Kiếm Hiệp Tàn Dương Kiếm - Lãnh Nguyệt Đao - Nguyên Không

Thảo luận trong 'Truyện Drop' bắt đầu bởi Nguyên Không, 19 Tháng năm 2023.

  1. Nguyên Không

    Bài viết:
    55
    Tàn Dương Kiếm - Lãnh Nguyệt Đao

    Tác giả: Nguyên Không

    Thể loại: Kiếm hiệp; Đồng nhân


    [​IMG]

    Thu phong thanh,

    Thu nguyệt minh.

    Lạc diệp tụ hoàn tán,

    Hàn nha thê phục kinh.

    Tương tư, tương kiến tri hà nhật

    Thử thì thử dạ nan vi tình..


    Dịch:

    Gió thu trong

    Trăng thu sáng

    Lá rơi hợp rồi tan

    Quạ lạnh đậu giật mình

    Nhớ nhau nhưng biết ngày nào nhớ nhau

    Giờ này đêm này biết bao tình


    Đêm tàn đã qua, ngày bạc đã tận, trà ngon thì cũng đã nhạt rồi, bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký - Hậu Truyện, Nguyên Không tôi cũng đã kể ngọn ngành. Chỉ là trong lòng vẫn còn vương vấn bài Thu Phong Từ cuối truyện, lại trằn trọc không biết rồi đời sau của đôi phu phụ Vô Kỵ - Triệu Mẫn ra sao, chuyện tình của Thiên Chí - Chỉ Nhược đã kết thế nào. Bài từ mang theo hoài cảm của sự ly rồi lại hợp. Hiện tại đang hợp đấy rồi lại có ly không? Bây giờ đang xa nhau nhớ nhau đấy, tương lai có còn kiếp nào gặp lại?

    Thôi thì lại ngẫu hứng thêm đôi ba câu chuyện, lại hãm ấm trà ngon, bày ít bánh điểm tâm. Ai hứng thú xin mời thưởng trà, ngả lưng nghe Nguyên Không ta kể chuyện. Truyện xưa còn đó, tích cũ còn đây..
     
    Chỉnh sửa cuối: 27 Tháng năm 2023
  2. Đăng ký Binance
  3. Nguyên Không

    Bài viết:
    55
    Chương 1:

    Mười năm dài, người xưa viếng thăm hàn huyên chuyện cũ

    Một đêm tà, Cự Kình Bang gặp họa diệt vong


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Núi Nga My, tiết lập thu, lá cây rừng đã quá nửa ngả màu vàng, đỏ. Đứng ở lưng chừng núi, phóng tầm mắt ra xa nhìn tán cây bạt ngàn xanh, vàng, đỏ đan xen như một tấm thảo dệt bởi nữ chúa thiên nhiên tài hoa nhưng kiêu kỳ dệt nên, mặc cho người đời thưởng ngoạn với vẻ tiếc nuối không thể níu giữ được giây phút này mãi. Nắng thu hanh vàng nhè nhẹ lách qua kẽ lá, khẽ nhảy múa trên nền đất mỗi lúc gió thoảng qua nhưng không làm giảm đi cái tĩnh mịch của con đường núi quanh co. Lâu lâu thoáng có tiếng vượn hú từng đợt ngắn nghe sao cô tịch. Tiết thu ở núi Nga My đẹp, nhưng mang theo một không khí man mác buồn đầy hoài niệm khiến ai qua cũng khó mà kiềm được phải buông khẽ một tiếng thở dài. Dưới gốc phong già, lá đổ từng đợt như tuyết đỏ, một thiếu nữ ngẩn ngơ dựa lưng ngắm mây bay lặng lẽ. Tiểu cô nương này còn trẻ tuổi lắm nhưng cũng học theo các sư tỷ búi tóc cao, mặc áo lụa dài thướt tha, cũng ra vẻ phong thái chững chạc lắm. Nhưng đứng trước cảnh Bạch Vân Giáp vào thu, nét thơ trong đôi mắt biếc không thể nào giấu được mà ngẩn người, pha chút hào hứng trước thiên nhiên hào hùng. Thả hồn vào thu, cô nhỏ không nghe thấy tiếng chân sư phụ đã tiến lại gần từ khi nào. Mãi đến khi tiếng người vang lên nghiêm khắc, cô nhỏ mới giật nảy mình:

    - Vĩnh Tình, sư phụ dặn con lên đây luyện kiếm mà sao lại ngồi chơi thế này?

    Vĩnh Tình giật bắn mình, quay lại nhìn sư phụ, ấp úng thưa:

    - Đệ tử biết lỗi! Mong sư phụ tha tội. Thấy cảnh đẹp quá, đệ tử bất giác không kiềm được mà dừng tay ngắm một lát thôi ạ. Để đệ tử đi lại bài Nhất Diệp Tri Thu, mong sư phụ chỉ điểm thêm.

    Nói đoạn, Vĩnh Tình từ từ phát kiếm, thi triển lại bài kiếm pháp nhập môn của Nga My. Đệ tử Nga My đa phần là nữ giới, kiếm pháp do vậy cũng rất mềm mại, uyển chuyển, dĩ ý bất dĩ lực. Nhất Diệp Tri Thu, ngắm một chiếc lá rơi mà biết mùa thu đã về, quả là hợp với cảnh này lắm thay. Chỉ Nhược nghiêm nghị xem đường kiếm của Vĩnh Tình tuy còn non nớt nhưng cũng đã nhiều phần uyển chuyển, chính là toát được cái cốt lõi của bài kiếm này. Nàng tuy không nói ra miệng nhưng ánh mắt cũng không giấu vẻ hài lòng. Chỉ Nhược nhậm chức chưởng môn khi chỉ mới gần ba mươi tuổi, là chưởng môn trẻ nhất trong lịch sử của Nga My. Áo gấm đoạn thiên thanh thả tà trong gió lồng lồng, tóc búi cao khoe làn da trắng sứ, mắt như hồ thu khi cười thì như tiết xuân tràn ngập mà lúc nghiêm thì cũng không thiếu khí độ của một vị tôn sư. Mắt nàng vô tình nhìn ra khung cảnh lạc diệp thu phong, khẽ buông tiếng thở dài. Nơi đây lá thu đỏ, ngoài khi máu tuôn trào. Từ sau khi quân Nguyên bị đánh đuổi khỏi lãnh thổ người Hán, Minh Thái Tổ đã lập ra nhà Minh, võ lâm dường như cũng đã yên ổn trở lại. Ngoại trừ Minh Giáo bị tiết chế ngặt nghèo, các môn phái, bang hội khác đều dần quay lại với hoạt động thời bình. Thiên Chí, chồng nàng, năm đó theo các nghĩa sĩ nổi lên chống quân Nguyên. Chiến tranh vừa dứt, chồng nàng lại không may qua đời có đến hơn mười năm nay. Nàng tránh loạn chiến, ôm con vừa lọt lòng lên nương nhờ Nga My Phái. May được chưởng môn tiền nhiệm cưu mang, nhận làm đệ tử tục gia, lại truyền cho võ công của phái, nàng mới có cơ hội thể hiện thiên phú võ học trời ban, chỉ một thời gian rất ngắn đã nhận được tín nhiệm của chưởng môn và các đệ tử, đường hoàng trở thành chương môn Nga My. Vừa tu luyện võ công, vừa quản một võ phái lớn, vừa phải chăm sóc con thơ, ngỡ như nàng chẳng còn thời gian để nhớ người chồng quá cố của mình. Nhưng hôm nay ngắm mặt trời đã dần lặn nơi Bạch Vân Giáp, nỗi nhớ khôn nguôi đó lại cuồn cuộn đổ về. Nàng bâng khuâng, khẽ nói thành tiếng:

    - Thiên Chí..

    Vĩnh Tình mới luyện, kiếm pháp còn có chút chưa thông, có chút ngập ngừng. Chỉ Nhược nhẹ giọng, nói:

    - Vĩnh Tình, để sư phụ chỉ điểm con thêm một lần nữa. Nhất Diệp Tri Thu là kiếm pháp nhập môn của Nga My Phái chúng ta. Tuy đơn giản nhưng bao hàm truyết lý căn bản của môn phái.

    Vĩnh Tình hai tay dâng kiếm cho sư phụ. Chỉ Nhược thu kiếm ra phía sau, nhắm mắt định thần, chợt thấy không khí xung quanh bỗng lặng như tờ. Từ từ Chỉ Nhược xuất kiếm, mũi kiếm hướng xuống đất, vừa ra chiêu vừa nói:

    - Nhất thức, Lục Diệp Tảo. Nga My của chúng ta trọng lễ nghĩa, chiêu đầu tiên tất có ý khiêm nhường nhưng không để mất khí phái. Cây non đội đất, lễ độ thẳng thắn, sức sống dồi dào.

    Lại thấy đường kiếm phất lên, hoa mấy vòng kiếm quang rực rỡ, kết lại là một đường kiếm vòng nhằm vai đối thủ:

    - Nhị thức, Phiên Diện Nghinh Phong. Quân tử là thân, thuyền quyên tựa lá. Đường kiếm phải mềm mại, linh hoạt như lá đón gió, xuất kỳ bất ý tấn công.

    Chỉ Nhược lại nhún người, khẽ nhảy lên cao, lưỡi kiếm chém xuống nhưng lại khẽ lay động nhưng thực như ảo, thoắt bên phải, khi lại đảo sang trái, nhanh như chớp dứt điểm rồi hoàn kiếm, quay về thế đứng ban đầu:

    - Thoái Diệp Quy Nguyên, lá rụng về cội, theo gió la đà phiêu hốt khó đoán biết. Làm đệ tử Nga My nhất định không được quên tiên tổ, sư môn. Nhất tâm quy nguyên, tinh vạn lễ.

    Kiếm pháp nhập môn, tất nhiên đơn giản nhưng vào tay Chỉ Nhược cũng muôn phần uy lực. Kiếm phong xuất ra như gió thu man mác, không cuồng mãnh như gió đông nhưng bao quát cả không trung, đâu đâu cũng thấy kiếm ảnh. Vĩnh Tình nhìn sư phụ chỉ điểm kiếm pháp, trong lòng vô cùng ngưỡng mộ. Kiếm đã thu về hồi lâu vẫn chưa định thần, ngây ra nhìn. Chỉ Nhược lúc đó mới hỏi:

    - Con đã nhớ kỹ chưa?

    Vĩnh Tình mau mắn gật đầu, thưa:

    - Thưa sư phụ, con đã nhớ rồi.

    Chỉ Nhược khẽ gật đầu, đưa lại kiếm cho Vĩnh Tình. Bỗng từ xa có tiếng thiếu nữ oanh vàng vang lên, gọi:

    - Muội muội đang luyện kiếm à? Hay theo tỷ đi chơi chút đi rồi tối luyện tiếp.

    Hai người quay lại thì thiếu nữ kia đã rảo bước đến nơi. Tuổi trạc đôi tám, tóc huyền ngang lưng, môi đỏ da trắng, phục trang trắng muốt. Vĩnh Niệm mỗi ngày mỗi lớn, đẹp tựa một nhành mai tinh khôi đang hé nở nhưng cũng vẫn có nét cứng cáp, rắn rỏi của cha. Vĩnh Tình nghe rủ đi chơi, trong lòng như mở cờ ngày hội nhưng liếc nhìn sư phụ rồi lí nhí:

    - Muội đang luyện kiếm cùng sư phụ. Tỷ cứ đi trước đi.

    Vĩnh Niệm thấy cô nhỏ sợ uy mẹ mà phải kìm nỗi háo hức trong lòng, vừa đáng yêu, vừa đáng thương. Cô mỉm cười bước đến ôm lấy tay Chỉ Nhược, hạ giọng năn nỉ:

    - Mẹ cho Vĩnh Tình đi chơi với con một chút thôi. Trời đã muộn lắm đâu. Tối về con sẽ luyện kiếm cho muội ấy tiếp.

    Chỉ Nhược nghiêm nét mặt. Cô con gái này của nàng được các sư tỷ nuông chiều nên rất hay làm nũng. Tuy rất thương con nhưng thân là chưởng môn, không thể quá dung túng. Nàng nghiêm giọng:

    - Vĩnh Tình còn phải luyện xong năm lượt bài Nhất Diệp Tri Thu. Con ra đây chơi hẳn cũng đã thuần thục bài Sóc Phong Vọng Nguyệt rồi?

    Lời này đụng trúng tim đen, Vĩnh Niệm giật mình chạy ra đứng cạnh Vĩnh Tình, rụt rè cất tiếng:

    - Con luyện được ba lần rồi..

    Chỉ Nhược đưa thanh đoản kiếm cho nàng, bảo:

    - Vậy con luyện lại cho ta xem. Nếu đã thuần thục, con có thể đi chơi ngay. Nếu chưa thuần, con phải cùng Vĩnh Tình luyện xong bài này hôm nay. Vĩnh Tình, con cũng luyện tiếp đi.

    Bóng ba người ngả dài theo ánh dương tàn đã dần xuống núi. Kiếm quang vẫn loang loáng, thân thủ nhịp nhàng, tiếng nhắc nhở ngắn gọn vang lên không ngừng. Luyện đến khi trời đã không còn nhìn rõ mặt người, ba thầy trò mới định quay lại chính đường thì một nữ đệ tử đi tới, ôm quyền báo tin:

    - Bẩm chưởng môn, có vị tiền bối hàng năm hôm nay lại đến ạ.

    Chỉ Nhược thở dài. Từ khi Thiên Chí ra đi, nàng chỉ gặp Băng Tâm duy nhất một lần lúc ông ghé Nga My báo tin dữ. Từ ngày đó, tuy năm nào Băng Tâm cũng ghé qua, nhưng nàng đều kiếm cớ tránh mặt. Đã mười mấy năm rồi, nhưng nàng vẫn sợ khi gặp ông lại gợi nàng nhớ về người chồng vắn số. Vĩnh Niệm liếc nhìn mẹ, nói:

    - Mười mấy năm rồi.. mẹ có lẽ nên gặp tiền bối một lần chăng?

    Chỉ Nhược nhìn sang con gái, ánh mắt cô có vẻ đượm buồn nhưng tuyệt không có vẻ tránh né. Nàng chợt nhận ra con gái mãnh mẽ hơn nàng tưởng nhiều, có lẽ còn hơn nàng nữa. Chỉ Nhược gật đầu, nói với đệ tử:

    - Ngươi ra mời tiền bối vào chính đường dùng trà. Ta sẽ ra gặp ngay.

    Nữ đệ tử vâng mệnh, quay ra đón khách. Chỉ Nhược thu kiếm, đi về phòng riêng thay đồ rồi mới vào chính đường. Chỉ Nhược là môn chủ, nhưng trước bậc tiền bối như Băng Tâm cũng nhiều phần kính nể, vội ôm quyền, bước lên chào hỏi trước:

    - Tiền bối ghé thăm, thứ lỗi cho Chỉ Nhược không kịp đời đón tiếp chu đáo.

    Nàng nhìn Băng Tâm, thấy người không già đi là mấy so với năm xưa. Ông luyện nội công Cửu Âm Quy Nguyên, đã qua mười mấy năm mà Băng Tâm vẫn giữ được nét tinh anh lúc trước. Gương mặt vẫn giữ vẻ lạnh lùng cố hữu nhưng ánh mắt xem ra đã bớt vẻ cô độc, lánh đời. Băng Tâm gật đầu, đáp:

    - Con bất tất đa lễ. Nhiều năm như vậy, hôm nay con chịu ra gặp ta là tốt lắm rồi. Xem ra thời gian không tác động đến con chút nào.

    Chỉ Nhược mỉm cười, nói:

    - Tiền bối nói đùa rồi. Tiểu nữ tế qua nhiều năm như vậy, còn đủ sức cáng đáng việc môn phái cũng đã là phúc phận lắm, đâu dám nói đến dung mạo. Lại để tiền bối chê cười rồi.

    Băng Tâm nhấp chén trà, nói:

    - Ta tuyệt không nói quá. Con vẫn vậy, vẫn như ngày đó..

    Nói đến đây, biết mình lỡ lời, ông vội dừng tiếng, khẽ giọng xin lỗi:

    - Thứ lỗi cho ta.

    Chỉ Nhược như lại thấy trước mắt ngày hôm đó, cách đây hơn mười năm, khoảng canh hai một đêm tối trời, toàn phái Nga My đang say giấc thì bỗng tiếng đệ tử đi tuần vang lên gấp gáp:

    - Ngươi là ai? Đêm hôm khuya khoắt lại to gan đột nhập vào vào Nga My Phái chúng ta! Biết điều thì quỳ xuống chịu trói, chờ chưởng môn xử lý!

    Chỉ Nhược thấy động, bèn mặc áo khoác ngoài rồi mở cửa từ phòng riêng bước ra. Lúc đó đệ tử đã đến kín sân, vây lấy một người tóc trắng như cước, đứng im ở giữa. Tay chắp sau lưng, đai đeo ngọc tiêu, đôi mắt sáng lạnh, Băng Tâm nói:

    - Chỉ Nhược, ta có việc muốn trao đổi với ngươi.

    Chỉ Nhược thấy Băng Tâm đêm hôm đến đây, tất là có chuyện gì gấp. Bất chợt nàng có một linh cảm rất xấu. Chỉ Nhược run run nói:

    - Các người chớ vô lễ. Đây là tiền bối của ta, mau giải tán! Tiền bối, mời người vào trong rồi từ từ nói chuyện.

    Băng Tâm lặng lẽ theo Chỉ Nhược vào chính đường, cũng ngồi tại chính vị trí hôm nay. Chỉ Nhược không kìm được sốt ruột, vội hỏi:

    - Tiền bối, có chuyện gì gấp người xin cứ nói thẳng!

    Ông lặng thinh làm không khí lại càng thêm nặng nề. Lát sau, hít vào một hơi thật dài, Băng Tâm chầm chậm cất lời, giọng lạnh lẽo nhưng đượm vẻ u uất:

    - Thiên Chí.. nó đã không còn rồi.

    Chỉ Nhược nghe lần đầu, còn tưởng mình nghe nhầm, run run hỏi lại:

    - Tiến bối.. tiền bối nói nhầm đúng không? Hay là tiểu nữ tế.. tiểu nữ tế nghe nhầm?

    Băng Tâm lắc đầu, nói lại:

    - Thiên Chí đã không còn rồi. Nó bị đám Hành Giả mai phục, đã mất trong trận loạn chiến mất rồi. Lúc ta đến ứng cứu thì cũng đã muộn.

    Chỉ Nhược nghe đến đây tưởng như mình đang trong cơn bão đó. Tai nàng ù đi, trời đất quay cuồng trước mặt. Dù đang ngồi ghế mà nàng phải bám chặt vào thành ghế mới giữ người không ngã. Chỉ Nhược lắp bắp:

    - Không.. không.. không thể nào!

    Nàng chợt nhớ như nguyên ngày Thiên Chí cáo biệt ra đi. Tay nàng tưởng vẫn vương hơi ấm từ cái ôm thật chặt, môi nàng tưởng vẫn thấy mặn chát nụ hôn biệt ly. Văng vẳng bên tai nàng lời hứa chàng sẽ trở về. Bất giác, nước mặt nàng tuôn như mưa, kêu lên thảm thiết:

    - Không! Chắc chắn là tiền bối đã nhầm rồi! Không thể nào chàng chết được! Chàng đã hứa sẽ quay trở lại mà! Tiền bối, người mau đưa ta đi, ta phải đi tìm chàng ngay!

    Băng Tâm thấy nàng thần trí mỗi lúc một thêm loạn, đành giữ chặt vai nàng, nói lớn, mong nàng có thể trấn tĩnh lại:

    - Chỉ Nhược! Bình tĩnh lại! Ngươi đau lòng, nhưng không thể mất lý trí được. Thiên Chí đã đi rồi, nếu ngươi không đứng vững thì con cái ngươi sẽ dựa vào ai?

    Cơ mà lúc này lời Băng Tâm nào có khác gì tiếng nói khẽ trong cơn báo lớn, chẳng lời nào lọt vào tai nàng. Nàng vô thức giận dữ tung Băng Sương Hóa Âm Thủ đánh ra. Đến khi chợt thấy một luồng nhiệt khí chảy khắp tay. Định thần lại mới hay trảo thủ đã bấm xuyên qua vai Băng Tâm. Ông đứng đó, không tránh né, không trách móc, không tức giận. Ông lặng lẽ giơ tay, vỗ vai nàng, ô tồn nói:

    - Mạnh mẽ lên con..

    Chỉ Nhược lúc này mới bật khóc nức nở, gục đầu vào ngực Băng Tâm, lắp bắp:

    - Con.. con xin lỗi.. Con xin lỗi..

    Băng Tâm không ôm nàng vỗ về, cũng chẳng đẩy nàng ra. Phận sư tôn tiền bối không cho phép ôm được đụng chạm với nữ tế của đệ tử. Nhưng tấm lòng người sư phụ cũng không đành đẩy người phụ nữ đã đến tận cùng đau khổ ra. Ông cứ đứng vậy, lặng lẽ suốt đêm cho nàng dựa vào. Ngoài kia trời đổ cơn mưa rào. Từng giọt, từng giọt mưa rơi thấm vào lòng người góa phụ, thêm tê tái, thêm buồn..

    Quay lại hiện tại, Chỉ Nhược nghe Băng Tâm nói lời tạ lỗi mà lòng trào lên niềm ân hận vô hạn. Nàng cúi đầu nói:

    - Năm đó, tiểu nữ tế đả thương người. Trong lòng vẫn luôn áy náy khôn nguôi, đến mức nhìn mặt người con cũng không dám. Vậy mà cũng đã mười mấy năm rồi, giờ có đủ dũng khí để gặp người mà vẫn luôn thấy mình không phải, mong người tha tội.

    Băng Tâm xua tay nói:

    - Ta không trách con. Ngày đó con quá đau lòng, tâm thần kích động nên vô thức ra chiêu, không phải cố ý.

    Chỉ Nhược thở dài, đột nhiên nhìn thẳng vào mắt Băng Tâm, hỏi:

    - Thiên Chí vốn đã không liên quan đến chuyện giang hồ, binh quyền đã lâu. Ngày đó chàng từ biệt, không nói gì thêm nhưng nếu không phải chuyện cấp bách hoặc được ủy thác thì tất sẽ không đột ngột rời đi như thế. Tiền bối có biết Thiên Chí ngày đó đã đi đâu không?

    Băng Tâm trầm mặc một hồi lâu, lát sau nghiêm túc nói:

    - Chính ta đã ra lệnh cho nó đi ám sát Chu Nguyên Chương.

    Chỉ Nhược hít một hơi thật sâu rồi run run thở ra, tựa như đang phải nén một nỗi uất hận chỉ chực nàng thiếu kiểm soát trong giây lát là sẽ bùng lên được. Nàng bình tĩnh, run run hỏi:


    - Tiểu nữ nông cạn, chỉ dám hỏi tiền bối sao lại đẩy đệ tử của mình vào nơi hung hiểm như vậy? Lại không bảo toàn được cho chàng?

    Băng Tâm im lặng không nói gì. Chỉ Nhược cũng không phải người ngốc, nàng thở dài nói:

    - Tiền bối hẳn có điều khó nói, tiểu nữ cũng không tiện truy cứu. Chỉ là chuyện tiền bối không làm, mong tiền bối đừng nhận thay người khác. Minh Giáo bị truy sát, Thiên Chí nặng nghĩa nặng tình, tất nhiên không thể nào tụ thủ bàng quan được. Tiểu nữ chỉ trách chàng sao không chia sẻ gánh nặng này cho tiểu nữ. Ngày đó nếu tiểu nữ đi cùng, biết đâu hai người lại tìm được sinh lộ.

    Băng Tâm nhìn ngoài trời lúc này cũng đã lác đác hạt mưa, chậm rãi nói:

    - Con còn đứa nhỏ đó phải chăm sóc, còn Nga My phải chấp chưởng. Nếu con có mệnh hệ gì thì Thiên Chí sao có thể sống tiếp được. Đây là chiếc hộp mà Thiên Chí có nhờ đưa lại cho con. Vốn Vô Kỵ sẽ là người đưa, nhưng gia đình đó đã bặt vô âm tín đã lâu. Ta đành thay Vô Kỵ chuyển cho con vậy.

    Băng Tâm lấy ra một chiếc hộp gỗ nhỏ, đưa cho Chỉ Nhược. Nàng run run mở ra thì bên trong là một mảnh khăn lụa màu đen hãy còn vương vài điểm máu đỏ. Chỉ Nhược bỗng mỉm cười, nhớ lại tấm khăn này chính nàng đã tự tay bịt mắt Thiên Chí để hai người có thể luyện Ngọc Nữ Tâm Kinh cho đỡ phần xấu hổ. Thiên Chí luyện xong, lỡ nhìn lén nàng nên bị thổ huyết nhẹ, có vương một chút lên tấm lụa này. Nàng cầm tấm khăn lụa vuốt ve, nâng niu với dáng vẻ vừa ân cần, lại vừa đau thương làm Băng Tâm vốn cứng rắn cũng không khỏi thở dài. Lát sau, ông mở lời hỏi sang chuyện khác:

    - Hôm nay ta đến đây, phần là muốn ghé thăm hai mẹ con. Phần nữa, cũng muốn hỏi tung tích gia đình của Vô Kỵ.

    Chỉ Nhược thở dài thườn thượt, liếc nhìn về phía hậu phòng, nói:

    - Từ ngày Triệu Mẫn tỷ đưa Vĩnh Tình đến đây nương nhờ chăm sóc, con cũng không còn gặp lại cả tỷ tỷ lẫn Vô Kỵ. Bao nhiêu năm như vậy, con vẫn luôn nhờ người tìm kiếm nhưng tuyệt không thấy tin tức của họ lẫn Tuệ Phong. Phàm không thể tìm ra tin tức, có khi nào..

    Băng Tâm gạt phắt, nghiến răng nói:

    - Không thể!

    Chỉ Nhược biết Băng Tâm cũng rất đau lòng, đành nói:

    - Tiểu nữ tế cũng mong họ được bình an.

    Băng Tâm lặng thinh hồi lâu, mông lung nhìn ra ngoài trời. Trời bấy giờ đã mưa nặng hạt. Gió lớn đưa làn mưa quất vào cửa chính ầm ầm như tiếng ai gọi cửa. Chỉ Nhược thấy mưa lớn như vậy, cũng đã tối rồi, bèn mời Băng Tâm vào dùng bữa tối rồi nghỉ lại ở khách đường. Lát sau, Vĩnh Niệm bước ra mời mẹ và thái sư phụ vào dùng cơm. Ngồi vào bàn lúc đó, ngoài Băng Tâm và Chỉ Nhược ra, còn có Vĩnh Niệm và Vĩnh Tình cũng đợi ăn cùng. Nga My vốn ăn uống thanh đạm, bữa cơm đơn giản nhưng xem ra được nấu rất khéo. Nấm rừng xào, những lát nấm thái hơi dày, mềm mại, óng mượt một lớp xì dầu mỏng, điểm thêm vài hạt vừng rang, đôi nhát hành lá. Cắn một miếng mà thấy ngon ngọt tựa thịt gà rừng mà thanh thoát, không ngấy chút nào. Đậu hũ hoàng bào, răng vừa sảng khoái cắn ra lớp vỏ ngoài giòn tan trứng muối lại được ôm ấp trong nhân đậu hũ mềm mượt trắng tinh. Bát canh rau củ dại đủ loại, nhìn tưởng tạp mà kỳ thực lại tinh tế vô cùng. Rau sam chua chua, lại có vị ngăm ngăm của rau đăng đất làm đằm thêm cái vị ngọt của cải đỏ. Cơm hạt kê dẻo thơm, chỉ mở liễn thôi đã nức mùi gạo mới. Băng Tâm đi lại trên giang hồ nhiều năm, bản thân cũng không quá trọng chuyện ăn uống mà hôm nay cũng phải bật lên lời khen:

    - Công phu nấu nướng của đệ tử Nga My xem ra khá quá.

    Vĩnh Niệm nhanh miệng đáp:

    - Vĩnh Tình muội hôm nay trổ tài đấy ạ. Biết có thái sư phụ đến dùng bữa, muội ấy ra tay nấu toàn món ruột.

    Băng Tâm nhìn Vĩnh Tình, thấy cô nhỏ quả nhiên có nhiều nét của Vô Kỵ, thanh tú, thiện lương, lại điểm chút sắc sảo của Triệu Mẫn. Ông khen:

    - Món ăn con nấu chưa cần ăn cũng đã thấy ngon, chẳng bù cho mẹ con, chỉ biết nấu cháo thôi.

    Vĩnh Tình túm lấy tay Băng Tâm, hỏi:

    - Ông biết mẹ con ạ?

    Chỉ Nhược nạt:

    - Con phải gọi là ngoại công chứ!

    Vĩnh Tình vội sửa:

    - Ngoại công biết mẹ con ạ?

    Băng Tâm nghe chữ ngoại công, lại nhớ khi xưa Tuệ Phong vẫn luôn gọi mình vậy môi khi ông trở lại thảo nguyên Nội Mông, sống mũi bất giác cay cay. Ông vuốt tóc Vĩnh Tình, nói:

    - Tất nhiên ngoại công biết, mẹ con rất xinh đẹp, như một đóa hoa vô thường nơi thảo nguyên vậy, lại rất dũng cảm và cực kỳ thông minh.

    Vĩnh Tình buồn buồn nói:

    - Con cũng nghe sư phụ nói vậy. Chỉ là con chưa được gặp mẹ bao giờ. Mẹ con đâu rồi hả ngoại công? Có phải con hư nên mẹ không muốn gặp con không?

    Băng Tâm lắc đầu nói:

    - Mẹ con thương con biết bao nhiêu cho đủ. Con ngoan thế này, mẹ con chắc chắn rất vui và tự hào. Ngoại công nhất định sẽ tìm được mẹ con về đây.

    Vĩnh Tình ông lấy ông, mắt sáng ngời:

    - Ngoại công hứa nhé! Ngoại công ngoéo tay hứa với con đi!

    Chỉ Nhược định mắng nhưng Băng Tâm đã cười, đưa ngón út giao hẹn với Vĩnh Tình:

    - Ta hứa!

    Vĩnh Niệm năm nay đã mười sáu, hiểu chuyện hơn nhiều. Cô nói với Vĩnh Tình:

    - Muội đừng quấy nữa. Để thái sư phụ dùng bữa đã chứ.

    Mọi người vui vẻ dùng bữa. Đến tuần trà, Băng Tâm mới hỏi:

    - Chỉ Nhược, con đã có ý truyền lại y bát cho ai chưa?

    Chỉ Nhược ngạc nhiên, không rõ sao Băng Tâm lại đột ngột hỏi chuyện này, nhưng nàng cũng thành thật thưa:

    - Thực ra tiểu nữ tế cũng chưa tính đến chuyện này. Trong môn phái cũng có một số đệ tử có thực tài, nhưng có tư chất khá nhất có lẽ là Vĩnh Niệm. Nếu được, có lẽ tiểu nữ sẽ truyền lại y bát cho nó.

    Băng Tâm gật gù, hỏi thêm:

    - Vĩnh Tình thì sao?

    Chỉ Nhược mỉm cười, gật đầu nói:

    - Vĩnh Tình từ bé đã được con chăm sóc và truyền thụ võ công. Có thể nói tư chất của nó còn cao hơn cả Vĩnh Niệm, chỉ là tuổi nhỏ còn phải dày công phu rèn luyện.

    Băng Tâm nhấp ngụm trà, nói:

    - Quả vậy, ta xem khí chất hai đứa, đều là nhân tài hiếm có. Chỉ là.. theo ý ta thì Vĩnh Tình có lẽ sẽ hợp căn cơ võ công của Nga My hơn. Nội lực của Nga My có gốc vốn là Cửu Dương Thần Công, lấy chữ "Bác", vô cùng phong phú, rộng lớn. Kiếm pháp Nga My, duy có bộ Diệt Tuyệt Kiếm của sư phụ con là cương liệt, còn lại đều rất uyển chuyển, dĩ nhu chế cương. Vĩnh Tình tính cách hồn hậu, lại rất sáng dạ, có thể phát huy được tinh hoa của công phu Nga My.

    Chỉ Nhược gật đầu, hỏi thêm:

    - Vậy Vĩnh Niệm thế nào, thưa tiền bối?

    Băng Tâm vuốt chòm râu bạc, nói:

    - Vĩnh Niệm có cái âm trầm của Thiên Chí, có khí chất ngạo khí bất phục, xem ra nếu không phải bộ võ công nào có nét âm nhu, lại vừa có đường bạo liệt thì khó cho nó phát huy hết sở tài.

    Chỉ Nhược ồ một tiếng, nói:

    - Tiền bối quả thực tinh tường. Tiểu nữ tế bấy lâu nay trong lòng vẫn có chút gợn, chỉ là không biết sai ở đâu. Nay được tiền bối chỉ điểm mới thực rõ ràng.

    Băng Tâm hắng giọng, nói tiếp:

    - Vậy nên ta muốn nhận Vĩnh Niệm làm đệ tử. Nó có nền tảng về kiếm pháp, ta có bộ kiếm pháp năm xưa đấu thắng Nam Cung Thiết Tâm muốn truyền lại cho nó.

    Chỉ Nhược giật nảy mình. Thiên hạ võ lâm rất nhiều cao thủ, nhưng trong hai giới hắc bạch đều lan truyền tin đồn về ngũ đại cao thủ, võ công có thể đạt ngưỡng thôn thiên phạt địa mà xưng tụng là Ngũ Đế. Nam Cung Thiết Tâm là một trong số năm huyền thoại này, được người đời xưng là Kiếm Hoàng, nhất kiếm phục vạn cường địch. Vốn cũng chỉ nghĩ là chuyện không căn cứ, không ngờ hôm nay lại được chính Băng Tâm nói đến, lại có bộ kiếm pháp của người này, đương nhiên là một cơ duyên không thể nào cầu mà được. Chỉ Nhược nửa vui mừng, nửa ái ngại nói:

    - Chuyện này.. hiển nhiên là phúc phận bất khả cầu của Vĩnh Niệm. Chỉ là không rõ ý Vĩnh Niệm thế nào. Con bé đó từ nhỏ đã rất ương ngạch, không ép nó được. Chỉ e..

    Chưa dứt câu thì tiếng Vĩnh Niệm đã vang lên ở hậu phòng:

    - Con đồng ý!

    Chỉ Nhược quay lại thì thấy Vĩnh Niệm đang hớn hở vén rèm bước ra. Nàng lườm con gái, nói:

    - Con đã suy nghĩ kỹ chưa?

    Vĩnh Niệm gật đầu, nhìn Băng Tâm nói:

    - Con nghe mẹ nói thái sư phụ là tuyệt thế cao thủ, võ công cao cường không thua gì Vô Kỵ bá bá. Được người đích thân truyền thụ võ công cho thì còn gì bằng!

    Băng Tâm nghiêm giọng, nói:

    - Ta cũng nói trước là nếu theo ta học võ công thì sẽ rất vất vả đấy.

    Vĩnh Niệm ánh mắt kiên nghị, khảng khái gật đầu, nói như chém đinh chặt sắt:

    - Con không ngại!

    Chỉ Nhược lúc bấy giờ cũng đành thở dài, không thể khuyên thêm. Băng Tâm gật đầu, nói:

    - Vậy con chuẩn bị đồ đạc đi. Sáng mai chúng ta sẽ lên đường ngay.

    Chỉ Nhược thấy mọi người diễn biến quá nhanh, tuy là mừng cho con gái có được minh sư nhưng lòng người mẹ sao có thể không lo lắng để cho đứa con rời xa vòng tay mình. Tuy thế nàng vẫn là tôn sư một phái, chỉ nhẹ nhàng nói:

    - Vĩnh Niệm, nếu con đã quyết tâm vậy, mẹ cũng mừng cho con. Đi theo thái sư phụ, nhất định phải giữ phép tắc, kính trọng thái sư phụ. Việc tập luyện nhất nhất phải nghe lời, tuyệt đối không được chểnh mảng, rõ chưa?

    Vĩnh Niệm hớn hở ôm chầm lấy mẹ rồi dắt Vĩnh Tình chạy ù về phòng chuẩn bị đồ đạc, để lại ánh mắt có nét âu lo nhưng không kém phần hãnh diện của Chỉ Nhược dõi theo.

    * * *

    Khởi Nguyên Đạo Quán ẩn mình dưới rừng từng nơi hiên núi Thanh Thành. Bóng từng cổ thụ rợp cả sân đạo quán khiến không khí nơi đây lúc nào cũng có vẻ âm u, kỳ bí. Tại chính đường, một nam tử đang ngồi đọc sách. Người này vóc dáng khôi vĩ, diện mục oai nghiêm, da rám nắng ngả màu đồng hun, tóc bện thành dải, thân mặc áo điêu bằng gấm đoạn đen vân vàng rất quý. Đặt sách xuống, người này nâng chén trà, nhấp một ngụm, ra điều rất thỏa mãn, nói:

    - Quả nhiên đến Trung Thổ có hai điều làm ta rất mãn ý, đó chính là tàng thư nơi đây phong phú và trả cũng đúng là tuyệt phẩm. Tiểu muội ở đây đã lâu vậy, hẳn cũng đã đọc rất nhiều sách quý, thưởng rất nhiều trà ngon rồi.

    Ngồi đối diện là một nữ nhân rất đỗi xinh đẹp. Tuy không còn ở tuổi đôi tám trăng rằm e ấp nhưng vẻ đẹp không tuổi của nàng có thể sánh với nụ hồng nở rộ, lộng lẫy không giấu diếm. Da nàng trắng hồng, đôi mắt trong như hồ thu, không gợn chút bụi trần. Vầng trấn thanh tú, đôi môi như hoa đào hé. Mỹ nhân này thoáng mỉm cười, đáp:

    - Lãng Nghệ huynh, huynh đã ở Trung Thổ được chục năm rồi. Thư văn có loại nào huynh chưa xem, trà có loại nào huynh chưa thưởng. Tiểu muội kiến văn hạn hẹp, sao dám nói vượt qua mắt huynh chứ.

    Nam tử kia cười vang, hào sảng nói:

    - Ô Nhĩ Bát Đài ta mãi vẫn không quen được cái tên Lãng Nghệ. Nhiều khi ta nghe gọi mà cứ ngỡ đang gọi ai đó kìa. Triệu Mẫn, nay ta gọi muội đến đây có chuyện quan trọng muốn bàn bạc.

    Triệu Mẫn nhìn Lãng Nghệ, ánh mắt lộ nét chán ghét nhưng đó chỉ thoáng qua thôi đã trở lại nét điềm tĩnh ban đầu. Nàng điềm đạm hỏi:

    - Tiểu muội bất tài, không rõ huynh có điểm gì phân phó?

    Lãng Nghệ nhìn thoáng qua Triệu Mẫn cũng biết nàng một bụng đầy hỏa khí, chỉ hận không một đao chém chết mình ngay, bèn hỏi:

    - Chuyện đã qua nhiều năm, muội không thể gạt sang một bên để mưu sự quốc gia sao?

    Triệu Mẫn đập bàn, đứng dậy, chỉ mặt Lãng Nghệ, không còn kiêng nể gì nữa mà gay gắt nói:

    - Huynh có tư cách để nói sao? Cứ thử như huynh có con, rồi huynh bị người khác ép buộc phải gửi nó đi nơi khác, long đong chịu cảnh không cha không mẹ. Liệu huynh có an lòng không? Nếu huynh thực sự có một người nguyện gắn bó cả đời, nên duyên phu phụ, mà lại bị ép phải rời xa người đó, không bao giờ gặp lại. Liệu huynh có thể thư thả ngồi đó uống trà, đàm đạo với kẻ đã bức bách huynh mất đi tất cả không?

    Lãng Nghệ nghe đủ lời cay đắng, nhưng mặt không hề biến sắc, vẫn thản nhiên uống trà, cười cười:

    - Muội bất tất phải nóng giận. Ta biết từng đó năm, chưa có giây phút nào muội bỏ qua cho ta. Ta không trách muội. Gia quyến ta cũng đâu còn ai. Nguyên Triều có còn lại gì. Muội nghe ta, xong việc nhất định ta sẽ để gia đình muội đoàn tụ.

    Triệu Mẫn từ cơn nóng giận, chuyển thành nỗi đau cùng cực, ngỡ như uống Đoạn Trường Thảo mà còn đau hơn thế. Nàng nghẹn ngào:

    - Con gái đáng thương của ta, không biết bây giờ con đã lớn thế nào rồi. Đã mười hai năm không gặp con, con có chịu nhiều cực khổ không, có ai bức hiếp con không..

    Lãng Nghệ thấy nàng khóc lóc thảm thương vậy, có thoáng chạnh lòng, nói:

    - Năm nào ta cũng cử người giao thuốc cho nó, thấy bẩm báo lại là nó vẫn mạnh khỏe. Dù nó không cha, không mẹ nhưng cũng vẫn giữ được tính mạng.

    Triệu Mẫn qua cơn xúc động, biết là không nên phí nước mắt với hạng người sắt đá như Lãng Nghệ, lạnh lùng nói:

    - Năm đó chẳng những huynh bức ép ta phải rời xa con gái mà con trai ta cũng bị huynh cướp đi. Huynh đã làm gì nó rồi?

    Lãng Nghệ xua tay, cười nói:

    - Con trai muội không sao, nó sống rất tốt. Giờ đã là một trang tuấn kiệt rồi.

