinh thành.
- Trên tường thành, bầu trời u ám như chì, linh cảm điềm gở. Dưới chân thành đại quân địch giăng kín đất trời, ngựa hí vang trời, giáp trụ lang loáng như bão sắt.
- Trên chòi cao, mười tám tay súng bắn tỉa hiện đại đã sẵn sàng, mỗi người đều đã được chỉ định một mục tiêu: Tên thống soái của địch thì được hai người" chăm sóc ", mười sáu người còn lại thì" chăm sóc "mười sáu tên tướng lĩnh có vẻ như là trụ cột hàng đầu của quân giặc.
- Sĩ quan chỉ huy ra lệnh ngắn gọn qua bộ đàm ;" 3.. 2.. 1.. Khai hỏa "
Âm thanh khai hỏa đồng loạt vang lên, hòa lẫn với tiếng vó ngựa dồn dập bên dưới, ngay lập tức mười lăm tên tướng giặc gục xuống, đầu bị bắn nát, ngực thủng, mắt vẫn còn chưa kịp chớp
Bên phía quân địch:
Không ai biết chuyện gì xảy ra. Tướng ngã xuống, máu loang yên lặng trên lung ngựa
Quân lính chỉ thấy tướng của mình đột ngột gục đầu rồi rơi xuống đất..
Cờ lệnh rơi, mệnh lệnh rối loạn, toàn quân hoang mang cực độ.
Không ai trong số ba mươi vạn đại quân ngờ được những vị tướng thông minh nhất, mạnh mẽ nhất của bọn họ lại chết dễ dàng như thế- điều khiến bọn chúng ngạc nhiên hơn là không thấy một mũi tên, không thấy một thanh gươm hay một ngọn giáo. Cả đoàn thiết kỵ từng là niềm kiêu hãnh bách chiến bách thắng, nay đứng tê liệt như bị đóng băng giữa đất trời.
Phía sau, vài tên chỉ huy còn sót lại- run rẩy tái mặt- cố gắng trấn tĩnh. Một tên la lớn trong hoảng loạn:
" Tạm thời lui quân, quay về doanh trại bảo toàn lực lượng "
Tên khác thì giật dây cương quay ngựa, mắt vẫn không rời khỏi đỉnh tường thành – nơi những kẻ vô hình vừa kết thúc toàn bộ tầng chỉ huy cấp cao trong một hơi thở.
" Là quỷ ám! Là sát thủ của trời đất! Lui mau! "
Tiếng chiêng vang lên, từng toán thiết kỵ quay đầu trong hỗn loạn – một cuộc rút lui chưa từng có trong quân đoàn bách chiến bách thắng của họ.
Thế nhưng.. Giữa lúc đại quân giặc bắt đầu rút lui, một toán kỵ binh tiên phong khoảng hơn một ngàn tên mặt đỏ gay, mắt vằn máu, dường như chúng quá say chiến, quá khát máu – hay chúng không nghe thấy lệnh lui binh vẫn cắm đầu lao thẳng tới lằn ranh đỏ - nơi mà các chiến sĩ vệ thành đã bàn bạc từ trước, nếu để giặc vượt qua lằn ranh này, kinh thành sẽ gặp nguy hiểm.
Lằn ranh ấy – cách chân tường thành đúng tám trăm mét, được đánh dấu bí mật bằng thiết bị đo khoảng cách và cảm biến – là giới hạn tử thần. Vượt qua, đồng nghĩa với việc bước vào trận địa bắn tuyệt đối.
Ngay lập tức, hai mươi khẩu súng máy sáu nòng xoay gắn trên bệ cố định đồng loạt khởi động. Tiếng mô tơ điện rít lên từng đợt, ánh kim loại xoay tròn như lưỡi dao tử thần. Rồi tiếng rít dần trở thành tiếng gầm.. Một cơn bão đạn như mưa búa sấm sét trút xuống trong vòng chưa đầy 3 giây, mỗi khẩu đã nhả hàng trăm viên đạn cỡ lớn xuống quân giặc.
Ngựa chiến bị xé toạc thân thể, người văng khỏi yên như rơm rác, tiếng la hét, tiếng kim loại vỡ vụn, tiếng máu văng tung tóe vang dội cả một vùng trời.
Cả đội tiên phong hơn ngàn người, trong vòng mười lăm giây, dường như không còn lấy một ai sống sót.
Phía sau, phần còn lại của quân giặc chết lặng. Không ai dám quay đầu lại nhìn, cả đội hậu cần, hậu quân, truyền tin, cấm vê – tất cả đều run rẩy như lá trong gió bão
Tên chỉ huy còn sống rít lên, mắt trợn trắng:
" Đó không phải là tường thành, đó là quỷ môn quan "
Phía sau bức tường thành, tiếng động cơ ầm ầm vang lên như sấm nổ. Mười chiếc trực thăng vận tải hiện đại, hai bên được gắn vũ khí phụ trợ - lần lượt cất cánh, lượn vòng cao rồi áp sát từ phía sau tường thành, ra thẳng chiến địa.
Mặt trời vừa ló khỏi mây. Ánh sáng chiếu lên lớp giáp thép bóng loáng của trực thăng, khiến chúng hiện ra như những con quái vật cơ khí trên trời.
Cánh quạt xoay tít, cuốn tung bụi đất, gió thổi rát mặt, âm thanh đăc trưng của trực thăng xé gió gào thét, như lời cảnh báo từ một nền văn minh vượt xa thời đại. Bên dưới, tàn quân giặc đã rệu rã, vừa chạy vừa ngoái nhìn, mặt cắt không còn giọt máu.
Rồi loa phóng thanh bật lên. Âm thanh được khuếch đại vang dội giữa trời đất như tiếng của thần linh:
" Các ngươi đã bước chân vào đất thiêng Vạn xuân, và phải trả giá. Bọn cướp giết dân đã bị trừng phạt. Đây là cơ hội cuối cùng để sống sót: Vứt vũ khí, bỏ ngựa, cởi giáp, rút lui về nước – nếu không, tử thần sẽ đến từ bầu trời và mặt đất! "
Âm thanh như long trời lở đất, vọng xa đến cả chục dặm. Nhiều tên lính giặc quăng cả giáo, quỳ sụp xuống đất, bịt tai run rẩy như bị ma ám.
Tên tướng giặc còn sống, đang cưỡi ngựa giữa đám lính tháo chạy, hét lớn trong tuyệt vọng:
" Rút! Rút lui mau! Chúng ta không phải đánh với người – Chúng ta đang đánh với quỷ thần! "
Bỗng có một chiếc trực thăng hạ độ cao, bay lướt sát qua đầu họ, gió quật bật cờ xí, bụi đất che mờ tầm mắt, một vài tên lính quá hoảng loạn tự giẫm đạp lên nhau mà chết. Quân địch vỡ trận hoàn toàn, không còn hàng ngũ, không còn chỉ huy, không còn sĩ khí – chúng bỏ chạy như kiến vỡ tổ.
Trên bầu trời, đội trực thăng tiếp tục lượn vòng răn đe, vừa phô diễn sức mạnh, vừa thu tín hiệu trinh sát.