    Triệu Mẫn nghiến răng, nén cơn thịnh nộ mà xuống giọng, nói:

    - Vậy huynh cho mẹ con ta gặp nhau một lần đi. Đã bao năm rồi không gặp, muội chỉ nhìn con một lần thôi rồi chuyện gì huynh giao muội cũng sẽ làm.

    Lãng Nghệ cười lớn:

    - Muội ở đất này lâu ngày, nhiễm cái thói ủy mị của đàn bà nơi đây rồi. Người Mông Cổ chúng ta chỉ biết có quốc gia là hàng đầu, việc gì phải để ý việc khác. Nhưng không sao, nếu muội làm xong việc này, ta tất sẽ bố trí cho muội gặp lại con trai.

    Triệu Mẫn im lặng, không đáp, cũng không van nài thêm. Lãng Nghệ vờ như không thấy, nói tiếp:

    - Ta muốn muội lần này lên Võ Đang một chuyến.

    Triệu Mẫn nghe đến Võ Đang, giật mình hỏi:

    - Có việc gì phải đến Võ Đang?

    Lãng Nghệ, nhẹ nhấp ngụm trà, ngước mắt nhìn nàng. Ánh mắt hắn sắc lạnh như cơn gió đông u tối thổi vào lòng nàng một nỗi bất an vô cùng..

    * * *

    Cự Kình Bang, chi phái Vân Nam hôm nay tĩnh lặng đến lạ thường. Ngày thường lũ diêm tiêu còn đang hoạt động rất sôi nổi, đêm nay lại không thấy một bóng người. Đêm tối trời, đường lên núi tịnh chỉ thấy ánh đèn đuốc le lói mờ mờ. Xa xa vẳng lại tiếng kêu đau đớn, lại có tiếng vũ khí va vào nhau chí chóe. Trường Thọ Lĩnh dẫn theo thuộc hạ chạy vội lên núi. Đi đến nửa đường thì thấy gió đưa mùi máu lanh xộc lên mũi, soi đuốc mới thấy xác thuộc hạ trong bang nằm la liệt, trải dài từng bậc thang suốt đường lên đỉnh núi. Kẻ nào kẻ nấy đều gãy tay chân, không thì ngực bị dập nát mà chết. Đám thuộc hạ Thọ Lĩnh dẫn theo không kìm được kinh hãi, lắm kẻ còn phải gục xuống nôn ngay ra đất. Trường Thọ Lĩnh là trưởng một chi phái, huyết chiến trải qua cũng không phải vài trận, gặp chuyện chết chóc vốn cũng chẳng phải xa lạ gì. Nhưng nhiều người chết thê thảm thế này thì quả là chuyện đáng kinh sợ. Thọ Lĩnh giục thuộc hạ:

    - Đi mau! Cự Kình Bang hôm nay gặp tai kiếp rồi!

    Càng lên cao, xác chết lại càng nhiều. Chân Thọ Lĩnh đặt đến bậc thang cuối cùng thì tiếng la hét cũng tắt lịm, chỉ còn lại một kẻ tóc tai rũ rượi, gương mặt đầy máu, trên tay còn nhỏ máu tươi tong tỏng xuống đất. Chiếc áo bố rách nát không che nổi thân thể tuy gầy gò nhưng nội lực tỏa ra cuồn cuộn, nóng như mặt trời thiêu đốt. Đặc biệt là đôi mắt đầy sát khí như một con sói đang say máu, điên loạn tìm kiếm con mồi. Hắn lẩm bẩm:

    - Không có.. Không có..

    Thọ Lĩnh thấy ngay cả trưởng chi phái Vân Nam cũng đã tử nạn, người bị một thanh gỗ lớn xuyên qua, hiển nhiên đã bị một chường rất mạnh đánh bay vào khúc gỗ gãy. Thọ Lĩnh bèn hô hào thuộc hạ:

    - Các huynh đệ, lập trận!

    Cự Kình Bang chuyên về thủy chiến, tuy nhiên trên bộ cũng có Độc Diêm và trận pháp Tu La Diêm Trận rất bá đạo. Đám người Cự Kình Bang chia nhau đứng theo mười sáu phương vị trong Tu La Trận, mỗi người có hai người đứng trước sau, đồng loạt áp trận. Chỉ thấy muối độc bay ra rào rào, lỡ trúng phải mấy xác chết rải rác quanh đó thì da thịt bốc hơi như tạt cường toan. Người đứng trước vừa tung muối độc, kẻ đứng sau tung ngay xích sắt có đầu móc. Dụng cụ này vốn dùng để khi cướp thuyền thì tung sang để neo thuyền xấu số để tiện bề áp sát. Nói vậy để thấy nếu móc sắt này móc vào người, mượn lực tứ phương mà kéo thì chẳng khác gì tứ mã phân thây. Chỉ thấy kẻ điên kia cởi áo, phất một cái đã thấy kinh phòng ào ạt thổi dạt cả diêm tiêu ngược lại làm lũ người Cự Kình Bang không ít kẻ trúng độc mà thiệt mạng. Tiếng la hét đau đớn rầm trời. Móc sắt tung ra như thiên la địa võng mà chỉ thấy kẻ điên kia đảo chân, khua tay thành những vòng tròn lớn nhỏ làm đám móc bay loạn xạ vào nhau, mắc thành một nùi rối tinh. Kẻ điên kia lại phiêu hốt áp sát từng người, đánh mỗi tên một chưởng, nếu không phải dập nát phế phủ thì cũng là trúng yếu huyệt mà chết. Thọ Lĩnh thấy thuộc hạ bị chế ngự, bèn xuất song đao, áp đến tấn công. Đao pháp của Thọ Lĩnh gọi là Cuồng Phong Đao vì thế đao đi liên tiếp liên hồi, liên mien bất tận, vừa nhanh vừa mạnh tựa cơn cuồng phong ập đến. Nhưng mà kỳ lạ thay, cơn cuồng phong lại như gió thoảng qua nhà trống. Đao còn chưa chạm được vào kẻ điên kia thì tay hắn đã bị cầm nã thủ khóa chặt. Kẻ điên kia thuận tay phế luôn cả hai tay của Thọ Lĩnh. Hắn hét lên đau đớn, nhìn vào mắt kẻ điên kia chẳng thấy chút gì là tỉnh tháo, chỉ toàn tia máu rất đáng sợ. Kẻ điên kia lẩm bẩm:

    - Yến muội đang ở đâu?

    Thọ Lĩnh kinh hoàng lắc đầu, thấy một chưởng đánh xuống, sau đó tất cả chỉ còn lại màu đen. Kẻ điên kia vẫn tiếp tục đồ sát, miệng vẫn lẩm bẩm:

    - Không có.. Không có..
     
  4. Nguyên Không

    Bài viết:
    55
    Chương 2:

    Thu Hồ Bắc, Triệu Mẫn hạ độc Võ Đang

    Động Đình Hồ, Vô Kỵ cuồng đấu kỳ nhân


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nếu có một từ để nói về mùa thu ở Hồ Bắc, có lẽ chỉ có thể dùng một chữ "vàng". Nắng thu hanh vàng như mật, xuyên qua tầng mây thành từng dải vàng mảnh mai như rót xuống tán lá vàng che kín cả Lâm Khu Thần Nông. Mỗi lúc gió qua, lá rụng như bụi vàng rơi lác đác. Hoàng Hạc Lâu khoác lên mình tấm áo choàng bằng cụm mây vàng đầy trang nghiêm nhưng cũng có nét gì đó gợn cô đơn. Những thửa ruộng vào vụ lúa chin vàng như những bậc thang dành cho nàng thu lướt chân dạo chơi qua đây. Cảnh đẹp nao lòng như vậy, nhưng không thể làm cho Triệu Mẫn nhẹ lòng chút nào. Từng bước chân nặng chịch đưa nàng dần đến đỉnh Võ Đang. Vẫn con đường khi xưa mà nàng và Vô Kỵ đã dắt tay nhau lên bái kiến Trương Chân Nhân, biết bao tình ý, nay mỗi bước chân lại thêm chênh vênh, cô đơn, lại có chút liêu xiêu cô quạnh. Nàng không mặc bộ váy lụa trắng khi xưa gặp chàng nơi Cổ Liễu Sơn Trang, không phải nam trang gấm đoạn đỏ ngày thấy nhau nơi rừng thưa, nhất kiến chung tình, cũng không phải bộ áo gấm đen vân vàng ngày "cướp rể". Nàng mặc một bộ váy đen tuyền, tôn lên làn da trắng sứ có chút hơi xanh xao. Mái tóc búi cao gọn gàng để lộ gáy thon gọn, mịn màng. Đôi môi không dùng chút son nào, chỉ thoáng phớt hồng như tự nhiên vốn có. Nàng cố bước thật chậm, những mong con đường này có thể dài ra vô tận để nàng đừng đến được Võ Đang. Con người đôi khi thật lạ, có những việc về lý không thể không làm, nhưng về tình lại nhất quyết không muốn làm, khiến người ta cũng như Triệu Mẫn bây giờ vậy. Những bước chân nửa muốn dứt khoát tiến lên lại bị trái tim níu lại. Chỉ là đường dài đi lâu cũng đến, cửa vào Võ Đang đã ngay trước mắt. Cũng đã nhiều năm nàng không quay lại đây, luyện võ trường vẫn như mọi khi, các đệ tử vẫn chuyên cần tu luyện. Chỗ luyện kiếm, khu luyện quyền, nơi lại đang tĩnh tâm rèn nội lực. Du Liên Châu bây giờ đã giữ chức trưởng môn, đứng trên bậc bao quát tình hình luyện tập của các đệ tử. Dù đã lớn tuổi nhưng đôi mắt ông vẫn rất tinh tường. Bóng Triệu Mẫn vừa đến thạch môn ông đã nhận ra, vội sai đệ tử thông báo cho sư phụ và các sư huynh đệ đồng môn. Bản thân lại vui mừng vội đi xuống chào đón cháu dâu. Đã từ lâu lắm rồi, ngày Vô Kỵ và Triệu Mẫn quy ẩn giang hồ có ghé thăm hỏi thì hôm nay mới thấy nàng lại chơi. Du Liên Châu tươi cười, từ xa đã gọi lớn:

    - Điệt nữ đi đường vất vả quá. Mau vào đây, sư bá đã bày sẵn trà bánh tẩy trần rồi.

    Triệu Mẫn cười gượng, đi nhanh lại. Du Liên Châu thấy nàng đi một mình, bèn nhìn ra phía sau tìm Vô Kỵ và các đồ nhi nhưng lại chẳng thấy ai. Du Liên Châu bèn hỏi:

    - Hôm nay điệt nhi không đi cùng sao? Hai đứa nhỏ Tuệ Phong, Vĩnh Tình giờ cũng đã lớn lắm rồi nhỉ?

    Triệu Mẫn nghe nhắc đến chồng con, lòng đau như cắt, biển nước mắt chỉ chực trào ra nhưng nghĩ đến an nguy của con còn trong tay địch nhân lại đành nuốt lại vào trong, nở nụ cười gượng gạo, quỳ xuống thi lễ:

    - Du nhị sư bá vẫn an khang chứ ạ? Hôm nay điệt nữ đi vội có chút việc ở tỉnh An Huy, đi qua Hồ Bắc mới nhớ đã lâu lắm rồi không lại vấn an thái sư phụ và các sư bá, sư thúc. Mong thái sư phụ, sư bá, sư thúc bỏ qua cho tội xao nhãng.

    Du Liên Châu vội đỡ nàng đứng lên, nở nụ cười độ lượng:

    - Con và điệt nhi giờ đã quy ẩn giang hồ nơi đại mạc, đường xá xa xôi, không thể trách phạt lỗi xao nhãng được. Mau đứng lên, theo ta vào chính điện bái kiến sư phụ.

    Hai người cùng đi vào Tam Thanh Điện đã thấy Trương Tam Phong và Võ Đang Ngũ Hiệp đợi sẵn. Triệu Mẫn thấy dáng thái sư phụ bèn vội quỳ xuống:

    - Điệt nữ bái kiến thái sư phụ cùng các vị sư bá, sư thúc. Chúc thái sư phụ, sư bá, sư thúc luôn khang kiện, an bình.

    Trương Tam Phong lúc này đã quá bách niên nhưng nội công vẫn cực kỳ hùng hậu, da dẻ hồng hào, bước chân chắc chắn, cất lời trầm ấm, ánh mặt rạng ngời như cười:

    - Tốt quá rồi. Thật tốt quá rồi. Mau đứng dậy đi. Hôm nay đồ tôn và các đồ tằng tôn không về cùng con sao?

    Triệu Mẫn cười, nói:

    - Bẩm thái sư phụ, hôm nay tiểu nữ có công việc nên xuất trình một mình. Vô Kỵ và các hài tử không đi cùng ạ. Thấy thái sư phụ vẫn mạnh khỏe thế này, chúng con cũng yên tâm, thật đáng mừng.

    Trương Tam Phong vuốt râu cười:

    - Mừng là mừng cho đồ tôn, đồ tằng tôn của ta được bình an, mạnh khỏe chứ ta giờ là một ông lão rồi, truyện trong thiên địa coi như cũng trải đủ, không mong gì thọ thêm nữa. Chỉ mong lúc nhắm mắt xuôi tay được an tịnh, không còn gì đáng tiếc.

    Triệu Mẫn nghe đến đây quả không cầm được nước mắt, một giọt lệ lặng lẽ trào ra, lăn dài trên má nàng. Trương Tam Phong thấy vậy, vô cùng kinh ngạc nhưng nàng đã kiên quyết khẽ lắc đầu. Ông biết có chuyện gì uẩn khúc nên không hỏi nữa, bèn bảo:

    - Tùng Khê, hôm nay đồ nữ tế về thăm, ta đã có bày một bữa tiệc nhẹ tẩy trần. Nhưng đồ nữ tế đi đường xa xôi, tinh thần có chút mỏi mệt, không nên gặp đông người. Con cho các đệ tử lui xuống thanh phòng tự tu luyện. Viễn Kiều, con dẫn các sư đệ và đồ nữ tế ra bàn tiệc trước. Ta có chút việc sẽ vào sau.

    Tống Viễn Kiều sau khi tự tay thanh lý môn hộ con trai mình, trong lòng tuy rất đau đớn, nhưng qua nhiều năm tâm cũng đã dần an tịnh lại. Giỡ đã lấy lại khí độ của vị trưởng bối, điềm đạm, nho nhã, vẹn phần lễ nghĩa. Dù không còn là chưởng môn nhân nhưng ông vẫn luôn giữ vai trò tiếp đãi những vị khách quý quan trọng đến Võ Đang cũng như giao hảo với võ lâm. Buổi tiệc được bày tại Phong Thanh Đình, gió lồng lộng nhưng tan được mây dày trắng xóa. Những chậu cúc đại đóa Ân Lê Đình dày công vun trồng nở hoa trắng vàng ẩn hiện bên cạnh những chậu cúc mâm xôi hoa vàng ruộm. Đạo gia ăn uống thanh đạm, trên bàn bày mấy món điểm tâm đơn giản. Chút bánh quế, dăm ba sư tử đắp đường, cháo kê mát lành, nước mơ thanh dịu, đôi đĩa ô mai chua ngọt các loại và một bình Mai Hoa Lộ đưa chuyện thêm phần hào hứng.

    Chủ khách hàng đã an tọa, Tống Viễn Kiều mở lời:

    - Tuy sư bá biết cháu dâu đã đi nhiều nơi, nếm qua nhiều đặc sản các vùng nhưng cũng biết tính cháu không cầu kỳ chuyện lễ nghĩa. Sư bá nay tưởng có Vô Kỵ và các đồ tôn đến nên chuẩn bị chủ yếu mấy món điểm tâm đơn giản, trẻ nhỏ sẽ rất thích. Cháu dâu nếu thấy khó dùng thì để ta báo chuẩn bị thức khác nhé.

    Triệu Mẫn quả thấy các vị sư bá, sư thúc rất mực quan tâm, lại chu đáo như vậy, trong tim dâng lên một nỗi bất nhẫn, quả thực lòng đau như cắt. Mọi người thấy nàng bần thần, hẳn có chuyện khó nói bèn nói lảng đi đôi ba câu chuyện vô thưởng vô phạt. Lát sau Trương Tam Phong đi vào, trên tay là mấy quyển tranh, đưa cho Triệu Mẫn xem:

    - Đồ nữ tế, con thấy thư pháp trên bức tranh này thế nào?

    Bức tranh thủy mạc vẽ cảnh núi Võ Đang rất thần diệu. Núi xa thoáng mờ mây phủ, con suối uốn lượn nhẹ nhàng, xa xa có cầu kiều bắc ngang qua. Con đường đá thư thả dẫn đến mái đình cạnh thạch động nhỏ. Bức tranh này tuy hoàn chỉnh, nhưng xem ra được nhiều người chắp bút. Trên tranh đề một bài từ ngắn:


    Hữu tình phù vân tỏa

    Chính ý mãn thiên không

    Sơn thu túc thanh động

    Viễn kiều nãi lộ khê


    Triệu Mẫn đọc một lượt thấy đây là một bài thơ ca ngợi cảnh đẹp Võ Đang, liếc mắt sang lại thấy thái sư phụ đang cười nhẹ, hẳn trong tranh, trong thơ có hàm ý. Nàng nhíu mày, nghĩ bụng:

    - "Hữu – Ý – Túc – Lộ".. Có ý gì cứ nói. Phải chăng thái sư phụ biết mình có uẩn khúc trong lòng chăng?

    Nàng động tâm cơ, bèn vờ cảm thán:

    - Quả nhiên bức tranh này thực kỳ diệt, tiểu nữ thấy bút pháp trong tranh này rất phong phú nhưng lại vô cùng hòa hợp. Xem ra chính là các sư bá, sư thúc đây chung tay vẽ nên. Bài từ này bút lực mạnh mẽ, chính trực, quang minh lại dứt khoát không vương bụi trần, nếu không phải thái sư phụ đích thân chắp bút, chắc hẳn chẳng ai viết được.

    Trương Tam Phong cười lớn:

    - Tốt lắm! Con quả nhiên kiến văn phong phú, đồ tôn cũng thực là có phúc lắm mới lấy được con.

    Triệu Mẫn khiêm tốn đáp:

    - Tiểu nữ tài hèn trí mọn, nãy đã dám ban môn lộng phủ, thực là đắc tội. Chỉ là bốn câu thơ này quả thực tuyệt diệu. Tiểu nữ tức cảnh sinh tình, xin có đôi dòng thô thiển, mong được thái sư phụ, sư bá, sư thúc chỉ điểm cho.

    Nói rồi nàng ngâm:


    Gia đạo nghiêm manh, hành thiện ý

    Môn hộ cẩn mật, đạo nêu cao

    Lâm khu đại mễ túc hoàng bào

    Nan phong hồng diệp nghinh tân khách

    Pháp đăng nhất trản tỏ minh tâm

    Môn quy nhất ý ngời chính đạo

    Quy lộ khứ nhân vĩnh tưởng hoài

    Tức ý viễn nhân lưu chính tâm


    Bài thơ rõ là ca ngợi Võ Đang luôn nêu cao chính đạo, giữ gìn môn quy, cảnh đẹp nơi Hồ Bắc trù phú, nên thơ, dù có đi xa vẫn luôn nhớ về. Nhưng nghe xong, mấy người ai nấy đều biến sắc mặc. Triệu Mẫn nói thêm:

    - Thái sư phụ, sư bá, sư thúc.. Triệu Mẫn từ khi làm dâu họ Hàn, cũng chính là đã coi các tiền bối, huynh đệ Võ Đang là người nhà. Tiểu nữ tự biết thân phận người Mông, xung quanh có rất nhiều tị hiềm nhưng mọi người vẫn đối với tiểu nữ một lòng trong như nước. Tấm chân tình này quả thực vô cùng cảm kích. Mọi người đối với tiểu nữ được như vậy, chính là vì mọi người tin tiểu nữ, đã và luôn là vậy.

    Nói đoạn, nàng quỳ xuống, tay dâng lên sáu gói bột nhỏ. Du Liên Châu nhận lấy, nhíu mày nhìn nghi ngại. Triệu Mẫn thưa:

    - Không giấu gì thái sư phụ, sư bá, sư thúc. Gia đình Triệu Mẫn đã nhiều năm lâm nạn, con cái ly tán. Phu quân cũng không biết lưu lạc nơi nào. An nguy của gia đình hiện vẫn đang trong tay địch nhân. Tiểu nữ hôm nay lên đây, chính là mong đổi mạng mọi người lấy mạng gia đình. Tiểu nữ biết nói điều này là phi nghĩa, phi nhân, phi lý nhưng đối với tiểu nữ thì ngoài Vô Kỵ ca ra, chỉ còn Vĩnh Tình và Tuệ Phong là động lực để tiếp tục sống. Gia đình sau khi đã bình an, tiểu nữ xin theo chân hầu hạ thái sư phụ, sư bá, sư thúc nơi Cửu Tuyền. Tiểu nữ mong được thành toán..

    Nói đến đây, nàng quỳ dập đầu chính lạy đến đổ máu. Võ Đang Ngũ Hiệp nhìn nhau bối rối. Quả thực việc này quá đường đột. Đã một thời gian dài không nghe tin tức, không ngờ gia đình sư điệt đã gặp thảm cảnh. Thuốc này trong tay chính là độc dược, họa có kẻ điên mới uống. Nhưng lời Triệu Mẫn vừa nói, xem ra nếu không uống thì nhất định có một trường huyết vũ. Du Liên Châu còn chưa quyết thì Trương Tam Phong đã mở lời:

    - Con đưa cho ta một gói thuốc.

    Du Liên Châu chưa dám đưa thì một luồng kình phong đã nhẹ nhàng đoạt lấy gói thuốc vào tay lão đạo. Mở ra thấy bột thuốc nửa đen nửa trắng. Trương Tam Phong nhìn sâu vào mắt Triệu Mẫn một hồi rồi không nói gì thêm, đổ nguyên gói bột vào miệng nuốt trọn. Mọi việc diễn ra quá nhanh, Ngũ Hiệp không ai kịp cản lại. Nhưng thấy sư phụ đã uống, mọi người không ai bảo ai đều mở gói thuốc uống liền. Duy chỉ có Du Liên Châu chưa uống. Ông lấy bút, viết một phong thư, đề rõ vị trí chưởng môn sẽ do Tống Quý Bình, nhị đệ tử của Tống Viễn Kiều đảm nhận. Đồng thời ghi thêm một số quyết sách xứ trí công việc trong phái. Niêm phong cẩn mật, ông gọi Tống Quý Bình đến, dặn dò đôi lời rồi cho lui ra. Lúc bấy giờ ông mới thuốc gói thuốc độc trên bàn.

    Triệu Mẫn thấy từng người, từng người uống độc dược mà lòng đau như cắt, chỉ biết quỳ dập đầu, không dám ngẩng lên nữa. Trương Tam Phong bước lại, đỡ nàng ngồi lên ghế rồi bình thản nói:

    - Chúng ta tin đồ tôn bao nhiêu thì cũng tin con bấy nhiêu. Mạng của chúng ta, con hãy dùng thật hữu ích.

    Nói rồi ông thong thả bước ra ngoài, các đệ tử cũng theo chân ông về chính phòng. Triệu Mẫn nước mắt vẫn lăn dài, lời nghẹn lại, chỉ có thể quỳ tạ một lần trước khi rời đi. Ba ngày sau, Võ Đang phát tang, giang hồ khắp nơi đều rúng động.

    * * *

    Động Đình Hồ rộng bát ngát vậy mafk hông chứa nổi tâm sự của một kẻ mất cả gia đình. Vô Kỵ nằm dài trên con thuyền tre, mặc cho song đưa đến đâu thì đến. Mái tóc chàng từ lâu chẳng ai chải, ai búi giờ rối nùi, khô lại như đội rễ cây, lòa xòa che đi đôi mắt rực đỏ màu máu. Da xạm lại vì nắng gió, bụi đường khắp nơi trong thiên hạ. Áo cũng chỉ là tấm vải bố rách nát thoáng che đi tấm thân gầy guộc. Còn đâu vẻ anh tuấn của anh hùng kháng Nguyên một thời, giờ chỉ còn là một kẻ điên cuồng vì gia đình ly tán. Ngày đó.. ngày đó nếu chàng không đưa gia đình về Trung Thổ, thăm lại cố hương, du ngoạn Ngũ Hồ, nếu không phải vì nhân dịp gặp lại hảo hữu huynh đệ mà rời đi gặp mặt, nếu không vì mừng cho Dương tả sứ đã lên chức ngoại công mà quá chén thì gia đình chàng đâu đến nỗi. Nhớ lại sáng hôm đó, khi quay lại Ô Quy khách điếm lớn nhất nhì vùng Ngũ Hồ thì chỉ còn thấy cảnh tang thương. Cả khách điếm lớn như vậy mà giờ chỉ còn là đống tro tàn. Chưởng quỹ, khách trọ bị sát hại đến không còn nhận ra nhân dạng. Vợ con chàng thì bặt vô âm tín, sống không thấy người mà mất cũng không thấy xác. Chàng hoảng loạn tìm kiếm trong đống tro tàn, lại hỏi khắp mọi người quanh đó. Duy nhất chỉ có một đầu mối là đám người Cự Kình Bang kéo đến quán trọ ăn uống, rồi sự việc tang thương xảy ra. Bao năm qua, chàng đi lại tìm kiếm trên giang hồ mà tuyệt không thấy bóng người. Nỗi đau mất gia quyến, sự hối hận một chốc lơ là, nỗi tuyệt vọng mỗi lúc một dày theo tháng năm khắc nghiệt trôi qua đã bào mòn cả thể xác và tinh thần của Trương giáo chủ năm đó.

    Xuôi theo dòng chảy Động Đình Hồ đã lâu, xung quanh bao nhiêu cảnh đẹp mà chàng thấy như đang trêu ngươi mình. Nội lực chàng phát ra không kiểm soát, kình phong đánh loạn bốn phương làm mặt hồ rung động như trong cơn bão. Mỗi chưởng đánh ra làm nước hồ vọt lên từng cơn sóng nhỏ, cây cối đổ rạp như bị cuồng phong quét qua. Vô Kỵ lẩm bẩm:

    - Chưa đủ.. chưa đủ!

    Bỗng trong cơn cuồng loạn, chàng nghe một tiếng đàn tranh vang đến. Tiếng đàn lúc trầm lúc bổng. Lúc nhanh như mưa đổ rừng trúc, lúc chậm lại như suối nhỏ róc rách chảy. Tuy mỗi lúc giai điệu khác nhau, nhưng tực chung thì khí thế bức người, làm nội lực trong người chàng lúc bấy giờ đang vô cùng xung mãn lại bị tiếng đàn đưa nội kình tác động, phát tiết càng mạnh. Vô Kỵ điên cuồng khinh công khắp nơi hòng tìm ra kẻ dám dùng tiếng đàn trêu ngươi chàng. Chẳng phải tìm lâu, ánh mắt chàng đã gặp một lão hán, thân mặc áo ngư phủ, tóc đã hoa râm, ánh mắt nửa cười bỡn cợt nhưng lại đầy vẻ uy nghiêm, trên đùi còn gác chiếc đàn tranh. Một chân đạp cành dương liễu mỏng mảnh mà đứng giữa cuồng kình, một chân khoanh lại tựa như bàn trà, thả hồn theo tiếng đàn tranh, quả thật công phu khinh công và nội lực đã cao đến không tả nổi.

    Vô Kỵ thấy người này lập tức phát chương đánh tới ngay. Càn Khôn Đại Na Di, lại thêm Cửu Dương Thần Công đánh ra không chút kiếm chế, kình lực như bài sơn đảo hải. Nhưng lão hán kia thân hình khẽ lay động như lá trúc trong gió, nhẹ nhàng tránh khỏi chiêu thức của Vô Kỵ. Đoạn lại đeo đàn ra sau lưng, rút ở dưới đáy đàn ra một thanh liễu kiếm mỏng như lá liễu, xuất chiêu thật tinh kỳ. Kiếm đưa đến đâu, kình phong vang tiếng u u đến đó, bao vây lấy đối phương từ bốn phương, tám hướng. Vô Kỵ là tuyệt thế cao thủ, đâu có ngại gì mấy thứ hư chiêu. Dù ý loạn nhưng võ ý trong người đã thành bản năng, trong khi giao đấu vẫn tự hoàn toàn vô thức thi triển. Tay vờn vòng lớn vòng nhỏ theo chiêu Mã Bộ Ban Lan Truy của Thái Cực Quyền, hòng vây kiếm của lão hán kia vào tâm rồi từ từ ép chặt, không hở một đường thoát. Lão hán kia cũng chẳng phải tầm thường, kiếm đi ra cũng dựa theo đủ tám cung Kinh Dịch mà xuất chiêu. Hai chiêu thức cùng gốc, muốn triệt nhau không được mà muốn tách ra cũng không dễ. Thoáng chốc hai người đã qua lại đến hơn trăm chiêu. Lão hán thấy xem chừng thời gian cũng lâu, chân đi theo quy cách từ Hỏa Ly sang Phong Tốn rồi về Sơn Cấn, thoắt cái đã rời khỏi phạm vi tấn công của Vô Kỵ. Chàng thấy địch nhân đã né ra, lại biết khinh công người này ảo diệu vô cùng, đuổi theo cũng e là không đơn giản, bèn hỏi lớn:

    - Lão hán đến nơi này dùng tiếng đàn quấy ta nghỉ ngơi chăng? Có bản lĩnh hãy lại đây đấu tiếp với ta thêm trăm hiệp. Nếu thắng thì cứ một chiêu cho ta hồn du địa phủ. Còn nếu lão chỉ một chiêu sơ suất thì ta cũng tiễn lão sang tận Tây Thiên.

    Lão hán mỉm cười, tay thu kiếm vào đàn. Nói:

    - Ta thấy ngươi võ công rất cao, lại phong phú. Nội lực là theo tâm pháp của Cửu Dương, chiêu thức lại theo Thái Cực Quyền của Võ Đang, lúc lại là Càn Khôn Đại Na Di đã thất truyền của Tây Vực. Người trong thiên hạ như vậy chắc chỉ có Trương giáo chủ đó sao?

    Vô Kỵ hằm hằm, mất lộ hung quang, gằn giọng:

    - Trương Vô Kỵ đã chết lâu rồi. Trước mặt lão là quỷ hồn từ diêm phủ đến nhân gian báo thù kẻ làm gia đình ta tan nát. Lão chớ lắm lời, lại đây!

    Lão hán vẫn khoan thai, nói:

    - Trương Vô Kỵ, ngươi để hỏa tâm che mờ minh nhân rồi. Ta hỏi ngươi, bọn người Cự Kình Bang có tội gì mà ngươi tàn sát không trừ một ai?

    Vô Kỵ nghe nhắc đến Cự Kình Bang, dường như xúc động lắm, cười lên man dại:

    - Thì ra lão là người bọn Cự Kinh Bang mời đến truy sát ta. Tốt lắm! Tốt lắm! Cự Kình Bang là ta đồ sát đấy. Bọn chúng phóng hỏa, giết người, lại cướp mất vợ con ta. Ngươi nói xem ta giết là phải đạo không? Không nhiều lời, xem chiêu!

    Dứt lời chiêu thức lại ào ạt đánh tới. Lão hán vẫn khoan thai khẽ nhún mình khinh công lùi lại ba trượng, rồi bất ngời lao thẳng đến, một tay xuất chiêu Thiên Sơn Chiết Thủ, một tay sử Cẩm Nã Long Trảo Công, khóa chặt chiêu thức của Vô Kỵ. Lão hán cười:

    - Ngươi quả thực mù mắt rồi. Vốn Thái Cực Quyền của Võ Đang biến hóa không có điểm dừng, nhưng ngươi để hỏa tâm thiêu đốt, vận dụng thô thiển. Năm đó ngươi quy ẩn giang hồ đã cùng một tuyệt đại cao thủ thời đó khảo cứu võ công, viết ra bộ Âm Dương Hợp Công, nguyện chỉ truyền cho người có tâm lương thiện, có trí thiên tư. Nào ngờ còn chưa kịp truyền cho ai thì ngươi đã lâm vào cảnh loạn ý. Thử hỏi còn ra thể thống gì!

    Chưởng của lão hán uyển chuyển hạ xuống, đẩy Vô Kỵ ngã dúi dụi. Nhưng phản chấn từ Cửu Dương Chân Khí cũng làm lão hán bị loạng choạng lùi lại. Lão hán nghĩ bụng: "Tên tiểu tử này nếu không phải do loạn ý thì với nội công và võ công kia có mấy ai là đối thủ chứ. Nếu không tìm được cách giải hỏa tâm, e rằng võ lâm sẽ còn chịu một cơn nguy biến không nhẹ."

    Vô Kỵ bị một chưởng đánh không nhẹ, nhưng cơn cuồng chiến đã lên, định lao vào đấu tiếp nhưng đã không thấy dấu tích lão hán kia đâu. Tuy vẫn điên cuồng vì không trút được cơn giận nhưng lời lão hán kia không phải là không nghe vào. Từ từ chàng tĩnh tọa lại, thu tâm yên ổn lại một chút. Trời cũng đã chập tối, cánh chim đã bay về tổ, chỉ còn người là không có nơi để về..

    * * *

    Thành Lạc Dương khi thường đã là một nơi phồn hoa đô hội, tấp nập người qua lại, nhộn nhịp quanh năm. Nhưng vào Trung Thu, Lạc Dương mới thực khoe hết cái vẻ đẹp rực rỡ của nó. Đèn lồng đỏ, vàng, xanh chăng kín bầu trời khắp thành. Những chậu hoa mẫu đơn khi nụ e ấp, lúc lại rực rỡ như một người con gái đúng tuổi xuân thì đầy sức sống, được treo dọc các trà quán, tửu lầu. Dưới đường, những quầy bán hàng thủ công, trà bách đặc sản cũng thi nhau mở lời chào khách làm không khí trong thành lại càng thêm náo nhiệt. Hòa trong dòng người sôi động đó, Dương Bất Hối và Ân Ly sánh bước đi bên nhau, tò mò ngắm những món đồ lạ từ các vùng đem về, lại xuýt xoa khi chạm vào lụa Tô Châu mát lạnh cả tay. Đi theo hai nàng là một nam tử tuổi còn khá trẻ, chỉ trạc ngoài hai mươi, lững thững hộ tống phía sau. Người này mặt mũi thanh tú, da dẻ trắng trẻo, khí chất đường đường một đấng anh hào khiến bao cô nương trẻ đi ngang không cầm được cũng phải liếc mắt nhìn một cái. Áo ngoài thiên thanh, nội phục trắng xám, hông đeo Đoạn Thủy Kiếm, hẳn người trong võ lâm nhìn qua cũng biết là đệ tử Võ Đang. Xem ra chàng ta không hứng thú với cảnh phố phường đông đúc lắm, chỉ lững thững đi theo sau Bất Hối và Ân Ly. Bất ngời ánh mắt chàng bắt gặp một cô nương trẻ tuổi đang cùng cha mẹ mở gánh mãi võ. Cây kiếm trong tay nàng vung lên loang loáng tựa như nước chảy mây trôi, kiếm quang mờ ảo tựa như áng trăng rằm ẩn hiện dưới màn mây mỏng. Chàng sững người, không phải vì kiếm háp của nàng mà vì đôi môi đỏ mọng của nàng, vì đôi mắt như hồ thu, to tròn diễm lệ, vì làn da ửng hồng vì nắng gió bôn ba. Và nhất là vì mái tóc dài thả tung theo đường kiếm, hòa vào với ánh đỏ của ngoại trang khiến nàng toát lên vẻ đẹp vừa hư vừa thực, vừa có chút ma mị, nhưng lại cũng vô cùng thuần khiết. Bất giác hai người ánh mắt gặp nhau, khiến nàng bối rỗi ngoảnh mặt đi, dùng kiếm vũ khỏa lấp cơn ngại ngùng. Chàng cũng nhận ra mình có chút sỗ sàng, đang không biết làm thế nào thì tiếng Bất Hối đã gọi:

    - Thương Tùng, con làm gì mà đi chậm thế?

    Thương Tùng giật mình, vội rảo bước đi nhanh đến gặp mẹ nói:

    - Con mải ngắm đường phố quá nên có chút chậm trễ thôi.

    Ân Ly nhìn về phía gánh mãi võ, tủm tỉm cười, nói:

    - Tẩu tẩu thấy, xem ra cháu đang lưu luyến hồng y nữ nhân kia thì đúng hơn. Cũng phải, nàng đạp đến vậy kia mà. Chỉ tiếc là.. xem ra số phận nàng ấy sẽ phải khổ.

    Thương Tùng nhân mặt, nói:

    - Tẩu tẩu chưa gặp người ta bao giờ mà nói gì chuyện xui rủi vậy.

    Ân Ly nhéo tay chàng, nói:

    - Thằng nhóc này ghê chưa. Chưa quen biết gì người ta đã bênh chằm chặp rồi. Rồi mai sau có thành người nhà chắc nó hốt tẩu tẩu này ra đường mất.

    Thương Tùng ôm tay Ân Ly cười xí xóa:

    - Tẩu tẩu nói gì lạ vậy. Tẩu biết con thương người nhất mà.

    Ân Ly không lập gia thất. Nàng cùng anh trai giờ đã thành hộ pháp của Minh Giáo. Vì không có con nên nàng rất thương yêu Ân Thương Tùng, con của Bất Hối và Lê Đình, coi như con ruột, rất mực cưng chiều. Hôm nay nàng đến Lạc Dương xem tình hình chi phái Minh Giáo nơi đây bị triều đình o ép ra sao, tình cờ lại gặp hai mẹ con Bất Hối đến đây chơi nên cùng nhập bọn ngao du dạo phố phường. Trời cũng đã muộn lại bỗng đổ cơn mưa lớn. Ba người vội che ô chạy về khách điếm, bỗng bắt gặp ba người trong gánh mãi võ đang nép mình đứng dưới hiên chuồng ngựa trú mưa. Nhưng mưa to, gió lớn tạt ướt cả bai người làm họ chỉ biết đứng sát vào nhau cho đỡ lạnh. Không đành lòng, Ân Lý bảo:

    - Ba người kia! Mau vào khách điếm tránh mưa. Đứng đó thì chút nữa là chết rét đấy.

    Ba người nhìn nhau ngập ngừng rồi cũng gánh đồ đi vào khách điếm. Họ rón rén đứng ở gần cửa, đồ đạc vẫn để bên ngoài cho khỏi ướt thảm trải bên trong. Ân Ly nói với chưởng quỹ khách điếm:

    - Ta thuê thêm một phòng lớn nữa cho ba người kia. Họ ăn uống gì cứ tính vào ta cả.

    Người đàn ông trong gánh mãi võ đến, ôm quyền nói:

    - Đa tạ nữ hiệp có lòng hảo sảng. Nhưng chuyện tốt này quả không dám nhận. Được đứng vào đây trú mưa cho khỏi ướt đã là tốt lắm rồi. Trời ngớt mưa, chúng tôi sẽ đi ngay, không phiền chưởng quỹ phải chuẩn bị.

    Ân Ly bực minh, đập bàn nói:

    - Ân Ly ta trước nay hành tẩu giang hồ, nói là làm, làm là được. Nay ta muốn giúp các ngươi, các ngươi muốn chối cũng không được.

    Người đàn ông khó xử, qua lại nhìn vợ và con gái thấy cũng đã ướt rượt, lạnh công cả, đành thở dài nói:

    - Ân cô nương hôm nay có lòng giúp đỡ, Kim Doãn Phật tôi nhất định ghi ơn. Sau này có cơ hội sẽ báo đáp.

    Thế rồi ba người gánh theo đồ đạc mãi võ, theo tiểu nhị lên phòng. Ân Ly và hai mẹ con Thương Tùng chưa muốn đi nghỉ ngay bèn gọi lấy một ấm trà, đôi món ăn nhẹ cùng nhau hàn huyên tâm sự. Lát sau, bỗng thấy cô nương mặc áo đỏ trong gánh hát kia đi xuống, tay mang theo một hộp mơ ngâm, nói:

    - Gia đình tiểu nữ quanh năm rong ruổi mãi võ, không có gì quý giá. Trong đây là chút mơ ngâm gia truyền, đặc sản của quê gia mẫu. Mời mọi người thưởng thức cùng với trà sẽ rất hợp.

    Bất Hối giờ mới nhìn kỹ cô gái trẻ này, quả thực dung mạo rất diễm lệ, lại dịu dàng thế này, chẳng trách con trai mình động lòng. Nàng cười, nói:

    - Cảm tạ tấm lòng của gia phụ, gia mẫu. Cô nương nếu không ngại, có thể ngồi cùng chúng ta đôi lát, hàn huyên đôi câu chuyện chăng?

    Cô gái này nhìn sang Thương Tùng rồi cúi gằm mặt, thưa:

    - Hôm nay gia phụ, gia mẫu cũng đã mệt, tiểu nữ xin phép về phòng hầu hạ hai người. Xin cáo lỗi.

    Nói đoạn, nàng quay người đi ngay. Thương Tùng cầm lòng không đặng, gọi với theo:

    - Cô nương, xin hỏi quý tính khuê danh là gì?

    Cô gái khẽ quay người lại, cúi đầu nói:

    - Tiểu nữ tên Kim Doãn Phụng.
     