Phía kinh thành: Từ tường thành cho tới từng ngõ ngách, từng mái nhà, quân dân vạn xuân như vỡ òa, người dân đổ xô ra đường, ôm chặt người thân, vỗ tay reo hò, nước mắt rơi vì hạnh phúc:
" Chúng ta thắng rồi, chúng ta đã sống! Trời ơi.. Chúng ta vẫn còn sống! "
Giữa biển người hân hoan ấy, chỉ huy trưởng Dương Hùng – trong bộ quân phục dính bụi khói, nét mặt vẫn nghiêm nghị, ánh mắt như đang nhìn xa hơn về đường chân trời. Anh không nói gì, chỉ đưa tay chào những chiến sĩ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, rồi lặng lẽ lên trực thăng đã khởi động sẵn, tiến thẳng vào hoàng thành.
Điện Thiên Uyên, hoàng cung Vạn Xuân:
Đức vua trong long bào được thêu bằng chỉ vàng đang chờ sẵn, ánh mắt nặng trĩu sau những đêm dài không ngủ. Khi thấy Dương Hùng bước vào, ngài bước xuống bệ rồng, cầm tay vị tướng đến từ tương lai.
" Thành đã giữ được, người dân đã sống, cám ơn tướng quân "
Dương Hùng khẽ cúi đầu, không vội nhận lời khen, rồi anh nói bằng giọng rắn rỏi nhưng vừa đủ nghe:
" Bệ hạ.. Đây mới là bước đầu. Quân địch đang tháo chạy trong hoảng loạn. Nếu ta chần chừ, chúng sẽ kịp củng cố hậu cứ, tập hợp viện binh. Nhưng nếu hành động ngay.. Thì toàn bộ đất nước Vạn Xuân sẽ được giải phóng trong vòng một tháng ".
Đức vua nhìn anh, trầm ngâm:
" Ngươi muốn đánh tiếp? "
Dương Hùng gật đầu:
" Không chỉ đánh, mà còn là tiếp nhận, quản lý, bảo vệ. Mảnh đất nào được giải phóng, dân chúng phải được chăm lo, cứu trợ lương thực và y tế. Và điều quan trọng nhất như đức vua đã hứa và ký vào bản cam kết: "Tất cả vùng lãnh thổ nào được giải phóng từ tay giặc, sẽ do nhân dân nơi đó làm chủ!". Để làm được điều đó, tôi cần một vạn quan binh của triều đình – những người hiểu luật pháp, biết tổ chức và đủ uy tín ".
Nhà vua trầm tư một lúc, rồi hỏi:
" còn quân đội của ngươi? "
" Chúng tôi sẽ dẫn đường, đánh mở lối, tiêu diệt quân địch phản kháng, nhưng phía sau chúng tôi, không thể là khoảng trống. Phải có người bảo vệ quyền lợi của nhân dân, phải bảo vệ trật tự trị an tạm thời. Lá cờ của nhân dân phải được treo lên. "
Không khí trong điện đột ngột tĩnh lặng.
Ánh sáng rọi qua song cửa, chiếu lên gương mặt rắn như thép của Dương Hùng và ánh mắt đăm chiêu của vị quân vương.
Cuối cùng, nhà vua nắm chặt vai Dương Hùng, ông trịnh trọng gật đầu:
" Vậy trẫm giao cho ngươi một vạn quan binh, chọn lọc từ những người công chính, liêm khiết nhất. Cờ nhân dân sẽ phấp phới trên mỗi vùng đất được giải phóng. Hội đồng nhân dân sẽ được thành lập. Một vạn quan binh, không mang danh phụng sự triều đình, mà là phụng sự nhân dân, sẽ đi theo tướng quân để tiếp nhận các địa phương. "
Dương Hùng cúi đầu thật sâu, cám ơn đức vua:
" Tạ ơn bệ hạ.. Người không giữ ngai vàng, mà giữ lời thề với nhân dân. Vạn Xuân mãi mãi không chỉ là tên đất, mà là tinh thần sống của muôn người. "
Trở lại phía ngoài tòa thành – nơi chiến sự vừa diễn ra:
Ngay sau chiến thắng, cánh cổng kinh thành mở toang. Ba mươi van ky binh giặc tháo chạy, bỏ lại rất nhiều xe chở lương, vũ khí, xác ngựa.. Hàng ngàn người dân và binh sĩ được huy động mang lương thực về cứu đói khẩn cấp cho nhân dân, vì tòa thành đã bị vây nhiều ngày, mọi người đã lâu không được ăn no. Những bao gạo, bánh khô, thịt khô.. Được chia đều cho từng đoàn người xếp hàng. Những người đói đến mức không còn khả năng xếp hàng nữa – thì được cấp phát cháo, mang đến tận nơi.
Phía xa xa, chiến mã của giặc – có đến vài ngàn con đang hoảng loạn bỏ chạy, chúng được các tổ kỵ binh chuyên nghiệp thuần hóa lại, cột theo đàn, đưa về chuồng tập kết phía nam.
Đao thương, giáp sắt, khiên đồng đều được gom lại, đổ đống thành từng bãi, được lệnh giao lại cho các lò rèn để rèn lại thành cuốc xẻng, lưỡi cày và các vật dụng thiết yếu cho nhân dân.
Rạng sáng hôm sau. Bầu trời phía đông vừa ửng đỏ, tiếng động cơ gầm rú từ xa đã vọng đến, làm mặt đất như rung chuyển. Người dân trong thành đổ ra các cổng, nhìn về phía chân trời bụi đỏ mù mịt. Đội viện binh đã đến.
Hơn một ngàn chín trăm người, được lệnh di chuyển từ hai ngày trước, hành quân xuyên đêm, cuối cùng đã tới kinh thành.
Dưới chân thành. Chỉ huy trưởng Dương Hùng đã chờ sẵn, bên cạnh là một vạn quan binh mà đức vua đã cử đến. Một cuộc hợp binh vĩ đại giữa quân đội hiện đại và quan quân cổ xưa.
Không có thời gian nghỉ ngơi. Chỉ huy trưởng Dương Hùng ra lệnh qua bộ đàm:
" Tất cả đoàn quân cứu viện lập tức tiến về hướng nam, giải phóng thành trì lớn thứ hai của đất nước Vạn Xuân, kết hợp với một vạn quan quân mà nhà vua đã trao, dưới sự yểm hộ của tám chiếc trực thăng vận tải có gắn vũ khí hai bên "
Ngay lập tức, sau hiệu lệnh của chỉ huy Dương Hùng, đoàn quân cứu viện gần hai nghìn con người và mười ngàn quan quân Vạn Xuân xuất phát thẳng tiến về phía nam. Nơi quân giặc vẫn đang chiếm giữ.
Tại kinh thành Vạn Xuân, giữa lúc các cánh quân đang tiến đánh khắp nơi, công việc tổ chức hậu phương cũng tất bật không kém gì tiền tuyến. Những đoàn người dân đói khổ, bệnh tật, trẻ nhỏ mất cha, già nua lánh nạn.. Đang được đưa vào các khu lều trại dựng tạm phía bên ngoài thành.
Bệnh xá dã chiến được dựng lên sát chân tường phía đông. Trên nền đất phẳng được dọn sạch, những lều bạt lớn căng dọc hai bên trục chính như hình chữ H – chia bệnh xá thành hai phân khu rõ rệt:
Phía bên trái: Quân y hiện đại:
Các y bác sĩ quân y chủ yêú khâu vết thương, cầm máu, lấy dị vật, xử lý gãy xương hở, chống nhiễm trùng. Đây là thế mạnh của quân y hiện đại.
Dưới ánh sáng của đèn pin năng lượng mặt trời, các chiến sĩ quân y sát trùng bằng cồn y tế, tiêm kháng sinh khâu vết rách nhanh như máy..
Trong lúc bệnh xá dã chiến đang hoạt động hết công suất, tiếng người gọi nhau í ới, tiếng thiết bị y tế va chạm gấp gáp, bỗng một tiếng rên đau đớn và gấp gáp vang lên ngoài cổng.
Một chiếc cáng được khiêng vội vào, nằm trên cáng là một sản phụ sắp sinh, gương mặt tím tái vì đau đớn. Một nữ chiến sĩ khiêng phần đầu cáng, đằng sau là chồng của sản phụ, trên gương mặt hai người đều là mồ hôi nhễ nhại chảy xuống.
-" Sắp sinh rồi, nước ối đã vỡ "– một y tá hét lên.
Ngay lập tức rèm che được kéo thêm lên trong bệnh xá dã chiến, những nữ quân y tạm gác các công việc khác hoặc giao lại cho các đồng nghiệp nam làm, họ mang găng tay, nồi nước ấm, kéo tiệt trùng và các dụng cụ y tế khác đến trợ sinh.
Chẳng cần ai phải ra lệnh, tất cả đều hành động nhịp nhàng như một cơ thể sống – phản xạ theo bản năng nhân đạo.
Bên ngoài, người chồng đang lo lắng quỳ sụp xuống dưới đất cầu nguyện cho mẹ tròn con vuông!
Phía bên phải: - phân khu đông y, điều chỉnh cơ thể, chữa trị bằng phương pháp tự nhiên như nắn khớp, trật tay, bong gân, đau cơ, chấn thương kín.. Tại đây các thầy thuốc dùng các bài thuốc xoa bóp, nắn chỉnh xương, châm cứu, hơ ngải cứu, kết hợp với các loại thảo dược giúp giảm đau, bổ khí huyết, an thần.
Chiếu tre trải dài thành từng dãy, mùi thảo dược bốc lên nghi ngút từ các nồi thuốc được đun bằng bếp củi bên ngoài lán. Những bài thuốc cầm máu, tiêu viêm, chữa rạn xương, nắn khớp, cứu người trúng phong hàn được áp dụng nhanh chóng cho các bệnh nhân đã được phân loại từ trước và chỉ định sang phía đông y này!
Phía đông y không có máy móc, không kim tiêm hay đèn mổ, nhưng lại có kinh nghiệm từ hàng ngàn năm, có đôi bàn tay và tấm lòng.
Ở giữa lằn ranh hai khu, một bệnh nhân bị gãy chân nặng được quân y hiện đại mổ bóc tách dị vật, khâu vết thương, rồi chuyển ngay sang phía đông y để bó thuốc, dưỡng gân cốt bằng bài thuốc gia truyền.
Hai bên làm việc như hai nửa não bộ của một cơ thể, không tranh công, không kiêu ngạo, chỉ có một mục tiêu duy nhất:" CỨU NGƯỜI "
Chương 4 cuộc chiến giành lại đất nước
Thật kỳ lạ, dù chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần là cuộc chiến giải phóng toàn bộ đất nước Vạn Xuân sẽ còn nhiều khó khăn, vất vả. Nhưng khi trận tổng phản công bắt đầu, mọi chuyện còn dễ hơn cả dự đoán.
Không phải vì địch yếu hẳn, mà vì chúng hoảng loạn trước những thứ chưa từng có trong lịch sử.
" Chúng là thần binh! Chúng có thể bay được trên trời, lửa từ trên cao giáng xuống, đánh đâu thắng đó! "
" Bọn họ có thể sai khiến những con vật được bọc thép còn to hơn cả voi – làm sao chúng ta có thể thắng họ cơ chứ! "– một tên lính địch nói
Thực tế đã cho thấy, khi tinh thần quân địch tan rã, họ còn yếu hơn cả dân binh, nhiều nơi chưa đánh đã mở cổng đầu hàng. Có thành trì còn treo cờ trắng trước khi đoàn quân kịp tới, dân chúng giành quyền mở cửa, bắt trói tướng lĩnh, xin gia nhập lực lượng chính nghĩa.
Một số nơi còn sót vài tên cứng đầu cố thủ, nhưng lính bắn tỉa từ trên trực thăng đã xả đạn xuống, buộc những tên còn lại phải mở thành đầu hàng.
Nhìn lại, cuộc phản công không phải là đổ máu giành đất, mà là cuộc hành trình giành lại trái tim của người dân.
Ở nhiều vùng quê vừa được giải phóng, người dân đã kiệt quệ, không còn nhà cửa sau bao năm chiến loạn, không còn lương thực sau những năm tháng bị áp bức, vơ vét, không có thuốc men để chống chọi với dịch bệnh đang hoành hành.
Có những đứa trẻ chỉ còn da bọc xương, run rẩy trong gió rét.
Có những bà mẹ ôm con đã chết vì tiêu chảy, không biết phải khóc hay phải mừng vì mình còn sống sót để đau đớn.
Có những cụ già cố hái từng cọng rau dại mọc ven ruộng, nấu lên thứ cháo loãng như nước rửa tay, chỉ để sống sót qua ngày
Trước tình cảnh đó, nhiều người không cầm nổi nước mắt. Chúng tôi hiểu: Đây mới là cuộc chiến thực sự.
Không còn địch thủ bằng gươm giáo, chiến mã, nhưng kẻ thù lần này là nạn đói, bệnh dịch, mất mát tinh thần
" Nếu chúng ta không chữa lành vết thương cho nhân dân, thì mọi chiến thắng quân sự đều là vô nghĩa "– Chỉ huy trưởng Dương Hùng phát biểu tại cuộc họp khẩn.
Quyết định nhanh chóng được ban hành:
Hai ngàn người được lệnh ở lại căn cứ chính của đoàn quân xuyên không, gồm:
Đội phòng thủ tinh nhuệ, bảo vệ hệ thống điện mặt trời, nhà máy lọc nước, kho lương thực và trung tâm nghiên cứu.
Các chuyên gia nông nghiệp, trông coi những cánh đồng thí nghiệm – nơi đang trồng lúa và các loại hoa màu từ những hạt giống mang từ tương lai về.
Một trạm y tế trung tâm vẫn duy trì hoạt động, sẵm sàng xử lý tình huống khẩn cấp trong khu vực.
Ngoài ra, đội đang tiến hành xây dựng nhà máy lọc dầu vẫn giữ nguyên nhân sự, vì xăng dầu từ thời hiện đại mà chúng ta mang theo không còn nhiều, không có xăng dầu thì trực thăng và xe chuyên dụng coi như không có tác dụng gì.
Tám ngàn người còn lại – mang theo"
Hàng trăm tấn lương thực, gạo, ngũ cốc, lương khô..
Thiết bị y tế hiện đại (máy đo huyết áp, máy thở cơ bản) thuốc men, vaccine sơ cấp
Hạt giống đặc biệt, có khả năng sinh trưởng nhanh trong điều kiện đất kém.
Và đặc biệt là tinh thần vì nhân dân phục vụ.
. Thế nhưng, nước xa không cứu được lửa gần, tuy đoàn quân cứu trợ vội vã lên đường, mang theo rất nhiều lương thực, thuốc men, nhưng họ vẫn cần ít nhất vài ngày đường mới tới được nơi. Trong khi đó, nạn đói đã gõ cửa từng mái nhà, từng lán tạm bợ, từng khu dân cư vừa thoát khỏi ách đô hộ. Người dân không thể đợi thêm được nữa.