    Kim Nhật Nguyệt, chiqudollLieuDuong thích bài này.
  5. Nguyên Không

    Bài viết:
    55
    Chương 3:

    Thác bạc luyện đao, minh sư chỉ dạy

    Quang Minh tế hỏa, Nhật Nguyên phân chia


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tuệ Phong tay cầm bầu rượu, gật gù trên lưng ngựa thong thả đi tuần. Ở cái nơi sơn trại hoang vu này chẳng có thứ gì thú vị, đến rượu cũng nhạt. Chàng uống chẳng qua để cho có vị, cho bớt đi cái hiu quạnh lúc một mình đi tuần. Đôi mắt chàng liếc qua sơn trại một cái rồi hờ hững nhìn về phía trước, thở dài. Chàng chán cái sơn trại này lắm rồi. Từ rừng cây rậm rạp đến u uất, đến con suối lờ đờ trôi. Từ bức tường sơn trại kiên cố bằng gỗ súc đến lũ đầu trộm đuôi cướp, quanh năm chỉ biết có lọc lừa, chém giết, chửi thề và khoe khoang vô căn cứ. Thấm thoắt chàng đã đến cái sơn trại này được hơn bảy năm rồi. Ngày hôm đó trong trí nhớ chàng vẫn rõ mồn một tưởng như mới hôm qua..

    -------*******-------

    Tết Nguyên Tiêu, gia đình Tuệ Phong cùng nhau đi du sơn ngoạn thuỷ dừng chân ở Ngũ Hồ cùng người dân ở đây đón tết. Quán trọ Ô Quy Khách nằm ngay bờ sông, nhìn ra bên ngoài là cảnh thuyền qua lại tấp nập. Nước hồ xanh, xao động không ngừng theo nhịp chèo lả lướt. Trên thuyền, tốp tốp những đoàn hát thi nhau phô giọng ca oanh vàng. Những khúc hát nối nhau dìu dặt, những tiếng vỗ tay tán thưởng của người dân trên bờ rào rào tưởng như đang ở một rạp hạt giữa trời, nơi thuỷ hồ nên thơ. Khắp nơi rộn một không khí tươi vui. Cha cậu đã theo mấy huynh đệ đi tụ họp ở nơi khác. Tuệ Phong, lúc đó mới chỉ là cậu nhóc mười tuổi, cùng tiểu muội và mẫu thân ở lại quán trọ xem hội. Bỗng có tiếng chửi bới, quát tháo ồn ào:

    - Chia nhau ra, tìm ngay mẹ con tiện tì đó ra đây. Phải nhanh lên trước khi hắn về.

    Cậu thấy mẹ rất nhanh chóng kéo mình và tiểu muội lại, giật tung mành giường buộc chặt vào eo hai đứa rồi dẫn ra cửa sổ. Mẹ cậu ôn tồn bảo:


    - Chưa rõ mọi việc thế nào nhưng mẹ cảm thấy những kẻ này đầy ác ý. Các con mau chóng nhảy cửa sổ trốn đi. Mẹ sẽ cản chân chúng. Tuệ Phong, con là huynh trưởng, lại biết chút ít võ công, nhất định phải bảo hộ cho tiểu muội nhé. Thoát được rồi hãy đến Lục Hoàn Trang ở Hồ Bắc tìm cha con. Nếu không tìm được, thì đưa em con đến Nga My Sơn tìm Chu chưởng môn nương tựa. Mẹ sẽ đến tìm hai con sau.

    Vuốt tóc hai đứa con còn nhỏ tuổi, nước mắt mẹ cậu tuôn rơi lã chã, thì thầm:


    - Khổ thân hai con.. Phải cố gắng sống.. Mẹ yêu các con..

    Nói đoạn, chưa để cậu và tiểu muội thắc mắc, mẫu thân đã đẩy hai người qua cửa sổ, lại níu chắc tấm rèm, từ từ hạ hai đứa xuống. Chân vừa chạm đất, cậu đã nghe trên lầu có tiếng đạp cửa. Có tiếng kẻ nào la lớn:

    - Con tiện tì Triệu Mẫn ngươi để bổn lão gia tìm lâu quá. Bọn nhỏ đâu, mau dẫn ra đây!

    Lại nghe thấy tiếng mẹ cậu cứng cỏi nói:

    - Đám người Cự Kình Bang các ngươi hôm nay lại mang mặt nạ ra che giấu thân phận. Làm anh hùng không làm điều gì khuất tất. Giỏi thì cởi mặt nạ ra cùng nhau nói chuyện cho tỏ khí anh hùng.

    Bỗng lại có tiếng người trầm trầm vang lên:

    - Triệu Mẫn muội, đã lâu không gặp, tính khí muội vẫn như ngày nào.

    Tiếng mẹ cậu kinh hãi vang lên:


    - Huynh.. huynh.. sao huynh lại ở đây? Huynh còn..

    Nghe đến đây thì đã thấy mấy kẻ trong Cự Kình Bang chạy xô đến, la hét:


    - Lũ nhỏ kia rồi, bắt chúng lại!

    Tuệ Phong giật mình, nhớ lời mẹ dặn, nhất định phải bảo hộ cho tiểu muội, vội cởi mành đeo bụng rồi cõng ngay tiểu muội chạy. Tiểu muội còn nhỏ, chẳng hiểu chuyện gì xảy ra òa khóc tức tưởi. Cậu kệ, cứ cõng mà chạy. Nhưng chân trẻ con thì ngắn, sức cũng không bền, chẳng mấy chốc mà mấy tên Cự Kình Bang đã đuổi đến. Thả tiểu muội xuống ngồi bên đường rồi quay lại, Tuệ Phong xuống tấn, đi bài Thái Tổ Trường Quyền, là bài quyền cơ bản mà cha cậu dạy. Tuy cha là đệ nhất cao thủ võ lâm, nhưng ông chưa truyền lại cho cậu môn võ học gì cao thâm ngoại trừ bài Thái Tổ Trường Quyền. Bài quyền tuy đơn giản, nhưng suốt bao nhiêu năm cậu chỉ luyện bài quyền này nên cũng thấm được không ít tinh tuý trong bộ quyền. Mấy tên Cự Kình Bang thấy một tên nhãi ranh đi một bài quyền hết sức cơ bản, bèn phá lên cười nhạo:

    - Thằng nhãi con này, võ công mới chỉ biết mấy đòn mèo cào mà dám phách lối múa may với lão gia sao? Để lão gia dạy dỗ ngươi!

    Dứt lời, một tên lao lên tung quyền nhằm mặt Tuệ Phong đánh đến, chỉ thấy cậu hụp xuống né, rồi hai tay tung song chưởng đánh thẳng vào ức gã. Chiêu Phách Thiên Phách Địa này nếu tinh thông có thể làm đối phương chấn tâm, nhẹ thì mất khả năng làm chủ cơ thể, nặng thì mất mạng. Tuệ Phong công lực còn yếu, tuy chiêu thức đánh ra rất tốt nhưng chỉ làm tên kia xây xẩm mặt mày mà ngã xuống. Cậu hét lên:

    - Kẻ nào dám lại gần đây sẽ bị đánh chết!

    Đám người kia thấy tên nhóc này đánh ngã được đồng bọn, cũng không dám khinh thường, cùng ùa lên tấn công. Cậu né trái, nhào phải, đấm một đòn, đá một chiêu, thuỷ chung cũng không để bị bắt nạt. Nhưng nhác thấy một tên định lại gần bắt tiểu muội, cậu lại vội lao đến, không chú ý có kẻ phía sau cầm dùi cui quật cậu một cái té nhào. Cả đám quây lại định đánh cậu thì bỗng có một nam tử hán còn khá trẻ hét lớn:

    - Lũ cường đạo khốn khiếp! Giữa thanh thiên bạch nhật mà một lũ người lớn to xác quây đánh một thằng nhóc thử hỏi còn ra thể thống gì. Có giỏi thử lại đây so chiêu với Bạc Liễm ta xem.

    Vừa nói, Bạc Liễm vừa múa gậy đánh đến. Lũ Cự Kình Bang bất ngờ có kẻ xen ngang, cũng bị gậy đánh ngã ngay một lúc ba người, vội bỏ Tuệ Phong ra, quây ngay lấy Bạc Liễm vào giữa. Thấy hán tử này bộ pháp vững vàng, thần thái trang nghiêm, mắt sáng như lưu tinh, lưỡng quyền nhô cao, chắc chắn là một ngoại gia có hạng. Không dám khinh thường, lũ đệ tử Cự Kình Bang rút ngay diêm độc, ném ra mù mịt. Xưa nay, Cự Kình Bang chỉ dựa vào món diêm độc này để xưng hùng xưng bá chốn sông nước. Nào ngờ diêm độc vừa tung ra đã không thấy hán tử kia đâu, thì ra đã khinh công lên cao tránh diêm độc. Gậy lại điểm xuống mấy chiêu Xung Thiên Tróc Địch, thoáng chốc đã thêm hai kẻ bị đánh gục. Bạc Liễm kêu lớn:

    - Cậu nhỏ mau dẫn em gái chạy đi! Để ta ở đây cản bọn khốn này lại!

    Tuệ Phong chẳng kịp gật đầu, vội kéo tay Vĩnh Tình, xốc lên lưng rồi chạy tiếp. Cứ chạy thẳng đường, chẳng mấy chốc đã đến một con sông rộng. Nhìn xung quanh chẳng có thuyền bè, cũng chẳng thấy có ai để nhờ cậy, cậu lại cõng em gái men theo bờ sông đi tiếp. Đi thêm được chừng hai dặm, ánh mắt cậu ánh lên tia mừng rỡ khi thấy có bóng người ở nhà thuyền phía trước. Cậu gọi lớn:


    - Cứu với! Cứu người với!

    Thấy mấy người bọn họ vẫn ngồi yên, Tuệ Phong nghĩ có khi giọng mình gọi không đến, lại càng cố chạy nhanh đến gần hơn, hét lớn:


    - Thúc thúc! Bá bá ơi! Cứu bọn cháu với!

    Hai người đàn ông trong nhà thuyền vẫn ngồi gục đầu như đang ngủ gật. Tuệ Phong đã cõng em đến ngoài nhà thuyền. Cậu để em đứng ở ngoài, nói:

    - Đại ca phải vào để gọi người giúp. Muội đứng ngoài này một lát, nếu thấy có gì bất thường thì phải chạy ngay đi nhé.

    Vĩnh Tình sợ lắm, nhưng nhìn Tuệ Phong cũng đang nén sợ để bảo vệ mình, cô nhỏ cũng cố gồng mình, run run gật đầu. Tuệ Phong lúc đó mới bước vào trong nhà, bước lại chạm khẽ vào người hai người đàn ông thì họ lăn ra cứng đờ, xem ra chết cũng lâu rồi. Cậu giật mình, định chạy ra thì nghe tiếng Vĩnh Tình hét lên hoảng sợ ngoài cửa. Cậu vừa quay lại thì đã bị điểm huyệt ngất đi. Trong lúc nửa mê nửa tỉnh, cậu chỉ thấy hai người mặc đồ đen túm lấy Vĩnh Tình và cậu vác đi. Bên hông họ có một khuyên sắt, khảm hình một con rắn rất dữ tợn..

    Tỉnh lại, mắt vẫn còn hoa chưa kịp định thần thì đã nghe tiếng mẹ cậu khóc nức nở, đang nói:


    - Ô Nhĩ Bát Đài huynh! Huynh lấy mạng ta, ta quyết không nửa lời oán thán. Chỉ mong huynh tha mạng cho hai đứa nhỏ. Chúng nó không có tội tình gì..

    Giọng một người đàn ông sắc lạnh vang lên:

    - Sinh ra làm con một kẻ phản quốc như ngươi đã là tội rồi! Niệm tình ngươi là biểu muội của ta, ta cho ngươi lựa chọn một trong hai đứa được sống. Nếu ngươi không chọn, ta sẽ chém chết cả hai đứa nhỏ này.

    Tuệ Phong lúc đó mới quay sang bên cạnh, thấy Vĩnh Tình lúc đó mới có bốn tuổi, bị trói chặt, bắt quỳ ở dưới đất đang mếu máo khóc. Má còn hằn vết bàn tay kẻ nào tát. Tuệ Phong gào lên:


    - Tên khốn! Ngươi có giỏi thì giết ta xem! Em ta không có tội gì, mau thả nó ra!

    Chưa hết lời, cậu đã bị một cái bạt tai đến xây xẩm mặt mày. Chợt thấy mặn mặn, thì ra máu đã đầy mồm rồi. Triệu Mẫn kêu lên đau đớn:

    - Xin ngươi! Đừng đánh bọn nhỏ! Đánh ta đây này!

    Tuệ Phong cả đời có lẽ sẽ không quên gương mặt người đàn ông đã nhìn sát mặt cậu lúc đó. Cậu trừng mắt nhìn hắn. Ô Nhĩ Bát Đài chăm chú nhìn cậu, nhếch mép cười:

    - Ta thích ngươi đấy. Nhưng ta không phải người quyết định ngươi sống hay chết. Mẹ ngươi sẽ làm điều đó.

    Nói đoạn hắn tuốt kiếm, kề lên cổ Tuệ Phong. Bên kia một tên đao phủ cũng kề đao lên cổ Vĩnh Tình làm cô nhỏ khóc thét lên. Hắn nói:

    - Triệu Mẫn, ngươi quyết đi!

    Triệu Mẫn lắc đầu. Nàng không thể quyết được chọn ai, bỏ ai. Có lẽ trong đời nàng, đây là lần đầu tiên nàng bất lực, không biết làm cách nào để thoát khỏi cảnh này. Ô Nhĩ Bát Đài ra lệnh:

    - Ngươi chém đầu con bé kia cho ta!

    Tên đao phủ vừa giơ đao lên thì Triệu Mẫn đã lao đến, chắn trước đường đao. Ô Nhĩ Bát Đài nhìn Tuệ Phong, nói:


    - Xem ra mẹ ngươi đã chọn em gái ngươi rồi. Ta rất tiếc, có trách thì trách mẹ ngươi thôi!

    Kiếm của hắn vừa định chém xuống thì có tiếng người lè nhè cất lên:

    - Dừng tay! Để thằng nhóc đó lại cho ta thử đao.

    Ô Nhĩ Bát Đài vội dừng tay, nhìn về phía người vừa nói. Từ phía cửa hầm, một lão hán loạng choạng bước vào, người sặc mùi rượu. Trên tay vẫn còn cầm bầu rượu tu liên tục. Rượu chảy ướt cả tấm áo lông chồn đã thủng lỗ chỗ, lông rụng tơi tả. Toàn thân lão không có nét gì là người tỉnh táo, trừ cây đao sau lưng lão. Còn nằm trong bao mà thanh đao phát ra một luồng hàn khí lạnh buốt. Tuệ Phong tròn mắt nhìn lão, chưa hiểu chuyện gì thì lão đã xách cổ cậu lên nhẹ như nhặt một chiếc lá rụng. Ô Nhĩ Bát Đài vội nói:

    - Hồ sư phụ! Người định làm gì vậy?

    Lão hán họ Hồ này nhướng mắt nhìn Ô Nhĩ Bát Đài, to tiếng:


    - Ta muốn lấy máu thằng nhỏ này thử đao. Ngươi có ý định gì khác chăng?

    Mấy chữ cuối, lão hán gằn giọng, sát khí cộng hưởng cùng cái lạnh của thanh đao khiến ai nấy trong phòng đều không rét mà run. Lão không thấy ai nói gì, lại lững thững xách Tuệ Phong đi..

    ---------************------------

    Ngựa của Tuệ Phong vừa băng qua một con suối nhỏ, bỗng trên cây xoan đào gần đó có tiếng người gọi vọng xuống:

    - Thằng nhỏ hôm nay có mang rượu cho ta không?

    Tuệ Phong chẳng thèm nhìn lên, lấy ở trong túi ra một bầu rượu, tung lên không trung. Chỉ thấy vút một cái, bầu rượu đã nằm trên bản đao của lão. Lão già họ Hồ cười khà khà, nói:

    - Hồ Phi Thiên này trước giờ uống rượu gì cũng thấy ngon, nhưng ngon nhất chắc là rượu người khác mua cho. Mà hôm nay ngươi lấy được ít rượu thế?

    Tuệ Phong nhún vai, nói:

    - Nhà bếp hết rượu rồi. Đây là rượu ta tích được từ mấy hôm trước đấy.

    Hồ Phi Thiên cười khà khà, mở bầu rượu uống một ngụm lớn nói:

    - Hảo đồ đệ, biết nghĩ đến sư phụ. Thôi ngươi tập chém nước tiếp đi.

    Tuệ Phong thở dài:

    - Ở nhà thì gia phụ bắt tập Thái Tổ Trường Quyền, ngày nào cũng chỉ đi đúng bài đó. Giờ bao lâu rồi cũng chỉ đi chém nước. Lão Hồ, người có thể chỉ cho ta vài chiêu thức bá đạo hơn được không?

    Hồ Phi Thiên lúc lắc đầu, lè nhè nói:

    - Ngươi tập chém nước tiếp đi. Chưa đến lúc đâu.

    Tuệ Phong nghe phát bực mình, gắt lên:

    - Chém nước thì có tác dụng gì chứ? Sáu năm rồi chỉ có chém nước. Ông xem cái thác nước đó có mòn đi tí nào không? Ta không thèm học cái thứ đao pháp vô dụng này!

    Hồ Phi Thiên nghiêm mặt, nói:

    - Ngươi theo ta ra thác nước.

    Nói rồi ông búng người khinh công đi trước. Tuệ Phong vội cho ngựa phi theo sau. Ngựa phi hụt hơi mà vẫn thấy lão Hồ đi trước một bước. Thoáng chốc đã đến thác nước, nơi ngày ngày Tuệ Phong tập dùng đao chém nước. Đến nơi, Hồ Phi Thiên nói:

    - Ngươi lấy đao ra chém nước ta xem.

    Tuệ Phong nhăn nhó nói:

    - Nhưng..

    Lão Hồ nghiêm giọng, nói:

    - Không có nhưng gì cả. Ta nói chém là chém!

    Tuệ Phong đành lủi thủi xách thanh đơn đao đứng dưới thác nước, xuống mã tấn, vung đao chém ngược chiều dòng nước chảy. Lưỡi đao đi dọc một đường ngọt xớt. Tuệ Phong chém xong, quay lại nhìn lão Hồ lom lom. Hồ Phi Thiên nhướng mày nói:

    - Ngươi có nhớ ngày đầu tiên ngươi vung đao chém nước ở thác này thế nào không?

    Tuệ Phong nhớ lại ngày đó, lúc lão Hồ mới chỉ chàng cách chém nước. Đao chàng chưa chém được nửa vòng thì đã bị thác nước quật xuống, rơi cả đao. Cá biệt nhất là cuối ngày, đao văng ra chém cả vào chân chàng một đường dài, giờ vẫn còn sẹo. Ròng rã sáu năm chém nước, giờ chàng có thể một tay thoải mái chém lên xuống, ngang dọc dưới dòng nước thác cuồn cuộn đổ. Hồ Phi Thiên chỉ tay ra một hòn đá lớn bằng thân người ở bên cạnh thác, nói:


    - Ngươi thử chém hòn đá kia xem.

    Tuệ Phong há hốc mồm, nói:

    - Ta có mỗi một thanh đơn đao này thôi đấy. Nếu làm hỏng thì tí nữa về trại sẽ bị phạt nhịn ăn ba ngày có biết không?

    Hồ Phi Thiên nhắc lại:

    - Ngươi cứ chém hòn đá đó đi.

    Tuệ Phong bán tín bán nghi, lại gần hòn đá, cũng xuống tấn, chém một đường đao xuống. Hòn đá to như vậy nhưng chỉ một đao đã bị chém nát vụn, đá dăm bay tứ tung. Tuệ Phong lắp bắp nói:

    - Sao.. sao có thể?

    Hồ Phi Thiên nhìn đống đá vụn, nói:

    - Sáu năm tập luyện chém nước dưới thác nước, chính là để rèn cho ngươi chắc tay đao, cảm được khí lực bên ngoài, thông được nội lực bên trong. Tâm, thân, khí hòa hợp tất sẽ phát huy được công lực tiềm tàng. Nhưng ngươi luyện vậy vẫn chưa đủ đâu.

    Tuệ Phong nhặt một miếng đá vụn, nói:

    - Đao của ta chém đến nát cả đá, vậy còn chưa đủ thì đến đâu mới là đủ?

    Hồ Phi Thiên lẳng lặng cầm thanh đơn đao của Tuệ Phong, đến một hòn đá khác gần đó. Hòn đá này qua mưa gió bào mòn, không khác gì một ngọn măng đang nhô lên nhọn hoắt. Hồ Phi Thiên đứng gọn gàng, tay phất một đao, xả dọc măng đá thành hai nửa ngọt xớt, không chút đá vụn nào văng ra. Hồ Phi Thiên nói:

    - Dùng đao không phải cốt là sức công phá mà cốt ở sự chuẩn xác và tập trung. Ngươi chém vụn hòn đá lớn, chỉ chứng tỏ lực của ngươi đã khá lên, nhưng độ chuẩn xác và tập trung còn kém lắm.

    Tuệ Phong lần đầu được chứng kiến đao pháp của lão Hồ, vỗ tay trầm trồ, khen:

    - Tuyệt diệu quá, liệu có tầng nào cao hơn mức này không?

    Hồ Phi Thiên nhếch mép cười, tợp ngụm rượu rồi lại đi về phía thác nước, nói:

    - Hơn một chút nữa thì như thế này.

    Ông hất một đường đao, xả từ dưới lên. Thoạt nhìn không khác gì Thiên Chí chém nước lúc trước. Nhưng đao này xẻ đôi luồng nước đang đổ xuống làm đôi đến tận đỉnh thác, một lúc sau hết kình lực, nước mới nhập lại làm một. Tuệ Phong lần này há mồm, không nói được lời nào. Hồ Phi Thiên dúi đao vào tay chàng, nói:

    - Tập chém nước tiếp đi..

    ----------************------------

    Tinh hà thu nhất nhạn,

    Chiêm can dạ thiên gia.

    Tỉnh ngô lương diệp động

    Lân chử thu thanh phát


    Dịch:

    Một chú nhạn bay lượn Ngân Hà,

    Tiếng chày rộn ràng khắp gần xa

    Ngô đồng đưa lá lay bên giếng

    Chày nhà ai gọi tiếng thu sang


    Sáng sớm mùa thu, mở cửa sổ nhìn ra ngoài vẫn thấy một dây sương mờ mịt trong tiết trời xám tro ảm đạm. Hít vào một hơi có thể thấy hơi giá chạy xuống tận phế can làm ta rùng mình. Tay siết lại dải áo một chút cho thêm ấm, Thương Tùng khẽ khàng khép cửa, tránh động đến mẹ và tẩu tẩu đang nghỉ ở phòng bên. Người dân ở Lạc Dương nhiều người dậy sớm, nện chày giã cốm, chuẩn bị xào cốm cho kịp phiên chợ sáng. Mùi cốm non mới giã thoang thoảng hương sữa ngầy ngậy làm ai chạnh lòng nhớ mùa thu đã đến rồi. Thương Tùng khoan khoái hít thêm vài hơi hương cốm mới rồi thong thả đi ra đầu hiên sau nhà, bỗng nghe thấy tiếng vun vút quen thuộc của ai luyện kiếm. Chàng đưa mắt tìm thì thấy Kim Doãn Phụng đang chăm chú khai chiêu. Trong cái màu trời âm u này, màu áo lụa đỏ của nàng như một ngọn lửa nổi bật giữa không gian. Nàng thi triển chiêu Hồi Đầu Phi Kiếm trong Lê Hoa Kiếm Pháp, mái tóc huyền xõa theo cái quay đầu hữu tình khiến người ta mê mẩn. Kiếm đi chuẩn xác đoạn mạng, ánh mắt si mê đoạt hồn. Kiếm thức đan vào nhau khít khao, bóng kiếm quang loang loáng như hoa lê bừng nở trên cành thu. Sử đến chiêu Tuyết Ngộ Cuồng Long, chẳng may chân nàng bước sai bộ vị, hạ bàn không vững chực ngã thì Thương Tùng đã kịp lướt tới, đỡ lấy nàng. Chàng ôn tồn hỏi:

    - Kim Doãn cô nương không sao chứ?

    Kim Doãn Phụng mặt bừng sức đỏ, lí nhí nói:


    - Tiểu nữ không sao. Đa tạ thiếu gia.

    Thương Tùng đỡ nàng đứng dậy rồi cười nói:

    - Đừng gọi ta là thiếu gia. Cứ gọi ta là Thương Tùng được rồi. Ta hơn cô nương chắc chỉ vài tuồi thôi.

    Kim Doãn Phụng gật đầu. Cả hai im lặng, ngượng ngùng chẳng biết nói gì. Thương Tùng nhìn cây kiếm trong tay Kim Doãn Phụng, hỏi:

    - Cô nương luyện kiếm pháp gì vậy?

    Kim Doãn Phụng mỉm cười nói:

    - Tiểu nữ luyện Lê Hoa Kiếm Pháp. Thiếu gia cũng biết dùng kiếm à?

    Thương Tùng cũng mỉm cười, mượn kiếm trong tay nàng, nói:

    - Ta cũng chỉ biết chút ít kiếm pháp thôi.

    Nói đoạn chàng đi bộ Lục Ngự Phục Ma Kiếm, bộ kiếm pháp thành danh của Ân Lê Đình. Chiêu thức vô cùng khoáng đạt, dĩ công ẩn thủ, khi tiến thì như cuồng phong, khi lui lại nhẹ như gió thoảng. Kiếm càng đi càng sảng khoái, lá thu rơi xuống bao nhiêu đều bị kiếm chàng chém tan thành mảnh nhỏ. Hoàn chiêu, Thương Tùng trả lại kiếm cho Kim Doãn Phụng thì có tiếng người gọi trước nhà:

    - Chuẩn bị lên đường thôi!

    Kim Doãn Phụng thấy cha mẹ đã chuẩn bị lên đường, bèn ôm quyền bái biệt:

    - Tiểu nữ phải lên đường rồi. Thiếu gia bảo trọng.

    Tà áo mới thoáng đó đã vội quay đi, Thương Tùng ngẩn ngơ một thoáng, vô thức bước tới cầm lấy tay nàng, nói:

    - Sau này, liệu ta có thể gặp lại nàng không?

    Kim Doãn Phụng thở dài, nhưng rồi mỉm cười, nói:

    - Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Nếu có duyên, nhất định sẽ còn gặp lại.

    Bóng người đã đi khuất, chỉ còn lại chàng đứng lại, trong tim như mất đi một mảnh, chàng cũng không hiểu nó là gì. Là tình ư? Hay chỉ là một chút xao động trong làn nước hồ vốn luôn bình lặng?

    ------------******-------------

    Có câu: "Ngũ Nhạc quy lai bất khán sơn, Hoàng Sơn quy lai bất khán Nhạc". Ý là đã đến Ngũ Nhạc rồi thì không cần đến các núi khác, mà đã đến Hoàng Sơn rồi thì cũng chẳng cần đến Ngũ Nhạc. Đỉnh Quang Minh trong dãy Hoàng Sơn vào thu đẹp như một bức họa rực rỡ. Lá xanh, vàng, đỏ tầng tầng lớp lớp hòa vào với nhau những mảng màu của kí ức. Mặt đá và mây đón ánh mặt trời lại càng bừng lên rực rỡ một màu cam lấp loáng. Dương Tiêu đứng từ Lộ Tuyết Đình, phóng tầm mắt xuống chân núi, thấy hôm nay Quang Minh Đỉnh đông đúc hơn thường ngày. Từ khi Đại Minh Luật được ban hành, giáo chúng khắp nơi bị o bế, bắt phải bỏ giáo hoặc bị giam tù, lưu đày. Mặc dù sau khi Thiên Chí ám sát thành công Chu Nguyên Chương, dịch dung ngồi vào ngôi vua, nhưng việc thay đổi Đại Minh Luật cũng gặp rất nhiều sự phản đối của triều thần nên chỉ có thể giảm nhẹ mức độ gắt gao trong việc kiểm soát hoạt động Minh Giáo, chỉ dừng lại ở việc tránh tụ tập, kết bè phái, gây rối luật pháp. Do vậy, những cuộc buổi tế Thánh Hỏa hàng năm cũng không triệu tập giáo chúng khắp nơi về dự nữa mà chỉ gói gọn trong hàng ngũ những yếu nhân của Minh Giáo. Năm nay các giáo chúng, ai nấy đều ngạc nhiên khi lại nhận được thư triệu tập. Vừa vui mừng, vừa hừng hực khí thế, giáo chúng từ khắp nơi tập trung ở Quang Minh.

    Từ trên núi nhìn xuống thấy lều trại đủ màu, chia phân khu rõ ràng của Thiên Địa Phong Lôi Tứ Môn và Ngũ Hành Kỳ. Quân ngũ hành chia theo từng đội kỳ quân mang trang phục màu lục, lam, đỏ, vàng, trắng ngồi lẫn lộn xung quanh bếp lửa, nâng bát rượu nóng, bá vai nhau tâm sự những ngày khó khăn mấy năm gần đây. Những người không trong Ngũ Hành Kỳ thì chia nhau về lán của Tứ Môn ngồi. Nhìn giáo chúng có dịp được tụ họp thân tình như vậy, sống mũi Dương Tiêu chợt thấy cay cay. Ông tự nhủ lòng mình:

    - Dương Tiêu này bất tài, không thể phát dương quang đại được Minh Giáo như kỳ vọng của các tiền nhân. Nhưng Dương Tiêu này quyết không để Minh Giáo bị huỷ hoại trong tay mình.


    Bỗng có tiếng Phạm Dao vang lên sau lưng ông:

    - Giáo chủ, các Hộ Pháp, Ngũ Tản Nhân và Kỳ Chưởng đều đã có mặt.

    Dương Tiêu thở dài, không quay lại. Ông vẫn trầm ngâm nhìn giáo chúng dưới kia đang vui vẻ cười đùa, bất giác buông tiếng thở dài. Phạm Dao tiến lên, đứng ngang hàng với Dương Tiêu, cùng phóng tầm mắt xuống khu trại dưới kia, nói như gió thoảng:


    - Dương Tiêu, huynh vẫn muốn làm vậy sao?

    Dương Tiêu gật đầu:

    - Không thể không làm vậy.

    Phạm Dao lại nói:

    - Những giáo chúng dưới kia, có lẽ từ nay khó có dịp gặp nhau vui vẻ vậy nữa.

    Dương Tiêu không nói gì. Một hồi lâu sau, ông quay lại, cất bước đi về chính điện, buông một câu:

    - Đóm lửa có bé, gặp thời cũng thành thánh hỏa. Thanh sơn bất cải, lục thuỷ trường lưu, nhất định có ngày gặp lại.

    Trong chính điện Quang Minh Đỉnh, các yếu nhân đều đã tề tựu đông đủ. Dương Tiêu bước vào, mọi người đều quỳ xuống, tay bắt chéo ngực, thi lễ. Dương Tiêu ra hiệu cho mọi người đứng dậy, nói:

    - Đã lâu rồi không gặp các vị, thấy mọi người đều còn mạnh khoẻ, ta rất mừng.

    Vi Nhất Tiếu ôm quyền, cười nói:

    - Sau lần đại chiến Vu Sơn, giờ mới gặp lại. Ân Dã Vương, Ân Ly, chúc mừng hai người đã trở thành Hộ Pháp của bản giáo.

    Ân Ly mỉm cười, nói:

    - Nếu không nhờ Vi Bức Vương chỉ điểm danh sư, chắc tiểu nữ chẳng bao giờ vọng tưởng có ngày lại được trở thành Hộ Pháp của bản giáo. Đa tạ Bức Vương.

    Nguyên lai năm đó sau khi bị địch nhân hãm hại, bao nhiêu độc công trong người nàng bị mất hết. Tuy mất môn võ công sở bản Thiên Thù Vạn Độc Thủ nhưng nàng cũng vì thế mà lấy lại được nhan sắc tươi đẹp như trước. Ân Ly không đẹp dịu dàng như Tiểu Chiêu, không thuần nhã như Chỉ Nhược, cũng không rực rỡ sắc sảo như Triệu Mẫn. Nàng có một vẻ đẹp thanh thoát, vô tư, phần có lẽ vì nàng đã buông bỏ được chuyện tình thù khi xưa, trong lòng nhẹ nhàng nên thần sắc lại muôn phần tươi tắn. Ngày đó Vi Bức Vương vẫn áy náy trong bụng chuyện năm xưa định hút máu nàng, thấy nàng nay không còn võ công, đã chỉ điểm cho nàng đến gặp Đạo Vương, tức Vua Trộm. Không ai rõ ông xuất thân thế nào. Có lời đồn rằng ông có gia tài các vạn, võ công kinh người, nhưng chẳng thích an ổn hưởng lạc mà tính từ nhỏ đã thích trộm. Phàm vật gì càng quý, càng phi nghĩa, càng được bảo vệ cẩn mật ông càng thích lấy. Phàm kẻ nào càng ác, càng lộng quyền, ông cũng thích lấy đầu. Nể mặt có giao tình với Vi Bức Vương, ông truyền lại cho Ân Ly bộ công phu Tróc Linh Ngân Ty, dùng sợi dây xích bạc làm vũ khí. Nhờ có bộ công phu này mà Ân Ly đi lại trên giang hồ có tiếng là bá đạo, bảo vệ được nhiều giáo chúng khỏi truy bắt của triều đình nên được đảm nhận vị trí Hộ Pháp của Minh Giáo. Tuy vậy, khi đứng cạnh cha, nàng vẫn thấy nhỏ bé vô cùng. Nàng nói:

    - Ân Ly còn ít tuổi mà đã phải đảm nhận vai trò Hộ Pháp, quả thực thấy trong lòng không ít lo lắng.

    Cha nàng, Ân Dã Vương, cười lớn, trong ánh mắt có chút hoài niệm xen lẫn thán phục, nói:

    - Năm xưa Tạ tiền bối hai mươi tám tuổi đã làm Hộ Pháp bản giáo, danh chấn võ lâm. Con năm nay đã hơn tam thập, tính ra cũng không phải sớm lắm.

    Trong lúc mấy Hộ Pháp đang nói chuyện với nhau, Chu Điên đứng lên oang oang nói:

    - Lão Dương! Năm nay lão không làm còn rùa đen nữa, tổ chức buổi tế Thánh Hỏa vui vẻ thế này, thực là tốt lắm.

    Chu Điên bao năm vẫn vậy, chẳng bao giờ gọi Dương Tiêu một tiếng giáo chủ. Nhưng Dương Tiêu cũng chẳng lấy vậy làm phiền, thậm chí trong lòng ngầm có chút thích thú vì có người không nhìn ông với vị trí bề trên mà như huynh đệ thâm niên. Dương Tiêu cười lớn, nói đùa:


    - Bây giờ cho lão Chu ngươi làm giáo chủ chắc ngày nào cũng thành ngày hội hết.

    Chu Điên nghĩ một lúc, ra vẻ trầm ngâm nói:

    - Nhưng nếu ngày nào cũng hội hè thì việc làm ăn của Minh Giáo ta ở Kiến Xương ai quản. Không được! Chơi thì vui thật đấy, nhưng không có bạc cũng không được!

    Thuyết Bất Đắc huých tay Chu Điên nói:


    - Ngươi mà làm giáo chủ thì chắc một mình ngươi một giáo.

    Lãnh Khiêm cũng phải buông một câu:

    - Phải.

    Dương Tiêu thấy mọi người đều vui vẻ, bèn lên tiếng:

    - Thôi, buổi tế Thánh Hỏa bắt đầu!


    Ông quay lại, hướng về phía ngọn Thánh Hỏa ngày đêm cháy sáng trên đỉnh Quang Minh, quỳ xuống, tay bắt chéo ngực. Mọi người và các giáo chúng theo hiệu lệnh đều nhất loạt quỳ xuống, hô lớn:

    Thiêu đốt thân tàn ta

    Lửa thánh cháy bừng bừng,

    Sống chẳng có gì vui,

    Thì chết có gì khổ?

    Nguyện hành thiện trừ ác

    Làm sao cho Quang Minh

    Bao hỉ lạc bi sầu,

    Đều hóa thành cát bụi.

    Thương thay cho con người,

    Sao lo buồn lắm vậy?

    Thương thay cho con người,

    Sao lo buồn lắm vậy?


    Dương Tiêu đại diện giáo chúng, hất rượu vào ngọn Thánh Hỏa làm lửa bốc lên rực rỡ. Không gian trang nghiêm nhưng lắng lại, chỉ còn tiếng phừng phừng của lửa thiêng ngàn năm. Dương Tiêu quay lại, nhìn vào ánh mắt mọi người đều thấy một ngọn lửa luôn rực cháy. Dương Tiêu biết Minh Giáo có lúc thịnh, lúc suy, nhưng ngọn lửa trong tim của giáo chúng qua bao thế hệ vẫn không lụi tàn. Ông nói:

    - Các người theo ta xuống chân núi, ta có chuyện muốn nói với tất cả mọi người.

    Dương Tiêu thả bước xuống Vấn Tâm Đài, các giáo chúng nhất loạt đứng dậy thi lễ. Ông ra hiệu cho mọi người yên lặng, rồi chậm rãi nói:

    - Hôm nay.. Dương Tiêu, giáo chủ Minh Giáo đời thứ ba mươi lăm, tuyên bố.. Giải tán Minh Giáo!

    Tất thảy mọi người, trừ Phạm Dao đã biết từ trước, đều nghe như sét đánh ngang tai. Các giáo chúng, Ngũ Tản Nhân, Hộ Pháp, Chưởng Kỳ đều nhao nhao đứng dậy chất vấn như một bầy ong vỡ tổ. Dương Tiêu phải vận nội lực Càn Khôn Đại Na Di tầng thứ năm và lời nói mới tạm át được tiếng người:

    - Các ngươi hãy nghe ta nói hết. Minh Giáo chúng ta xưa nay đều lấy tôn chỉ hành hiệp trượng nghĩa, phò nguy cứu đời làm tôn chỉ. Nhưng nay thiên hạ đã về một mối, triều đình lại coi chúng ta như mối đe dọa, liên tục bức bách. Trước mặt là triều đình, sau lưng lại không có bách tính yểm trợ, ta không muốn các ngươi phải chôn thân nơi ngục tù hoặc khổ cực nơi biên ải.

    Vi Bức Vương gay gắt nói:

    - Chúng ta mấy năm gần đây tuy lẩn trốn, cũng có một số giáo chúng, chi giáo bị bắt bớ, nhưng tuyệt không ai oán thán một câu. Dương giáo chủ! Xin giáo chủ cân nhắc lại!

    Giáo chúng nghe lời Vi Bức Vương đồng thanh hô:

    - Đúng đấy! Xin giáo chủ cân nhắc lại!

    Dương Tiêu từ tốn nói:

    - Dương Tiêu ta đối với chuyện này đã cân nhắc một thời gian rất dài, bản thân trong lòng cũng rất nhiều đắn đo. Nhưng hôm nay, ta nhìn thấy ở trong mắt các người vẫn luôn có Thánh Hỏa, trong tim các người vẫn luôn hướng về Minh Giáo, ta mới yên tâm ra quyết định này. Nếu ai không còn lửa trong tâm, thì hãy rời khỏi đây ngay. Ta quyết không gây khó dễ.

    Giáo chúng im lặng. Không một ai rời đi. Dương Tiêu chờ một hồi lâu không có ai nói gì thêm, bèn tuyên bố:

    - Minh giáo từ nay đổi tên thành Nhật Nguyệt Thần Giáo! Chia làm hai môn đường: Minh Nhật Môn và Tà Nguyệt Môn. Ta sẽ chấp chưởng Minh Nhật Môn Chủ. Phạm hữu sứ sẽ chấp chưởng Tà Nguyệt Môn Chủ.

    Chu Điên bấm bấm một hồi rồi la lớn:

    - Thế ta làm giáo chủ phải không?

    Dứt lời đã bị Lãnh Khiêm cho một bạt tai. Chu Điên trời đất không sợ nhưng rất nể Lãnh Khiêm. Bị một bạt tai xong Chu Điên im thít. Dương Tiêu nghiêm giọng:

    - Ngôi giáo chủ này, vốn ta định mời Trương giáo chủ ra chấp chính lại. Nhưng người giờ đã tuyệt tích giang hồ nhiều năm, chưa tìm được. Nhưng Trương giáo chủ có một người con trai tên là Trương Tuệ Phong, thiên tư hơn người.. Đó là người chúng ta cần tìm..
     
    LieuDuongchiqudoll thích bài này.
  6. Nguyên Không

    Bài viết:
    55
    Chương 4:

    Trường đồ chỉ bộ, Băng Tâm ngộ cố nhân

    Đại đảm khiêu chiến, Vĩnh Niệm nhận yếu quyết


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Vĩnh Niệm ngồi bóp chân trên một phiến đá nhỏ ven bờ hồ. Ngâm bàn chân đỏ lựng, mỏi nhừ sau khi khinh công liên tục hơn trăm dặm cùng Băng Tâm xuống dòng nước lạnh tê chẳng những không làm cô đau tê dại mà ngược lại còn khiến cô như được hồi sinh lại. Vĩnh Niệm cười, nói với Băng Tâm đứng gần đó:

    - Thái sư phụ, người không nghỉ chân chút sao? Chúng ta đã khinh công cả trăm dặm rồi, cũng chỉ còn cách Thành Đô chừng trăm dặm nữa thôi. Trời còn sớm mà, chúng ta nghỉ lâu lâu một chút nhé thái sư phụ.