Có người đã ngất xỉu vì kiệt sức khi cố đứng xếp hàng xin chút cháo loãng từ trạm quân y
Có em bé khóc đến khàn giọng rồi thiếp đi, không còn nước mắt để rơi vì thiếu sữa và dinh dưỡng.
Có cụ già ôm cái bụng rỗng ba ngày, chỉ thều thào một câu trước khi gục xuống:
"Chúng ta giải phóng rồi.. Nhưng liệu có sống nổi không?"
Trước tình hình hết sức cấp bách đó, chỉ huy trưởng Dương Hùng triệu tập cuộc họp khẩn cấp trong trại chỉ huy. Sau chưa đầy năm phút bàn bạc, mệnh lệnh được ban ra:
"Kích hoạt kế hoạch săn cứu đói, toàn bộ phi đội trực thăng vận tải cỡ lớn, xuất phát ngay lập tức. Mục tiêu: Thú lớn trong tự nhiên"
Thế giới một nghìn hai trăm năm trước là một địa ngục rừng rậm đúng nghĩa đối với con người. Cây cối um tùm, dây leo giăng như mạng nhện, rắn độc, muỗi mòng, vắt, đỉa đầy rẫy.
Dân cư thưa thớt, sống co cụm bên các vùng ruộng ven sông, hiếm ai dám bước sâu vào rừng. Những thú dữ như Hổ, Gấu, Trăn khổng lồ là nỗi kinh hoàng thường trực.
Thú lớn như Voi, Trâu rừng, Cá Sấu, Tê giác sống tự do, không ai đủ sức săn được nếu không có tổn thất nặng. Ở thời đại này, không phải con người săn thú, mà là thú săn người.
Và rồi, đội quân xuyên không đến, mang theo thứ mà thế giới này chưa bao giờ thấy: Trực thăng vận tải hạng nặng – những con chim sắt khổng lồ gầm rú trên bầu trời, lượn qua núi rừng như thần linh giáng trần. Trong khi người cổ đại chỉ có cung tên và vũ khí lạnh, thì đội săn cứu đói khẩn cấp có: Súng bắn tỉa hạng nặng, kính hồng ngoại quét nhiệt từ xa, dụng cụ treo xác thú trọng lượng vài tấn lên trực thăng trở về.
Những chiếc trực thăng quân sự hạng nặng gầm rú giữa bầu trời cổ đại, chia thành từng nhóm, quần thảo khắp các cánh rừng nguyên sinh rộng lớn. Từ trên cao, binh sĩ dùng súng bắn tỉa để hạ những con thú khổng lồ, Trâu rừng, voi rừng, nai sừng tấm, thậm chí cá sấu và Gấu Xám. Các thiết bị định vị nhiệt, máy cảm biến chuyển động giúp chúng tôi dễ dàng truy dấu những đàn thú đang lang thang trong rừng sâu (đối với những đàn thú lớn ở đồng cỏ thì chỉ cần nhìn bằng mắt thường là được). Mỗi khi hạ được con mồi lớn, máy bay hạ độ cao – và những người lính nhanh nhẹn xuống cột thật chặt xác con vật vào dây treo và móc khóa để nâng lên, treo lủng lẳng vào xác máy bay, đem về điểm tập kết.
Tại các vùng mới giải phóng, các trại nấu ăn dã chiến mọc lên, đội đầu bếp và dân quân đã chờ sẵn với đầu bếp và hàng trăm nồi lớn nhỏ khác nhau. Những con thú nặng hàng trăm ký, thậm chí cả tấn được mổ xẻ, chế biến, chia thành khẩu phần cho dân. Có nơi, một nồi súp khoai tây nấu với thịt voi rừng, đã giúp cứu sống hàng ngàn người dân đang đói lả.
- "Tôi không còn nhớ mình đã nhai rễ cây cầm hơi bao nhiêu ngày. Mấy đứa trẻ trong làng khóc đến khản giọng, rồi chỉ còn nằm im, mắt lờ đờ nhìn lên mái nhà rách nát. Lúa má bị giặc đốt sạch, cơn đói tràn đến như dòng nước lũ không thể ngăn chặn. Người người lả đi nằm co quắp dưới gốc cây, chờ chết.. Thế nhưng, đúng lúc tưởng như không thể qua khỏi thì tiếng gầm của những con chim sắt xé toang bầu trời. Mọi người ngẩng đầu lên, trong sự hoảng sợ lẫn hy vọng. Chúng tôi từng nghe nói về những" thiên binh "– những người biết cưỡi chim sắt, sai khiến quỷ thần, đánh tan quân xâm lược. Nhưng nay họ không mang theo gươm giáo, mà mang về.. Thịt. Thịt thật sự!" – một người dân tên A Tang xúc động kể lại.
Ở một nơi khác, ngay tại cánh đồng trống ven làng, những chiếc bếp dã chiến dã được dựng lên. Khói bốc lên thơm ngào ngạt. Đội ngũ đầu bếp trong quân phục lạ màu tay nhanh thoăn thoắt, dao mổ sắc lẹm nhanh như chớp, những người dân trong làng nhìn nhau, vừa cảm động vừa vui mừng vì gia đình, làng xóm sắp được cứu.
Nồi canh xương voi nấu cùng khoai rừng, nồi thịt nai hầm lá quế, heo rừng quay tẩm gia vị.. Từng phần ăn nóng hổi được chia ra, đưa tận tay người dân.
Tối hôm đó, trong ánh lửa trại, có người lần đầu tiên cười lại sau mấy tháng trời. Trẻ con chạy nhảy quanh lều, trên tay còn cầm khúc xương gặm dở. Một chiến sĩ "thiên binh" ngồi kể chuyện cho lũ trẻ, giọng vừa lạ vừa thân thương.
Dưới đây là lời kể của trưởng làng Lương – cụ già bảy mươi ba tuổi:
Mấy chục năm làm trưởng làng, tôi đã từng chứng kiến chiến tranh, cướp bóc, cháy nhà, mất mùa, người chết đói nằm co quắp bên bờ ruộng. Nhưng chưa bao giờ dân làng tôi rơi vào cảnh như tháng này.
Mấy hôm trước, có người trong làng chết đói. Chết đói thực sự, không còn ai đủ sức đào mộ. Tôi già rồi, nhưng vẫn phải lết ra sau đồi cuốc đất chôn họ. Đau, không phải vì cái chết, mà vì cái chết ấy giữa thanh thiên bạch nhật mà không ai làm gì được
Thế rồi, giữa lúc trời đất tưởng như quên chúng tôi, âm thanh ù ù vang lên từ phía trời nam, ngẩng đầu lên nhìn, tôi không tin vào mắt mình, có con chim sắt khổng lồ đang sà xuống bãi đất trống, dưới bụng nó đang treo lủng lẳng một con trâu rừng, máu còn nhỏ giọt.
Chẳng máy chốc, thịt được phân ra, xẻ từng khúc, phát đều cho các gia đình. Người già, trẻ nhỏ, sản phụ được ưu tiên. Những người lính mặc đồ kỳ lạ, lưng đeo vũ khí sáng loáng nhưng ánh mắt hiền lành, họ không nói nhiều, chỉ làm, và làm. Có người còn ôm cụ già như tôi mà nói:
"Cụ nghỉ đi, bây giờ là phần của bọn cháu"
Tôi lặng người. Bàn tay thô giáp của tôi run run nắm lấy tay của cậu lính trẻ. Không ai trên đời nợ nhau gì cả. Nhưng hôm nay, họ đã cho cả làng tôi một món nợ ân tình.
Tối hôm đó, đứng trên gò cao nhìn xuống, thấy khói bếp bốc lên từ hàng chục nóc nhà đã gần như sụp đổ. Mùi thịt nướng lan trong gió. Tôi tin cuối cùng, có lẽ dân tộc mình đã tìm thấy ánh sáng.
Chương 5 – bình minh tái sinh – khi hạt giống được trao tay, và quyền lực được về tay dân chúng
Sau nhiều ngày đói rét, sau những lần bốc thịt thú rừng như vàng ròng trong tay, người dân giờ đã có cơm ăn, áo mặc tạm thời. Nhưng không ai trong đoàn quân xuyên không cho phép mình ngơi nghỉ. Cơm thịt không thể cứu đói mãi, muốn dân no, thì phải tự trồng được lúa, tự gieo được hạt và tự cai quản lấy nhau.
Vì vậy hàng trăm kỹ sư nông nghiệp từ thời hiện đại lần lượt được cử đến các vùng nông thôn, mang theo túi hạt giống quý, thứ mà một nghìn hai trăm năm trước chưa ai biết tới:
Lúa lai kháng bệnh
Bắp ngô siêu năng suất
Cà chua chịu hạn
Cà rốt, rau củ, đậu đỗ đủ loại..
Mỗi kỹ sư được phiên dịch lại bằng người địa phương, chia nhóm đến tận từng làng, hướng dẫn cặn kẽ từng bước, từ làm đất, lên luống, ủ phân, cách tưới nhỏ giọt tiết kiệm nước, đến cả việc dùng các loại thảo dược thay thế thuốc trừ sâu..
Người dân kinh ngạc. Thứ họ từng nghĩ là phép tiên – thì ra là tri thức. Một cụ già thì thầm "xưa nay gieo một được ba đã là trời thương.. Giờ gieo một được hai mươi, ba mươi.. Có lẽ trời không bỏ dân mình thật."
Bên phía hoàng cung:
Giữa sân điện rêu phong, nhà vua – người vừa được cứu khỏi cảnh diệt vong – chính thức bước ra, mặc thường phục và tuyên bố:
Ta từng nghĩ giữ ngai vàng là để bảo vệ quốc gia. Nhưng nay ta hiểu, chỉ khi dân là chủ thì đất nước mới không còn bị xâm lược, không còn bị đói nghèo.
Nay, ta tuyên bố:
"Chuyển toàn bộ quyền điều hành đất nước về tay nhân dân. Mỗi làng, mỗi huyện, mỗi vùng, hãy chọn ra người tài đức nhất để lãnh đạo chính mình. Từ nay, không còn vua, chỉ còn dân."
Cả quảng trường như nổ tung, có người khóc, có người quỳ xuống cảm tạ, có người hét lên giữa tiếng trống rền vang: "Muôn dân là vua, dân là gốc nước"
Kể từ ngày hôm đó, đất nước bước vào một thời kỳ chưa từng có: Nhân dân tự chọn lãnh đạo, dân chủ từ làng đến tỉnh, toàn dân cùng học cách tự cường.
Ngày bầu cử đầu tiên diễn ra như một lễ hội lớn. Trống chiêng vang lên từ sáng sớm. Từng đoàn người dân quấn khăn, đội nón, bế con, dắt mẹ, kéo nhau đến các điểm bỏ phiếu dụng tạm bằng tre và vải dù của quân đội.
Mỗi người được phát một lá phiếu làm giấy bồi, tren có ghi tên người trong làng được đề cử. Nhưng đến khi kiểm phiếu xong, cả hội đồng bầu cử như hóa đá.
- Người trúng cử trưởng làng: Thiếu úy Nguyễn văn Sơn
- Trưởng huyện: Trung tá Trần Quốc Hùng
- Trưởng tỉnh: Đại úy Mai Thị Ngọc
* * *
Thống lĩnh toàn vùng: Tổng chỉ huy Dương Hùng! "
Không một ai trong danh sách dân sự được chọn. Lá phiếu nào cũng chi chít những cái tên xuyên không. Có người dân còn viết thêm:" Cháu bầu cho anh lính có râu râu, cứu bà nội cháu hôm bị cảm lạnh ạ ".
Một cụ già ngơ ngác nói:
" Chứ không phải ai cứu mình thì mình bầu người đó làm quan à? Mấy anh lính ấy giỏi, đàng hoàng, lại biết chữ, biết thuốc, biết cưỡi chim sắt.. Không bầu họ thì bầu ai? "
Chúng tôi cười như mếu. Cả hội đồng bầu cử phải đứng ra giải thích mấy lần, toát mồ hôi:
" Thưa các bác, các cô chú.. Quân đội chúng cháu chỉ có nhiệm vụ bảo vệ nhân dân, không được phép điều hành đất nước. Các vị phải chọn người trong làng mình, người các vị tin tưởng và hiểu rõ nhất, để họ đại diện cho dân ".
Có người dân chép miệng tiếc nuối:
" Biết vậy hôm trước đừng để mấy ông ấy cứu mình nữa.. Cứu rồi mà không cho làm quan thì áy náy lắm ".
Cuối cùng, bằng sự kiên nhẫn và tinh thần dân chủ, từng làng, từng xã cũng đã chọn ra người của chính mình. Tuy còn lạ lẫm, vụng về, nhưng đó là bước đầu tiên của một kỷ nguyên mới: Dân làm chủ, đất nước không còn vua chúa, mà là của tất cả mọi người.
Chương 6 – chính quyền dân chủ đầu tiên của vạn xuân ra đời
Đã hơn hai năm kể từ ngày đoàn quân xuyên không về quá khứ. Cuộc chiến kết thúc, lúa gạo đã thay đói rét, hạt giống đã thay tro tàn, và niềm tin đã thay sợ hãi. Nhân dân Vạn Xuân – từ những người lam lũ, gầy guộc – giờ đây đã trở thành chủ nhân thực sự của mảnh đất mình sinh ra.
Chính quyền dân chủ đầu tiên trong lịch sử chính thức hoạt động.
Từ mười hai vùng lớn nhất trong cả nước, mười hai người dân thường, không ai là quý tộc, không ai là tướng lĩnh – được nhân dân bầu chọn thông qua bỏ phiếu công khai. Họ là nông dân, là thợ rèn, là ngư dân, là người từng thất học, từng đói rét.. Giờ đây họ cùng ngồi chung một bàn tròn lớn, gọi là hội đồng tối cao nhân dân Vạn Xuân – đại diện cho hơn mười hai triệu người dân cả nước.
Không ai gọi họ là quan
Họ tự xưng là" người được dân ủy thác "Mỗi quyết định được thảo luận công khai. Mỗi người dân đều có quyền góp ý
Ngày thành lập hội đồng, một buổi lễ long trọng được tổ chức tại quảng trường trung tâm, nơi tùng là trung tâm quyền lực phong kiến năm nào, giờ cắm một lá cờ mới: Nền trắng tinh khôi, có thêu hình mười hai ngôi sao, đại diện cho mười hai người trong hội đồng tối cao – thay mặt cho mười hai triệu dân trong nước điều hành đất nước. Dưới hình mười hai ngôi sao, là bông lúa vàng vươn lên từ vết nứt đất, biểu tượng cho sự sống nảy mầm từ đau thương.