    Băng Tâm dường như không nghe thấy lời cô nói. Ông đang bận xem xét đám cây cối đổ rạp gần đó. Vĩnh Niệm thấy thái sư phụ không trả lời mình, tò mò đi lại gần, hỏi:

    - Thái sư phụ đang xem gì đó?

    Băng Tâm vẫn đăm chiêu nhìn từng gốc cây, có cây thân to bằng cả vòng tay người ôm, có thân chỉ nhỏ bằng đùi người lớn, nhưng tất cả đều bị đánh gãy ngang thân. Vĩnh Niệm cũng bắt chước thái sư phụ cúi xuống xem xét. Lúc sau cô nói:

    - Những cây này chắc là bị cơn bão nào đó qua đây đốn gãy thôi. Vùng hồ này tuy rộng nhưng hai bên núi cao bao phủ, dễ tạo thành luồng gió lớn hút vào.

    Băng Tâm lắc đầu, từ tốn nói:

    - Đây không phải do cuồng phong, mà do chưởng lực của người đánh gãy.

    Vĩnh Niệm sửng sốt, nhìn những thân cây cổ thụ to bằng hai người ôm, lại sờ những thớ gỗ cứng như thép nguội, nói:

    - Không thể nào! Nội lực người đó cỡ nào mà có thể đánh gãy được những cây cổ thụ này chứ! Nếu có thật thì chắc cũng không phải là người, mà là quỷ thần!

    Băng Tâm gật gù nói:

    - Nội công đến cỡ này, thiên hạ quả nhiên không có nhiều người. Trương bá bá của con có thể đánh gãy nát cả một vạt rừng chứ từng này cây đã là gì. Tuy nhiên điều ta thấy khó hiểu, là ngoài chưởng lực làm gãy đám cây cối này, còn có một luồng kình lực sắc bén nữa. Chẳng những vậy, nội công của người này cũng rất cao thâm, trong lúc tỷ đấu cũng không chịu nhún phân nào.

    Vĩnh Niệm nhún vai, không quan tâm lắm. Cô vốn quan tâm đến chuyện nghỉ ngơi bây giờ hơn. Đã nửa năm kể từ khi rời Nga My, cô mới thấm thía câu nói của thái sư phụ lúc đó, rằng chuyện theo người học võ công sẽ cực kỳ vất vả..

    *********************

    Nhớ ngay ngày đầu tiên mới rời Nga My, vừa xuống đến chân núi Băng Tâm đã nhún người, tà tà khinh công đi trước. Cô sững người một lúc rồi mới hoảng hốt khinh công đuổi theo. Trong các đệ tử Nga My, khinh công của Vĩnh Niệm cũng không phải tồi, nhưng cô cố gia tăng cước lực thế nào cũng không đuổi kịp Băng Tâm nhẹ bước đi trước. Ông cũng không bỏ đi xa quá, chỉ đi trước cô một đoạn, cô khinh công chậm lại, ông cũng thả bước chậm lại. Đến khi hai người đã khinh công được ba mươi dặm, chân Vĩnh Niệm đã mỏi nhừ, phồng rộp lên rồi. Cô ngồi bệt xuống bên đường, nhăn nhó xoa chân, ngỡ tưởng Băng Tâm sẽ dừng lại đợi mình, nhưng bóng Băng Tâm đã mất hút nơi đâu. Cô hốt hoảng la lớn:


    - Thái sư phụ, người đợi con với!

    Băng Tâm vẫn không giảm cước bộ, dùng Thiên Lý Truyền Âm nói vọng đến:

    - Nếu hôm nay không khinh công được một trăm dặm, không đến được Tĩnh Gia Thôn thì đừng mong có nơi nghỉ chân.

    Vĩnh Niệm nhìn xung quanh, thấy bên trên là trời xanh mênh mông, dưới đất xanh ngắt một đồng cỏ lớn, nhìn hút mắt chẳng thấy bóng dáng làng bản nào. Cô hậm hực nghĩ, bất quá thì dựng lều nghỉ ngay giữa thanh thiên này, chẳng phải cũng thú vị lắm sao. Trước đây, khi theo mẹ đi thăm viếng các môn phái khác, có không ít lần cô đã phải ở lều cùng các sư tỷ, cô thấy còn sung sướng hơn cả nằm trong chăn êm nệm ấm nữa. Ở lều cùng các sư tỷ tha hồ được nói chuyện rủ rỉ đến tận khuya, lại có thể lén lén ra ngoài ngắm trăng sao, thú vị vô cùng. Vĩnh Niệm quyết định không đi nữa, lẽ nào thái sư phụ lại không quay lại tìm cô. Nửa ngày trôi qua như bóng câu qua cửa, ánh dương tà mỗi lúc lại thêm đỏ màu đe dọa rồi khuất hẳn sau đường chân trời xa xa, để lại một màu trời xanh tím thẫm. Những vì sao dần dần lộ diện mỗi lúc một nhiều, tựa như bụi kim cương lấp lánh ai rắc lên màn lụa của trời đêm. Vĩnh Niệm đã dựng lều, nhóm lửa. Nhưng cô đi quanh cả chiều nay chẳng tìm thấy con thú nào để săn làm bữa tối. Lúc này trời đang tiết thu, tuy là mát mẻ nhưng gió về đêm mỗi lúc một lớn, mỗi lúc lại thêm lạnh. Vĩnh Niệm chẳng làm thế nào, đành cắn răng chịu rét, cố ngồi gần đống lửa cho khỏi lạnh. Bỗng trong bóng đêm lấp loáng hàng chục con mắt sáng rực tinh quang. Lũ chó hoang nghe có hơi người nên mò đến. Khi thường, đám chó hoang này chẳng bao giờ dám lại gần trại. Nhưng chúng rất nhạy với mùi của sợ hãi, thứ đang đầy trong không gian lúc này. Vĩnh Niệm thấy lũ chó hoang mỗi lúc một lại gần, trong lòng vô cùng hoảng sợ nhưng vẫn nhặt một thanh củi đang cháy quét về các phía, hòng bức lũ chó lùi lại. Lũ chó hoang thấy có lửa thì lùi lại nhưng rồi lại tản ra bao vây lấy cô. Vòng vây từ từ siết chặt lại. Đến lúc này Vĩnh Niệm mới hiểu rằng việc dựng lều ở ngay giữa đồng cỏ không nguy hiểm đến mức nào. Cô cất giọng run run:

    - Lùi.. lùi lại! Lùi lại ngay!

    Một con chó hoang đầu đàn thấy đã đến thời cơ, bèn tru một tiếng, ra hiệu cho bầy chó cùng lao đến. Vĩnh Niệm lấy củi cháy làm kiếm, thi triển bộ kiếm pháp Phong Vân Kiếm. Nên biết bộ kiếm pháp này mười hai thức kiếm đi nhẹ nhàng tựa nước chảy mây trôi, biến hóa như mây, ảo diệu như gió, công thủ toàn diện. Kiếm pháp vận dụng tối đa Kiếm Nhận và Kiếm Phong, nhưng trong lúc này trong tay Vĩnh Niệm là một thay củi cháy vừa to vừa dày nên cái tinh diệu của bộ kiếm pháp không thể phát huy được. Thanh củi vung qua, múa lại quá chậm khiến lũ chó hoang dễ dàng tránh né, luân phiên tấn công. Con đầu đàn lựa được thế, nhanh chóng chồm lên nhằm cổ Vĩnh Niệm mà cắn. Nhưng răng nó còn chưa kịp chạm vào làn da cổ trắng ngần của Vĩnh Niệm thì đã bị một hòn đá bắn xuyên đầu mà chết. Lũ chó hoang thấy đầu lĩnh đã bị hạ, lại thấy một luồng sát khí ẩn hiện từ xa tiến lại, không ham mồi nữa mà cụp đuôi rút thẳng. Vĩnh Niệm thấy lũ chó hoang chạy đi cả rồi, cô mới thở hắt ra, khuỵu chân ngã bệt xuống đất, trong tay vẫn giữ chặt thanh củi cháy. Đang lúc mất hồn mất vía, bỗng cô cảm thấy có một ai đó đang tiến đến từ phía sau, hoảng hồn vụt ngay thanh củi lại. Một luồng kình khí điểm đến huyệt Thiếu Xung ở ngón út khiến cô phải buông thanh củi rơi xuống. Băng Tâm nhanh tay bắt lấy thanh củi rồi ném lại vào bếp. Ông mỉm cười nhìn Vĩnh Niệm, nói:


    - Con có đói không?

    Vĩnh Niệm ngẩn người một thoáng. Khi thấy thái sư phụ, sợi cương lý trí đang trói chặt nỗi sợ hãi và tủi nhục của cô được nới lỏng, cô thấy nhẹ nhõm nhưng không hiểu sao không kìm được nước mắt. Thiếu nữ đôi tám tối nay khóc như một đứa trẻ. Băng Tâm mỉm cười, xoa đầu cô, đoạn đỡ cô ngồi xuống gần bếp lửa. Ông lấy trong túi ra bánh ngô hãy còn nóng, một con gà nướng bọc trong lá sen, nói:

    - Con ăn đi.

    Mùi thơm của gà nướng và bánh ngô nóng đã tạm lau đi giọt lệ trên mặt Vĩnh Niệm. Cô cầm lấy bánh ngô, xé lấy một chiếc đùi gà, đặt trong lá sen rồi mời Băng Tâm:

    - Thái sư phụ, con mời người dùng bữa.

    Băng Tâm mỉm cười, nói:

    - Ta ăn rồi, con cứ ăn đi.

    Vĩnh Niệm lúc đó mới vui vẻ ăn bánh và gà. Trong lúc đó Băng Tâm chỉ từ tốn nhấp rượu trong một bầu rượu giắt cạnh người. Mùi quế cay nồng tỏa ra làm Vĩnh Niệm phải nhăn mặt, nói:

    - Thái sư phụ uống gì mà mùi nồng quá vậy?

    Băng Tâm nhìn lên bầu trời đầy sao, nói:

    - Hồng Hồi Quế.

    Vĩnh Niệm vẫn gặm gà, tò mò hỏi thêm:

    - Xem ra thái sư phụ thích thứ rượu này lắm. Con thấy nó mùi gắt quá.

    Băng Tâm lắc đầu, trầm ngâm:

    - Ta cũng không thích uống loại rượu cay này.

    Vĩnh Niệm thốt lên:

    - Vậy tại sao?

    Băng Tâm không nói gì, lặng lẽ uống thêm một ngụm nhỏ.. Vĩnh Niệm lúc đó cũng lờ mờ đoán ra được câu chuyện phía sau bầu rượu cay nồng đó. Chợt cô thấy có lẽ nước mắt cũng có mùi cay nồng như vậy..

    **************

    Vĩnh Niệm đang thoải mái nằm ngâm chân, miệng nhai mấy trái nho dại chin mọng cô hái lúc đi từ chỗ thái sư phụ về phiến đá, bỗng cô nghe văng vẳng đâu đó tiếng đàn ai chơi văng vẳng. Tiếng đàn bi thương, ai oán, réo rắt như tiếng nguyện hồn ai. Vĩnh Niệm bỗng thấy tay chân vô lực, nội lực như bị tiếng đàn phong bế. Cô thử chỏi tay ngồi dậy nhưng không được, định mở miệng kêu cứu và tiếng cứ như tắc nghẹn nơi cổ. Trong tiếng gió rì rào qua tán trúc lại nổi lên tiếng sáo vi vu khắp tầng không, Tiếng sáo như dòng cam lộ, cuồn cuộn truyền vào người Vĩnh Niệm một luồng nội lực bình ổn. Đoạn cô lại nghe tiếng thái sư phụ nói:

    - Con cứ bình tĩnh, thả lỏng người, nhắm mặt lại, hít khí vào đưa Đan Điền, lại đưa khí đi qua hai đường Thiếu Âm, Thiếu Dương, Kinh Âm, Kinh Dương về Bách Hội. Sau đó thở ra từ từ, đưa khí về thinh không. Cứ làm như vậy cho ta.

    Vĩnh Niệm từ từ làm theo, thấy quả nhiên dễ chịu. Cô đâu biết đây là tinh yếu nội lực của Cửu Âm Chân Kinh, chính là lấy chỗ thừa bù vào chỗ thiếu, lấy số ít địch số nhiều. Thấy Vĩnh Niệm đã an toàn, Băng Tâm bèn thay đổi tiêu khúc. Tuy cùng là Bích Hải Triều Sinh Khúc nhưng trong lúc vận dụng, tùy cơ ứng biến theo nội công mà thêm "chữ" vào cho phù hợp. Khi nãy Băng Tâm thêm chữ Kính vào tiêu khúc, ngân đoạn Thủy Nhược Kính Bình, mượn nội lực của mình đưa vào nhạc phổ truyền cho Vĩnh Niệm, giúp cô có thể trong giây lát chống lại được cầm khúc kỳ lạ kia. Băng Tâm lại đổi chữ Ngộ, tiêu khúc chuyển nghe mơ màng như thực như ảo, bỗng vút lên những nốt cao kỳ lạ khiến người nghe như bị cưỡng chế khỏi giấc mộng đẹp, đầu đau như búa bổ, tinh thần hoang mang không biết mình đang mơ hay tỉnh. Bên kia hồ, tiếng đàn lại vang lên nhanh như tiếng mưa rào đổ rừng trúc, lúc trầm xuống như tiếng thủ thỉ của vong hồn bên tai, lúc lại rít lên tiếng thiên ma cào lên mặt Ngục Môn đòi tự do tự tác. Ma Tranh Cầm Khúc từ lâu đã không còn nghe trên giang hồ, hôm nay tỷ đấu cùng Bích Hải Triều Sinh khiến vạn vật điên loạn, thần trí tan nát, ngay cả khí huyết cũng bị xáo trộn. Chưa được bao lâu, mặt hồ đã trắng xóa cá nổi lên đớp bóng khí, rừng trúc cũng nghiêng ngả theo nhịp đàn, tiếng tiêu. Băng Tâm búng người, đạp nước giữa hồ, lướt sang bên kia, nói lớn:

    - Nam Cung Thiết Tâm! Huynh dừng tay! Chúng ta tỷ đấu thêm chút nữa chắc hồ này không còn bóng cá mất.

    Từ rừng trúc bên kia cũng vang lên tiếng cười lớn:

    - Băng Tâm ngươi cũng thực biết điểm dừng. Nhà tranh của ta cũng sắp bị tiếng tiêu của ngươi đánh sập mất rồi.

    Bước ra từ rừng trúc, một lão hán tóc đã bạc, lưng đeo đàn, quần áo tuy đơn giản nhưng sạch sẽ, thẳng thớm. Tuy đã lớn tuổi nhưng đôi mắt vẫn tinh anh, ánh hùng quang lấp lánh. Trải qua cuộc tỷ đấu nội công kinh người đến vậy mà nhịp thở vẫn đều đặn, không có điểm nào gấp gáp. Nhìn thấy lão hán, Băng Tâm ôm quyền nói:

    - Thiết Tâm huynh! Lâu rồi không gặp. Ma Tranh Cầm Khúc của huynh mỗi năm lại thêm hoàn thiện, cao thâm khó lường.

    Nam Cung Thiết Tâm cũng ôm quyền, cười đáp lại:

    - Bích Hải Triều Sinh tuy không phải ngươi sáng tạo ra nhưng có công hoàn thiện thêm. Tiêu khúc cũng rất thâm trầm. Xem ra có có tuổi rồi, ngươi lại càng bớt đi cái vẻ cao ngạo năm nào.

    Băng Tâm chỉ tay về bên kia hồ, nói:

    - Chúng ta qua bên kia nói chuyện. Đệ có đi cùng với đồ tôn có chút việc.

    Nói rồi Băng Tâm khinh công đi trước. Nam Cung Thiết Tâm thong thả chắp tay sau lưng, bước từng bước trên mặt nước đi theo sau. Qua bên kia bờ, Băng Tâm gọi Vĩnh Niệm:

    - Đây là thái sư bá, họ Nam Cung, tên Thiết Tâm. Con mau ra bái kiến thái sư bá đi.

    Vĩnh Niệm rón rén bước đến, ôm quyền, cúi đầu, thưa:

    - Tiểu nữ Dương Vĩnh Niệm, bái kiến thái sư bá.

    Nam Cung Thiết Tâm gật gù khen:


    - Đồ tôn của Băng Tâm ngoan lắm. Chẳng bù với thằng nhóc Dương Thiên Chí hồi trước, nghịch ngợm như tiểu quỷ.

    Vĩnh Niệm nghe nói đến tên cha mình, bèn hỏi:

    - Thái sư bá biết cha con ạ?

    Nam Cung Thiết Tâm ngồi xuống phiến đá, thoải mái nói:

    - Ta biết chứ. Năm xưa khi Băng Tâm đến gia trang của ta, dẫn theo thằng nhóc Thiên Chí. Thằng nhóc mới đến trang mà nó đã đi khắp ngóc ngách, may mà không bị thương bởi cơ quan mật.

    Băng Tâm cũng bồi hồi nhớ về ngày đó, nói:

    - Thiên Chí, nó cũng kích hoạt mấy cái cơ quan trong gia trang rồi đó huynh. May mà nó nhanh nhẹn nên tránh né được cả.

    Nam Cung Thiết Tâm chợt hỏi:

    - Thằng nhóc đó giờ thế nào rồi? Có con lớn thế này rồi chắc nó giờ cũng đã là một trang nam tử tung hoành giang hồ rồi chứ?

    Băng Tâm im lặng, nhìn sang Vĩnh Niệm đang quay mặt đi chỗ khác, cố nén nỗi buồn. Ông thở dài nói:

    - Thiên Chí.. Nó yểu mạng, đã không may mất cách đây nhiều năm rồi.

    Nam Cung Thiết Tâm thoáng sững người, gật đầu trong im lặng, không nói gì thêm. Lúc sau, ông nói:

    - Thôi, hai ngươi đã đến đây rồi thì ghé vào tệ xá của ta một chút. Tối nay ở lại đây, mai rồi thích đi đâu thì đi.

    Băng Tâm cười lớn nói:

    - Đúng là hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Đệ chính là muốn đến tìm huynh, có chút việc muốn nhờ cậy, mong huynh chiếu cố. Đang định lên Thành Đô tìm huynh thì không ngờ lại gặp nơi đây.

    Nam Cung Thiết Tâm ngạc nhiên nói:

    - Lão già này mà cũng có thể giúp gì được cho ngươi sao? Có gì ngươi cứ nói.

    Băng Tâm kéo Vĩnh Niệm lại, nói:

    - Thiên Chí qua đời, chỉ có một mụn con này. Đệ võ công hạn hẹp, nên mới muốn nhờ huynh truyền thụ võ công cho nó, để nó đủ bản lĩnh phát dương quang đại Dương gia.

    Nam Cung Thiết Tâm nhíu mày, nhìn Vĩnh Niệm, rồi lại nhìn Băng Tâm, nghiêm mặt nói:

    - Đệ biết ta không nhận đệ tử mà. Sao còn làm khó nhau đến vậy.

    Băng Tâm từ tốn nói:

    - Huynh nói vậy không đúng rồi. Trước kia huynh có nhận một đệ tử..

    Nam Cung Thiết Tâm ngắt lời:

    - Ngươi cũng biết chính tay ta đã giết nó rồi đúng không.

    Băng Tâm lắc đầu, nói:


    - Không phải huynh giết nó. Nó đã chết dưới trảo của đệ ở Võ Di Sơn.

    Nam Cung Thiết Tâm đau xót nhắm mắt lại, nước mắt khẽ rơi trên gương mặt già nua của ông. Năm đó, đệ tử của ông cậy võ công cao cường, đã tập hợp một lũ đầu trộm đuôi cướp, gây nên bao nhiêu chuyện phi nhân loạn lý khắp nơi. Ông hay chuyện, bèn cùng Băng Tâm truy tìm. Qua nhiều tháng truy đuổi, cuối cùng hai người đã dồn được gã hung đồ đó lên Võ Di Sơn. Dưới kiếm của Nam Cung Thiết Tâm, gã hung đồ đã phải thúc thủ chịu chết. Nhưng Nam Cung Thiết Tâm trong lòng bất nhẫn, không thể xuống tay với gã đệ tử chân truyền của mình. Nhân lúc Nam Cung Thiết Tâm đang dùng dằng không dứt, gã hung đồ lợi dụng một khắc lơ là, tung kiếm định ám toán sư phụ. Không may cho gã, Băng Tâm đã kịp phát hiện, phất một chiêu Cửu Âm Thần Trảo đánh xuyên ngực hắn, kình lực chấn bay hắn xuống vực tuyết ở Võ Di Sơn. Tuy là Băng Tâm xuống tay, nhưng Nam Cung Thiết Tâm trong lòng vẫn luôn dằn vặt chuyện mình không quản thúc nghiêm đệ tử, khiến nó rơi vào ma đạo. Đã mấy chục năm trôi qua, không ngờ chuyện cũ vẫn chưa nguôi ngoai đi chút nào. Nam Cung Thiết Tâm thở dài, nhìn Vĩnh Niệm, hỏi:

    - Ngươi đã học võ công ở đâu chưa?

    Vĩnh Niệm lễ phép thưa:

    - Tiểu nữ từ bé có theo học võ công của Nga My, cũng biết đôi chút về kiếm pháp.

    Nam Cung Thiết Tâm gật đầu nói:

    - Ngươi đi bộ kiếm pháp nào thành thạo nhất ta xem.

    Vĩnh Niệm nhìn Băng Tâm, thấy ông khẽ gật đầu, mới ôm quyền nói:

    - Tiểu nữ hôm nay ban môn lộng phủ, xin đi bộ Vân Long Kiếm của bản môn.

    Bờ suối giờ này nắng vàng hanh nhẹ, gió thổi la đà khẽ trêu đùa, lay lay từ áo tím của Vĩnh Niệm. Cô hít một hơi, xuất kiếm. Đường kiếm xuất nhanh gọn, mũi kiếm hướng đất. Một tay đưa kiếm vào đường Chính Thủ Kiếm, một tay giữ ấn thủ, từ từ triển khai bộ kiếm pháp. Vân Long Kiếm pháp gồm ba mươi sáu chiêu Chính Thủ Kiếm, chia làm năm thế Loa – Kiềm – Điêu – Bát – Mãn, lại có mười hai chiêu Phản Thủ Kiếm, đi vào năm đường Luân – Vân – Xuyên – Quái – Tảo. Kiếm xuất ra công thủ liên hoàn, biến hóa bất ngờ tựa như rổng ẩn trong mây, vẫy vùng trong cơn cuồng phong bão tố, kiến long kiến thủ bất kiến vĩ. Kiếm đi đến đâu, kình khí phát ra đến đó, gió xoáy lại như một cơn lốc nhỏ. Nam Cung Thiết Tâm khẽ vận kình, một chưởng khẽ đánh vào cây mơ gần đó. Lá mơ lả tả theo gió bay vào vùng kiếm quang, bị cắt thành trăm mảnh, rơi xuống đất. Khi kết thúc bộ kiếm, mặt đất nơi Vĩnh Niệm đứng, lá trải như một tấm thảm xanh vàng. Nam Cung Thiết Tâm lại khẽ phất tay, đám lá dưới chân Vĩnh Niệm đều bị kình phong cuốn đi cả, chỉ còn lại những lá nguyên vẹn nằm lại. Băng Tâm gật gù tán thưởng:


    - Chấn Thiên Cương Khí của Nam Cung huynh xem ra đã đến mức lư hỏa thuần thanh, thu phát tùy ý, khinh trọng tùy tâm. Đám lá còn lại trên mặt đất xem ra cũng còn nhiều.

    Nam Cung Thiết Tâm gật đầu nói với Băng Tâm:


    - Cô nhỏ này tuổi còn trẻ, nhưng luyện đến mức này cũng đã là khá lắm. Bộ Vân Long Kiếm này là khoái ý kiếm pháp của Quách nữ hiệp năm xưa, ai cũng có thể luyện, nhưng để đến mức tinh diệu lại tùy thiên tính. Người luyện kiếm, bên ngoài phải mềm dẻo nhưng trong phải cương cường. Cô nhỏ này xem ra chưa phù hợp lắm.

    Vĩnh Niệm dù sao vẫn còn trẻ tuổi, hỏa tâm trong lòng còn lớn, nghe Nam Cung Thiết Tâm nhận xét vậy trong lòng không khỏi có chút bất mãn, không kìm được, buột miệng nói:

    - Tiền bối võ công cao thâm, kiếm pháp Nam Cung Thế Gia cũng vang danh thiên hạ. Nhưng bộ Vân Long Kiếm này của Nga My tinh yếu hoàn toàn khác, không thể mang tiêu chuẩn của kiếm pháp Nam Cung ra so sánh. Phiền tiền bối thử đi lại bài Vân Long Kiếm xem lá rụng dưới đất còn bao nhiêu lá nguyên!

    Băng Tâm nghe mấy lời này, liền quát lớn:

    - Hỗn xược! Tiền bối nhận xét vậy là tốt cho ngươi, sao lại dám hỗn hào đến vậy! Mau quỳ xuống tạ lỗi với tiền bối!

    Nam Cung Thiết Tâm cười lớn, xua tay nói:

    - Ngươi đừng nóng. Cô nhỏ này xem ra cũng khá thú vị đấy. Được, bài kiếm pháp này tuy không phải kiếm pháp của Nam Cung nhưng ta xem qua cũng nhớ được đôi phần. Để ta thử đi lại xem sao.

    Nhận lấy kiếm từ tay Vĩnh Niệm, ông khoan thai bước tới khoảng đất nơi cô vừa thi triển kiếm pháp, gạt hết lá dưới đất đi rồi từ từ vào thế. Kiếm đưa ra khoan thai, mũi hướng xuống đất, kình phong theo kiếm nhè nhẽ khẽ lay mấy cánh hoa dại gần đó. Bộ Vân Long Kiếm mà Nam Cung Thiết Tâm thi triển nhìn về chiêu thức, ấn thủ, bộ pháp đều chuẩn xác, nhưng xem ra khí lực lại không có vẻ uy mãnh như khi Vĩnh Niệm thi triển. Đường kiếm của ông đi từ tốn nhưng dứt khoát, kiếm khí không xoáy lại như bão mà thanh thoát tựa gió nhẹ thổi. Vĩnh Niệm gật gù, lẩm bẩm:


    - Tiền bối quả đúng là cao thủ thâm tàng bất lộ. Chỉ nhìn một lần mà có thể đi chính xác bài thảo của bộ kiếm này đã là ghê gớm lắm rồi.

    Băng Tâm tủm tỉm cười, nói:

    - Ngươi không ra rải lá xem kết thúc bộ kiếm này còn bao nhiêu lá dưới đất.


    Vĩnh Niệm lúc bấy giờ mới nhớ ra, bèn mau mắn chạy lại một gốc liễu gần đó. Nàng vận hết công lực, đánh ầm một cái vào gốc liễu làm lá rụng xuống như mưa. Những chiếc lá liễu thanh mảnh, chấp chới bay lướt qua vùng kiếm của Nam Cung Thiết Tâm, dường như chẳng có lá nào bị chém trúng, rơi đầy mặt đất. Vĩnh Niệm hí hửng ra mặt, bụng nhủ thầm:

    - Tiền bối thì cũng vậy thôi. Kiếm chẳng chém trúng được lá nào mà chê ta không có thiên bẩm.

    Kết thúc bài kiếm, Nam Cung Thiết Tâm đã thu kiếm lại đưa cho Vĩnh Niệm. Cô cười lớn, nói:

    - Nam Cung tiền bối, bộ kiếm này người thi triển thực chuẩn xác. Nhưng xem ra lá đưới đất còn nguyên lành nhiều lắm.


    Băng Tâm hắng giọng nói:

    - Ngươi ra cầm một chiếc lá lên đây xem nào.

    Vĩnh Niệm không hiểu gì nhưng cũng theo lời thái sư phụ, cúi xuống định nhặt một chiếc lá lên thì mới thấy nhìn tưởng chiếc lá còn nguyên, nhưng thực ra đã bị chém thành vụn rồi. Nàng kinh hãi quay đầu nhìn thái sư phụ nói:

    - Chiếc lá liễu này..

    Băng Tâm cười, tay nhả kình, phất một luồng chưởng khí qua mặt đất thì đám lá liễu còn dày như thảm đó đã hóa thành bụi, cuốn đi hết, mặt đất không còn bóng lá. Nam Cung Thiết Tâm cười, xoa đầu Vĩnh Niệm nói:

    - Tuy ngươi không có thiên tư học kiếm pháp. Nhưng xem ra nội lực của ngươi không tồi. Ai đã truyền Cửu Âm Chân Kinh cho ngươi vậy?

    Vĩnh Niệm ngớ người, hỏi lại:

    - Cửu Âm Chân Kinh là gì cơ tiền bối?

    Băng Tâm lúc đó động tâm cơ, à một tiếng nói:

    - Ngươi còn không mau quỳ xuống bái tạ tiền bối đi. Nam Cung huynh, đứa nhỏ này sau này đệ sẽ đưa quay lại bái phỏng.

    Nam Cung Thiết Tâm gật gù, nói:

    - Cũng đã quá nửa ngày rồi. Các ngươi nếu không có gì vội thì ở lại đây chơi với ta một hôm. Ngày mai lên đường cũng không muộn. Ta có căn nhà tranh trong rừng kia, tuy không tiện nghi lắm, nhưng cũng đủ cho mấy người chúng ta nghỉ ngơi.

    Băng Tâm liếc nhìn vùng cây bị đánh đổ, trong lòng thầm nghĩ nếu hỏi Nam Cung Thiết Tâm hẳn có chút ít manh mối gì chăng, bèn đồng ý:

    - Nam Cung huynh đã có lời, chúng ta cũng nên nể mặt. Vĩnh Niệm, con lấy hành trang, rồi chúng ta vào thăm nhà tiền bối.

    Căn nhà tranh đơn sơ của Nam Cung Thiết Tâm nằm giữa rừng mơ. Mùa này đã không còn hoa mơ nở trắng từng cụm như tuyết nữa, thay vào đó là những trái mơ xanh đang ôm lấy cái nắng thu vàng mà trở nên ửng vàng hồng nhè nhẹ. Vĩnh Niệm nhìn trên cây quả mơ chĩu chịt mà miệng chảy nước miếng, nghĩ đến tí nữa mình hái lấy mấy quả còn lớp lông tơ mềm mịn, cắn một miếng giòn tan mà cảm nhận cái chua chua, ngọt ngọt của mơ vừa chin thì thực còn thú nào hơn nữa. Vừa để hành trang xuống, Vĩnh Niệm đã vội xin phép đi ra ngoài chơi:

    - Thái sư phụ, tiền bối, hai người cứ nghỉ ngơi, hàn huyên chuyện cũ. Con chạy ra ngoài kiếm chút rau tươi, quả chín về làm cơm chiều.

    Băng Tâm nhướng mày:

    - Hôm nay con lại chăm chỉ đột xuất thế sao? Không để thái sư phụ giục mà đã tự đi làm cơm rồi.

    Vĩnh Niệm cười lỏn lẻn, nói:

    - Con đi theo thái sư phụ lâu rồi, cũng tiến bộ lên chứ. Thôi con đi đây!

    Nói đoạn, cô vụt chạy ra ngoài ngay. Nam Cung Thiết Tâm nói với theo:

    - Đi trong rừng nhớ cẩn thận. Gần đây có một kẻ điên nguy hiểm lắm. Nếu thấy hắn thì phải ngay lập tức quay lại nghe chưa?

    Chẳng biết Vĩnh Niệm có để tai vào không, chỉ thấy cô vẫy vẫy tay rồi thoắt cái đã mất hút sau rặng trúc trước nhà. Chỉ còn hai người, Nam Cung Thiết Tâm lấy ra một vò rượu Ô Trình, xem ra đã hạ thổ lâu lắm, nước sánh vàng như mật, chỉ khẽ hé miệng vò đã thấy hương dìu dịu, càng ngửi càng thấy nồng nàn dễ chịu. Nam Cung Thiết Tâm cười, ngâm một khúc:

    Khúc thủy tam xuân lộng thái hào

    Chương đình bát nguyệt hựu quan đào

    Kim lôi kỷ túy Ô Trình tửu

    Hạc hàng nhàn ngâm bả giải ngao


    Dịch:

    Sông Khúc tháng ba rượu hòa thơ

    Chương đình tháng tám sóng xô bờ

    Chén vàng say sưa Ô Trình Tửu

    Thuyền nhỏ, thơ nhàn, bắt nghêu trai


    Băng Tâm gật gù nói:

    - Vò Ô Trình Tửu này của huynh cũng phải đến hơn ba mươi năm rồi, chẳng cần chén vàng cũng thấy quý, chẳng cần uống cũng đã say. Nhưng thứ lỗi cho đệ, hôm nay đệ dùng rượu riêng mang theo đây rồi.

    Nam Cung Thiết Tâm vẫn rót Ô Trình ra hai bát, lắc đầu nói:

    - Cái thứ rượu kia của ngươi ta ngửi mùi đã thấy cay gắt, hay ho gì mà uống. Nếu có chuyện không thể ép, thì nể mặt ta uống một bát Ô Trình này rồi chúng ta rượu ai người nấy uống.

    Chẳng chối được, Băng Tâm đành nâng bát Ô Trình, mời:


    - Bát này mừng cho tình bạn vong niên giữa chúng ta. Nhớ ngày đó ở Vong Nhân Cốc, chúng ta loạn đấu ba ngày mới nhận huynh đệ. Đến nay tóc đã bạc nhưng tình này không bạc. Mời huynh!

    Nam Cung Thiết Tâm gật đầu rồi cả hai người cùng uống cạn thực sảng khoái. Nam Cung Thiết Tâm tự châm rượu cho mình, nói:

    - Năm đó ta tự phụ rằng không kiếm pháp nào trong thiên hạ không rõ, không võ công nào trong thiên hạ không thể đả bại. Ngỡ tưởng đã là thiên hạ vô địch, độc cô cầu bại. Không ngờ thiên ngoại hữu thiên, nhân ngoại hữu nhân, lại có thể gặp được đám kỳ nhân các ngươi, bị đả bại tâm phục khẩu phục.

    Băng Tâm xua tay, uống một ngụm Hồng Hồi Quế nói:

    - Nam Cung huynh nói quá rồi. Ngày đó chúng ta tính ra là bất phân thắng bại. Đệ chẳng qua có chút may mắn hơn mọi người thôi. Nam Cung Tàn Dương Kiếm của huynh năm đó uy dũng vô cùng, nếu chẳng phải lão Hồ sử Lãnh Nguyệt Đao Pháp cản lại thì chắc đệ đã trúng một kiếm rồi.

    Nam Cung Thiết Tâm nhíu mày nói:

    - Đến tận giờ ta vẫn không hiểu, lúc đó chẳng phải ngươi vẫn đang so chiêu với Đoàn Trường Lạc đó sao? Sao vẫn có thể quan sát sau lưng mà điểm chỉ khí đến trúng mũi chân ta được.

    Băng Tâm cười lớn, chỉ vào ngực nói:

    - Huynh không nhớ là Vô Minh Vương ở trên ngực có một tấm kính hộ tâm sao? Nhờ ảnh của huynh lọt vào tấm kính đó nên đệ mới thừa cơ điểm một chiêu Xung Chỉ Kích Kỹ được.

    Nam Cung Thiết Tâm lúc đó mới ồ lên:

    - Ra vậy! Vậy thua đúng là tâm phục khẩu phục rồi. Đang lúc loạn đấu vậy mà ngươi vẫn có thể quan sát được vậy, thực hiếm có.

    Băng Tâm cười cười, không nói nữa. Ông nhìn ra ngoài cửa nói:

    - Nãy huynh nói, ở đây có một gã điên nguy hiểm lắm sao? Sao huynh không ra tay bắt gã đó lại, để hắn tự tại ngoài kia chẳng phải nguy cho bá tính lắm sao?

    Nam Cung Thiết tâm thở dài nói:


    - Kẻ điên đó, ta đã giao chiêu với hắn. Hắn võ công cũng thuộc hàng tuyệt thế. Nếu không phải hắn tâm loạn, tuyệt ta không thể chiếm ưu thế được. Vốn ta cũng định bắt giữ hắn, nhưng thấy kẻ này trong người vẫn còn lý tính, có thể tự kiềm chế tâm ma, nên ta không đành.

    Băng Tâm nhíu mày, hỏi gấp:


    - Người này có thể giao chiêu ngang ngửa với huynh, thiên hạ đâu có mấy người. Ngoại hình hắn thế nào?

    Nam Cung Thiết Tâm thủng thẳng đáp:

    - Dựa vào võ công mà nói, chín phần hắn là Trương Vô Kỵ, giáo chủ Minh Giáo.

    Băng Tâm nghe đến tên Vô Kỵ, trong lòng như lửa đốt, vội hỏi:

    - Nam Cung huynh! Vậy hắn đang ở đâu rồi? Đệ nhất định phải tìm được hắn!

    Nam Cung Thiết Tâm lắc đầu nói:

    - Chuyện xảy ra cũng đã có đến hơn ba tháng rồi. Ta cũng không rõ tung tích của hắn nữa. Vô Kỵ này có quan hệ gì đến ngươi?

    Băng Tâm thở dài, uống một ngụm lớn Hồng Hồi Quế. Hơi rượu cay gắt đến mức Nam Cung Thiết Tâm cũng phải nhíu mày. Băng Tâm trầm giọng nói:

    - Chẳng giấu gì huynh, Vô Kỵ là nghĩa tế của đệ. Là phu quân của nghĩa nữ Triệu Mẫn. Cách đây tám năm, gia đình nghĩa nữ gặp nguy biến, toàn gia ly tán. Đệ từ ngày đó bôn tẩu khắp nơi, mong tìm được chút tin tức của Trương gia mà quả thực là biệt vô âm tín. Hôm nay hữu duyên gặp huynh, lại có chút ít manh mối của Vô Kỵ. Ngỡ tưởng có thể lần theo mà đã hơn ba tháng rồi thì cũng không biết đã trôi dạt về nơi nào nữa.

    Nam Cung Thiết Tâm thở dài, nói:

    - Không ngờ Trương Vô Kỵ võ công cao đến vậy mà gia đình cũng không thoát khỏi tai kiếp. Phàm nhân tại giang hồ, thân bất do kỷ, một khi đã bước chân vào nơi loạn lạc này thì cũng tựa như tay nhúng chàm, dù kim bồn cũng khó có thể tẩy thủ được.

    Băng Tâm lặng im, nhìn bếp lửa nhè nhẹ cháy, bỗng nghĩ ra ý gì, bèn hỏi:

    - Nam Cung huynh, huynh nói Vô Kỵ bây giờ là một kẻ bị loạn trí phải không?

    Nam Cung Thiết Tâm gật đầu nói:

    - Nghe đệ kể chuyện như vậy, xem ra không phải là loạn trí mà đã nhập ma rồi. Chiêu thức của hắn tuy loạn đấy nhưng rất tàn độc. Chiêu nào cũng là sát chiêu cả.

    Băng Tâm nhịp nhịp tay xuống mặt bàn, nói:

    - Đệ đi lại trên giang hồ gần đây, nghe tin Cự Kình Bang bị cường nhân sát hại liên tục mấy chi phái. Vốn nghĩ bang này trên giang hồ gây thù cũng nhiều, việc thanh trừng lẫn nhau cũng chỉ là chuyện bình thường. Nhưng lại nghe người nói là lâu lắm rồi Cự Kình Bang không tranh đoạt với ai, hơn nữa các chi phái đều bị thảm sát rất tàn khốc. Không nghĩ ra là Vô Kỵ, nhưng nghe huynh nói, xem ra ngoài nó không ai có khả năng này.

    Nam Cung Thiết Tâm chỉ khẽ gật đầu đồng ý. Nếu lần này Vô Kỵ nhập ma, lại nhập ma lâu đến vậy thì con đường trở lại chính tâm là vô cùng mong manh, nói không chừng là vô phương cứu chữa. Ông ái ngại nhìn sang Băng Tâm, nói:

    - Băng Tâm, Vô Kỵ giờ đã nhập ma, hồi đầu nan lộ. Nếu ngươi gặp hắn, không thể khuyên giải thì phải..

    Băng Tâm gật đầu, thở dài nói:

    - Nếu không thể đưa nghĩa tế trở lại chính tâm, thì đành phải hóa kiếp cho hắn, tránh thiên hạ rơi vào một huyết hải cốt sơn. Huynh lại nhớ về gã hung đồ đó chăng?

    Nam Cung Thiết Tâm nghiêm mặt, gật đầu nói:

    - Năm đó ta không đủ nhẫn tâm xuống tay với nó, suýt nữa đã phạm một sai lầm lớn. Đệ tuyệt đối không được mắc lại lỗi đó của ta.

    Không khí bất giác chùng xuống, chỉ còn lại tiếng củi cháy lép bép trong bếp lửa, tiếng thở dài khe khẽ xen lẫn tiếng gió thổi qua chái nhà ảm đạm. Trong cái không khí nặng nề đó, tiếng cười của Vĩnh Niệm như một cơn gió xuân tràn đến, mang theo sức sống vô tư của tuổi mười sáu, cái sức sống khiến hai người đang chìm trong nỗi suy tư buồn bã cũng phải bất giác mỉm cười. Cô xách theo hai giỏ đầy mơ và rau, nấm rừng khoe:

    - Trong rừng nơi đây đúng thật nhiều đồ ngon. Đúng mùa mơ, con hái về một ít làm mơ ngâm cho thái sư phụ và tiền bối thưởng thức nhé. Tuy con không khéo tay như Vĩnh Tình nhưng riêng mơ ngâm và rượu mơ con làm thì tuyệt luôn đó.