Mười hai người trong hội đồng tối cao, đứng thành một hàng ngang, cùng tuyên thệ trước toàn dân:
" Chúng tôi – những người được nhân dân giao trọng trách – xin thề:
Không tham quyền cố vị
Không nói dối dân, không phản dân.
Mỗi quyết sách là vì con cháu mai sau
Không vì lợi ích cá nhân.
Nếu trái lời thề, xin nhân dân phế truất. "
Toàn dân cùng vỗ tay nhiệt liệt. Những người lính xuyên không đứng nghiêm, ánh mắt không giấu nổi nét vui mừng, vẻ đẹp rạng ngời hiện lên trên từng khuôn mặt của mọi người. Họ biết.. Hành trình của mình đến đây đã có kết quả. Họ không còn phải là người quyết định thay dân nữa – vì nhân dân đã tự đứng dậy được.
Thời gian lặng lẽ trôi qua như dòng sông không quay đầu. Người dân Vạn Xuân dần no ấm, trẻ em lại tung tăng chơi đùa, mùa màng trổ bông trên những cánh đồng được tưới bằng mồ hôi và hy vọng. Nhưng trong lòng những người lính xuyên không – những chiến sĩ đến từ tương lai – lại bắt đầu một nỗi buồn âm ỉ, không ai nói ra.. Nhưng ai cũng hiểu:
" Nếu như.. Chúng tôi không bị cuốn vào vòng xoáy xuyên không ấy.. Thì giờ này.. Có lẽ đã được trở về quê nhà, tiếp tục phục vụ tổ quốc, cứu giúp quê hương "
Có những đêm, khi doanh trại đã chìm vào yên lặng, tiếng thở đều của đồng đội hòa cùng tiếng gió rì rào, những người lính lại chìm sâu vào giấc ngủ - một giấc ngủ chẳng hề yên bình.
Trong mơ, họ thấy mình được bước qua cánh cổng đơn vị ngày xưa, thấy mẹ già đang ngồi hong tóc ngoài hiên, tay cầm gói xôi gấc nóng hổi.
Thấy đứa em nhỏ chạy đến hét to:
" Anh về rồi! Anh về rồi mẹ ơi! "
Thấy người yêu cũ gật đầu trong đám cưới chưa bao giờ có thật.
Có người mơ thấy cha mình ngồi lặng thinh trên chiếc đá công viên, đợi mãi một đứa con đã mất tích.
Có người mơ thấy bạn bè đồng đội năm xưa giơ tay chào trong một cuộc duyệt binh mà anh ta không bao giờ được tham gia nữa.
Tệ hơn nữa..
Có những đêm tối mịt mù, giữa doanh trại vắng tiếng cười, vài người lính giật mình tỉnh giữa cơn mộng. Trán vã mồ hôi, tim đập dồn dập như vừa thoát khỏi một cơn ác mộng.
" Cứu chúng tôi với! Anh hai ơi! Con ơi! Chú ơi! "
Những tiếng kêu gào, tiếng bom rơi, tiếng trẻ con khóc, tiếng mẹ già gọi tên..
Quê nhà bốc cháy trong mơ. Những mái nhà tan tành. Những khuôn mặt yêu thương chìm trong khói lửa, giơ tay ra, nhìn họ như cầu cứu.
Nhưng họ thì đứng đó, bị xiềng chặt bởi thời gian. Không thể quay về. Không thể làm gì được.
Khi tỉnh lại, người lính ấy chỉ biết ngồi bần thần thật lâu, đôi mắt đỏ hoe nhìn vào khoảng không đen đặc của màn đêm.
Có người khóc không thành tiếng
Có người đấm mạnh vào vách gỗ doanh trại đến rướm máu.
Có người lặng lẽ viết nhật ký, rồi gạch đi, rồi lại viết – hàng chữ méo mó, chồng chéo như chính cảm xúc bị bóp nghẹt trong lòng họ.
" Mình đáng lẽ phải chết nơi quê nhà cùng mọi người. Sao mình lại sống ở đây? Sao mình được yên ổn sống trong quá khứ, trong khi quê hương đang hấp hối ở tương lai?'
Dù người dân Vạn Xuân tôn kính gọi họ là "thiên binh", dù họ được ghi công là những vị anh hùng cứu quốc.. Nhưng trong chính tâm khảm của những người lính ấy, họ luôn cảm thấy mình là những đứa con bất hiếu với quê hương.
Mỗi khi đi ngang qua cổng doanh trại, nơi treo tấm biểu ngữ đỏ đậm với dòng chữ thiêng liêng: "MÁU QUÂN ĐỘI PHẢI ĐỔ TRƯỚC MÁU DÂN" họ lại lặng người đứng lại vài giây, không ai bảo ai, nhưng ai ai cũng cảm thấy như bị kim châm vào tim.
Đó là lời thề máu thịt, là lý tưởng họ sống chết để bảo vệ nơi quê nhà – nơi họ lớn lên, nơi cha mẹ họ vẫn còn đang chờ, nơi những đồng đội cũ có thể đang ngã xuống từng ngày trong cuộc chiến mà họ không được phép quay về.
Tôi không xứng đáng.. Nhiều người lính – những con người từng được rèn luyện để cứng như sắt thép – lại không thể cầm nổi nước mắt mỗi khi đi ngang qua tấm biểu ngữ nơi cổng doanh trại "
" máu quân đội phải đổ trước máu dân "
Ban đầu, họ còn cố nuốt vào trong. Nhưng theo thời gian, càng đọc dòng chữ ấy, họ càng cảm thấy như bị đâm sâu vào tim. Nỗi áy náy chồng lên nỗi nhớ. Cảm giác tội lỗi vì không được đổ máu cho quê hương của mình, cứ lớn dần lên theo từng ngày tháng sống ở quá khứ.
" Tôi không xứng đáng với dòng chữ đó.. "Một người lính quỳ xuống trước cổng trại, nắm chặt đất cát dưới chân như muốn chôn vùi cảm xúc.
" Đáng lẽ máu của tôi phải đổ thay cho dân tôi, ở quê hương của tôi.. "
Người này quỳ xuống, rồi một người khác cũng lặng lẽ quỳ theo. Rồi hai, ba, năm người.. Đến lúc có cả hàng chục chiến sĩ trong im lặng, cúi đầu, vai run run vì kìm nén cảm xúc. Không tiếng khóc thành lời, nhưng nước mắt cứ rơi, rơi âm thầm trên nền đất doanh trại.
Chiến tranh không còn ở trên màn ảnh
Trước đây, họ từng xem hàng trăm bộ phim chiến tranh. Những cảnh chia ly đầy nước mắt nơi sân ga, những lá thư từ tiền tuyến, những người lính gục xuống trong tiếng nhạc bi hùng. Có người từng khóc. Có người tự nhủ:" nếu là mình, chắc sẽ vượt qua ".
Nhưng giờ đây, họ mới biết – mọi thứ trên màn ảnh chỉ là một phần mờ nhạt của hiện thực. Bởi trong phim, chiến tranh kết thúc trong hai giờ. Người thân hoặc hy sinh, hoặc sống sót. Còn trong cuộc chiến mà họ đang trải qua, không có kết thúc, không có tin tức, không có ai để hỏi, chỉ có chờ đợi, đau đớn và nỗi sợ không tên.
Lính trẻ Hưng, hai mươi mốt tuổi, trước đây học sinh chuyên toán từng nói:
" Nếu lỡ có chiến tranh, em sẽ cười mà đi ".
Giờ đây, cậu ngồi một mình trong kho hậu cần, ôm điện thoại cũ nứt màn hình, mở đi mở lại một video cũ chỉ mười hai giây – mẹ cậu cười tươi đứng bên nồi canh nghi ngút khói.
Cô gái tên Trân, lính hậu cần, từng nói đùa:
" Không người yêu thì có sao, em yêu tổ quốc! "
Giờ đây, khi vừa từ tiền đồn trở về, cô không về trại ngay mà ngồi bệt trên bãi cỏ khô, mặt vùi vào tay. Trong mơ, cô thấy cha – Người luôn phản đối cô nhập ngũ – đẩy chiếc xe lăn qua lớp bụi mờ phóng xạ, miệng khản đặc gọi tên con.
-" Trân ơi.. Về đi con.. Đừng ở ngoài đó nữa.. "
Giấc mơ lặp đi lặp lại như một lưỡi dao cùn, cứa dần qua tim cô.
Càng ngày càng nhiều người lính trẻ bắt đầu rơi vào trạng thái hoảng loạn âm thầm. Có người khóc khi nhìn thấy một chiếc muỗng gỗ giống loại mẹ hay dùng. Có người bỗng dưng quỳ xuống đất, run rẩy khi nghe tiếng còi hú của trạm điện. Có người mất ngủ cả tuần, rồi đột ngột gào lên trong đêm:
" Đừng đi! Mẹ ơi đừng đi! Con xin mẹ! "
Tổng chỉ huy Dương Hùng nhận được báo cáo từ quân y:
" Tình trạng chấn thương tâm lý lan rộng. 73% quân nhân dưới 25 tuổi có biểu hiện stress cấp tính. Một số người rơi vào trạng thái hoài nghi, vô thức tự làm đau bản thân. Tổ tâm lý không đủ nhân lực để xử lý.
Anh không nói gì, chỉ đứng dậy ra khỏi bàn, ra lệnh khẩn:
! "Tập hợp toàn doanh trại. Triệu tập đến quảng trường trung tâm. Chuẩn bị mở màn hình lớn. Không được vắng mặt bất kỳ ai. Ngay tối nay".
Tối hôm đó, giữa quảng trường trung tâm. Mười hai ngàn người, đủ mọi độ tuổi, mọi đơn vị, mọi tâm trạng- đứng trước một màn hình chiếu bóng khổng lồ.
Không ai biết sẽ chiếu gì. Không ai nói với nhau câu nào. Gió thổi nhẹ, nhưng lạnh như len qua từng nỗi mất mát chưa kịp lành.
Tổng chỉ huy Dương Hùng bước lên. Giọng không cao, nhưng từng lòi như đinh đóng:
- "Các đồng đội trẻ..
Trước đây, các bạn nghĩ chiến tranh là vinh quang. Nhưng thực sự.. Nó chỉ là một vết rách dài – mà mỗi người chúng ta đều rơi vào trong đó, một mình. Các bạn đang sống không phải trong chiến tranh.. Mà trong nỗi chia ly không có hồi kết.
Và tôi, cũng như các bạn, không biết người thân mình còn sống hay không.."
- "Nhưng nếu chúng ta gục ngã tại đây, thì cái chết của họ.. Cái mất mát của ho.. Trở nên vô nghĩa.
Nếu chúng ta còn sống, thì hãy sống sao cho xứng đáng. Không phải vì chúng ta mạnh. Mà vì.. Chúng ta không còn lựa chọn nào khác.
Rồi màn hình bật sáng. Không phải phim tài liệu. Không phải khẩu hiệu. Mà là một đoạn video cũ, ghi hình trong một căn phòng nhỏ, đơn sơ đến mức tưởng như là phòng của một người thợ già đã về hưu.
Trên màn hình hiện lên gương mặt ông lão – gầy gò, mặc áo len sẫm màu, mái tóc bạc trắng, đôi mắt sâu và mỏi, nhưng sáng như tro tàn còn âm ỉ lửa.
Là Bác – lãnh đạo tối cao quốc gia:
" Chào các con ".
Giọng bác khàn khàn nhưng ấm áp, vang lên giữa quảng trường rộng như một lời thì thầm rất gần.
" Ta biết giờ phút các con xem đoạn video này.. Là khi các con đang rất đau khổ. Có thể là sau một trận chiến, hay sau một đêm mất ngủ. Có thể là khi các con đang không biết người thân mình còn sống hay đã mất. Có thể là khi các con bắt đầu nghi ngờ chính con đường mình đang đi ".
" Các con ạ.. Ta cũng đã từng là lính. Cũng từng xách ba lô qua biên giới trong mùa đông rét mướt. Từng ăn cơm sạn. Từng chôn bạn thân bằng tay không.. Ta biết tâm trạng của một người lính chân chính là gì. "
" Nó không phải sợ chết. Mà là nỗi đau.. Khi quê hương lâm nạn, mà bản thân không thể ở đó, không thể cùng đồng cam cộng khổ. Nỗi đau đó, đôi khi còn nặng hơn cái chết ".
Ta biết, trong tim các con giờ đây là hình ảnh của cha mẹ, của con cái, của người yêu.. Đang ở lại phía sau, trong thế giới đã tan hoang. Và ta không dám hứa rằng họ còn sống. Nhưng ta dám hứa rằng.. Nếu các con gục ngã tại đây, thì cái chết của họ sẽ trở nên vô nghĩa".
Giọng Bác trầm xuống, đôi mắt hơi đỏ lên – dù đây chỉ là một đoạn ghi hình cũ nhiều tháng trước.
"Những đứa con của ta ơi.. Các con là hạt giống cuối cùng của một nền văn minh sắp diệt vong. Các con không chỉ mang trên vai trách nhiệm với tổ quốc, mà còn là ký ức sống của những người đã ra đi. Nếu các con còn sống.. Thì họ vẫn sống. Trong ký ức. Trong hành động. Trong lựa chọn của các con từng ngày".
"Nỗi đau hiện tại sẽ không bao giờ biến mất. Nhưng ta mong.. Nó sẽ trở thành động lực, chứ không phải xiềng xích. Vì chỉ có những ai từng đau đớn, từng yếu đuối.. Mới thực sự hiểu thế nào là lòng nhân hậu, là sự can đảm đích thực".
"Ta không ra lệnh gì cho các con. Ta chỉ mong các con sẽ sống tiếp.. Làm người. Và đừng để thế giới mới này thành một bản sao của thế giới cũ. Hãy xây dựng nó bằng tình thương, trí tuệ và sự tỉnh táo.. Từ chính những giọt nước mắt hôm nay.
. Màn hình vẫn chưa tắt. Ánh sáng lại bừng lên. Gương mặt vị lãnh đạo già – mà chúng tôi gọi thân thương là Bác hiện rõ hơn, giọng người chậm lại, khàn đặc:
" Khi các con xem được đoạn video này.. Có lẽ ta đã không còn trên đời nữa ".