    Nam Cung Thiết Tâm bỗng bật cười nói:

    - Nhân chi sơ, tính bản thiện. Có lẽ không phải chúng ta mất hi vọng với đám đệ tử, nghĩa tế mà chúng ta mất hi vọng với chính bản thân rồi chăng? Cô nhỏ này quả là một báu vật đấy. Một nụ cười của nó lại giúp ta thêm phần hi vọng.

    Băng Tâm khẽ mỉm cười, nâng vò rượu Hồng Hồi Quế uống thêm một ngụm, bất giác không còn thấy rượu cay nữa..
     
    chiqudollLieuDuong thích bài này.
  7. Nguyên Không

    Bài viết:
    55
    Chương 5: Bạo vũ, lão nhân xuất thủ trị tâm ma

    Trùng hỏa, thiếu niên đơn đao đả quái khách
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tinh tà nguyệt tận, cuồng dạ vũ

    Cô đăng nhất trản, đoạn trường ưu

    Lãng nhân trường đồ chi chỉ độ

    Hồng nhãn, bồng đầu, nhược thân tâm


    Dịch:

    Sao mờ, trăng tà, mưa đêm lớn

    Bóng đèn lẻ loi, buồn đứt lòng

    Đường xa nghỉ bước chân lãng khách

    Đầu bù mắt đỏ, nhọc thân phàm


    Đêm đó mưa như thác đổ đầu non, gió nổi đưa những hạt mưa nặng như lão thiên nổi cơn thịnh nộ mà giáng xuống nhân gian những đường roi đanh thép. Kim Doãn Phật lặng lẽ cầm tẩu thuốc, thư thư thả thả nhả từng vòng khói lười biếng lên không trung, mắt lim dim tận hưởng chút yên bình hiếm hoi trong cuộc đời bận rộn. Hôm nay trời mưa lớn thế này, chẳng có ai đi xem mãi võ, gia đình chàng cũng về nhà nghỉ ngơi đôi hôm rồi mới lại gồng gánh sang tỉnh khác. Tuy bọn họ đi mãi võ nhưng vẫn luôn có một mái nhà đơn sơ để trở về. Nhóm bếp củi ấm, hâm bình rượu, Thượng Quan Ẩn nhẹ bước đặt lên bàn cho phu quân, không muốn chàng lại mất cái hứng bình dị ấy. Rượu vừa đặt lên bàn thì tay Kim Doãn Phật đã quàng sang kéo nàng ngã vào lòng. Chàng cọ cằm lún phún râu mấy ngày mãi võ không cạo lên cổ nàng khiến nàng phải khúc khích bật cười, hờn mát:

    - Râu chàng bắt đầu rậm rồi đấy, cù người ta nhột chết được.

    Kim Doãn Phật cười khà khà, nâng cằm nàng mà hôn một nụ hôn đầy mê đắm. Rời môi, Kim Doãn Phật mới nói nửa đùa nửa thật:

    - Con gái chúng ta lớn rồi, hay chúng ta sinh thêm một tiểu tử nữa cho vui cửa vui nhà nhỉ?

    Thượng Quan Ẩn cười lớn, tát yêu lên má chồng:

    - Chàng ấy, cứ trông vào cái gánh mãi võ này thì còn lâu mới sinh được thêm đứa nữa nhé. Chúng ta cũng tích lũy được chút vốn rồi, có nên mở một trà quán nơi đây cho đỡ những tháng ngày lưu lạc chăng?

    Kim Doãn Phật nghe đến đây, bỗng tắt nụ cười, thở dài nói:

    - Nàng cũng biết chúng ta dựng được một mái nhà ở nơi đây cũng đã là may mắn lắm. Chẳng biết có ở đây được lâu không hay lại phải sớm lên đường bôn ba dặm trường.

    Thượng Quan Ẩn không nói gì thêm, chỉ lặng lẽ đặt tay lên vai chồng, khẽ xoa bóp. Kim Doãn Phật lại nhắm mắt, thư thái cảm giác dễ chịu từ ngón tay nàng mang lại. Chàng nói:

    - Nếu ngày nào cũng được bên nàng thế này thì có đi đến tận cùng thế gian ta cũng chịu.

    Thượng Quan Ẩn mỉm cười, bỗng nhác thấy ngoài cửa, nơi hiên bếp có bóng người đứng khuất sau chái nhà. Nàng kín đáo bấm mạnh vào vai chồng ra hiệu, đoạn lại xuất trong tay áo ra ba mũi Thiên Phiên Toái Vũ Châm định phi tới thì Kim Doãn Phật đã cản lại. Chàng lắc đầu, lấy từ dưới bàn ra đôi phán quan bút, lẳng lặng bước ra ngoài. Ra đến ngoài hiên, mặc tiếng gió mưa át tiếng người, Kim Doãn Phật cất giọng nói từ tốn nhưng vẫn vang vọng khắp không gian:

    - Ngươi là yêu ma phương nào, đêm khuya lại đến đây có hành động ám muội đến vậy?

    Bóng đen đó không nhúc nhích, cũng chẳng trả lời, cứ đứng im ở chái nhà đó, mặc cho gió táp mưa sa ướt rượt. Kim Doãn Phật lại lên tiếng hỏi lại:

    - Chúng ta nơi đây không có gì quý giá! Nếu muốn vào tá túc thì cứ tự nhiên vào, không cần đứng lén lút nơi đó làm gì!

    Bóng người đó khẽ quay đầu nhìn về hướng Kim Doãn Phật, đôi mắt lộ hung quang sáng quắc, một luồng sát ý bỗng ngập không gian, tựa như một luồng tử phong từ địa ngục thổi lướt qua người Kim Doãn Phật. Chàng nghiến răng, nhún người phóng vụt đến, đôi phán quan bút trong tay xoay tít rồi bất ngờ điểm đến huyệt Thần Đỉnh (1) của người lạ. Người kia khẽ rùn người xuống, đôi song chưởng đánh ra theo đường Lưu Thủy, sử chiêu Kình Ngư Lập Vĩ, uyển chuyển nhằm hạ bàn Kim Doãn Phật vỗ tới. Giữa không trung, Kim Doãn Phật xoay người né chiêu, tay lại xoay bút, xuất kỳ bất ý sử chiêu Quân Tử Hồi Đầu, nhằm huyệt Á Môn (2) điểm tới. Chiêu này vốn rất bất ngờ, lại thêm khi trước người lạ kia xuất chiêu chưa kịp hoàn thủ, Kim Doãn Phật tin chắc lần này bút không thể điểm trượt. Người kia sau lưng như có mắt, lại bước đến phía trước một bước vào mã tấn, trong sát na tránh được bút chiêu, lại búng người ngược về phía sau, lấy khuỷu tay thúc mạnh tới, đây là lối thảo của chiêu Lão Hổ Quy Sơn, thiên hạ không mấy người biết chiêu thức này của Võ Đang. Cước bộ của người lạ này rất nhanh, lại cũng rất chuẩn, người vừa búng lại phía sau thì chân đã kịp hạ xuống đất, mượn hồi lực tăng thêm uy lực cho cú thúc khuỷu. Kim Doãn Phật thân thủ không nhanh bằng, biết không kịp né tránh, đành vận công cường hóa vùng ngực để tự bảo vệ, lại tính kế lưỡng bại câu thương, hai bút đâm đến hai tử huyệt Cưu Vĩ (3) và Chương Môn (4). Nào ngờ song bút vừa điểm tới thì đã có một luồng chấn lực phản lại từ bên trong cơ thể người lạ, khiến hai tay Kim Doãn Hầu tê chồn. Kim Doãn Phật trúng đòn Lão Hổ Quy Sơn, kình lực rất mạnh nên dù đã vận công chống đỡ nhưng cũng bị đánh văng về phía sau hơn ba trượng, thấy trong lồng ngực khí huyết nhộn nhạo, lại thổ ra một búng máu tươi, xem ra đã nội thương không nhẹ. Thượng Quan Ẩn thấy phu quân thọ thương, không khỏi lo lắng, bèn búng người khinh công lướt ra, trong tay phất Bạo Vũ Lê Hoa Châm nhằm người lạ kia phóng đến. Châm bay như hoa lê rụng tan tác trong cơn cuồng phong, tưởng như loạn mà kỳ thực không loạn. Châm lại nhỏ mảnh như sợi lông bò, trong đêm tối như thế này thì việc tránh né là bất khả. Ấy vậy mà kẻ lạ mặt kia người ngả nghiêng như say rươu, tay chụp tay bắt, mắt thì nhắm nghiền như ngủ. Người không biết lại tưởng hắn đang say rượu, ngủ mớ mà khua khoắng tay lung tung. Chỉ đến khi tay hắn túm đầy ám khí, trên người không có một vết thương nào thì Thượng Quan Ẩn lẫn Kim Doãn Phật mới toát mồ hôi lạnh. Mưa vẫn đổ như trút, ba người đứng lặng im như tờ, lặng lẽ quan sát động tĩnh của nhau. Người lạ kia bỗng cất tiếng khàn khàn:

    - Các ngươi.. các ngươi có thấy vợ và con ta không?

    Kim Doãn Phật sợ người này dùng kế dương đông kích tây, mượn lời gây xao nhãng để tấn công bất ngờ, chỉ lạnh lùng hỏi lại:

    - Vợ con ngươi là ai?

    Người kia chợt thõng tay, giọng trở nên mơ hồ một cách kỳ lạ:

    - Vợ ta.. vợ ta là Triệu Mẫn. Trương Tuệ Phong là con trai ta. Còn Vĩnh tình là con gái. Bọn nó còn nhỏ lắm. Đứa lớn mới có mười tuổi, đứa nhỏ chỉ bốn. Các ngươi.. có nhìn thấy họ chứ?

    Hai vợ chồng Kim Doãn Phật nhìn nhau, ngơ ngác. Người này phu quân của Triệu Mẫn, vậy chẳng phải trước mặt họ là Trương Vộ Kỵ sao? Sau đêm hí lộng hoàng thành năm xưa, bọn họ chưa từng gặp lại. Người lạ này võ công trác tuyệt, nhưng ngoại hình tiều tụy, thần trí mê loạn, nếu bảo đây là Trương Vô Kỵ thì quả thực mấy ai tin được. Thượng Quan Ẩn hỏi:

    - Ngươi có phải là Trương Vô Kỵ đó chăng?

    Người lạ kia bỗng run lên, thều thào:

    - Trương Vô Kỵ? Trương Vô Kỵ chết rồi! Ta không biết ta là ai nữa.. Ta.. ta không biết!

    Dứt lời, người kia bỗng nhào đến như một con thú, hai trảo vồ xuống tựa mãnh hồ vồ mồi, nhằm đầu hai vợ chồng Kim Doãn Phật mà chụp xuống. Đôi phu phụ cùng chung tay xuất chưởng địch lại, bỗng thấy hai trảo đã thu lại, người kia dùng Thiên Cân Trụy hụp ngay xuống đất, lộn một vòng, chớp mắt đã đến vùng hạ bàn của hai vợ chồng rồi bật dậy, dùng vai thúc vào bụng dưới của hai người, hai tay lại túm chặt lấy cổ áo dúi xuống. Kim Doãn Phật và Thượng Quan Ẩn bị mất trụ, lại bị tay người kia vận kình hút chặt lấy, quật ngã xuống đất. Hắn vận công, nội lực phát tiết ra ngoài rào rạt cuốn quanh người hắn như một con rồng vô hình. Tay giơ lên chuẩn bị phất xuống thì đã bị kéo lại bởi một sợi xích bạc. Kim Doãn Phụng gồng hết sức giữ chặt lấy sợi ngân tuyến, hét lớn:

    - Ngươi dám đả thương cha mẹ ta! Hôm nay ngươi đừng hòng rời khỏi nơi đây!

    Dứt lời, cô neo ngân tuyến quanh một gốc cây liễu già, đoạn nhẹ bước khinh công theo đường tuyến, chờn vờn lướt đến. Đoản thích trong tay lướt ngọt một đường nhằm cổ tay bị trói của kẻ lạ mặt kia chém đến. Chỉ thấy một luồng kình khí nóng rực bùng lên, đường thích kia cũng vì thế mà thiếu chuẩn xác, rốt cục lại bị tay kia của kẻ lạ mặt túm chặt. Thanh thiết thích này vốn rèn bằng thép tốt, cứng cáp vô cùng mà kẻ đó bẻ gãy như bẻ một thanh củi nhỏ. Kim Doãn Phụng trong lòng than thầm hôm nay gặp phải quỷ quái nơi nào, nhưng vẫn bình tĩnh xuất một chưởng Động Đình Yên Vũ, mãnh liệt đánh tới hòng tìm đường thoát thân. Chưởng đi nhanh như chớp, trúng vào ngực kẻ lạ mặt kia đánh ầm một tiếng. Nhưng tiếc là tu vi chưa đủ, chẳng những không gây tổn hại cho hắn, ngược lại Kim Doãn Phụng còn bị phản chấn, toàn thân chịu một lực đả kích không nhỏ. Cố gắng gượng đứng dậy nhưng xem ra nội thương đã làm cô mất hết khí lực, đành thả người ngã gục xuống đất. Người lạ mặt kia mắt đổ hung quang, những sợi máu trong mắt đỏ lên khiến người ta phải kinh sợ. Kim Doãn Phật nhìn mắt kẻ này, biết hẳn chuẩn bị xuống tay hạ sát con mình, vội hét lớn:

    - Anh hùng không bức hiếp trẻ nhỏ, phụ nữ! Ngươi muốn giết thì cứ giết ta đây, nhưng tha cho vợ con ta. Ta quyết không một lời oán thán!

    Nhưng mấy lời này tiếc thay, đâu có đến tai người lạ kia. Hắn còn đang chìm trong cơn mê khát máu, buông một tràng cười điên loạn rồi định nhả kình. Bỗng như bị điện giật, hắn quay lại nhìn ra sau lưng. Cách hắn khoảng ba trượng, một lão hán che ô đang từ tốn bước tới. Ngoài choàng áo cừu, trong áo đoạn, tay đeo nhẫn hộ tiễn phỉ thúy lót vàng, bấy nhiêu đây cũng đủ đấy người này là một viên phú hộ cự phách trong vùng. Tuổi trạc Băng Tâm, tóc đã ngả hoa râm, vóc người nhỏ nhắn nhưng toát nên một vẻ nhanh nhẹn có phần hóm hỉnh. Đôi mắt màu xám bạc hiếm thấy nheo lại như muốn cười khắp nhân gian. Đôi mắt bạc ấy đang quét theo nhất cử nhất động người lạ kia. Kẻ lạ mặt bỗng thấy như hắn đang đối diện với một con rồng ngàn tuổi ẩn mình, tuy đã già nhưng ẩn tàng một sự đe dọa bức người. Hắn vội búng người lùi lại phía chái nhà, vào thế thủ. Lão hán vẫn khoan thai bước đến, đỡ Kim Doãn Phụng ngồi dậy rồi đặt tay lên lưng cô, truyền vào một luồng nhiệt khí. Giây lát, cô đã thổ ra một búng máu tươi, sắc mặt đã hồng hào trở lại. Cô khẽ mở mắt, thều thào nói:

    - Sư phụ..

    Lão hán kia mỉm cười nói:

    - Tốt rồi. Con đưa cha mẹ vào trong nghỉ ngơi. Người này để ta lo liệu.

    Kim Doãn Phụng gật đầu rồi vội đỡ cha mẹ vào trong nhà, đóng chặt cửa. Lão hán thấy toàn gia đệ tử đã an toàn, lúc đó mới cất tiếng nói:

    - Trong người ngươi có một luồng dương khí mãnh liệt, luân chuyển tuần hoàn thành một tấm giáp hộ thể cho ngươi. Nhưng lại có một luồng nội lực mạnh mẽ kỳ lạ khác xen lẫn vào khiến luồng dương khí bị vẩn đục, lại bị dồn luân chuyển nhanh quá độ. Khi bộc phát rất mạnh mẽ, nhưng xem ra luồng khí đã tồn tại trong người ngươi nhiều năm, lại thêm biến cố, khiến tâm ngươi không còn tỉnh táo để kiểm soát nó. Giờ nó đang thiêu đốt cả thân và tâm ngươi. Nếu không dừng lại, Trương Vô Kỵ, ngươi tất sẽ bị tẩu hỏa nhập ma mà mất mạng.

    Mưa làm tóc người lạ mặt kia bết lại, nhưng cũng tẩy đi chút bụi đường lem luốc, gương mặt hiện ra chính là Trương Vô Kỵ, tuy lúc này đã tiều tụy rất nhiều. Chàng gằn giọng hỏi:

    - Ngươi là ai? Có thấy vợ con ta không?

    Lão hán kia nhíu mày, rồi lắc đầu, cười nhẹ nói:

    - Ta là Đoàn Trường Lạc, người ở vùng này. Nghe danh Trương giáo chủ từ xa mà chưa có dịp gặp mặt. Nay được diện kiến, hân hạnh, hân hạnh!

    Vô Kỵ nghe mấy chữ "giáo chủ", hỏa khí trong người lại bốc lên cuồn cuộn, bức bối vô cùng. Chàng điên cuồng lao lên, sử chiêu Hỏa Trung Thủ Lật trong công phu Minh Giáo Thánh Hỏa Lệnh, một tay phát chưởng đánh đến, vốn chỉ là hư chiêu, tay kia vòng đến ôm gáy đối phương kéo giật xuống, đoạn lại lên gối theo lối Thiên Hỏa Tàn Sơn mới là thực. Chỉ thấy chưởng lực đánh tới người Đoàn Trường Lạc như biến mất vào thinh không, tay kia của chàng vừa vươn tới vai lão thì đã bị túm chặt lấy ngón cải, thuận đà bẻ quặt xuống. Lão kéo một cái, đoạn đưa chân móc nhẹ đã khiến Vô Kỵ bị quật ngã. Vô Kỵ sửng sốt vô cùng. Đi lại trên giang hồ không ít năm, nếm trải không ít công phu kỳ lạ nhưng người có thể quật ngã chàng mà toàn thân không điểm nội lực nào thì quả thực chưa từng gặp. Chàng đã từng trải nghiệm Bắc Minh Thần Công của Băng Tâm, biết cảm giác bị hút nội lực thế nào. Chàng cũng đã từng thử chiêu với thái sư phụ, người đã luyện đến cảnh giới tối nhu, cũng có cảm giác khi dùng nội lực đánh đến như nước mưa vào biển lớn, hòa vào một, mất tăm mất dạng. Nhưng cảm giác nội lực như bị hóa thành không thế này, thực khiến chàng phải toát mồ hôi lạnh. Vô Kỵ ngấm ngầm vận công, thấy nội lực trong người vẫn rất sung mãn, bèn vận công, sử chiêu Phong Hỏa Liên Thiên, phát một chưởng nhằm hướng lão hán kia đánh đến. Chiêu này khi tâm càng sầu, hỏa tâm càng lớn thì càng phát huy uy lực. Nhiệt khí từ chưởng này thiêu đốt vạn vật trên đường đi của nó. Lão hán kia bình nhiên khoan thai đứng, chân không rời một bước, hai tay chỉ vòng lên ôm theo lối thái cực, luồng hỏa khí kia như bị hút vào một vòng xoáy giữa hai tay lão, cuộn tròn lại thành một quả cầu lửa. Quả cầu lửa cứ nhỏ dần, nhỏ dần, giây lát đã biến mất tăm không hình tích, hệt như chưởng ban đầu của chàng. Đoàn Trường Lạc mỉm cười nói:

    - Nghe lời ta, hãy nghỉ lại đây một đêm rồi sáng mai ta sẽ tìm cách cứu ngươi.

    Vô Kỵ tâm nhập ma, đâu có lí gì đến mấy lời chân thành này. Chàng nghiến răng, nghĩ bụng:

    - Cao ngạo! Tưởng hơn ta được một chiêu mà có đủ tư cách giữ ta sao!

    Chàng hít một hơi, vận nội công đến mức đề thủ thượng thế. Cỏ dại đang tươi tốt bỗng rám cả lại, luồng nhiệt khí trong người chàng phát ra đến kinh người khiến Đoàn Trường Lạc cũng phải nhíu mày. Ông thu một tay sau lưng, một tay đưa ra phía trước, mời ra chiêu. Vô Kỵ biến mất như một bóng mờ, thoáng chốc đã thấy bóng chàng từ tám hướng trước sau, trái phải, trên dưới đánh tới. Mỗi bóng một chiêu thức, chiêu nào cũng mang đầy hỏa khí trùng trùng. Miệng chàng lẩm nhẩm:

    - Phần ngã tàn khu, hùng hùng thánh hỏa. Sinh diệc hà hoan, tử diệc hà khổ.

    Đoàn Trường Lạc nhắm mắt lại, nghe hỏa khí đã áp đến bên tai phừng phừng, lại nghe da trên tay nóng rát nhưng vẫn bình tĩnh vào thượng tấn, tay lựa theo bóng chiêu của Vô Kỵ và đánh ra phản chiêu. Thấy bóng quyền của ông như một vòng sáng bằng bạc bao trùm lấy toàn thân. Bên ngoài vòng bạc đó, Vô Kỵ dùng Tinh Hỏa Liệu Nguyên, tuyệt kỹ trong bộ võ công Thánh Hỏa Lệnh, cũng không đánh xuyên vào được. Đang lúc giao chiêu kịch liệt, bỗng vai Vô Kỵ bị Đoàn Trường Lạc túm chặt. Chỉ thêm một lực đẩy khẽ, chàng đã bị quật ngã đo đất. Lúc bấy giờ hỏa khí trong người chàng như bị một chậu nước tạt tắt, Vô Kỵ lăn ra bất tỉnh. Đoàn Trường Lạc thấy vậy mới đứng dậy, quét mồ hôi, nghĩ bụng:

    - Thằng tiểu quỷ này nội lực thật kinh người. Chỉ tiếc là hắn đã nhập ma quá lâu, việc này muốn cứu xem ra cũng không dễ.

    Đoàn Trường Lạc lại túm lấy cổ áo Vô Kỵ, nhấc lên. Ông nhỏ bé vậy nhưng vác một hán tử to cao như chàng lên vai nhẹ như vác bao bông. Ông tiến tới gõ cửa nhà Kim Doãn Phật, gọi:

    - Các người mở cửa ra đi. Ngoài này ổn cả rồi.

    Thượng Quan Ẩn lúc đó mới rón rén mở cửa. Thấy Vô Kỵ bất tỉnh được Đoàn Trường Lạc vác trên vai mới thực yên tâm mở hẳn cửa ra. Kim Doãn Phụng thấy sư phụ bình yên vô sự, thở phào nhẹ nhõm nói:

    - Đa tạ sư phụ hôm nay cứu mạng. Nếu không toàn gia đệ tử hẳn đã mất mạng với tên điên này.

    Kim Doãn Phật cũng ôm quyền nói:

    - Đa tạ Đoàn sư phụ hôm nay chiếu cố. Kim Kê, Hoàng Ngưu này năm xưa đã được người che chở mới có thể yên ổn ở lại được nơi đây. Không ngờ hôm nay suýt nữa lại gặp một cơn nguy biến.

    Đoàn Trường Lạc thở dài nói:

    - Các ngươi xem, đây là ai?

    Thượng Quan Ẩn lúc bấy giờ vén tóc của Vô Kỵ lên, nhìn kỹ mới thốt lên:

    - Trương Vô Kỵ?

    Kim Doãn Phật nhíu mày nói:

    - Tại sao hắn lại thành ra thế này? Năm xưa Trương Vô Kỵ bá đạo võ lâm, nổi tiếng là người chính khí bậc nhất. Vì nguyên nhân gì khiến hắn trở thành một tên điên khát máu đến vậy.

    Đoàn Trường Lạc bắt mạch cho Vô Kỵ nói:

    - Hắn học nhiều môn công phu đối nghịch, hẳn trong lúc xúc động, không kiềm chế được tâm ma nên mới bị nhập ma, trở nên điên dại như thế này. Ta thấy hắn liên tục hỏi tung tích vợ con hắn. Có lẽ hắn bị thất lạc vợ con đã lâu rồi.

    Nói đoạn ông lại lấy giấy bút ra kê một đơn thuốc, đưa cho Kim Doãn Phụng nói:

    - Chút nữa mưa tạnh, con vào trong trấn cắt lấy mấy thang thuốc theo đơn này rồi sắc cho hắn uống. Thuốc này sẽ giúp hắn tỉnh táo được đôi chút, không đến nỗi làm loạn như hôm nay nữa. Chỉ tiếc là mạng hắn sợ khó giữ được.

    Kim Doãn Phụng nhìn Vô Kỵ nằm dưới sàn, ái ngại hỏi:

    - Sư phụ, hắn sẽ chết thật sao? Người là thần y mà không có cách nào chữa cho hắn sao?

    Đoàn Trường Lạc nhíu mày nói:

    - Hắn luyện được Cửu Dương Thần Công, là tuyệt thế thần công thời nay. Lại học được trọn vẹn thứ võ công kỳ quái của Minh Giáo, nội công đã mạnh lại thêm mạnh, nhưng không thuần. Nếu không mượn được nội công của bốn người này thì e không thể giải trừ được.

    Kim Doãn Phật hỏi:


    - Bốn người đó là ai ạ?

    Đoàn Trường Lạc điểm tên:

    - Đao Đế – Hồ Phi Thiên; Kiếm hoàng – Nam Cung Thiết Tâm; Bạch Thủ Sát Thần – Băng Tâm và Trương chân nhân của Võ Đang. Chỉ tiếc là ta không biết giờ bọn họ đang ở đâu. Trừ Trương chân nhân vẫn đang ở Võ Đang Sơn thì ba người còn lại đã tuyệt tích giang hồ nhiều năm. Mà giả sử có mời đươc họ thì..

    Thượng Quan Ẩn nghe Đoàn Trường Lạc có chút ngập ngừng, bèn hỏi:

    - Mời được họ thì sao thưa Đoàn sư phụ?

    Đoàn Trường Lạc thở dài, nói:


    - Mời được thì e lão Hồ và lão Nam Cung cũng không chịu hợp lực giúp. Hai người bọn họ như nước với lửa, không nhìn nhận nhau đã nhiều năm. Mà kể cả nếu bọn họ có chịu gạt chuyện riêng mà hợp lực thì cũng phải xem định thần của tên tiểu tử này thế nào. Nếu hắn quyết không chịu bỏ tâm ma, ta cũng không thể giúp gì được..

    Nói đoạn, ông cáo biệt gia đình Kim Doãn Phật, rời đi ngay. Kim Doãn Phật thấy trời còn mưa lớn, vội nói:

    - Đoàn sư phụ! Trời còn mưa lớn, vậy để ngớt mưa rồi người hãy đi.

    Đoàn Trường Lạc cười nửa mắt, hóm hỉnh nói:

    - Có trộm nào mà lại trời mưa lại nghỉ ở nhà không?

    ***********************

    Ánh lửa bập bùng của đống lửa trại lớn soi sáng cả một khoảng đất rộng, soi rõ cả những vệt mỡ của thịt nướng còn đọng lại ở mép mấy tên lính thô tục, soi rõ cả những lọn tóc nhẫy dầu lâu ngày không gội vì trời lạnh, soi rõ cả những cái răng vàng khè, sâu lỗ chỗ, thở ra những mùi kinh tởm đến lợm giọng. Lửa soi rõ nhiều vật vậy nhưng không soi nổi trái tim đen kịt của đám thảo khấu Lưỡng Long Trại này. Và lửa cũng không soi rõ ngụm máu mà Tuệ Phong vừa phun vào đám cỏ gần đó. Cậu loạng choạng đứng dậy, cây đao trong tay vẫn cầm chắc nhưng chân đã muốn khuỵu ngã lắm rồi. Tối nay cũng xem ra Lãng Nghệ có điều gì khó chịu trong người ghê lắm. Đã thành lệ, mỗi khi Lãng Nghệ ghé thăm trại đều ra lệnh đốt lửa trại lớn và đám lâu la biết là tối nay lại có trò vui để xem. Từ khi còn là một đứa trẻ, Tuệ Phong đã đưa người ra làm trò vui cho Lãng Nghệ và lũ đạo tặc. Nhớ khi Hồ Phi Thiên mới đưa cậu về trại, yên ổn được đôi hôm thì Lãng Nghệ đến trại, hắn mang theo một con sói xám. Cậu vẫn nhớ như in đôi mắt sáng quắc, vằn máu của con sói đã bị bỏ đói mấy ngày, nhìn cậu hau háu như nhìn một miếng thịt tươi. Cậu vẫn còn nhớ nguyên cảm giác như điện giật khi nó bước ra khỏi lồng sắt, chậm rãi vươn người rồi vờn quanh cậu. Tay cậu run bần bật đến mức không cầm nổi thanh đao trong tay. Con sói đó sau khi vờn quanh cậu một lúc, bèn chồm người lao đến, nhằm tay cậu cắn đến. Lúc đấy trong đầu cậu chỉ có một chữ: "Chạy!"

    Cậu né được cú táp của con sói đó trong sát na. Cậu vừa vươn người chạy thì đã ngã dúi dụi vì cuống. Con sói thấy trượt cú đầu bèn hung hãn quay đầu sang táp thêm một lần nữa. Lần này nó đã cắn trúng. Cánh tay của đứa trẻ mười tuổi như muốn vỡ vụn trước đôi hàm nghiến chặt của con sói. Răng sói cắm ngập nơi cánh tay cậu, nơi máu chảy ra xối xả. Xung quanh đám lâu la hiếu kỳ cười khả ố, la hét vì phấn khích. Lâu lắm rồi bọn chúng không thấy trò vui đến vậy, dù trò vui đó là tính mạng của một dứa trẻ. Hồ Phi Thiên cũng đứng đó, lặng lẽ nhìn. Cây đao sau lưng ông vẫn tỏa ra thứ sát khí lành lạnh nhưng vậy, nhưng đôi mắt ông còn lạnh lùng hơn thế. Tuệ Phong thét lên vì đau đớn. Theo phản xạ, cậu bỏ đao, lấy tay chọc ngay vào mắt con sói làm nó đau đớn nhả tay cậu ra, loạng choàng lùi lại. Cái đau làm cậu thêm sợ, nhưng làm con sói thêm khát máu. Mắt vẫn còn chảy máu ròng ròng, nó loạng choạng lao đến, nhảy bổ vào cậu. Tuệ Phong theo vô thức nắm lấy thanh đao, chống ngược lên, vô tình lại đâm xuyên vào bụng con sói, lúc đó đã nhảy quá đà vì mắt chột. Cậu nhắm tịt mắt, mãi đến khi huyết lang chảy xuống mặt cậu nóng hổi, cậu mới nhẹ nhẹ mở mắt ra và nhận ra mình chưa chết. Con sói lớn nằm đè lên cậu nặng chịch, nhưng trong lòng cậu chưa bao giờ nhẹ nhõm hơn thế. Cậu đẩy con sói ra, rồi lăn ra ngất xỉu. Đó là vết sẹo đầu tiên của cậu.

    Tám năm trôi qua, những lần Lãng Nghệ ghé thăm đều thêm trên người cậu những vết sẹo ngang dọc mà đám sói, gấu và gần nhất là một con hùm xám mang lại. Những vết sẹo lớn nhỏ trên người cậu thêm nhiều bao nhiêu thì nỗi sợ của cậu với những hiểm nguy thập tử nhất sinh lại càng ít đi bấy nhiêu. Phần vì cậu phải đối diện với nó quá nhiều, phần vì cậu đã được Hồ Phi Thiên chỉ cho cách cầm đao sao cho chắc, mắt nhìn sao cho nhanh và đầu luôn lạnh nhất có thể. Rèn luyện qua những trận đấu với đám thú dữ đã rèn luyện cho cậu một thể lực bền bỉ, một mức phản xạ khó ai bì kịp và một ý chí sống còn hiếm có. Cậu giờ đã có thể tự tin dùng đao xử lý gọn một đám dạ lang, giống sói săn đêm theo đàn rất nguy hiểm. Cậu có thể đánh ngang tay khi đối diện với cả gấu xám và hùm xám một lúc. Nhưng tối nay, đứng trước cậu không phải là một con dã thú, mà là một con người. Nỗi sợ đã nhiều năm không ghé thăm, hôm nay quay lại trong cậu đầy đủ như lần đầu tiên cậu đối diện với con sói xám đó. Nỗi sợ đó đến từ thẳm sau trong tiềm thức cậu, cậu biết rằng thú hoang chiến đấu với cậu vì nó đói và cần mồi. Còn người đứng trước mặt cậu đây sẵn sàng giết cậu chỉ để thỏa mãn một thú vui bệnh hoạn, một cơn khát máu bất chợt. Đôi tay cậu cầm đao vốn chắc chắn nhưng hôm nay vẫn thoáng lộ chút run rẩy khe khẽ. Tên đấu sĩ trước mặt cậu cũng sử dụng đao. Thanh đao trong tay hắn là một thanh bảo đao, Vô Huyết Đao. Tương truyền đao này ngoài sắc đến chém sắt như chém bùn, thổi tóc là đứt mà giết người xong không đọng máu nên mới có cái tên Vô Huyết. Gã đấu sĩ nhìn cậu thanh niên mười tám tuổi, cười cợt nói với Lãng Nghệ:

    - Thủ lĩnh, người nói xem thằng nhãi này có gì thú vị mà bắt thuộc hạ phải mang cả Vô Huyết Đao ra nghịch với nó?

    Lãng Nghệ nhếch mép cười, nụ cười nửa miệng vừa tinh quái, vừa ma mị theo ánh lửa lúc tối lúc sáng khiến người đối diện phải rùng mình:

    - Nó đã từng dùng một thanh đao đó diết gọn tám con sói và một đôi gấu, hùm xám đấy. Ngươi xem vậy có đủ xứng đấu với Vô Huyết Đao của ngươi chưa?

    Gã đấu sĩ cười nhạt, nói:

    - Dẫu có giết rồng đi chăng nữa, nhưng thằng nhóc này chưa từng giết người. Thuộc hạ biết rất rõ ánh mắt đó, sự sợ hãi khi đối diện với một kẻ mà hắn phải giết. Tiếc là, tối nay hắn sẽ ra đi mà không nếm được cái khoái lạc khi nhìn ánh mắt tắt dần đi sự sống khi cắm ngập đao vào ngực địch nhân.


    Chưa kịp hết lời thì gã đấu sĩ đã chợt thấy một luồng kình phong lướt đến. Luồng kình phong đi rất nhẹ, nhưng rất nhanh và chắc chắn. Gã đã chân vào thanh đao đang chống dưới đất làm thanh đao bay lên ngang tầm tay. Tay hắn nhanh như cắt chụp lấy chuôi đao, đoạn ngả người chém ngang một đường. Chiêu này chính là chiêu Hồn Tán Phách Phi trong Thất Hồn Đao Pháp chỉ nội truyền trong giới Cẩm Y Vệ. Hắn cười khẩy, cảm giác cái lạnh của thanh đơn đao Tuệ Phong lướt qua sát má thích chí, đến khi máu từ ngực Tuệ Phong tóe ra chảy dọc theo lưỡi đao nhỏ xuống đất thì hắn mới cười lớn đầy thích thú. Tuệ Phong ngỡ nhân lúc hắn đang phân tâm có thể nhân đó mà chiếm lợi thế, nhưng đao của cậu còn chưa đạt đến mức tàng âm vô ảnh, sao có thể lén đánh cao thủ như gã đấu sĩ này được. Cũng may khi đường đao của gã đấu sĩ kia lướt qua, Tuệ Phong giác quan phản xạ mẫn tiệp nên kịp dừng bước, lưỡi đao cũng chỉ chém một vết nông, không tổn hại đến khí cốt. Cậu thấy máu chảy đỏ áo, nhưng lại không thấy đau đớn, chỉ thấy tay đang run lên vì sợ. Gã đấu sĩ thấy chân cậu run run, nhếch mép cười khả ố:

    - Thằng nhãi này đúng là chân gà, mới thế mà đã tè ra quần rồi. Các ngươi mau lấy nước dội cho nó bớt khai đi rồi ta mới đánh tiếp được!

    Bọn lâu la bên ngoài lại thêm phần hứng chí. Rượu lại rót tràn bát, thịt lại cắn ngập mồm và những tiếng chửi thề tục tĩu lại vang lên ầm ầm khắp trại. Một tên lính nhép khệ nệ xánh xô rượu lớn đi tiếp các bàn, chẳng biết đi thế nào lại vướng phải chân Hồ Phi Thiên, hất rượu đánh ầm một cái vào Tuệ Phong. Cả xô rượu tạt đến như cú đấm vào ngực cậu, làm cậu loạng choạng ngã xuống. Rượu chảy qua vết thương làm cậu nhăn mặt lại vì đau. Rượu hòa vào máu chảy xuống miệng cậu vừa cay vừa mặn. Nhưng rượu cũng làm cậu phát hỏa khí trong người, phát tiết cơn giận ngấm ngầm giữ chặt trong đáy lòng bấy lâu. Rượu làm cậu hết sợ. Tuệ Phong lảo đảo chống đao xuống đất đứng dậy. Tuy mắt còn hoa vì mất máu và hơi rượu, nhưng tay cậu đã nắm chặt đao, chân cũng không còn run nữa. Hồ Phi Thiên mỉm cười ý nhị, ôm đao dựa cột thoải mái xem tiếp. Tuệ Phong vào thế Hồi Hậu Tấn, đao ngang mi tâm, tay giữ đại thủ ấn. Nụ cười trên môi gã đấu sĩ như bị hóa thành băng, rồi từ từ chuyển thành một cái mím môi giận dữ. Hắn gào lên:

    - Thằng nhãi! Ngươi học Lãnh Nguyệt Đao Pháp ở đâu?

    Tuệ Phong lừ lừ không nói gì, giữ đúng thế tấn, bước lên một bước. Gã đấu sĩ nghiến răng, gằn giọng nói:

    - Nếu hôm nay ngươi không nói ra, đừng trách Phá Lang Chu Vịnh ta độc ác!

    Nói rồi gã phóng vụt đến, sử chiêu Cửu Chuyển Ly Hồn, ầm ầm kình phong, đao chém đến như muốn đoạn cả hồn phách. Rượu vẫn nhỏ tong tong từ mái tóc lòa xòa của Tuệ Phong, xuống đất. Những giọt rượu pha máu đỏ hồng bỗng lơ lửng trong không trung rồi bay vụt lên. Ai tinh mắt nhìn sẽ thấy trong những giọt rượu đó, đôi mắt của Chu Vịnh đang mở to đầy kinh hãi, miệng hắn mở to nhưng không thốt được thành lời. Tuệ Phong lẩm bẩm:

    - Vân Long Tam Hiện..

    Đao cậu chém xéo ngược lên liên tiếp ba đường. Đường đầu mang theo khí thế như Nhất Long Xuất Thủ, vẫy vùng trong bão tố, cuốn theo những giọt rượu đang rơi bay ngược trở lại không trung. Đao kình như sóng bạc đầu xô bờ, phá tan chín đòn khoái đao của Chu Vịnh. Đường đao thứ hai như Nhị Long Ẩn Thân, mờ mờ ảo ảo như trốn trong mây, thoắt ẩn thoắt hiện chém đứt cả hai bàn tay của Chu Vịnh, máu vọt ra như suối. Đường đao cuối cùng chính là Nhị Long Bãi Vĩ, thanh thoát lượn qua một đường cương mãnh, kề sát ngay cổ Chu Vịnh. Sinh mạng hắn giờ hoàn toàn nằm trong tay cậu. Chu Vịnh đau đớn gằn giọng nói:

    - Ngươi nhanh một đao giải thoát ta khỏi nỗi nhục này, ta đa tạ ngươi lắm!

    Khi đồ sát đám thú dữ, cậu trong lòng cũng có chút chần chừ nhưng việc xuống tay vẫn khá là dễ dàng. Nhưng đứng trước một mạng người, dù hắn là kẻ ác, dù hắn vừa nãy chỉ lăm le chém cậu thành trăm mảnh làm mồi cho thú hoang, Tuệ Phong vẫn không nhẫn tâm xuống tay trước gã. Lãng Nghệ lên tiếng:

    - Tuệ Phong! Ngươi lấy đầu hắn đi! Nếu ngươi mang đầu hắn lên đây, ta hứa từ nay sẽ không lôi ngươi ra làm trò nữa!

    Tuệ Phong nhìn vào mắt Chu Vịnh. Trong đôi mắt ngầu đỏ vì giận dữ, vì đau đớn, vì hổ nhục, cậu vẫn thoáng thấy một thứ gọi là nhân tính. Tuệ Phong lắc đầu, thu đao lại, nói:

    - Ta không xuống tay với một kẻ đã thất thế.

    Nói rồi cậu lảo đảo quay người bỏ đi. Chu Vịnh nghiến răng, gào lên:

    - Ngươi không cần thương hại ta! Thứ ta hận nhất trên đời là sự thương hại!