Tiếng gió ngoài quảng trường dường như cũng ngưng lại. Nhiều người nuốt khan. Có người bắt đầu run rẩy.
" Ta từng nghĩ: Nếu dân tộc ta bị diệt vong dưới thời ta lãnh đạo.. Thì ta.. Còn mặt mũi nào đi gặp các bậc tiền nhân đã dựng xây đất nước.. Các anh hùng giải phóng dân tộc và biết bao liệt sĩ vô danh đã chết trong im lặng để bảo vệ đất nước?
"Nhưng rồi ta hiểu.. Không phải giữ mạng mình là quan trọng nhất. Cái quan trọng.. Là giữ linh hồn dân tộc. Và nó.. Đã được trao cho các con".
Bác cúi đầu, đôi mắt ngấn nước – lần đầu tiên trong đoạn video.
"Ta chọn cái chết cùng nhân dân mình. Còn các con, nhiệm vụ các con.. Khó hơn cả cái chết.
Các con phải sống mà không biết người thân sống hay chết.
Phải xây dựng lại một thế giới.. Khi mọi ký ức xưa chỉ còn tro bụi.
Phải yêu thương.. Khi có thể chẳng còn ai để chờ đợi'.
" Nên nếu hôm nay các con đau đớn, tuyệt vọng, gào khóc.. Ta hiểu, Ta yêu thương, Ta ôm lấy từng đứa!
"Nhưng rồi.. Hãy lau nước mắt, đứng dậy. Không vì mệnh lệnh – mà vì máu của dân tộc mình đang chảy trong người các con!"
Video chấm dứt. Màn hình tắt hẳn. Nhưng không gian vẫn còn vang vọng lời của Bác.
Giữa quảng trường, một nhóm lính trẻ đã không thể đứng vững.
Một cô gái bật khóc nức nở, rồi quỳ xuống, hai tay bưng mặt:
"Bác ơi.. Sao bác lại giao cho chúng cháu nhiệm vụ khó khăn như thế này.."
Một chàng trai đứng gần đó, mắt đỏ hoe, hét lên giữa quảng trường
"Bác ơi cho cháu chết cùng dân tộc! Cháu không muốn sống sót một mình thế này!"
- "Giá như.. Bác còn sống.. Chúng cháu đã không thấy mình mồ côi thế này.."
Tổng chỉ huy Dương Hùng không ngăn cản. Anh không ra lệnh ai trật tự, không gọi y tế, không can thiệp. Anh chỉ đứng đó, đặt tay lên trái tim mình.
Một sĩ quan khác bước tới, khẽ nói với anh
"Họ đau lắm, thưa anh"
Tổng chỉ huy gật đầu, giọng như tan trong gió:
- "và vì họ đau.. Họ sẽ sống. Vì chỉ những người mang được nỗi đau như thế.. Mới xây dựng được một thế giới đáng sống".
Trên quảng trường, màn hình lớn đã tắt. Chỉ còn ánh trăng bàng bạc phủ lên những gương mặt còn ướt đẫm nước mắt. Không ai bảo ai, hàng ngàn người vẫn đứng nguyên tại chỗ.
Không một ai quay lưng đi.
Không ai bỏ về trại.
Không một tiếng giày vang lên.
Họ cứ đứng đó – im lặng như những pho tượng gánh trời.
* * * Rồi bất chợt, một người lính trẻ - gầy, mắt còn sưng vì khóc – bước lên giữa quảng trường. Anh ta ngẩng đầu lên, giọng khàn nhưng nghe rõ:
"Bác đã chọn chết vì nhân dân. Còn chúng ta.. Phải chọn sống thay nhân dân"
"Mỗi một giọt máu của chúng ta.. Từ hôm nay.. Không còn là của chính mình. Nó là máu của dân tộc".
Từng người, từng người một lặng lẽ gật đầu. Một người mẹ trẻ nắm tay đồng đội:
"Tôi không được ở bên con mình khi cháu qua đời, nhưng tôi sẽ chăm sóc những đứa trẻ khác như con tôi".
Một bác sĩ trung niên dày dạn kinh nghiệm nhìn đồng đội, mắt sáng lên như sắt nung:
"Không ai trong chúng ta biết người thân còn sống hay đã chết. Nhưng chúng ta biết chắc rằng, dân tộc còn hy vọng".
Một anh kỹ sư khoảng ba mươi tuổi – run rẩy cởi áo khoác, để lộ dòng chữ xăm sau lưng: "Tổ quốc – hoặc không gì cả".
Tổng chỉ huy Dương Hùng bước lên phía trước, mắt anh nhìn mọi người một lượt, không cần nâng giọng:
"Hôm nay, chúng ta đã khóc cùng nhau. Ngày mai, chúng ta sẽ đứng cùng nhau – để dựng lại thế giới này, không phải bằng công nghệ hiện đại, mà bằng tình yêu không khuấtt phục".
"Chúng ta là những người cuối cùng nhớ được về quê hương.. Và là những người đầu tiên phải biến ký ức đó thành tương lai: .
Sáng hôm sau
Khi trời còn chưa sáng hẳn, khắp doanh trại bắt đầu vang lên tiếng bước chân đều đặn. Không ai ra lệnh, không còi báo thức.
Nhưng tất cả đã sẵn sàng.
Người ta thấy những cô gái trẻ từng khóc gục đêm qua, giờ đây khoác ba lo, xiết chặt khẩu súng, ánh mắt kiên cường. Những người cha nhớ con, người con nhớ mẹ.. Tất cả đều lặng lẽ chào nhau, rồi chia ra thành từng đội ai vào việc nấy.
Dưới sự giúp đỡ của đoàn quân xuyên không, đời sống của người dân Vạn Xuân dần chuyển mình như chưa từng có trong lịch sử.
Những ngôi làng nghèo xơ xác ngày nào giờ đã trở thành những cộng đồng ấm no, yên bình. Trẻ em không còn khóc vì đói. Người lớn không còn run rẩy trong giá rét hay lo sợ trước mỗi mùa giáp hạt.
Khắp các đồng bằng, những đồng lúa chín vàng rực, trải dài đến tận chân trời. Chuồng trại được xây dựng theo mô hình mới, sạch sẽ và hiệu quả, hệ thống tưới tiêu, cấp thoát nước được các kỹ sư nông nghiệp và nhân dân cùng cải tạo đã phát huy hiệu quả rất tích cực.
" Ngày xưa, muốn có bữa ăn phải vay gạo, ăn cháo cầm hơi "một lão nông rưng rưng kể lại." Giờ thì thóc lúa đầy nhà, thịt cá không thiếu, trẻ con lớn nhanh như thổi ".
Người dân ai nấy đều được hứng dẫn cách trồng trọt, chăn nuôi, bảo quản thực phẩm, chống lụt bão. Những lớp học mở ra khắp nơi – Cả trẻ em và người lớn được học chữ, học kỹ năng, học về dân chủ và quyền làm chủ đất nước.
Không còn cảnh cường hào bóc lột, Không còn những tên quan phủ ăn trên ngồi trốc. Quyền lực nằm trong tay nhân dân. Mỗi thôn, mỗi làng đều tự chọn ra người đại diện – người có đức, có tài để tham gia vào bộ máy chính quyền dân sự đầu tiên trong lịch sử.
" Ta từng sống qua ba triều vua, chưa bao giờ thấy thời nào mà dân được ấm no, được học hành và được làm chủ như bây giờ cả"– một cụ già nói