    Dứt lời hắn lấy miệng thay tay, cắn lấy lưỡi thanh Vô Huyết Đao, búng người lao đến. Tuệ Phong hoảng hốt quay lại, ngỡ phen này mình yếu lòng không phải chỗ, lại hỏng chuyện rồi thì thấy đầu Chu Vịnh cùng thanh đao Vô Huyết đã nằm ngay ngắn trên tay Hồ Phi Thiên. Ông quăng đầu Chu Vịnh ra một góc, tay nâng thanh đao ngắm nghía nói:

    - Ta nhìn nãy giờ đã nghi nghi, biết ngay là đồ giả. Đao còn giả thì hẳn người chẳng ra gì.

    Nói rồi ông lấy tay búng một cái, thanh Vô Huyết đao kia gãy làm đôi. Lãng Nghệ nhíu mày nhìn theo bóng hai thầy trò mỗi lúc một rời xa đống lửa trại, chìm dần vào bóng tối, thầm suy nghĩ.. Lại nói Tuệ Phong đi ra đến gần cổng trại, nhớ lại cảnh đầu Chu Vịnh trên tay Hồ Phi Thiên, trong bụng nhộn nhạo không kìm được, bèn gập người xuống nôn cả ra mật xanh mật vàng. Hồ Phi Thiên đứng cạnh vỗ lưng cậu nói:

    - Từ từ rồi ngươi sẽ quen. Hôm nay giữ được mạng là tốt rồi.

    Tuệ Phong gạt tay Hồ Phi Thiên ra, gào lên:

    - Quen? Ông nói ta có thể quen với việc giết người như ông sao?

    Hồ Phi Thiên im lặng, ông lững thững bước đi trước, nói khẽ, nhưng rõ ràng:

    - Mỗi khi ngươi giết người, ngươi đều đánh mất đi một chút nhân tính. Ta mong ngươi giữ được nhân tính, đừng để trở thành một con quỷ.. như ta.

    Tuệ Phong cũng im lặng một hồi lâu rồi chạy đuổi theo Hồ Phi Thiên, bá lấy vai ông nói:

    - Sư phụ, hôm nay may tên Chu Vịnh đó sử dụng đao giả. Nếu là Vô Huyết Đao thật chắc ta đã chết lâu rồi.

    Hồ Phi Thiên uống một ngụm rươu, tủm tỉm cười, nói:

    - Ai nói ngươi đó là đao giả?

    Chú giải:

    (1) Huyệt Thần Đỉnh: Nằm ở mép tóc trước trán lên trên khoảng 5cm, điểm trúng sẽ bị choáng váng

    (2) Huyệt Á Môn: Nằm ở sau ót, điểm trúng sẽ bị cấm khẩu, choáng váng, bất tỉnh

    (3) Huyệt Cưu Vĩ: Trên rốn 15cm, điểm trúng sẽ gây chấn động vách bụng, tĩnh mạch, gan, mật, tim, đọng máu, gây tử vong

    (4) Huyệt Chương Môn: Tại giữa nách, điểm trúng sẽ gây tổn thương gan, lá lách, phá hoại màng cơ xương, cản trở khí huyết
     
    LieuDuongchiqudoll thích bài này.
  8. Nguyên Không

    Bài viết:
    55
    Chương 6:

    Yên Vũ Đình thính vũ, tiểu cô nương đón chân nhân

    Khởi Nguyên Quán vọng lâu, Mộ Dung nhân áp Độc Vương
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trời thu, những cơn mưa hiếm hoi không vội vã như mưa rào ngày hạ khiến người ta hít một hơi sảng khoái khi cái nóng bức bị đánh tan, cũng chẳng lất phất như bụi mưa xuân làm người ta khẽ mỉm cười rảo bước dưới tán lộc non mới nhú. Mưa thu nhìn chung là buồn. Mưa rả rích, đủ lớn để không ai nhận ra những giọt nước mắt của người lãng khách dưới mưa, nhưng cũng đủ nhỏ để nghe tiếng ai bất giác thở dài vì một nỗi buồn không tên nào đó. Vĩnh Tình dẫu có là một cô bé mười hai tuổi thì cũng vẫn thở dài thậm thượt. Nhìn các sư tỷ và sư phụ đang tập trung điều khí, tu tập nội công, không gian xung quanh im lặng như tờ, chỉ có tiếng mưa rơi khe khẽ ngoài sân. Mưa mang theo mùi nồng nồng, ngai ngái của đất ẩm khiến chân của Vĩnh Tình ngứa ngáy, chỉ muốn chạy ra ngoài chơi cho thỏa thích. Nhưng nhìn sư phụ nghiêm nghị trực tiếp quản thúc, cô lại phải tự cấu vào chân mình một cái cho yên. Ấy vậy mà tiếng mưa vẫn tí tách mời gọi, ra sân chơi đi cô nhỏ.

    Vĩnh Tình hít một hơi thật sâu, rồi thở ra se sẽ, rón rén nhích mông từng chút từng chút một ra ngoài cửa. Theo quy môn, các đệ tử nhập môn trước sẽ ngồi hàng trên, các đệ tử nhập môn sau ngồi hàng dưới. Vĩnh Tình nhập môn khá muộn nên cô ngồi cũng gần cửa chính đường. Cháy hết nửa nén hương nhỏ thì cô đã lẩn được ra ngoài. Lẳng lặng bò sát đất đến khi rời xa chính đường, cô mới khoan khoái đứng lên, chạy ù ra bếp, nhóm sẵn bếp lửa để tí nữa hong áo. Bếp vừa lên lửa là cô đã chạy ù ra phía hậu đường, thả chân trần lên còn đường lát đá xanh mát lạnh dẫn ra rừng thông và hồ Yên Vũ. Cô tựa lưng vào thạch trụ ở đình rồi đung đưa chân ra ngoài cho mưa rửa trôi những những bụi đất trên đôi chân trắng hồng. Mỗi khi ngắm mưa ở Yên Vũ Đình, cô đều có cảm giác buồn buồn đến nao lòng, nhưng nó dễ chịu một cách kỳ lạ. Buồn vì cũng tại đây cô tạm biệt mẹ, một lời tạm biệt đến giờ đã tám năm. Dễ chịu.. cũng vì nơi này nơi gần nhất cô đã từng cầm bàn tay mẹ. Hôm đó trời mưa lớn hơn hôm nay nhiều, mẹ cõng cô trên lưng, tay che ô sâu ra phía sau để cô đỡ bị mưa hắt còn mẹ thì mặc kệ cho nước mưa ướt đẫm mặt mũi, áo quần. Sau khi anh trai Tuệ Phong bị bắt đi, cô kinh hãi mà ngất lịm, đến khi tỉnh lại thì đã ở trên lưng mẹ rồi. Mẹ cần mẫn cõng cô đi qua bao nhiêu trấn thành, mẹ im lặng mỗi khi cô hỏi về Tuệ Phong, mẹ bật khóc khi cô hỏi chúng ta đi đâu thế. Đường xa, đôi chân mẹ nhiều khi run run mỏi mệt. Nhưng cô nhớ ánh mắt mẹ chưa bao giờ tắt ánh nhìn kiêu dũng, khí khái, kiên cường của người con gái Mông Cổ. Ngày đi, đêm nghỉ, hai mẹ con rồi cũng đến Nga My. Mệt nhọc vươn tay gõ cửa, mẹ gạt lọn tóc mái lòa xòa vì nước mưa, kiên nhẫn chờ đợi trong cơn mưa vẫn trút xuống xối xả. Được một lát thì sư tỷ Tĩnh Huyền đi ra, đưa hai mẹ con vào trong phòng khách đợi. Lần đầu tiên cô nhìn thấy sư phụ, cô sợ lắm. Ở sư phụ toát ra một vẻ uy nghiêm, khó gần hơn mẹ cô nhiều. Mẹ cô hay cười, ánh mắt mẹ cũng hay cười. Còn sư phụ thì nghiêm khắc, ánh mắt lúc nào cũng như muốn khép cô vào kỷ luật. Sư phụ và mẹ nói chuyện gì lâu lắm. Cô chỉ nghe loáng thoáng rằng cô bị ốm, mẹ cần phải lên đường tìm thuốc chữa cho cô nên phải gửi cô ở đây một thời gian. Lạ nhà lạ cửa, cô chẳng dám đi đâu, cũng chẳng dám ăn bánh trên bàn dù đã khá đói. Cô cứ lặng lẽ ngồi một góc, nơm nớp chờ mẹ quay lại. Rồi mẹ cô cũng quay lại, nhưng ánh mắt của mẹ khiến cô có cảm giác giá mẹ cứ nói chuyện với sư phụ tiếp đi thì cô có thể được nhìn mẹ lâu hơn một chút. Và lời mẹ nói khẳng định điều cô lo sợ là thật:

    - Vĩnh Tình, con đang bị ốm. Mẹ không thể đưa con đi theo mẹ để tìm thuốc được nên con..

    Cô hoảng sợ ôm lấy mẹ, rúc đầu vào ngực mẹ mà khóc:

    - Mẹ ơi, con xin mẹ, mẹ cho con đi với! Đừng bỏ con ở đây mẹ ơi!

    Mẹ cô nghẹn lời, ôm chặt lấy cô vào lòng. Cô cảm thấy nước mắt mẹ ấm nóng ướt vai áo cô. Cô biết mẹ đau lòng lắm. Cô cũng không muốn mẹ phải bận lòng nhưng cô mới chỉ là một đứa bé bốn tuổi, với cả thế giới chỉ có cha mẹ và anh trai. Cha biến mất từ sau khi đến quán trọ Ô Quy Hồ, anh trai cô bị đưa đi mất, nếu giờ mẹ cũng đi, thế giới của cô còn lại gì? Vừa thương mẹ, vừa thương mình, cô cứ thế khóc và ghì chặt lấy cổ mẹ không buông. Sư phụ cô đứng ở góc phòng cũng không cầm được nước mắt, lặng lẽ quay đầu đi, lấy tay áo khẽ thấm giọt lệ đang chực tuôn ra. Nhưng rồi mẹ cô cũng gỡ tay cô ra, ôm mặt rồi nhìn sâu vào đôi mắt cô, nghẹn ngào nói:

    - Con phải kiên cường lên! Phận nữ nhi chúng ta nếu không kiên cường sẽ bị thế gian chà đạp. Con mang họ của cha con, đầy lòng nhân nghĩa, nhưng cũng mang dòng máu của Đặc Mục Nhĩ, khí khái kiên cường. Trong nghịch cảnh không cúi đầu, trước cường bạo không lùi bước. Mẹ hứa sẽ trở lại với con, nhưng con phải hứa cũng kiên cường vì mẹ. Được chứ?

    Vĩnh Tình định lắc đầu, nhưng nhìn đôi mắt mẹ, tự nhiên cô thấy yên tâm một cách lạ thường. Có lẽ đó là sự hi vọng của lời hứa mẹ dành cho cô. Cô khóc to, nhưng gật đầu, buông tay khỏi cổ mẹ. Mẹ dắt tay cô đến trao lại vào tay sư phụ rồi rời đi. Trời hôm đó vẫn mưa to lắm..

    Mưa rơi trên mặt hồ Yên Vũ để lại những vòng tròn to nhỏ loang ra khắp mặt hồ. Cô mải nhìn theo bóng nước đến qua bên kia hồ, bỗng thấy có sáu người lạ mặc áo tơi đang tiến lại. Họ đội nón lá che khuất mặt nên trông lại càng tăng thêm vẻ ám muội. Trong lòng cô bỗng giật thót như vừa có một quả cân rơi xuống bụng cô vậy. Cô nghĩ thầm:

    -Có khi nào có địch nhân đến ám toán Nga My không? Mình phải quay về báo với sư phụ ngay mới được!

    Chưa kịp quay lại báo với sư phụ thì một người trong đám kia hỏi vọng đến:

    - Cô nhỏ! Có thể mở cửa cho chúng ta vào không? Chúng ta có chuyện cần gặp Chu chưởng môn!

    Cô thấy người đó còn đứa cách xa vậy, lại chẳng thấy người đó bắc tay gân cổ hô mà giọng vẫn đưa đến bên tai rõ ràng như đang đứng cạnh, lại càng hoảng sợ nghĩ:

    - Thôi chết! Có khi nào đây là lũ quỷ âm ty đến đây quấy rối không? Nơi đây có điện thờ Quan Thế Âm, không khi nào bọn chúng lại có thể vào được chứ?

    Vĩnh Tình thần hồn nát thần tính, nào có biết đây là công phu Thiên Lý Truyền Âm, những ai nội lực sung mãn ít nhiều đều có biết qua. Cô co cẳng, chạy vụt quay lại con đường đá, miệng la hoảng hốt:

    - Cứu với! Có quỷ đến! Cứu với!

    Bên kia một người tung người, đạp nhẹ trên mặt nước, khinh công ngang qua hồ lướt đến đuổi theo cô. Vừa khinh công đuổi theo vừa nói:

    - Cô nhỏ đừng sợ! Chúng ta là người, đến đây có ý tốt! Đừng chạy nữa!

    Càng nói thì Vĩnh Tình càng ra sức chạy cho nhanh. Đôi chân thoăn thoắt trên những phiến đá xanh nhắn thín, trơn như bôi mỡ mà không ngã. Nhưng sức đứa trẻ làm sao so được với khinh công của người kia. Chỉ thêm hai nhịp chạm đất, người kia đã túm được cổ áo Vĩnh Tĩnh. Cô vớ bừa được một khúc gậy trúc, vụt loạn về phía sau. Người kia một là không muốn hại cô, hai là gậy vụt rát quá, cũng đành thả cô ra. Vĩnh Tình biết mình chạy cũng không thoát, nhớ lại lời mẹ dặn là không được lùi bước trước cường bạo, cô run run quay lại, cầm gậy trúc thay kiếm, quát:

    - Ngươi chớ có tiến lên! Ta là đệ tử Nga My! Nếu tiến thêm một bước đừng trách "kiếm" trong tay ta độc ác!

    Lời này nói ra từ miệng đứa trẻ mười hai tuổi, quả có chút buồn cười. Nhưng nhìn ánh mắt cô lúc đó, không ai nỡ cười. Dù còn nhỏ, nhưng ánh mắt quật cường đến vậy thực hiếm có. Người kia cũng lúng túng chưa biết làm gì thì một người mặc áo tơi khác đã lên tiếng, giọng trầm ấm, nhưng nghiêm nghị:

    - Tùng Khê, đừng làm đứa nhỏ sợ. Chúng ta đã đến đây rồi, kiên nhẫn đợi Chu chưởng môn một chút. Chu chưởng môn chắc cũng gần tới rồi.

    Quả nhiên dứt lời thì Chỉ Nhược dẫn theo các đệ tử che ô đi tới. Cửa vừa mở, Chỉ Nhược cùng các đệ tử nhất loạt xuất kiếm, chỉ vào mấy người lạ nói:

    - Các ngươi là ai? Dám mạo nhận Trương chân nhân và Võ Đang Ngũ Hiệp đến đây giả thần giả quỷ! Nếu không khai ra danh tính, đừng trách kiếm của Chỉ Nhược này không dung tình!

    Người mặc áo tơi đứng đầu khẽ cười rồi bỏ nón xuống, cởi áo tới. Mái tóc bạc phơ búi cao gọn ghẽ, tấm áo trắng xám đơn sơ nhưng sạch sẽ. Nhưng nhất là luồng nội lực âm trầm như sóng ngầm thoạt đến thoạt đi liên miên bất đoạn. Chỉ Nhược nhìn những giọt nước mưa gặp luồng nội lực bao quanh người này phải chảy xéo đi, biết trước mặt chính là Trương Tam Phong, vội thu kiếm, ôm quyền nói:

    - Trương chân nhân! Vãn bối có mắt không thấy Thái Sơn. Khi nãy có lời không hợp lẽ, mong chân nhân thứ tội. Chỉ là mới tháng trước còn thân hành đến viếng ở Võ Đang, không hiểu phép mầu nào lại khiến người và Ngũ Hiệp đây cải tử hoàn sinh, lại đến trước cửa vi môn thế này?

    Trương Tam Phong vuốt râu cười nói:

    - Chu chưởng môn quá lời rồi. Người không biết không có tội. Chúng ta trong võ lâm vốn là đã chết rồi. Hôm nay đến đây, các người cũng hãy coi như chỉ là hồn ma bóng quế thôi.

    Chỉ Nhược nghe mấy lời này, biết đằng sau hẳn còn nhiều cơ duyên chưa rõ ràng, bèn ôm quyền thưa:

    - Trương chân nhân, hôm nay dù thế nào đã đến đây rồi, xin mời vào khách phòng để vãn bối đón tiếp cho chu đáo.

    Nói đoạn, nàng sai đệ tử đi trước bố trí khách phòng, bản thân lại tự tay che ô, đưa Trương Tam Phong cùng Võ Đang Ngũ Hiệp theo đường mòn hậu viện đến phòng khách. Đi ngang qua Vĩnh Tình, lúc đó vẫn đang sững người nhìn, cây gậy trúc trong tay vẫn đang cầm chặt, Chỉ Nhược mắng:

    - Vĩnh Tình, con làm gì mà không chào lão tổ sư đi chứ?

    Vĩnh Tình thấy người trước mặt bỏ áo tới ra là một cụ già mặt mũi hồng hào, râu tóc trắng như cước, bước chân nhẹ nhàng nhưng vững vàng, điệu bộ khoan thai, từ tốn đầy khí độ tông sư, mới thôi hốt hoàng, vội quăng gậy trúc ra đằng sau rồi lúng túng ôm quyền thưa:

    - Vĩnh Tình bái kiến lão tổ sư.

    Trương Tam Phong nghe tên Vĩnh Tình, trong mắt bỗng ánh lên tia mừng rỡ, định tiến lại vỗ về thì Chỉ Nhược đã bước tới một bước, nói khẽ:


    - Trương chân nhân, Vĩnh Tình trong lòng vẫn chưa nguôi chuyện xưa, mong người thông cảm.

    Trương Tam Phong lúc bấy giờ mới gật đầu, rồi chỉ tiến lại xoa đầu Vĩnh Tình nói:

    - Đúng là một đứa trẻ ngoan. Ban nãy con định xuất chiêu kiếm gì vậy?

    Vĩnh Tình tưởng Trương Tam Phong định mắng chuyện cũ, lúng túng nói:


    - Con.. con ban nãy không biết là lão tổ sư và mọi người nên mới định xuất kiếm ra tay. Con là con không biết nên lão tổ sư đừng trách tội nhé.

    Trương Tam Phong mỉm cười hiền hậu, nói:

    - Con chưa từng gặp chúng ta bao giờ, lại có tinh thần cảnh giác như vậy là rất tốt. Lúc đó con không chạy đi, lại có dũng khí quay lại đối đầu như vậy thực hiếm có.

    Vĩnh Tình thấy Trương Tam Phong không suy tính chuyện ban nãy, mừng lắm, lại thấy ông đáng mến hơn nhiều lần, hồn nhiên tiến lại cầm tay ông rồi dẫn đi nói:

    - Lão tổ sư, để con dẫn người đi vào khách phòng. Đường đi mưa trơn lắm, người đi cẩn thận nhé.


    Ai nấy nghe xong, nghĩ đến công phu tuyệt thế của Trương Tam Phong mà muốn bật cười. Nhưng không muốn Vĩnh Tình xấu hổ nên ai cũng nín lại, chỉ khẽ quay mặt đi cười thầm. Trương Tam Phong vui vẻ hùa theo:

    - Được, con dẫn lão tổ sư đi cẩn thận nhé.

    Vĩnh Tình hăng hái đi trước, cẩn thận dẫn tay Trương Tam Phong theo sau. Một già, một trẻ, một tuyệt thế cao thủ, một môn sinh tiềm năng cứ vậy dắt tay nhau vào khách phòng. Khi chủ khách đã an tọa, Chỉ Nhược sai một nữ đệ tử pha trà, rồi bảo các đệ tử còn lại:

    - Ta có việc cần trao đổi với Trương chân nhân và Ngũ Hiệp. Các con về chính đường tọa thiền, tự rèn nội công. Các sư tỷ lưu ý chỉ dẫn cho các sư muội cẩn thận. Vĩnh Tình, con nhớ lưu tâm rèn luyện nội công. Võ công Nga My chúng ta tuy thạo về kiếm pháp nhưng căn cốt vẫn là nội lực, con phải lưu tâm chuyện này.

    Các đệ tử để ôm quyền lĩnh mệnh rồi lui về chính đường. Lúc bấy giờ Chỉ Nhược mới hỏi Trương Tam Phong:

    - Trương chân nhân, tiểu nữ nghe nói người và Ngũ Hiệp đều bị hạ độc mà mất cả rồi. Lại nghe đồn trên võ lâm chuyện này do Mẫn Mẫn tỷ gây ra. Tiểu nữ vốn không tin chuyện này là thật. Nhưng tháng trước đích thân đến Võ Đang đã thấy tang sự, nay lại thấy người ở đây, quả thực không hay chuyện này thế nào?

    Du Liên Châu lên tiếng, đỡ lời cho sư phụ:

    - Chu chưởng môn có điểm chưa hay. Quả thực sư phụ và các huynh đệ chúng tôi bị hạ độc. Nhưng độc đó vốn đã được cháu dâu trung hòa lại nên chỉ gây ra trạng thái giả chết thôi. Qua ba ngày bế khí, chúng tôi đều tự thoát ra ngoài bằng mật đạo.

    Trương Tam Phong nối lời:

    - Chỉ Nhược, hôm nay ta đến đến cũng là vì chuyện Triệu Mẫn gửi gắm. Vĩnh Tình thì ta đã gặp rồi. Nhưng Vô Kỵ và Tuệ Phong, con có tin tức gì hai người này chăng?

    Chỉ Nhược biết nội tình vụ đầu độc ở Võ Đang, lại biết mọi người đã an toàn, Triệu Mẫn bị vu oan thì trong lòng rất nhẹ nhõm. Nhưng nghĩ đến Vô Kỵ và Tuệ Phong đang bặt vô âm tín, nàng không khỏi đau lòng mà thở dài, nói:

    - Hai cha con họ đến nay đã nhiều năm bặt vô âm tín, không biết còn giữ được mạng không nữa. Nếu Vô Kỵ huynh ấy mà còn sống, hẳn đã đến đây hỏi thăm tung tích rồi. Xem ra chuyện này lành ít dữ nhiều..

    Trương Tam Phong và Ngũ Hiệp đều trầm ngâm không nói gì thêm, trong lòng ai cũng một bề suy nghĩ. Cuối cùng Tống Viễn Kiều cũng lên tiếng:

    - Thôi, chuyện của Vô Kỵ trước mắt chưa có thông tin gì. Chúng ta cần bàn chuyện chính đã. Hiện giờ Triệu Mẫn mang danh đầu độc Võ Đang, đang bị cả võ lâm truy sát, đến nay việc liên lạc với cháu dâu không hề thuận lợi. Tuy nhiên lần gần nhất cũng được biết người đứng sau chuyện này là một nhân vật có tên là Lãng Nghệ.

    Trương Tùng Khê nói thêm:

    - Trên đường đi đến đây, chúng ta cũng đã bí mật dò la tin tức của người này nhưng tuyệt nhiên không một người nào hay biết. Xem ra không phải nhân vật trong giang hồ. Người này có thể thao túng được cháu dâu, chắc chắn đã lấy tính mạng Trương gia ra làm đối trọng. Vĩnh Tình ở đây rồi, xem ra Tuệ Phong nhất định đang nằm trong tay người này.

    Chỉ Nhược nói:

    - Vĩnh Tình tuy ở đây nhưng trong người mang một loại bệnh lạ, hàng năm đều có người bí mật gửi thuốc đến, uống thì mới giữ được tính mạng. Nếu không có thuốc, toàn thân ngứa ngáy nổi mẩn đỏ, bên trong người lại như bị vạn trùng cắn xé, đau đớn vô cùng. Tội cho nó còn nhỏ mà đã phải trúng phải loại độc kinh khủng đến vậy. Kẻ đầu độc hẳn không còn tính người nữa!

    Ân Lê Đình cũng nóng mặt đập bàn nói lớn:

    - Tên Lãng Nghệ này xem ra không bằng loài cầm thú! Ta mà biết hắn là ai nhất định phải vạn kiếm phân thây hắn mới hả nỗi hận trong lòng này. Chỉ Nhược, cô nói Vĩnh Tình bị trúng độc, chẳng lẽ không có danh y nào có thể cứu chữa?

    Chỉ Nhược kín đáo nhìn ra ngoài cửa để chắc rằng Vĩnh Tình không nghe lén, mới nói:

    - Tiểu nữ cũng đã tìm rất nhiều danh y đến nhưng xem ra không ai nhận được loại độc này là gì. Năm xưa có Thất Trùng Thất Hoa Cao cũng có dấu hiệu tương tự nhưng lại không bị tái phát định kỳ hàng năm thế này. Mà điểm lạ là cứ vào đúng ngày rằm tháng hai là độc tính phát tác. Thuốc cũng được đưa đến đúng đêm rằm hôm đó, không sớm hơn, không cũng không muộn hơn.

    Trương Tam Phong thở dài nói:

    - Năm xưa Vô Kỵ được Hồ Điệp Y Tiên – Hồ Thanh Ngưu cứu. Người này y thuật cao thâm, chỉ tiếc là đã không còn tại thế. Vĩnh Tình xem ra phải chịu khổ rồi.

    Du Đại Nham bất ngờ lên tiếng:

    - Sư phụ, đệ tử trước kia trong lúc hành tẩu giang hồ có từng nghe về một người họ Đoàn, tên Trường Lạc được người dân vùng Quý Châu ca tụng là Thần Y. Nếu chúng ta mời người này đến chữa cho Vĩnh Tình, biết đâu sẽ có hy vọng.

    Du Liên Châu nhíu mày nhớ lại:

    - Người này huynh cũng từng nghe nói đến nhưng e rằng vô vọng thôi. Đoàn Trường Lạc thì ngoài danh Thần Y ra thì còn có một ngoại hiệu khác nổi tiếng hơn là Đạo Vương. Thử hỏi vua trộm mà dễ tìm thì đâu có cái tên tuổi đó chứ.

    Du Đại Nham cười cười nói:

    - Vậy thì huynh thời gian gần đây chắc không nghe tin Ân cô nương lên giữ chức Hộ Pháp của Minh Giáo chăng? Dù trước kia không có danh vọng gì lớn nhưng nghe đâu Ân cô nương thời gian gần đây mới tu luyện được môn công phu Tróc Linh Ngân Ty rất bá đạo. Nhờ vậy mới lập được nhiều công lớn cho Minh Giáo.

    Du Liên Châu vỗ tay nói:

    - Tróc Linh Ngân Ty là công phu độc môn của Đoàn Trường Lạc! Vậy chúng ta nếu hỏi Ân cô nương hẳn sẽ biết tung tích người này rồi. Chúng ta mau tới Minh Giáo một chuyến, tìm thần y về chữa cho Vĩnh Tình.

    Trương Tam Phong nãy giờ im lặng không nói gì, chỉ thong thả nhấp trà nhưng nhìn đôi lông mày ông nhíu lại, Chỉ Nhược biết ông đang suy nghĩ nhiều lắm. Nàng hỏi khẽ:

    - Trương chân nhân, người có cao kiến gì không?

    Trương Tam Phong gật đầu, nhìn các đệ tử nói:

    - Việc cứu Vĩnh Tình hiển nhiên rất quan trọng. Nhưng việc tìm Vô Kỵ, Tuệ Phong và dò la kế hoạch của Lãng Nghệ cũng không được khinh suất. Đại Nham, con đến Minh Giáo tìm hiểu hành tung Thần Y một chuyến. Viễn Kiều, Lê Đình, hai con tiếp tục dò la tin tức của Vô Kỵ và Tuệ Phong. Liên Châu, con tìm cách liên lạc với Triệu Mẫn và tìm hiểu thêm về Lãng Nghệ.

    Ngũ Hiệp ôm quyền nhận lệnh. Du Liên Châu hỏi:

    - Sư phụ, vậy người..

    Trương Tam Phong vuốt râu trầm ngâm nói:

    - Ta có một vài nơi cần phải đến trước. Các con cứ chia nhau ra hành sự, phải tuyệt đối cẩn mật. Nên nhớ, chúng ta trên giang hồ đã vong mạng vì độc dược. Chỉ Nhược, vốn là ta nên đưa Vĩnh Tình về Võ Đang để chỉ dạy. Nhưng tình hình lúc này phức tạp, trước mắt đành nhờ vào con vậy.


    Chỉ Nhược mỉm cười, ôm quyền nói:

    - Người yên tâm, Chỉ Nhược nhất định sẽ coi sóc Vĩnh Tình cẩn thận, tuyệt không để xảy ra chuyện gì với nó.

    Đến đây trời cũng đã ngớt mưa, Trương Tam Phong cùng các đồ đệ cáo biệt Chỉ Nhược rồi lên đường. Mấy người bọn họ không hay, trong lúc họ đang đàm đạo thì Vĩnh Tình đã lại lẻn ra ngoài đi chơi. Lần này cô không ra Yên Vũ Đình nữa mà đi hẳn ra ngoài Nga My Sơn du hí. Rừng núi Nga My sau khi tắm dưới cơn mưa thu trở nên thoáng đãng một cách lạ kỳ. Cây rừng lá xanh đỏ nương theo ánh mặt trời dần hé mà rực rỡ thêm một chút trước ngày vào đông. Chim muông phần nhiều đã về phương nam tránh rét, còn ở lại mấy đôi chim chao lượn đưa đón nhau rời tổ kiếm mồi. Mặt đất ẩm ướt kia chỉ ngày mai, ngày kia thôi là lại la liệt nấm rừng đủ loại. Vĩnh Tình ở đây tám năm, đã quen thuộc lắm. Cô nhảy chân sáo ven theo con đường mòn trong rừng, đến một cái hang hẹp mà cô thường gọi là Yên Bình Động vì mỗi lần sư phụ nổi giận gì cô đều trốn ra đây đến khi sư phụ nguôi ngoai mới quay lại. Lúc còn nhỏ cô bước vào dễ lắm, giờ lớn rồi, xem ra muốn đi vào động phải cúi người lom khom mới được. Đang loay hoay bỗng đầu cô đụng vào một mỏm đá nhô ra đau đớn. Vĩnh Tình bực mình, lấy tay đấm một cái, nào ngờ mỏm đá đó lung lay rồi rời ra, để lộ một cái hốc nhỏ. Vĩnh Tình nhìn thấy hốc đen ngòm, không dám thò tay vào, chỉ lấy một cái que rồi chọc vào quét qua quét lại. Một lúc thì trong hốc rơi ra một túi bọc giấy dầu, mở ra có một quyển kinh thư. Vĩnh Tình liếc mắt đọc thì thấy ghi "Cửu Âm Chân Kinh". Nguyên lai sau khi Chỉ Nhược luyện được một phần Cửu Âm Chân Kinh, ỷ vào bộ võ công tuyệt thế này mà gây náo động ở đại hội Đồ Sư và cũng gây ra nhiều tội nghiệt, sau này hồi đầu thị ngạn đã quyết không dùng võ công Cửu Âm Chân Kinh mà chuyên tâm nghiên cứu, phát triển kiếm pháp Nga My. Bộ Cửu Âm Chân Kinh này cũng vì thế mà bị Chỉ Nhược giấu kín vào hốc đá trong hang nhỏ không tên này, không một ai hay. Nay Vĩnh Tình gặp cơ duyên thiên định mà nhận lại được Chân Kinh, nhưng cô còn nhỏ, cũng chưa từng nghe nói đến Cửu Âm Chân Kinh bao giờ nên cũng chỉ nghĩ đây là một môn công phu lạ. Cô mở chân kinh ra thì thấy bên trong kinh ngôn vi diệu, thâm sâu khó hiểu. Một đứa trẻ mười hai tuổi như cô đọc chân kinh cũng chỉ như ê a đọc Chính Kinh mà không hiểu chi cả. Chỉ có điều Vĩnh Tình là đứa trẻ thông minh, đọc đâu nhớ đó. Cầm Cửu Âm Chân Kinh đọc hết một lượt đã nhớ nửa mặt chữ. Đọc thêm lần nữa có thể đọc vanh vách từng chữ trong bộ chân kinh. Thấy cũng chẳng có gì thú vị, cô đọc xong lại cất vào túi rồi để vào chỗ cũ. Thấy mỏm đá đã bị đánh gãy mất, cô hì hục tìm đất sét trộn với cỏ rồi trét cho đầy hốc rồi ung dung đi về. Về đến nơi cũng vừa lúc thấy lão tổ sư cùng các vị thái sư thúc, thái sư bá chuẩn bị rời đi, lại thấy sư phụ đích thân tiễn chân, cô không dám ló mặt ra ngay mà nấp ở gốc cây gần đó. Chờ sư phụ đi rồi mới lao ra ôm lấy tay lão tổ sư, nói:

    - Lão tổ sư vừa đến mà đã đi đâu ngay thế?

    Tuy lần đầu gặp lão tổ sư nhưng cô thấy ở Trương Tam Phong có một nét bình dị dễ mến, không giống các bậc chưởng tôn võ lâm khác, trong lòng bất chợt có điểm yêu mến vô cùng. Trương Tam Phong thấy Vĩnh Tình, bèn cười nói:

    - Lão tổ sư hôm nay đến đây để hỏi thăm sư phụ con đôi chuyện rồi phải đi ngay. Con ở lại nhớ chăm chỉ tu tâm, luyện võ, rèn trí nghe chưa?

    Vĩnh Tình gật đầu rồi cầm tay lão tổ sư, hỏi:

    - Vậy khi nào lão tổ sư lại quay lại đây chơi với con nhé. Con ở trên núi lâu buồn lắm.

    Trương Tam Phong mỉm cười, ôn tồn nói:

    - Nhất định. Con cũng mau lớn rồi đến Võ Đang Sơn thăm ta nhé. Võ Đang luôn là nhà của con, chờ gia đình con trở về. Lần này lão tổ sư đi, nhất định sẽ tìm được cha mẹ và anh trai cho con.

    Nhìn vào đôi mắt già nua nhưng vẫn rạng vẻ tinh anh của Trương Tam Phong, Vĩnh Tình thấy một cảm giác yên tâm lạ thường. Người như lão tổ sư nói được nhất định làm được, cô biết vậy. Thế nên cô nhoẻn miệng cười, nói:

    - Vâng, con mấy năm nữa lớn rồi nhất định sẽ đến thăm lão tổ sư và các vị thái sư bá, thái sư thúc ạ. Lão tổ sư và mọi người trường đồ túc bộ nhé..

    Lá vàng che bóng người ở lại

    Mắt biếc dõi theo bước người đi

    Dương tà soi nghiêng đầu ai bạc

    Nặng bước theo lời hứa hài nhi


    **************

    Lãng Nghệ thư thả dựa lưng trên ghế da hổ ở vọng lầu phía sau Khởi Nguyên Đạo Quán, nhìn bách tính ra vào đạo quán tấp nập. Có người đến xin quẻ, giải điểm, có người đến cầu sao giải hạn, lại có người đến xin cắt thuốc chữa bệnh. Hắn nhếch mép cười, trong bụng nghĩ thầm:


    - Đúng là một lũ dân đen ngu ngốc. Mang tiền đến đây đổi lấy mấy lời chẳng đáng một xu nhưng xem kìa, chúng vẫn đến như kiến. Chẳng phải động tay chân tiền bạc cũng chảy vào đầy kho.

    Lãng Nghệ nâng tẩu thuốc, kéo một hơi dài khoan khoái rồi nhả khói mơ màng. Khói vương vấn quanh mái tóc búi cao cẩn thận, ve vuốt nơi làn da nâu đồng của hắn rồi từ từ tan biến vào thinh không. Đã hơn mười năm đến Trung Thổ, hắn học theo người nơi đây mà búi tóc cao, mặc Hán Phục cho dễ bề trà trộn hoạt động. Nhìn bề ngoài thì đúng là một vị đạo trưởng đức hạnh. Đôi mắt nâu như biết cười, luôn dễ dãi, thân tình chào hỏi người dân quanh đây đến thăm đạo quán. Miệng cười rạng rỡ khiến người bệnh đến đây cũng thấy an lòng mà thuyên giảm bệnh phần nào. Có ai hay nơi đạo quán này toàn chữa bệnh tận gốc do gốc bệnh từ đây mà ra. Giờ chưa đến lúc phải trưng phô bộ mặt đạo mạo của vị trưởng đạo quán, hắn nhàn nhã ngồi hút thuốc, ăn trái cây, lưng vãi đã có một cô nương rất mực xinh đẹp nhẹ nhàng đấm bóp. Từ ngoài cửa có tiếng chân người chậm rãi, lúc nặng lúc nhẹ bước đến. Lãng Nghệ lắng tai nghe rồi cười khẽ, bảo:

    - Độc Vương, ngài không nhanh vào đi mà còn đứng đấy làm gì. Đồ giải khát cho ngài ta đã chuẩn bị rồi đây.

    Bên ngoài cửa vang tiếng cười lớn. Cửa bật tung như bị ai đá trúng, một lão già thân mặc áo chùng đen, tay cầm mộc trượng, lưng đeo hồ lô đủ loại lướt vào như một cơn hắc toàn phong. Tay lão chụp ngay lấy nàng hầu trong phòng, kề miệng nàng ta vào miệng lão. Chỉ thấy nàng hầu ú ớ trong kinh hoàng rồi bỗng như khí huyết như bị hút trọn vào miệng lão. Đến khi lão bỏ tay ra chỉ còn một lớp da bèo nhèo, vương tóc dưới sàn. Điền Thái Tuế thở ra một hơi đầy sảng khoái, nói:


    - Lãng Nghệ ngươi thực biết cách đón khách đấy. Đi xa quay về được giải khát thế này thật khoái khẩu!

    Lão đá đống da người văng vào góc nhà rồi kéo ghế, chễm chệ ngồi trước mặt Lãng Nghệ, khệnh khạng nói:

    - Xem ra nhờ ta mà đạo quán của chúng ta thật là đông khách. Bõ công ta đi khắp nơi rải Bạch Nhẫn Cổ Trùng.

    Sau khi khốn khổ bởi Thất Trùng Thất Hoa Cao năm nào, Điền Thái Tuế đã biệt tích giang hồ nhiều năm. Gần đây rải rác các địa phương liên tục bị những căn bệnh lạ không có thuốc giải, chỉ có đến đây xin nước tiên thì mới mong cứu sống được khiến tiếng tăm của Khởi Nguyên Đạo Quán càng ngày càng vang xa, tất cả đều một tay đều do lão đi khắp nơi hạ độc bách tính. Bạch Nhẫn Cổ Trùng là một một loại trùng cổ, bé như bụi, có thể theo gió bụi mà phát tán khắp một vùng rộng lớn. Khi đã vào cơ thể người, cổ trùng sẽ sinh sôi và ăn dần nội tạng của người bệnh, để lại trên ngón tay một vòng tròn trắng như nhẫn bạc. Khi vòng tròn khép kín, cũng là lúc người bệnh bị ăn rỗng nội tạng mà chết. Lần này quay lại đây, hẳn là để lão lấy thêm bạc và đưa thêm thuốc giải cho đạo quán chuẩn bị đón tiếp đợt bệnh nhân mới sắp đến. Lãng Nghệ hút thêm một hơi thuốc rồi nói:

    - Bạc đối với chúng ta chỉ là một chuyện. Hẳn ngươi không quên mục đích chính của chúng ta. Nếu có thể lật đổ Minh Triều, cướp lấy thiên hạ về tay nhà Nguyên, ngươi sẽ là khai quốc công thần. Lúc đó mấy cái đồng bạc lẻ này có xá vào đâu.

    Điền Thái Tuế đắc chí nhìn từ vọng lầu xuống đạo quán, hỏi:

    - Vậy khi nào chúng ta bắt đầu đảo chính? Đã gần chục năm rồi, chẳng lẽ vẫn chưa đến thời cơ sao?

    Lãng Nghệ lắc đầu, nhịp tay lên bàn, thư thả buông một làn khỏi mỏng, nói:

    - Dục tốc bất đạt. Anh hùng mưu sự mười năm, hành sự một khắc, quyết khi đã làm là phải thành công. Đến khi nào bách tính coi ta là một vị thánh, ta mới có thể hiệu triệu được thiên hạ mà nổi lên lật đổ gã Chu Nguyên Chương khốn khiếp đó.

    Điền Thái Tuế gật gù, bỗng trở nên trầm ngâm, nói:

    - Thiên hạ tuy rộng lớn, nhưng dần dà cứ theo thuốc của ta thì cũng phải quy thuận ngươi cả thôi. Nhưng thế lực võ lâm chính phái có uy tín rất lớn trong dân chúng. Chúng ta nếu không gạt được chúng ra khỏi cuộc chơi thì việc thu nhân tâm xem ra không đơn giản.

    Lãng Nghệ cười khẩy, nói:

    - Đối với ta, bọn võ lâm chính phái đó chẳng hơn gì một đám võ biền ngu ngốc chỉ biết đánh lộn xằng bậy. Tuy vậy ngươi đừng lo, ta đã có an bài rồi. Bạc này ngoài để chiêu dụ ngoại binh, còn để mua chuộc đám hắc đạo. Ngươi không thể lường được đám hắc đạo vốn như loài gián hôi vậy mà sức mạnh lớn đến thế nào đâu.

    Điền Thái Tuế lắc đầu nói:

    - Ngày nay cao thủ đa phần đều là người chính phái. Đám hắc đạo ngươi mua chuộc được chẳng có mấy người sánh được đâu. Năm xưa Huyền Minh Nhị Lão được coi là cao thủ hắc đạo thì đã bị phế võ công. Nhất Kiếm Đoạt Mệnh – Cẩm Tý từ lâu đã không còn nghe tiếng trên giang hồ, nghe đồn lão đã chết khi Chu Nguyên Chương lên ngôi..

    Lời Điền Thái Tuế bị ngắt bởi một giọng trầm khàn vang lên từ đằng sau lưng:

    - Ngươi nói ai chết rồi? Ngươi tin ta có thể lấy đầu ngươi trước khi mắt ngươi nhắm lại không?

    Một người đàn ông vóc dáng trung bình, tóc đã bạc trắng, gương mặt khắc khổ chi chít sẹo ngang dọc, mặc áo đoạn đen, lưng đeo hai thanh kiếm một ngắn, một dài. Thanh kiếm dài thì xanh sẫm một màu tựa nước biển sâu thăm thẳm, chưa tuốt khỏi bao đã thấy hàn khí bức người. Thanh kiếm ngắn thì sẫm màu huyết dụ, lại tựa như thấy dươi bao kiếm có một sự sống mãnh liệt kỳ quái. Lãng Nghệ thấy người này bước vào, vội đứng dậy, kính cẩn mời:

    - Mộ Dung sư phụ hôm nay ghé thăm không báo trước, Lãng Nghệ này đón tiếp sơ suất rồi. Mời người ngồi đây, tại hạ sẽ sai người chuẩn bị tiệc rượu tẩy trần cho người ngay.

    Điền Thái Tuế thấy Lãng Nghệ coi mình chỉ như người bằng vai phải lứa, lại coi người đàn ông nhất mực kính trọng, trong lòng bực bối, nói xẵng:

    - Ngươi cũng nên biết điều mà chớ có ngồi vào chỗ đó. Khách mà dám phản chủ sao?

    Người đàn ông kia chẳng những điềm nhiên ngồi vào chỗ, lại tự nhiên lấy trái cây ăn, khoan thai nói:

    - Trước kia thì chắc ta không dám dĩ khách áp chủ đâu, nhưng giờ thì khác rồi. Nếu ngươi thích thì cũng có thể ngồi xuống ghế này. Chỉ là xem ngươi bản lĩnh thế nào.

    Điền Thái Tuế thấy người này xem mình chẳng đâu vào đâu, khí uất trong người dâng trào, liền chống mộc trượng xuất đất làm đà, người phiêu hốt lướt đến người đàn ông kia tựa như một cơn dơi đen khổng lồ. Vi Nhất Tiếu nếu có thấy cảnh này hẳn cũng phải trầm trồ vì khinh công của lão Điền này vi diệu quá. Một tay lão vụt mộc trượng xuống theo lối Lôi Phách Kinh Thiên, mộc trượng đập xuống như sét đánh, vừa nhanh vừa mạnh. Chiêu này vốn phải sử dụng hai tay mới có thể đi được đường trượng uy lực đến vậy. Nhưng tí lực của Điền Thái Tuế được bổ trợ của bí dược nên mạnh hơn người thường nhiều lần mới có thể một tay sử trượng như vậy. Tay kia của lão lại phất một đường Bách Độc Họa Chưởng tung đến. Bách Độc Họa Chưởng là độc công đắc ý của lão Điền. Năm xưa chỉ bằng một chiêu này mà thành danh khắp đất Vân Nam, Quý Châu. Bách Độc Hỏa Chưởng vốn là dùng cổ trùng mang theo kịch độc mà điều động tấn công địch thủ. Chưởng này không lợi hại ở chỗ nhanh, cũng không mạnh, nhưng tầm phát tán độc công rất lớn, lại hoàn toàn được kiểm soát bởi lão Điền khiến chiêu này xuất ra gần như trăm phần đoạt mệnh, hiếm người thoát được. Chỉ thấy người đàn ông kia khẽ đạp ghế trượt lùi lại, né mộc trượng, chớp mắt đã thấy lưỡi thanh kiếm xanh ngắt kề cổ Điền Thái Tuế. Người đàn ông đó mỉm cười nói:

    - Độc Vương ngươi hẳn muốn xem cổ trùng của ngươi cắn ta nhanh hơn hay kiếm của ta hút máu ngươi nhanh hơn chăng? Nên nhớ, thanh Hấp Huyết Kiếm này của ta chỉ cần cứa một đường nhỏ cũng đủ ngươi chảy máu đến chết, không cầm được đâu.

    Điền Thái Tuế thấy người đó xuất kiếm nhanh đến không nhìn thấy bóng, trong lòng đã ngầm hoảng sợ đến toát mồ hôi lạnh. Lại nghe đến tên Hấp Huyết Kiếm thì mắt lão mới trợn tròn, thốt lên đầy kinh ngạc:


    - Cẩm Tý! Ngươi đã chết rồi cơ mà? Sao lại có thể đến đây ám chúng ta được!

    Người đàn ông đó từ tốn đứng dậy, thanh Hấp Huyết Kiếm vẫn kề cổ lão Điền. Ông ghé tai lão nói khẽ:

    - Ta là Mộ Dung Bình Sơn.. ngươi chớ có dại mà nói cái tên Cẩm Tý ra. Nếu không..

    Điền Thái Tuế bỗng thấy Hấp Huyết Kiếm như nhấn vào cổ mình sâu hơn một chút, bèn vội vã gật đầu, đoạn thu cổ trùng lại. Cẩm Tý gật gù hài lòng, thu kiếm lại rồi ngả người lên ghế da hổ thư thả nói:

    - Vậy mới đúng chứ. Điền Thái Tuế, ta biết ngươi cũng là một cao thủ nhất hạng, cùng ngồi xuống đi.

    Lãng Nghệ vỗ tay, tấm tắc khen:

    - Mộ Dung sư phụ quả nhiên kiếm pháp cao thâm, đức hạnh cũng hơn người. Lãng Nghệ này còn phải học hỏi nhiều lắm.

    Mộ Dung Bình Sơn hừ giọng, nói:

    - Ta ghét nhất là lời nịnh nọt, vuốt đuôi ngươi biết chứ. Với lại hôm nay ta đến đây không phải vì mấy lời khen này. Việc chiêu dụ đám hắc đạo đã làm đến đâu rồi?

    Lãng Nghệ lấy từ trên kệ ra một cuốn sổ, mở ra bên trong là danh sách đã cao thủ thành danh trong giới hắc đạo đã được liệt kê đầy sổ. Dấu khoanh son đánh dấu chi chít hầu hết qua các tên. Lãng Nghệ đắc ý nói:


    - Thế gian này không gì không mua được. Không mua được bằng tiền thì bằng sắc, không được nữa thì bằng áp bức, đe dọa. Mấy kẻ hắc đạo trong này đều đã được ta thu phục cả rồi, chỉ chờ hiệu lệnh sẽ nổi lên như sóng cuốn trôi đám võ lâm ngụy chính đạo kia.

    Mộ Dung Bình Sơn lướt qua quyển sổ, nhướng mày nói:

    - Đường Bá Chi của Đường Môn? Yên Viên Bình của Hắc Long Bang? Kiếm Ma – Trần Thiên Quyết? Mấy người này sao ngươi không mời được?

    Lãng Nghệ ấp úng nói:

    - Thực ra mấy người này đã tuyệt tích giang hồ từ lâu. Đường Bá Chi sau trận đánh ở Vu Sơn đã từ nhiệm chưởng môn Đường Môn, đưa xác con trai đi đâu không rõ. Yên Viên Bình đã biến mất khỏi giang hồ có lẽ hơn hai mươi năm nay, không rõ sống chết thế nào. Còn Kiếm Ma.. người này đã chẳng còn lí tính nữa. Bao nhiêu người tại hạ sai đến đều không kẻ nào toàn thây trở về.

    Mộ Dung Bình Sơn trầm ngâm nói:

    - Cho ta địa danh nơi Kiếm Ma đang ở, ta sẽ đích thân đến tìm hắn.

    Điền Thái Tuế nhếch mép nghĩ thầm:

    - Kiếm Ma là tuyệt đỉnh cao thủ dùng kiếm. Dẫu ngươi có Cửu Đoạn Cư Hợp Kiếm Pháp thì cũng chẳng thể sánh được. Mò đến đấy chỉ có đường chết thôi.


    Nghĩ vậy nhưng lão mở miệng, tươi cười nói:

    - Kiếm Ma thì nhất định phải có Kiếm Hoàng đến mới thu phục được. Các hạ lần này đích thân đến thì Kiếm Ma còn phải quỳ xuống mà xin được nhập hội ấy chứ.

    Mộ Dung Bình Sơn quắc mắt nhìn Điền Thái Tuế, gằn giọng:

    - Ngươi có biết Kiếm Hoàng là ai không mà dám nói bừa bãi như vậy? Kiếm Hoàng – Nam Cung Thiết Tâm là sư huynh cùng thầy với ta.. và ngươi không xứng được nhắc đến tên huynh ấy.. rõ rồi chứ? Ta đến tìm Kiếm Ma, vốn không phải định mang kiếm ra đấu với hắn.

    Lãng Nghệ ngạc nhiên hỏi:

    - Vậy Mộ Dung sư phụ định làm cách nào thu phục hắn?

    Mộ Dung Bình Sơn nhếch mép cười, nói:

    - Kẻ thù của kẻ thù thì chẳng phải là đồng minh sao?

     
    chiqudollLieuDuong thích bài này.
  9. Nguyên Không

    Bài viết:
    55
    Chương 7:

    Võ Đang Sơn, Thương Tùng phát hiện gian tế

    Cảng Bạc Sa, Triệu Mẫn giáp mặt Hỏa Thần


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mùa đông đã về trên Hồ Bắc. Nhìn những bông tuyết trắng li ti cuốn theo cơn gió bắc phủ dày lên những dải núi uốn lượn quanh vùng tựa tấm khăn dày bà chúa tuyết đặc biệt đan cho nơi đây. Dưới chân núi, lũ trẻ trong thôn đang hào hứng nặn tuyết ném nhau chơi, tiếng cười rộn ràng vang khắp một khoảng không gian rộng lớn. Khói bếp bảng lảng vương vấn nhưng ấm áp nương theo cơn gió mà mang theo chút mùi của sự sống lên trên núi. Trong bếp đó hẳn các lão bà, các thiếu phụ và các tiểu cô nương đang tần tảo nấu mấy món nhắm đơn giản, hâm nóng bầu rượu nồng cho phu quân mình lúc đó đang bận tay sửa lại nông cụ chuẩn bị cho mùa trồng trọt lúc sang xuân. Nhìn những mái nhà đơn sơ nhưng ấm áp như vậy lại khiến Dương Bất Hối chạnh lòng mà thầm rơi lệ, đoạn lại ho một tràng dài nghe mà thắt cả ruột gan. Cách đây chừng hơn một tháng, lúc nàng và con trai đang du ngoạn đất Vân Nam, Tứ Xuyên thì nghe tin dữ từ Võ Đang. Hai người vội lên đường trở lại Võ Đang Sơn ngay. Hiềm nỗi đường xa nhọc mệt, lại thêm hỏa tâm trong lòng khiến Dương Bất Hối đổ bệnh, hành trình cũng vì thế mà chậm lại không ít. Ân Thương Tùng thương mẹ, dẫu trong lòng cũng xót xa, khắc khoải không yên nhưng cũng vẫn không để cho mẹ phải nhọc mệt quá, đi được một chặng lại dừng xe lừa cho mẹ nghỉ ngơi. Vì vậy mà có đến hơn một tháng rồi, hai người mới đến được chân núi Võ Đang. Gió bắc lạnh tê tái táp từng qua má Ân Thương Tùng, lúc này đang cẩn thận dắt xe lừa chầm chậm lên núi. Con đường nhỏ men theo sườn núi lên Võ Đang giờ tuyết đã phủ dày mất dấu nên cậu chỉ có thể vừa đi vừa dò đường, chỉ một chút lơ đãng cũng có thể khiến cả hai người rơi xuống núi. Ân Thương Tùng tuy đã mệt lắm nhưng vẫn gắng lên giọng hồ hởi nói với mẹ:

    - Đã gần đến Võ Đang rồi mẹ ạ. Mẹ có mệt không? Có cần nghỉ chút rồi lại đi tiếp nhé?

    Dương Bất Hối vén màn nhìn ra, thấy khung cảnh quen thuộc của con đường lên núi, trong lòng vừa sốt ruột muốn nhanh lên núi, nhưng nhìn con mình đang căng tay dắt lừa, mặt đỏ lựng vì lạnh, nàng cũng không nỡ. Nàng nhỏ nhẹ lên tiếng:

    - Chúng ta đi cũng nửa ngày rồi, nghỉ chân một chút cũng không sao. Đường cũng không còn xa nữa, chỉ nửa buổi nữa là tới thôi.

    Ân Thương Tùng nghe vậy vội đánh xe lừa vào sát vách núi rồi neo lại. Cậu lại lúi húi lấy một túi da rót ra một bát trà bát bảo nóng, vén màn xe đưa cho mẹ, nói:

    - Mẹ uống bát trà này cho ấm người. Trong xe có lạnh không? Để con đun ít nước ủ túi chườm cho mẹ nhé.

    Dương Bất Hối khẽ vén đôi sợi tóc mái lòa xòa trước chán con trai, cười nói:

    - Xe không lạnh đâu. Ngoài trời tuyết rơi dày lạnh lắm, con vào xe ngồi cùng ta cho ấm.

    Ân Thương Tùng gật đầu rồi chui vào xe ngồi cùng mẹ. Cha cậu tuy rất yêu thương mẹ cậu nhưng ông cũng còn rất nhiều việc trong phái phải làm, vô cùng bận rộn. Từ bé đến giờ, chủ yếu là cậu quấn quít bên mẹ. Ngày nhỏ mẹ chăm lo cho cậu từng chút một. Giờ lớn rồi cậu cũng chẳng màng chuyện võ lâm, chỉ muốn có thời gian phụng dưỡng mẹ cho tốt. Ân Thương Tùng lấy ra hai trái đào tuyết, cười tươi nói:

    - Trên đường con hái được đấy. Năm nay tuyết đào Võ Đang Sơn chúng ta vừa to vừa ngọt. Mẹ nếm thử xem. Uống trà mãi cũng cồn ruột lắm.

    Dương Bất Hối mỉm cười, vỗ vỗ tay con trai nói:

    - Con đúng là một đứa con hiếu thảo. Nhưng cứ suốt ngày quấn quít bên cạnh mẹ vậy cũng không được. Con lớn rồi, cũng cần có sự nghiệp riêng của mình. Lại nói cũng cần phải yên bề gia thất nữa.

    Ân Thương Tùng nhăn mặt, nói:

    - Mẹ lại lôi chuyện sự nghiệp với gia thất ra rồi. Con chẳng thích. Con chỉ thích được hầu hạ, bảo vệ mẹ thôi. Con chẳng thích như cha, suốt ngày đi lo mấy chuyện tào lao ở võ lâm, bỏ mặc thê tử mình ở nhà.

    Dương Bất Hối thở dài nói:

    - Khi còn sống, cha con được danh là Lục Hiệp vì ông sống nghĩa khí, coi ác như thù, gặp cảnh khó đều ra tay trợ thủ. Tuy ông ấy không ở nhà thường xuyên nhưng ta rất tự hào về cha con. Có một phu quân như vậy, ta không có gì hối hận cả.

    Ân Thương Tùng biết mẹ đau lòng chuyện của cha, không dám nói thêm, bèn lấy dao bổ đào ra mời mẹ:

    - Thôi mẹ ăn đào đi. Đào này..

    Chưa dứt lời thì cậu đã nghe thấy một tiếng rít khẽ từ ngoài xe. Nhanh như cắt, Ân Thương Tùng hoành kiếm, dùng đốc kiếm gạt bay một mũi cương tiêu vừa xé màn bắn tới. Cậu kéo tay mẹ nằm xuống sát sàn xe, nói khẽ:

    - Mẹ nằm yên ở đây nhé. Để con ra ngoài xem địch nhân là kẻ nào mà lại dám gây sự ở ngay Võ Đang Sơn này, không coi bản phái chúng ta ra gì!

    Nói rồi cậu khẽ đạp chân lộn ra ngoài, đoạn tuốt kiếm thủ thế, quan sát tứ phía. Xung quanh tuyết vẫn lặng lẽ rơi không ngừng, nhưng tuyệt không thấy bóng người nào, lại cũng không thấy dấu chân. Hồi lâu không thấy động tĩnh gì thêm, Ân Thương Tùng mới thu kiếm, định đưa xe đi tiếp, tránh ở lâu lại thêm phiền phức thì thấy có một bóng người từ xa chạy lại. Người này tóc búi cao, thân mặc áo đạo, tay mang trường kiếm, hẳn là một môn sinh của Võ Đang. Vừa tiến lại, người này vừa hô lớn:

    - Kẻ nào lên núi đấy! Võ Đang đang có tang sự, không tiếp khách vãng lai!

    Ân Thương Tùng nghe giọng, nhận ra tiếng Lâm Tĩnh Văn, sư ca của cậu, nên rất vui mừng, nói lớn:

    - Lâm huynh! Đệ Thương Tùng đây mà! Đệ và mẹ đang trở về phái, nhưng nghỉ chân dọc đường chút thôi!

    Lâm Tĩnh Văn nhận ra người quen, vội khinh công tiến nhanh lại, giọng khẩn cấp nói:

    - Thương Tùng! Đệ về rồi à? Đệ đi vắng, sư phụ bị tiểu nhân ám toán hạ độc, không qua khỏi nên..

    Ân Thương Tùng nhăn mặt, nói khẽ:

    - Huynh không cần nói to thế chứ. Đệ và mẹ biết chuyện rồi. Nói lớn mẹ đệ lại thêm đau lòng.

    Lâm Tĩnh Văn nhận ra mình có chút thất thố, bèn hạ giọng nói:

    - Sư mẫu vẫn bình an chứ? Cả tháng nay bọn ta luân phiên đi tuần quanh núi. Một là đề phòng các lực lượng cựu thù với Võ Đang thừa nước đục thả câu tấn công. Hai là cũng muốn chờ đón đệ và sư mẫu.

    Ân Thương Tùng thân tình vỗ vỗ vai sư huynh mỉm cười. Nhìn làn da khi thường rám nắng khoẻ mạnh của Lâm Tĩnh Văn mà hôm nay cũng bạc đi về mỏi mệt khiến cậu thêm áy náy trong lòng. Lâm Tĩnh Văn trước khi lên Võ Đang là con cả trong một gia đình nông phu nghèo. Ân Lê Đình năm xưa hành tẩu giang hồ, qua làng Trịnh Kiều gặp sơn tặc hoành hành bèn rút kiếm tương cứu. Cảm trước tấm lòng nghĩa hiệp và võ công của Ân Lê Đình, Lâm Tĩnh Văn lặn lội lên Võ Đang xin học, trở thành đệ tử đầu tiên của Ân Lê Đình, cũng là đệ tử tâm đắc nhất của ông. Ngoài võ công cao cường, Lâm Tĩnh Văn là người trung lương, hiền hậu, tâm địa rất tốt. Ngày Ân Lê Đình qua đời, cả nội phụ và trưởng tử đều vắng mặt, chàng đã mặc áo tang, coi Ân Lê Đình như cha mà thay mặt Ân gia quản chuyện hiếu sự, trong lòng đau thương mà khóc than như người trong nhà làm ai cũng muôn phần cảm động. Ân Thương Tùng thấy Lâm Tĩnh Văn cũng như thấy người thân, trong lòng muôn phần cảm động. Hai người đang tay bắt mặt mừng thì có thêm một đệ tử Võ Đang nữa đi tới. Lâm Tĩnh Văn nhận ra gọi:

    - Lý sư đệ! Mau đến đây! Ân sư đệ và sư mẫu đã quay lại rồi!

    Người kia nghe gọi vội gia tăng cước lực, búng người sử Thê Vân Tung đạp nhẹ lại tán lá rừng mà lướt đến. Lá chỉ khẽ rung, lắc mình rơi chút tuyết đọng lất phất đủ thấy công phu khinh công người này không phải hạng vừa. Tám năm trước, Lý Hữu Tài lên Võ Đang bái sư. Tư chất người này không tồi, chỉ một thời gian ngắn mà công phu đã tăng tiến rõ rệt, trở thành một trong Thập Nhị Bát Tú của Võ Đang lúc đó. Thập Nhị Bát Tú là danh xưng của hai mươi tám môn sinh có võ công và phẩm hạnh cao nhất của lứa đệ tử Võ Đang thứ ba. Tống Quý Bình là người đứng đầu Thập Nhị Bát Tú, hiện đang giữ chức chưởng môn nhân theo di mệnh của Du Liên Châu. Lâm Tĩnh Văn cũng trong số các gương mặt ưu tú này, đứng thứ tám. Lý Hữu Tài mặc dù nhập môn muộn nhưng cũng đứng thứ mười ba. Tuy ít có giao tình nhưng Ân Thương Tùng luôn kính trọng Thập Nhị Bát Tú, thấy Lý Hữu Tài tiến đến cũng kính cẩn ôm quyền chào hỏi:

    - Lý sư huynh! Tiểu đệ và sư mẫu đã trở lại đây rồi.

    Lý Hữu Tài lãnh đạm gật đầu chào, đoạn nói;

    - Ngươi có nhìn thấy có kẻ lạ nào xung quanh đây không? Ta vừa thấy có bóng người thoắt ẩn thoắt hiện gần đây, vội đuổi theo thì giờ đã vô hình tích.

    Ân Thương Tùng đưa ra mũi cương tiêu khi nãy ngầm ám toán cậu và mẹ, nói:


    - Tiểu đệ và mẫu thân đang ngồi nghỉ mệt thì có địch nhân ám toán. Hắn chỉ phi đến một mũi cương tiêu nhưng may đệ đã cản được. Hai huynh xem có đầu mối gì không?

    Lý Hữu Tài cầm lấy mũi cương tiêu, nhìn thoáng qua thấy mũi cương tiêu này cũng không có điểm gì đặc biệt, thậm chí cạnh tiêu còn đã mòn khá nhiều, không có vẻ gì là được bảo trì cẩn thận. Lâm Tĩnh Văn lại xem ở nơi màn xe bị cương tiêu phi xuyên qua. Trán chàng nhíu lại, đổ mồ hôi lạnh. Màn xe tuy không phải dệt bằng chất liệu gì quý hiếm nhưng loại đũi Thường Châu này rất dày, màn lại được thả chùng mà mũi cương tiêu phóng từ xa khuất tầm mắt lại có thể cắt ngọt qua để xuyên vào trong đủ thấy công phu ám khí của người này cao đến mức nào. Lâm Tĩnh Văn trong lòng thấy bất an, vội giục Ân Thương Tùng:

    - Ân sư đệ, đệ mau đưa sư mẫu lên đường ngay. Minh thương dị đóa, ám tiễn nan phòng. Huống hồ người này võ công rất cao, ngay cả chúng ta hợp lực cũng không chắc đã là đối thủ. Đệ dắt xe đi ngay đi. Ta và Lý sư đệ sẽ đoạn hậu bảo hộ!

    Ân Thương Tùng lo lắng gật đầu rồi ra roi cho xe lừa nặng nhọc tiến lên. Tuyết mỗi lúc một dày, gió đã gào lên những tiếng hú dài ầm ĩ tựa như một con dã thú bị thương.. Từ khi nào mới chỉ là những cơn gió mạnh thì giờ bão tuyết đã nổi lên mịt mù. Ân Thương Tùng căng tay dò dẫm từng bước dẫn xe tiến lên. Sau lưng hai người Lâm - Lý cũng tuốt kiếm, cẩn thận quan sát tứ bề. Nhưng bão tuyết như có tay vừa che mắt người, vừa bịt tai người. Đoàn người dọ dẫm đi được thêm một đoạn thì bất chợt Lý Hữu Tài vung kiếm gạt bay một mũi cương tiêu khác vừa nhằm vào chàng, đoạn hét lớn:

    - Địch nhân ở dưới dốc kia! Để đệ đuổi theo bắt hắn lại! Võ Đang này không thể để thứ ác nhân hèn hạ như hắn lai vãng được!

    Nói đoạn Lý Hữu Tài đã búng người lao xuống dốc núi. Lâm Tĩnh Văn biết kẻ kia võ công cao cường, không thể để sư đệ đơn đả độc đấu với hắn được bèn cũng phi xuống trợ lực. Trước khi đi, chàng dặn Ân Thương Tùng:

    - Ân sư đệ tiếp tục lên đường, cẩn thận bảo hộ cho sư mẫu! Ta phải giúp Lý sư đệ một tay!

    Ân Thương Tùng cũng tuốt kiếm, nói:

    - Để đệ đi cùng huynh! Kẻ này võ công cao lại thạo ám khí, không thể khinh địch được!

    Lâm Tĩnh Văn túm tay Ân Thương Tùng, lắc đầu nói:


    - Đệ nhất định phải ở lại đây bảo vệ sư mẫu! Nếu không may địch nhân nhằm lúc chúng ta đi cả mà tấn công thì chẳng phải sư mẫu sẽ nguy hiểm lắm sao? Ta và Lý sư đệ tuy không cầm chắc phần thắng nhưng cũng đủ giữ chân hắn đến khi đệ và sư mẫu an toàn. Nghe ta, mau đi đi!

    Nói rồi chàng nhún người khinh công đuổi theo Lý Hữu Tài ngay, chớp mắt hai người đã khuất hẳn trong cơn mưa tuyết. Ân Thương Tùng trong lòng như lửa đốt nhưng không biết làm thế nào, đành tiếp tục đưa mẹ lên đường. Mới đi được thêm không bao xa thì đã nghe tiếng Lâm Tĩnh Văn hét lên đau đớn ở dưới dốc núi. Dương Bất Hối hoang mang, nói:

    - Thương Tùng, có phải tiếng Tĩnh Văn đó không? Hình như có chuyện không hay rồi.

    Ân Thương Tùng nghe tiếng hét này, biết mười mươi Lâm Tĩnh Văn đã gặp nạn rồi, chân muốn lao xuống hỗ trợ cho sư huynh nhưng vẫn lo cho mẹ nên dùng dằng không quyết được. Dương Bất Hối biết lòng con, khảng khái nói:

    - Con mau xuống hỗ trợ Lâm sư huynh đi. Ta ở đây không sao đâu.

    Ân Thương Tùng lắc đầu nói:

    - Con không thể để mẹ ở lại đây được. Địch nhân nếu ám toán thì mẹ sao có thể tự hộ thân được.

    Dương Bất Hối lấy từ gầm ghế trên xe một thanh đoản kiếm, cười nói:

    - Tiểu tử này chưa từng được xem ta ra chiêu nên chưa biết lợi hại rồi. Nói cho con hay, khi chưa lấy chồng ta cũng nhiều năm luyện võ cùng với ngoại tổ phụ đó. Con cứ đi đi, ở đây ta lo được!

    Ân Thương Tùng thấy mẹ dứt khoát như vậy, cũng tạm yên lòng mà đi yểm trợ cho hai sư huynh. Chân cậu vừa lời đi thì khoé mắt trái Dương Bất Hối cũng giật khẽ, một nỗi bất an dâng lên trong lòng nàng. Nàng nhoài người ra khỏi xe, định dặn con cẩn thận thì bóng Ân Thương Tùng đã khuất trong cơn bão tuyết mất rồi. Nàng thở dài, đưa kiếm vào thế Diệu Lý Thu Không, tĩnh tâm, định thần sẵn sàng cự địch..

    Lại nói Ân Thương Tùng nhằm hướng khi nãy Lâm Tĩnh Văn rời đi mà đuổi theo. Qua hơn chục nhịp khinh công thì cậu đã thấy bóng áo đạo của Võ Đang phía trước bèn gia tăng cước lực lao đến. Chân vừa chạm đất thì khung cảnh trước mặt đã khiến cậu lảo đảo muốn ngã gục. Lâm Tĩnh Văn bị một vết đâm chí mạng vào ngực, qua đời ở tư thế đứng dựa vào một thân tùng. Đầu gục xuống nhưng đôi mắt vẫn rực một nỗi căm hờn không tắt. Kiếm trong tay vấy máu, chống xuống đất để khi chết không ngã quỵ. Ân Thương Tùng bàng hoàng, lảo đảo tiến đến, sờ lên mũi chàng hi vọng vẫn còn thấy chút hơi thở mà chỉ còn thấy giá lạnh nơi tay, không phải vì tuyết, mà vì sư huynh cậu đã không còn nữa rồi. Ân Thương Tùng nhìn quanh, không thấy Lý Hữu Tài đâu, vội chạy đi tìm thì nghe thấy tiếng kêu ở phía trước. Cách đó không xa, Lý Hữu Tài đang đang lảo đảo tiến tới, tay trái bị thương, máu đã thẫm lại. Ân Thương Tùng kêu lên:

    - Lý sư huynh! Địch nhân ở đâu? Đệ đến trợ thủ cho hai người đây!

    Lý Hữu Tài lắc đầu, thở dài não nề nói:


    - Muộn rồi.. Lâm sư huynh trúng sát chiêu vong mạng, ta may mắn hơn, chỉ bị thương ở tay. Nhưng chúng ta cũng đã kịp đả thương được tên khốn kiếp đó. Tiếc là hắn đã kịp tẩu thoát, bằng không nhất định phải bắt hắn phân thây làm trăm mảnh mới hả giận! Ân sư đệ, bây giờ chúng ta yếu thế hơn, lại không biết địch nhân lẩn trốn nơi nào. Chi bằng về đưa sư mẫu lên núi cho cẩn thận đã rồi tính chuyện trả thù cho Lâm sư huynh sau cũng chưa muộn.

    Nói đoạn, Lý Hữu Tài lảo đảo đi tiếp, nhưng Ân Thương Tùng vẫn đứng lại. Lý Hữu Tài không thấy cậu đi theo mình, bèn ngoái đầu lại nhìn thì thấy mũi kiếm của Ân Thương Tùng đã chỉ sát mặt chàng ta. Ân Thương Tùng lạnh lùng nói:

    - Lý sư huynh, ta nghe tiếng sư huynh bị thương từ xa vội lao đến ngay, thật không ngờ đến muộn một chút, vết thương trên tay huynh đã kịp đông máu rồi. Xem ra vết thương cũng đã được một lúc, không phải vết thương mới. Nói! Ngươi có âm mưu gì? Có phải ngươi đã ám toán Lâm sư huynh không?

    Lý Hữu Tài sửng sốt nhìn Ân Thương Tùng, hỏi:

    - Ân sư đệ! Đệ làm gì vậy? Đệ nghĩ ta đã hại Tĩnh Văn huynh sao? Đệ sao có thể hồ đồ quá như vậy. Nếu không mau về bảo hộ cho sư mẫu, chỉ e địch nhân nhân lúc này đã đến ám toán rồi cũng nên.

    Ân Thương Tùng vẫn không thu kiếm, lại còn dí kiếm sát yết hầu Lý Hữu Tài, gằn giọng:

    - Ngươi chớ buông lời hoa ngôn xảo ngữ hòng lừa gạt ta. Vết thương trên tay ngươi kia chắc chắn là do Lâm sư huynh chém trúng. Trên kiếm huynh ấy cũng vấy máu đã đen lại như vết thương trên tay ngươi! Ngươi nói ngươi giao chiêu với địch nhân ở đây mà khi ta đến cũng chỉ có vết chân của ngươi còn lại. Lẽ nào ngươi đánh nhau với ma chắc!

    Đôi mắt Lý Hữu Tài đang từ mở to ngạc nhiên, dần nheo lại thành một ánh nhìn xảo quyệt. Hắn nhếch mép nói:

    - Tiểu tử ngươi khá lắm. Không ngờ lúc nguy cấp thế này ngươi vẫn nhìn ra độc kế của ta. Phải! Chẳng có địch nhân nào cả. Tên họ Lâm kia là ta giết đấy. Nghĩ mà thấy kính nể hắn ba bốn phần. Hắn cả tin, lại nhiệt tình xông xáo theo hướng ta chỉ, bị ta đâm một kiếm sau lưng mà vẫn còn sức ra chiêu chém ta bị thương. Đến khi ta bồi thêm một kiếm nữa mới chịu lìa trần. Tiểu tử, nếu biết điều thì thu kiếm lại, ta sẽ cho ngươi chết không đau đớn, lại hứa sẽ tha cho mẫu thân ngươi.

    Ân Thương Tùng nghe nói động đến mẹ, trong lòng hỏa khí xung thiên, bèn đâm kiếm đến. Nhưng cậu quên mất rằng khi ra chiêu mà tâm không vững thì chiêu kiếm đã mất bảy, tám phần tác dụng rồi. Lý Hữu Tài khẽ lùi lại, đoạn xoay người né. Kiếm của Thương Tùng chậm một nhịp nên chỉ khẽ cứa qua cổ hắn một vết cắt nông. Lý Hữu Tài lại vươn tay kẹp chặt lấy kiếm của cậu, xoay người trên không trung, mượn lực đoạt kiếm. Đây là chiêu Tịch Thủ Cầm Long, một tuyệt chiêu của Thiếu Lâm Mật Tông. Ân Thương Tùng thấy kiếm bị kẹp chặt, bèn vận theo nguyên lý của kiếm pháp Võ Đang, mượn lối âm nhu mà hóa giải, tung người xoay theo cùng chiều với Lý Hữu Tài, kiếm cũng vì vậy mà không bị đoạt. Đoạn cậu lại xuất ấn thủ, đánh một đòn Mê Tung Chưởng. Chưởng đi không một tiếng động, lại nhanh chậm khó lường, đến khi chạm địch nhân mới phát huy hết kình lực, vốn là một chiêu đắc ý của Tống Viễn Kiều. Nhưng Lý Hữu Tài học nghệ ở Võ Đang tám năm, có mấy chiêu thức mà hắn chưa từng nhìn thấy. Mê Tung Chưởng tuy tuyệt diệu, nhưng Ân Thương Tùng tu vi chưa đủ, chưa thể phát huy hết uy lực và ẩn công vốn có. Lý Hữu Tài thừa cơ kéo một cái làm hạ bàn của cậu lảo đảo, tay trái hắn lại kết thành chỉ pháp, đâm một đường Xuyên Sơn Chỉ, điểm trúng ngực Ân Thương Tùng. Chỉ pháp này có tên Xuyên Sơn Chỉ vì kình lực tập trung ở đầu ngón tay, có thể xuyên phá được cả đá tảng huống hồ là nhục thân. Ngón trỏ của hắn đâm lút ngực Ân Thương Tùng khiến cậu đau đến hoa cả mắt, vô lực mà buông kiếm. Lý Hữu Tài tiện tay đoạt lấy kiếm, xả một đường nhằm đầu Ân Thương Tùng chém xuống. Cậu trong lằn ranh sinh tử, cơ thể tự có phản xạ, đá mạnh vào ngực Lý Hữu Tài khiến đường kiếm chệch đi nhưng cũng vẫn bị chém một đường chéo qua mặt, máu chảy ròng ròng loang đỏ tuyết trắng. Cậu lảo đảo lùi lại thêm hai bước thì thấy chân đã sát miệng núi, chỉ thêm một bước tất sẽ rơi xuống mà mất mạng. Đến nước này biết mạng khó giữ, cậu chỉ hỏi:

    - Tại sao ngươi lại ám hại Võ Đang?

    Lý Hữu Tài cười nhếch mép nói, ánh mắt hắn lộ vẻ đắc ý:

    - Ngươi có trách thì trách biểu tỷ Triệu Mẫn của ngươi âm mưu hiểm độc mới nên nỗi này. Ta cũng chỉ là người thừa hành thôi. Kiếp này ta với ngươi không thù không oán, để ta tiễn ngươi đi trước một đoạn!

    Nói rồi, Lý Hữu Tài định tung thêm một chiêu kết liễu thì nghe thấy có tiếng người đang khinh công đến. Sợ bại lộ, hắn tung một cước đá bay Ân Thương Tùng lăn xuống triền núi. Quả nhiên giây lát sau thì có ba môn sinh Võ Đang đã đến nơi. Hắn giả vờ bị thương, nói:

    - Có địch nhân ám toán! Bọn chúng đã giết Lâm sư huynh và Ân sư đệ rồi!

    Ba môn sinh kia thấy Lý Hữu Tài đã bị thương, cũng không nghi ngờ gì mà vội dìu hắn đưa đi cứu chữa. Lý Hữu Tài lại nói thêm:

    - Dương sư mẫu giờ đang đơn độc ở triền núi trên kia, chúng ta mau lên bảo hộ cho sư mẫu.

    Thấy Lý Hữu Tài trở lại cùng ba môn sinh khác mà lại không thấy con mình và Lâm Tĩnh Văn đâu, Dương Bất Hối lo lắng hỏi:

    - Hữu Tài, con có gặp Thương Tùng không? Tĩnh Văn đâu?

    Lý Hữu Tài giở trò mèo khóc chuột, rầu rĩ đáp:

    - Sư mẫu.. sư mẫu đừng quá đau lòng.. Ân sư đệ và Lâm sư huynh đề bị địch nhân hạ độc thủ rồi..

    Nghe chưa hết câu Dương Bất Hối đã thốt lên một tiếng đau đoạn trường, trong người vốn không khoẻ lại nghe tin dữ liên tiếp đến như vậy làm loạn khí huyết nàng. Nàng thổ ra một búng máu tươi rồi ngất đi..

    * * *


    Niêm đóa vy tiếu đích hoa

    Tưởng nhất phiên nhân thế biến hoán

    Đáo đầu lai du doanh hựu hà phương

    Nhật dữ nguyệt cộng tiêu trường

    Phú dữ quý nan cửu trường

    Kim tảo đích dung nhan lão vu tạc vãn

    My gian phóng nhất tự khoan

    Khán nhất đoạn nhân thế phong quang

    Thuỳ bất thị bả bi hỷ tại thường

    Hải liên thiên tẩu bất hoàn

    Ân oán nan kế toán

    Tạc nhật phi kim nhật cai vong

    Lãng thao thao nhân diêu diêu

    Thanh xuân điểu phi khứ liễu

    Tung nhiên thị thiên cổ phong lưu lãng lý dao

    Phong tiêu tiêu nhân diêu diêu

    Khoái ý đao sơn trung thảo

    Ái hận đích bách bàn tư vị tuỳ phong phiêu


    Dịch:

    Tay đón nụ hoa vừa hé nở, hồi tưởng nhân thế đổi thay

    Thắng thua cuối cùng có ý nghĩa gì đâu

    Ngày tháng trôi qua, giàu sang đâu tồn tại mãi

    Dung nhan nào còn được như xưa

    Hàng mi điểm bạc nhìn một mảnh nhân gian tươi đẹp

    Ai chưa từng nếm trải buồn vui

    Biển trời đi chưa hết, ân oán làm sao tính toán

    Chuyện xưa chuyện nay quên đi hết

    Sóng cuồn cuộn, lòng người mênh mang, cánh chim xuân còn đâu bóng dáng

    Ngay cả dòng thơ cổ cũng lưu lạc phương nào

    Gió vi vu, lòng người mênh mang, thỏa thích vui đùa cùng nhánh cỏ

    Yêu hận bay theo cơn gió


    Gió biển ngày đông tựa như những lưỡi dao vô hình hung bạo cắt qua bất kỳ chỗ da ai vô tình hở ra đau buốt. Triệu Mẫn ngả người trên ghế tựa kê ngay trên boong tàu, mặc cho gió vờn đùa lọn tóc mái nàng thả lòa xòa lười nhác chẳng vén lên. Đôi mắt nàng vô định ngắm nhìn khung trời âm u, xam xám mà trong đầu văng vẳng khúc hát Tiểu Chiêu năm nào hát trên Linh Xà Đảo. Thoáng nghe đâu đó tiếng chim khắc khoải bay ngang làm dấy lên trong lòng nàng nỗi nhớ Vô Kỵ nhưng chỉ một chút thôi rồi lại lặng xuống. Đã tám năm rồi, cảm giác cồn cào nhung nhớ phu quân đã trở nên chai lì, chẳng còn xé lòng diết da như những ngày đâu. Nhưng nỗi đau đó không biến mất mà luôn chực chờ nơi ngóc ngách thẳm sâu nhất mà con tim nàng cố giam giữ, chỉ chực chờ một giây phút nào đó nàng buông lơi lý trí sẽ bùng lên dằng xé tâm trí nàng. Hải trình đến Bạc Sa lâu thật. Đã hai tuần rồi lênh đênh trên biển mà vẫn chưa thấy bóng dáng đích đến đâu. Lãng Nghệ lần này giao cho nàng đến Bạc Sa nhằm thuyết phục Minh Giáo Tổng Đàn tham gia lực lượng của hắn để chiếm lấy giang sơn từ tay Chu Nguyên Chương, à không, phải nói là từ tay Dương Thiên Chí mới đúng. Triệu Mẫn cám cảnh cho Chỉ Nhược, lại nghĩ đến hoàn cảnh hiện tại của bản thân xem ra cũng chẳng khác gì, chỉ biết buông một tiếng thở dài. Bỗng có tiếng người cất lên:

    - Cô nương có điều gì phiền muộn mà thở dài vậy? Bần tăng liệu có thể độ duyên cho cô nương được chăng?

    Triệu Mẫn nhỏm dậy, nhìn về phía có tiếng nói thì thấy một nam tăng nhân thuộc chi phái Phật Giáo Mật Tông đang ung dung ngắm trời biển. Vóc người cao ráo, đôi mắt xám tro, da ngăm ngăm màu đồng hun, khoác trên mình bộ áo cà sa vàng đỏ, tay lần tràng tam thập nhị huyền hạt. Triệu Mẫn bật cười, nghĩ bụng:


    - Ta dù sao cũng đã là gái hai con, đâu còn trẻ trung gì nữa mà gọi là cô nương. Tên trọc này xem ra là sư hổ mang rồi.

    Gặp lúc đang buồn chán, Triệu Mẫn định mượn đôi câu chọc nhà sư này vài câu cho khuây khỏa thì bỗng nhớ ra trên thuyền này vốn đâu có tăng nhân. Chính Lãng Nghệ đã thuê tàu này chỉ có nàng và đoàn thuỷ thủ, tuyệt không thể có người ngoài lẫn vào. Lại nhìn bộ áo cà sa này thoáng nhìn tưởng đơn giản bình thường nhưng dệt chìm trong đó những đường kim tuyến ngang dọc hình chữ Vạn ẩn hiện. Chuỗi tràng hạt ba mươi hai hạt tịnh huyền này phải là những cao tăng đắc đạo mới được phép dùng. Người này xem ra rất có vai vế trong giới phật tử Mật Tông. Nghĩ đến đây, Triệu Mẫn bèn âm thầm tiến lại gần, giả vờ trò chuyện để đánh lạc hướng người này:

    - Vị hòa thượng này đã đi tu rồi còn không biết phép tắc. Trên thuyền này chỉ có mỗi mình ta là nữ nhân. Ngươi là người tu hành sao lại có thể tự tiện lên thuyền mà không xin phép vậy chứ.

    Vị hòa thượng kia chắp tay, nét mặt vẫn đầy vẻ ung dung, từ tốn đáp lại:

    - Bần tăng vốn đang đi thuyền sang một số đảo lân cận quanh đây để thuyết giáo. Không ngờ trên đường lại gặp thuyền lớn từ Trung Thổ, lại nghe có tiếng người thở dài não nề. Tiếng thở dài này sâu tựa biển, dài tựa đường sa mạc, tất không phải chuyện muộn phiền bình thường. Vì vậy bần tăng mạo muội ghé bước lên thuyền, mong có cơ hội dùng giáo pháp giải trừ nghiệp chướng trong tâm cô nương, cũng là tích thêm phước đức cho đời rồi.

    Triệu Mẫn thấy người này xưng là bần tăng, lời nói cẩn trọng, khiêm cung nhưng lại gọi nàng là cô nương chứ không dùng chữ nữ thí chủ. Điều này khiến nàng có cảm giác dưới lớp áo cà sa kia hẳn là một người có tâm ý phức tạp khó lường, nhất định phải đề phòng. Tuy nhiên, chưa biết hay dở thế nào, Triệu Mẫn cũng không tiện vạch trần chân tướng của hắn, bèn giả bộ buồn bã nói:

    - Quả nhiên là một thần tăng, chỉ nghe tiếng thở dài cũng biết nỗi muộn phiền trong lòng ta lớn thế nào. Đúng là ta có nỗi muộn phiền, nhưng không ai có thể giúp ta giải tỏa nó được.

    Vị tăng nhân kia chắp tay, nói:

    - A Di Đà Phật.. Hôm nay bần tăng gặp cô nương ở đây là hữu duyên. Phật môn rộng lớn, độ lượng tứ bề. Người cứ nói hết tâm sự trong lòng, nếu giải được thì là phước đức của bần tăng, nếu không được lại là duyên của bần tăng và cô nương chưa đủ dày để giải, tất sẽ có người khác giúp đỡ.

    Triệu Mẫn mỉm cười nói:

    - Tâm ta muộn phiền vì lần này ta đến Bạc Sa muốn có thể đoạt ngôi giáo chủ Minh Giáo Tổng Đàn, tự xưng hùng một cõi. Rồi sẽ trở lại Trung Thổ, đoạt cả thiên hạ vào tay ta. Người xem có thể hóa giải cho ta được chăng?

    Nam tăng nhân kia mỉm cười, nói:

    - Nếu cô nương gặp chuyện buồn vì tâm chưa tịnh, chưa bỏ được lục giới mà gặp phiền muộn thì e bần tăng cũng có thể khó mà độ cho người. Nhưng chuyện cỏn con cô nương vừa nói, bần tăng có lẽ không cần đến quá nhiều duyên cũng có thể hóa giải được.

    Triệu Mẫn nén cười, nghĩ bụng:

    - Tên này đã nói khoác còn ra vẻ đạo mạo. Chuyện mà dễ thế thì biểu ca đâu có mất đến mười năm ẩn nhẫn chờ thời như bây giờ.

    Nghĩ vậy thôi nhưng nàng chỉ mỉm cười ý nhị, định nói thêm thì bỗng thuyền trưởng hớt hải chạy tới, miệng la hốt hoảng:

    - Quận chúa! Phía trước có lạch nước xoáy rất lớn. Thuyền chúng ta đã tiến đến gần quá rồi không thể đổi hướng. Quận chúa mau lên thuyền phụ thoát thân mau thôi!

    Triệu Mẫn nghe tin, chưa kịp phản ứng thì đã thấy vị tăng nhân kia khoan thai bước đến thành tàu, nói:

    - Các vị chớ lo lắng. Hôm nay gặp các vị ở đây là duyên của bần tăng. Mọi người cứ bình tĩnh ngồi xuống sàn, bần tăng sẽ giúp hóa giải cơn tai kiếp này.

    Nói đoạn người đó nhảy xuống thuyền nhỏ phía dưới. Triệu Mẫn nhìn theo thấy thuyền này chẳng có buồm, không có lái, cũng chẳng thấy có gì chèo chống. Chỉ thấy người kia vận kình phát xuống nước, mượn lực đó đẩy thuyền đi vun vút còn nhanh hơn gió đẩy nhiều. Người kia tay thu tay nhả kình, chốc lát đã đưa thuyền đến trước thuyền của Triệu Mẫn. Chưa hiểu định làm gì thì đã thấy vị tăng nhân đó xuống tấn, vận công, đưa hai tay theo hai hướng trước sau rồi phát kình mạnh mẽ. Không khí xung quanh người đó như bị cuốn xoắn lại dọc theo cánh tay rắn chắc, tựa như hai cơn lốc nhỏ đánh ra. Một luồng kình lực uyển chuyển đẩy mũi thuyền Triệu Mẫn đi chéo tránh khỏi vùng nước xoáy, một luồng nội lực kia vững vàng đánh xuống nước tựa như chiếc neo giúp thuyền của tăng nhân này ở giữa biển lớn mà không có chút động. Đến khi thuyền Triệu Mẫn đã an toàn rời khỏi vùng nước xoáy thì cũng đã khuất bóng vị tăng nhân kia. Triệu Mẫn thấy võ công người này không phải người thường, lời lẽ tuy khiêm nhường nhưng cũng có phần ngạo mạn, trong lòng dấy lên một nỗi nghi hoặc bứt rứt không yên. Xem ra lần này đến Bạc Sa có khi không đơn giản như Lãng Nghệ dự liệu.

    Thuyền của Triệu Mẫn đi thêm ba ngày nữa thì cập cảng Bạc Sa. Bến cảng nơi đây nhộn nhịp tấp nập hơn nhiều so với các cảng nơi Trung Thổ. Những cánh buồm đủ màu của các nhà buôn lớn đậu san sát ngỡ như có thể cưỡi ngựa mà phi qua được. Những sạp bán hàng được bày ngay gần đó ngai ngái mùi cá tôm mới đánh, lại có thoảng mùi hương liệu và các loại gia vị tứ phương. Các nhà buôn từ khắp nơi đổ về, qua mấy quầy hàng này mà bắt mối giao thương. Các cô, các bà lại có vẻ hào hứng hơn với những sạp vải đủ chất liệu, voan có, lụa có, lại có đủ loại màu kết thành những dải dài vắt ngang giá trên cao khiến Triệu Mẫn như đi lạc vào một mảnh đất thần tiên nào vậy. Nàng đang thư thái đi dọc những sạp hàng trong khi chờ đoàn thuỷ thủ dỡ đồ lễ nạp chuẩn bị cho buổi thương thuyết với Minh Giáo Tổng Đàn. Đang mải mê ngắm nhìn những đôi mắt thiếu nữ Bạc Sa tuyệt đẹp ẩn hiện sau lớp voan che mặt, bỗng Triệu Mẫn thấy có người túm chặt lấy tay mình. Theo phản xạ nàng rút truỷ thủ, định ra chiêu tự vệ thì bỗng thấy cánh tay đó rụt lại. Nhìn ra mới thấy đó là cánh tay một giai nhân nên mới trắng trẻo, mềm mại, lại mát lạnh như nước suối. Cánh tay ấy làm nàng liên tưởng đến "Tiểu Bạch Thố" năm nào. Nhưng giờ Tiểu Chiêu hẳn đang làm Thánh Nữ ở Minh Giáo, sao có thể thoải mái xuống chợ thế này được chứ. Nàng thu truỷ thủ lại, nhìn người con gái vừa túm tay nàng thấy đôi mắt to tròn ngây thơ ấy sao quen quá. Triệu Mẫn buột miệng gọi khẽ:

    - Tiểu.. Tiểu Chiêu?

    Người con gái đó bỗng ứa nước mắt, nhưng rồi giờ ngón tay ra hiệu cho nàng im lặng đi theo cô ta. Hai người đi đến nơi thưa người hơn, người con gái đó mới bỏ mạng che mặt. Đôi mắt to mơ màng ấy, đôi môi hoa đào chúm chím ấy, làn da trắng trẻo, mịn màng ấy, và giọng nói nhẹ nhàng, khiêm cung ấy suốt bao năm vẫn không đổi. Tiêu Chiêu khẽ lên tiếng:

    - Triệu tỷ tỷ..

    Triệu Mẫn vội ôm chầm lấy Tiểu Chiêu, hạnh phúc thốt lên:

    - Tiểu Chiêu! Đúng là muội rồi! Ta nhớ muội lắm!

    Tiểu Chiêu cũng cảm động ôm chặt Triệu Mẫn, thổn thức:

    - Từ khi về Bạc Sa, Tiểu Chiêu cũng nhớ tỷ tỷ và công tử lắm. Hai người bây giờ ra sao? Tỷ vẫn luôn chăm sóc cho công tử chứ?

    Suốt bao năm Triệu Mẫn đã cố nén nỗi đau này trong lòng để nhẫn nhịn sống tiếp tìm một cơ hội đoàn viên. Nhưng lời hỏi thăm của Tiểu Chiêu vô tình khơi lại nỗi đau toàn gia ly biệt đó, làm Triệu Mẫn ôm Tiểu Chiêu thêm chặt, khóc nấc lên:

    - Vô Kỵ giờ lưu lạc nơi đâu ta cũng không hay. Ngay cả con của chúng ta cũng bị ác nhân khống chế, bao lâu rồi ta cũng chẳng được gặp con nữa. Tiểu Chiêu! Ta thực sự đau đớn, mệt mỏi lắm!

    Tiểu Chiêu nghe mà thấy lòng mình cũng như muôn vạn lưỡi dao đâm, chẳng biết nói gì hơn, chỉ biết vuốt tóc Triệu Mẫn an ủi:

    - Tỷ nhất định sẽ đoàn tụ với công tử và hài nhi thôi. Mà sao tỷ tỷ lại tới nơi đây?

    Triệu Mẫn một lúc sau mới nguôi ngoai, nói:

    - Tỷ tỷ đến đây vốn cũng định tìm muội để bàn một số chuyện. Tỷ muốn thương thuyết với Minh Giáo tổng đàn tham gia vào cuộc đảo chính, lật đổ Minh Triều, đoạt lấy giang sơn về tay người Mông chúng ta. Nay gặp muội ở đây thì hay rồi, chúng ta mau về tổng đàn Minh Giáo rồi nói chuyện tiếp.

    Tiểu Chiêu lắc đầu, dáo dác nhìn xung quanh rồi hạ giọng nói:

    - Bây giờ muội không thể về tổng đàn được. Lần này tỷ tỷ đến đây vô ích rồi.

    Triệu Mẫn nhíu mày, hỏi:

    - Chẳng phải muội là Thánh Nữ của Minh Giáo sao? Vốn dĩ ta nghĩ muội phải khó khăn lắm mới ra đây được ấy chứ.

    Tiểu Chiêu thở dài, kéo tay Triệu Mẫn ngồi xuống một gốc cây gần đó, nói:

    - Đúng là muội khó khăn lắm mới ra được đây. Nhưng là tẩu thoát được.

    Triệu Mẫn ngạc nhiên, thốt lên:

    - Tẩu thoát?

    Tiểu Chiêu nhìn xa xăm ra phía bến cảng nói:

    - Có điều tỷ chưa biết. Ngày đó Minh Giáo Bạc Sa vốn đã bị triều đình o bế. Hoạt động của giáo chúng bị ngăn chặn tứ bề, lại thêm các giáo phái khác cũng nổi lên khiến vận mệnh của Minh Giáo Bạc Sa như ngọn nến trước gió. Chính vì vậy Minh Giáo Bạc Sa mới phải lặn lội đến Trung Thổ để tìm Thánh Nữ, hòng gây dựng lại uy tín trong dân chúng và triều đình. Muội về làm Thánh Nữ thời gian đầu cũng hết lòng giúp giáo được phát dương quang đại. Nhưng rồi cũng chưa đủ để lấy lại vị thế trước đây của bản giáo. Lúc đó ở trong dân gian có một người tự xưng là Hỏa Thần, là hiện thân của Thánh Hỏa xuất hiện. Ông ta có tài chữa bệnh, thuyết giáo, võ công lại vào mức thượng thừa nên giúp giáo phái nhiều lần đánh đuổi được quan binh truy quét, tiếng tăm mỗi lúc một lớn. Muội cùng các Bảo Thụ Vương qua thảo luận đã quyết định nhận ông ta làm Bảo Thụ Vương thứ mười ba, hiệu là Thiên Hỏa Bảo Thụ Vương. Được vài năm yên ổn, muội mới tình cờ phát hiện ra âm mưu của người này muốn mượn thực lực của Minh Giáo để dần dần thôn tính Bạc Sa, xưng vương xưng đế, trái ngược với tôn chỉ của bản giáo. Chưa kịp vạch trần tội ác thì muội và mẹ đã bị vu vào tội phản giáo, theo luật phải bị thiêu chết. Mẫu thân lăn xả mới mở được đường máu cho muội thoát thân, nhưng giờ vẫn đang bị giam trong hỏa ngục.

    Triệu Mẫn vỗ về Tiểu Chiêu, nói giọng quả quyết:

    - Muội đừng lo, ta nhất định sẽ tìm cách cứu Tử Sam Long Vương đưa về Trung Thổ. Trước mắt muội cứ lên thuyền của ta mà trốn cho thật kỹ. Để ta đến gặp tên Hỏa Thần kia xem hắn ta ba đầu sáu tay đến thế nào!

    Tiểu Chiêu mừng rỡ, quỳ xuống bái tạ, nói:

    - Đa tạ tỷ tỷ ra tay cứu giúp. Nếu chuyện thành, nhất định Tiểu Chiêu sẽ theo hầu hạ tỷ tỷ đến trọn đời!

    Triệu Mẫn mỉm cười, đỡ Tiểu Chiêu dậy, nói:

    - Muội không coi ta là tỷ tỷ sao mà nói vậy? Chuyện cứ để ta lo liệu. Giờ chúng ta xuống thuyền ẩn nấp đã. Ta cũng cần chuẩn bị vài thứ trước khi đi đến Minh Giáo.

    An trí cho Tiểu Chiêu nơi ẩn nấp cẩn thận dưới thuyền xong, Triệu Mẫn cùng đoàn tuỳ tùng đưa lễ vật đến tổng đàn Minh Giáo. Đi chừng hơn năm mươi dặm thì thấy Vân Phong Nguyệt Tam Sứ đã ra đón. Huy Nguyệt Sứ năm xưa trúng chiêu Thiên Địa Đồng Thọ của Triệu Mẫn bị thương nặng, đến giờ gặp lại vẫn còn có chút hậm hực. Nhưng lệnh từ tổng đàn ban ra phải đón tiếp cẩn thận nên đành nén giận, mỉm cười nói:

    - Chúng ta phụng mệnh giáo chủ đến đón Quận chúa. Mời người theo chúng ta.

    Nói rồi Tam Sứ đi trước dẫn trước. Con đường cát ngoằn ngoèo dẫn đến một cung điện lớn bằng đá trắng, trên đỉnh cung điện đốt một đài lửa lớn ngày đêm không tắt. Lúc này đã chính ngọ, ánh mặt trời chiếu hắt lên tường đá cung điện làm bức tường óng ánh như thực như ảo. Bên ngoài nóng nực, nhưng bước vào bên trong cung điện bỗng thấy dịu mát ngay. Bên trong bài trí tuy không quá xa hoa nhưng rất mát mắt những rặng cọ cảnh xanh tốt, những bụi hồng rực rỡ và nhiều loại cây lạ khác. Ngồi dọc theo hai bên sảnh lớn là mười hai Bảo Thụ Vương. Trên ghế cao nhất giữa sảnh, lúc Triệu Mẫn nhìn lên không khỏi thấy như vừa bị điện giật. Vị tăng nhân mấy hôm trước gặp đang ung dung ngồi trên ghế giáo chủ, mỉm cười nói:

    - Triệu Quận Chúa, chúng ta lại gặp lại rồi..

     
    LieuDuongchiqudoll thích bài này.
  10. Nguyên Không

    Bài viết:
    55
    Chương 8:

    Thất Trùng Thất Hoa, cao độc cứu người

    Bạch Nhẫn Cổ Trùng, trùng độc khai tâm


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Triệu Mẫn dường như không thể tin vào mắt mình khi nhìn người ngồi trên ghế giáo chủ kia. Chính đôi mắt xám đó, chính nước da nâu đỏ màu đồng hun, chính giọng nói từ tốn với vẻ bất phàm thoát tục. Người ngồi trên kia là vị tăng nhân đã giúp thuyền của nàng thoát khỏi hung cảnh bị xoáy nước nhấn chìm. Triệu Mẫn ngây người ra một lúc thì Đại Thánh Bảo Thụ Vương đã mắng ngay:

    - Vô phép! Gặp giáo chủ sao lại không thi lễ chứ? Mau quỳ xuống!

    Lời này như kéo Triệu Mẫn khỏi phút ngỡ ngàng, nàng mỉm cười, nhướng mày nhìn Đại Thánh Bảo Thụ Vương, nói:

    - Hôm nay ta đến đây là khách của các người. Các người còn chưa một câu mời đãi bôi mà còn dám bảo ta phải quỳ sao! Triệu Mẫn ta đây trước giờ chỉ quỳ trước liệt tổ liệt tông Sát Hãn!

    Nói rồi nàng ôm quyền, thẳng lưng nhìn lên ghế giáo chủ, chào:

    - Bản nữ Triệu Mẫn, hôm nay đến tổng đàn Minh Giáo Bạc Sa có chuyện thương thảo. Gặp được giáo chủ, thực là hạnh ngộ.

    Đại Thánh Bảo Thụ Vương thấy nữ nhân này quật cường, không coi mình ra gì, trong bụng nổi hỏa khí bèn đập tay lên bàn đánh chát một tiếng rồi tung người lướt đến, thánh hỏa lệnh trong tay hoa lên, một chiêu Thiên Hỏa Tàn Sơn chém xuống. Triệu Mẫn không thèm đỡ tránh né, chỉ liếc mắt nhìn giáo chủ cười khẩy. Quả nhiên người này không để nàng bị thương, khẽ búng tay thì đã có một luồng chỉ khí bắn đến, trúng cổ tay Đại Thánh Bảo Thụ Vương. Ông thấy tay như bị một mũi tên nung cháy đỏ, sắc nhọn xuyên qua, đau đớn khôn cùng, vô tâm vô thức mà đánh rơi Thánh Hỏa Lệnh. Giáo chủ ôn tồn nói:

    - Đại Thánh, người này là khách của chúng ta. Nên mang lễ ra đối đãi, không được thô lỗ như vậy. Triệu cô nương, Hỏa Thần ta quản thuộc hạ không nghiêm, khiến cô chê cười rồi.

    Triệu Mẫn ôm quyền, cười nhẹ, nói:

    - Giáo chủ khách sáo rồi. Nếu mấy hôm trước không nhờ giáo chủ hiện lộ thần thông thì sao Triệu Mẫn còn đứng ở đây làm Đại Thánh Bảo Thụ Vương gai mắt chứ. Lần này đến tổng đàn Minh Giáo Bạc Sa, biểu ca của ta có chút lễ vật tỏ ý hảo hữu, mong giáo chủ thu nhận.

    Nàng ra hiệu cho đám tuỳ tùng khiêng lễ vật vào, nhưng chưa kịp mở ra thì Hỏa Thần đã phất tay, nói:

    - Lần này Triệu quận chúa đến đây vì lí do gì ta đã biết cả. Nhưng mấy thứ lễ vật này, quận chúa mang về đi. Minh Giáo ta trước nay không coi trọng vật chất, lấy tôn chỉ hành thiện trừ ác làm kim chỉ nam. Ta chỉ có điều thắc mắc. Năm xưa quận chúa đã bỏ lại chuyện vương quyền để lui về ẩn dật nơi thanh nhàn, sao giờ lại cất công đến tận đây làm thuyết khách cho Nguyên quân?

    Triệu Mẫn im lặng không nói gì, liếc mắt nhìn sang tên thuyền trưởng lúc này cũng đang âm thầm nhìn nàng đầy đe dọa. Lúc sau, nàng định mở lời thì tên thuyền trưởng đã bị Hỏa Thần bắn một xuồng chỉ khí xuyên qua đầu mà chết tại chỗ. Hỏa Thần nói:

    - Nơi thánh hỏa soi rọi không có chỗ cho sự lừa dối và đe dọa. Triệu quận chúa không cần phải uý kỵ nữa, cứ nói thật ta nghe.

    Triệu Mẫn thấy người tâm cơ linh mẫn, giỏi dò lòng người, hẳn không phải người đơn giản, càng không phải người để bày tỏ hết tấm lòng mình. Nhưng nàng cũng biết nếu không nói thật, hẳn người tiếp theo ngã xuống sẽ là nàng. Một tâm cơ thoáng qua đầu, nàng đứng thẳng người, dõng dạc nói:

    - Ta đến đây làm thuyết khách, chính là vì bị người khác đe dọa. Ta không làm, tất máu sẽ chảy.

    Hỏa Thần nhỏm người, ánh mắt lộ vẻ lưu tâm, nói:

    - Triệu quận chúa, ở đây không một kẻ nào có thể làm hại người. Dẫu Minh Triều có mang thiên binh vạn mã đến đây, Hỏa Thần này cũng có thể bảo vệ cho người được. Quận chúa chớ lo lắng. Hãy nói ta nghe.

    Triệu Quận chúa thấy người này nói lời tốt đẹp, tuy chưa rõ bụng dạ nông sâu thế nào nhưng cũng có thoáng cảm động. Nhưng nàng là người cơ trí, nàng tin vào trực giác bản thân nhiều hơn chút cảm xúc thoáng qua đó. Triệu Mẫn ôm quyền, lạnh lùng nói:

    - Cảm tạ lòng tốt của giáo chủ. Nhưng chuyện ta, nhất định ta sẽ tự giải quyết. Chỉ cần người đồng ý tham gia lật đổ Minh Triều là được.

    Hỏa Thần không nói gì thêm, nhưng ánh mắt lộ vẻ buồn man mác. Một hồi lâu sau mới lên tiếng:

    - Ta đồng ý, nhưng với một điều kiện. Sau khi lật đổ Minh Triều, Nguyên Triều tái lập, thì Trung Thổ sẽ chỉ có duy nhất một giáo là Minh Giáo. Tất cả các giáo phái, tôn giáo khác đều không được tồn tại.

    Triệu Mẫn nhíu mày nói:

    - Chuyện này là chuyện lớn, ta không thể tự quyết. Để ta phái người trở lại Trung Thổ xin ý biểu ca rồi sẽ quyết.

    Hỏa Thần mỉm cười:

    - Vậy cũng được. Từ đây về đến Trung Thổ, nhanh cũng phải nửa tháng. Thời gian đó, quận chúa cứ ở đây, bản giáo nhất định đón tiếp chu đáo.

    Triệu Mẫn gật đầu rồi nói thêm:

    - Giáo chủ, chẳng hay có Đại Ỷ Ty ở đây chăng?

    Hỏa Thần nhíu mày, hỏi:

    - Đại Ỷ Ty, sao quận chúa lại biết người này?

    Triệu Mẫn nhếch mép cười khinh bạc, liếc nhìn mấy Bảo Thụ Vương xung quanh nói:

    - Năm xưa trên Linh Xà Đảo mụ ta định thiêu sống ta. Nể phu quân nên ta mới phải nén giận mà để mụ về Bạc Sa. Nhưng nỗi hận đó ta sao có thể quên được. Nếu Đại Ỷ Ty ở đây, phiền giáo chủ giao người cho ta để ta được trút nỗi hận này!

    Hỏa Thần nhìn các Bảo Thụ Vương ngầm hỏi chuyện có thật không, thấy mọi người đều gật đầu tỏ ý xác nhận, bèn nói:

    - Đại Ỷ Ty trước đây là Thánh Nữ của bản giáo. Sau này thất thân với người khác, vốn đã phải chu diệt. Nhưng bản giáo nhân từ, chẳng những không giết mà còn lập con gái của bà ta làm Thánh Nữ, hết mực tôn kính. Chỉ có điều hai mẹ con họ không biết điều, mưu chuyện bán đứng giáo cho triều đình, mưu vinh hoa phú quý nên ta đã cho bắt giam cả hai người lại rồi. Quận chúa, việc này là việc quan trọng của bản giáo, thứ cho ta không thể giao người.


    Triệu Mẫn thấy tình hình không trôi, nhưng cũng không đành bỏ mặc Tử Sam Long Vương, bèn nghiến răng nói thêm:

    - Hay lắm! Vốn tưởng mụ ta còn đang là yếu nhân của Minh Giáo, cành cao khó với, ra lại là tội đồ sắp chết. Chi bằng giáo chủ giải mụ ta đến đây để ta cho mụ vài đường đau đớn có được chăng?

    Hỏa Thần trầm ngâm nghĩ một lát rồi nói:

    - Vậy được! Đằng nào bà ta cũng phải chết. Vậy cho giải bà ta lên đây cho quận chúa từ từ thưởng thú vui vậy.

    Triệu Mẫn thấy người này là tăng nhân mà mở miệng không có chút nào thương xót chúng sinh, lại còn cổ vũ tra tấn, trong lòng thêm phần chán ghét, nhưng cũng thấy ngấm ngầm vui mừng. Chờ một lát thì đám thuộc hạ giải Đại Ỷ Ty vào. Nhớ ngày rời Linh Xà Đảo, bà trút bỏ lớp mặt nạ xấu xí của Kim Hoa Bà Bà, trở lại thành một nữ nhân tuyệt sắc, thì nay bởi đòn roi, khảo hình mà tàn tạ đến không nhận ra. Nếu chẳng phải vì đang mưu cứu người, hẳn Triệu Mẫn đã phải rơi nước mắt vì thương xót. Triệu Mẫn giả bộ tức giận, đi lại gần, túm tóc Đại Ỷ Ty kéo mạnh lên làm bà phải thét lên đau đớn. Dí sát mặt mình vào tai Đại Ỷ Ty, Triệu Mẫn nói, cốt để mọi người xung quanh nghe:

    - Đại Ỷ Ty, năm xưa mụ định thiêu sống ta, nhìn ta khóc lóc, van xin mụ hẳn là thích thú lắm. Hôm nay để ta cho mụ nếm mùi đau đớn, sống không bằng chết rồi tiễn mụ lên đường.

    Đại Ỷ Ty ngạc nhiên. Vốn bà và Triệu Mẫn không thù không oán, cớ sao lại định hại chết bà. Nhưng nghe mấy chữ "tiễn mụ lên đường", trong lòng bà tự sáng lên tia hi vọng. Là một người cũng không ít tâm cơ, bà biết đây là hi vọng duy nhất để thoát thân, bèn hùa theo:

    - Con tiện nhân Triệu Mẫn! Ngươi ở Linh Xà Đảo định bán đứng ta cho Minh Giáo Bạc Sa hòng thoát thân. Giờ lại còn dám mắng chửi ta sao? Ta nói ngươi hay, có là ma ta cũng không tha cho ngươi!

    Triệu Mẫn tức mình tát Đại Ỷ Ty một cái rõ mạnh đến hộc máu miệng. Nàng quát lớn:

    - Người đâu! Mang Thất Trùng Thất Hoa Cao ra đây để ta xem mụ ấy to mồm được mấy chốc!

    Một viên tuỳ tùng lấy trong ngực áo ra một ống cao đen xì, mở ra đã thấy một mùi hăng gắt. Chính là Thất Trùng Thất Hoa cao năm xưa gây khốn cho Nhị Hiệp Võ Đang đến chết đi sống lại. Đi lại trên giang hồ bao năm, há Đại Ỷ Ty lại không biết cái lợi hại của loại độc này. Cao này bôi lên chỉ thoáng chốc sẽ thấy như bị bảy loại trùng cắn xé từ nội tạng đến xương tuỷ, đầu óc lại bị mê sảng loạn thần, chẳng mấy chốc mà chết. Đại Ỷ Ty run sợ, giãy giụa muốn bứt ra khỏi đám xiềng sắt mà chạy nhưng nào có được. Triệu Mẫn từ từ lấy ra một thẻ bài bằng ngọc, quẹt lấy cao rồi từ từ bôi dọc lên tay, chân của Đại Ỷ Ty. Chỉ thấy lát sau khắp chính sảnh vang dội tiếng la hét, khóc gào của bà. Tiếng khóc dội vang vào vách đá vọng khắp cả cung điện, khiến ai cũng như tưởng đang ở âm tỳ địa ngục. Mười hai Bảo Thụ Vương khi thường lãnh đạm là thế mà hôm nay nhìn cảnh đau đớn, nghe tiếng khóc lóc thảm thương cũng phải nhăn mặt bất nhẫn. Ba vị Vân Phong Nguyệt Tam Sứ cũng phải trong lòng bất nhẫn, cũng bấm nhau kéo cả ra ngoài. Duy chỉ có Triệu Mẫn là thấy có vẻ đắc ý lắm. Nàng lại rút từ trong người ra một thanh truỷ thủ, lưỡi cong như trăng non, ánh thép xanh rờn, lành lạnh. Nàng nhếch mép tiến lại gần Đại Ỷ Ty, cười gằn nói:

    - Đại Ỷ Ty, cũng có hơn chục năm rồi mà xem ra thời gian không đuổi kịp ngươi chút nào. Nhan sắc vẫn mặn mà, làn da vẫn như ngày xuân sắc. Ta đồ rằng ngươi vẫn tự hào về nhan sắc đó lắm phải không? Đã vậy hôm nay ta sẽ rạch nát mặt ngươi xem từ nay ngươi sống thế nào?

    Nói rồi lưỡi dao của Triệu Mẫn từ từ kề lên má Đại Ỷ Ty. Lưỡi dao sắc lạnh khiến Đại Ỷ Ty tuy lúc đó đang đau đớn khôn cùng cũng thoáng thấy rùng mình. Khoảnh khắc đó lâu thật lâu, nhưng rồi Triệu Mẫn lại chặc lưỡi nói:

    - Đại Ỷ Ty, có lẽ từ từ sẽ rạch mặt ngươi sau. Giờ ta phải rạch nhẹ nhàng chút ít ở tay chân ngươi đã. Máu người mà hòa với Thất Trùng Thất Hoa Cao thì còn khiến công dụng gấp bội!

    Không cần nhìn, Triệu Mẫn rạch bốn năm đường ở tay chân Đại Ỷ Ty ngọt lịm. Máu chảy ra ròng ròng, chạm vào Thất Trùng Thất Hoa Cao càng làm cho Đại Ỷ Ty tưởng như mình bị đày xuống A Tỳ Địa Ngục, đau như muốn xé ruột gan, có lẽ uống Đoạn Trường Thảo xem ra còn dễ chịu hơn gấp bội. Cũng có lẽ vì đau đớn quá mà bà thở hắt một hơi rồi gục xuống, không thấy giãy giụa gì nữa. Đám thuộc hạ Minh Giáo vội sờ tay lên mũi thì thấy bà đã tắt thở rồi, vội nói:

    - Thiên Hỏa Giáo Chủ! Đại Ỷ Ty đã chết rồi!

    Hỏa Thần nhíu mày rồi xua tay:

    - Thôi, chết rồi thì các ngươi mang xác bà ta đi hỏa táng đi! Khi hỏa táng nhớ báo cho giáo chúng biết đây chính là cái giá phải trả khi phản giáo!

    Đám thuộc hạ định kéo Đại Ỷ Ty đi thì Triệu Mẫn gằn giọng:

    - Hỏa táng? Hỏa táng như vậy thì có dễ dàng quá không? Xác đó phải để ta lăng trì vứt xuống biển cho cá ăn để mụ ta vĩnh viễn không siêu sinh! Các ngươi mau để xác mụ ta lại!

    Hỏa Thần đến nước này cũng không thể ngồi yên, khẽ vận công rồi lướt người đến trước mặt Triệu Mẫn, nghiêm giọng nói:

    - Người chết đã chết rồi, có cần phải độc ác như vậy không?

    Triệu Mẫn trợn mắt, nhướng mày, nhìn thẳng vào mắt Hỏa Thần, nghênh mặt nói như chém đá chặt sắt:

    - Độc ác vốn là từ để ta yêu nữ như ta, không phải sao? Ngươi.. dám cản ta phân thây mụ ta?

    Trong thoáng chốc Hỏa Thần như thấy một luồng sát khí mạnh như một bóng đen xuất hiện sau lưng Triệu Mẫn khiến hắn ta phải lùi lại hai bước. Sững người, Hỏa Thần thở dài nói:

    - Các ngươi để xác Đại Ỷ Ty đó cho quận chúa muốn làm gì thì làm.

    Triệu Mẫn lạnh lùng bảo thuộc hạ vác Đại Ỷ Ty ra ngoài, đoạn ôm quyền cáo biệt:

    - Bây giờ ta còn phải về thuyền lấy một chút tư trang và xử lý con mụ này. Giáo chủ hôm nay đối đãi với ta không tệ, nhất định sau này sẽ hậu tạ. Giờ xin cáo biệt!

    Hỏa Thần mỉm cười nói:

    - Hẹn tối nay gặp lại quận chúa.

    Triệu Mẫn quay người lại, mỉm cười:

    - Sao ngươi biết tối nay ta sẽ quay lại?

    Hỏa Thần đắc ý, ngả người thoải mái trên ghế giáo chủ nói:

    - Vì Hỏa Thần ta muốn thế. Thứ gì ta muốn, ta đều đoạt được.

    Triệu Mẫn nhếch mép cười:

    - Vậy ngươi nên quen với việc thất bại đi. Triệu Mẫn ta trước nay chưa từng làm theo ý ai!

    Nói rồi nàng và đám tuỳ tùng rời đi ngay. Hỏa Thần nhìn theo, cười thích thú, nói khẽ:

    - Thú vị đấy..

    Triệu Mẫn vừa rời khỏi cung điện, quan sát thấy người Minh Giáo không bám theo mình, vội đi đến chỗ Đại Ỷ Ty, vỗ mạnh lên mặt bà, nói:

    - Tiền bối! Tiền bối! Mau tỉnh lại!

    Đại Ỷ Ty lúc đó từ từ mở mắt, thấy mình đã ở bên ngoài cung điện, được xe ngựa kéo đi, định nhỏm dậy thì Triệu Mẫn đã ấn bà nằm xuống, nói:

    - Chúng ta ra ngoài cung điện rồi. Nhưng tiền bối phải giả chết thêm lúc nữa. Về đến thuyền mới là an toàn.

    Đại Ỷ Ty thờ dốc, thều thào nói:

    - Ta chưa chết ư? Khi nãy ta tưởng Thất Trùng Thất Hoa Cao đã đoạt mạng ta rồi.

    Triệu Mẫn mỉm cười, lấy con dao đưa đến trước mặt Đại Ỷ Ty nói:

    - Vãn bối đã bôi thuốc giải lên con dao này, mượn máu của người làm thuốc dẫn. Lúc thuốc mới vào thì bị đau đến chết đi sống lại nhưng dần độc tính của Thất Trùng Thất Hoa Cao sẽ bị hóa giải. Còn đây..

    Triệu Mẫn lại lấy trong tay áo ra một lọ thuốc nhỏ, trong có một vài viên thuốc trắng nhỏ như hạt gạo, nói:

    - Đây là Mị Tử Hoàn, do Băng Tâm tiền bối đưa cho vãn bối, dặn khi thật cấp bách mới dùng. Thuốc này khi đưa vào người, một thời gian sau lớp sáp sẽ chảy ra, Mị Tử trong đó sẽ khiến người rơi vào trạng thái chết giả trong thời gian ngắn. Ban nãy lúc ghé mặt quát tháo tiền bối, vãn bối đã mạo phạm búng một hạt vào mũi người.

    Nói đến đây Triệu Mẫn ôm quyền, cúi người tạ lỗi:

    - Hôm nay vì bất đắc dĩ mà phải đắc tội với tiền bối. Mong tiền bối dạ tựa hải hà mà bỏ quá cho.

    Đại Ỷ Ty lúc này mới biết Triệu Mẫn buộc phải dùng khổ nhục kế để cứu người, trong lòng cảm động lắm, chỉ nói:

    - Đa tạ cô nương! Ta hiểu cả mà..

    Ánh mắt của Đại Ỷ Ty như nói với Triệu Mẫn rằng bao nỗ lực của nàng bà điều đã biết cả. Chỉ một chữ "hiểu" Đại Ỷ Ty nói ra cũng khiến Triệu Mẫn lúc này có thể thả lòng người để khóc. Khi nãy khi nàng phải bôi Thất Trùng Thất Hoa Cao lên người bà, nghe tiếng kêu đau đớn xé lòng của bà mà không được lộ chút xót thương thì trong lòng nàng lúc ấy cũng như trúng phải cao độc vậy. Để lừa một kẻ như Hỏa Thần, nàng nhất định phải đánh lừa được bản thân mình. Ngay cả luồng sát khí nàng tỏa ra đến giờ nó vẫn ám ảnh, tựa như một con ác quỷ đứng ngay phía sau mà hà những luồng hơi lạnh buốt vào tâm can. Triệu Mẫn tựa vào thành xe mà khóc ngon lành, tay vẫn nắm chặt tay Đại Ỷ Ty..


    *************************

    Lục xuất phi hoa nhập hộ thì,

    Tọa khan thanh trúc biến quỳnh chi..


    Dịch:

    Lất phất đầy nhà hoa tuyết bay

    Trúc xanh mà ngỡ khóm quỳnh đây..


    Vô Kỵ ngồi thu lu trước bậu cửa nhà, tay thu lại trong lớp áo vải gai dày cộp nhưng ấm áp, mắt lặng lẽ nhìn theo những bông tuyết lặng lẽ rời mà lòng cũng lặng lại. Sau khi tỉnh lại, uống thuốc Đoàn Trường Lạc kê, chàng dường như cũng đã bình tĩnh được đôi chút. Giờ nghe đến ai nhắc tên Vô Kỵ hoặc giáo chủ Minh Giáo cũng đã không còn nổi cơn điên loạn mà động thủ nữa. Vốn định lên đường ngay nhưng Thượng Quan Ẩn đã cản lại vì mùa đông đến rồi, Quý Châu rất lạnh và khắc nghiệt, chàng lại đang trong cảnh tâm trí không tỉnh táo, nếu đi rồi chẳng may gặp nạn ở đâu đó thì sau này vợ con chàng biết ra sao. Nói mãi rồi Vô Kỵ cũng mới chịu ở lại chờ đến qua mùa đông rồi đi tiếp. Nhưng từ lúc đó chàng cứ như người mất hồn, ngày nào cũng chỉ ngồi bậu cửa ngắm tuyết, chẳng buồn ăn uống gì, chỉ lấy rượu làm bạn. Nếu chẳng phải Kim Doãn Phật hàng bữa kiên nhẫn ép chàng ăn thì hẳn giờ chàng đã thành tửu đổ mất rồi. Đôi mắt Vô Kỵ hờ hững nhìn theo đám mây bảng lảng trôi trên nền trời xám xịt. Đám mây đó khi thì hóa thành đôi mắt của Mẫn Mẫn, thoáng chốc lại biến thành dáng người Tuệ Phong đang hào hứng chạy nhảy nơi thảo nguyên bát ngát, nhìn kỹ chút nữa lại thấy khuôn miệng nhỏ nhắn và tiếng cười khúc khích của Vĩnh Tình lúc hai mẹ con tết tóc cho nhau. Vô Kỵ vô thức với tay theo những hình ảnh ngày tươi đẹp đó, đến mức hẫng người khỏi bậc cửa mà ngã sõng soài trên nền đất đầy tuyết trắng. Mặc cho nó tuyết lạnh cứ thế phủ lên lưng lên mặt, chàng sụt sùi khóc lặng đi một hồi lâu. Mãi cho đến khi Kim Doãn Phụng đi chợ về, thấy chàng bị ngã mới vội xốc chàng dậy rồi kéo vào nhà. Cô vội lấy nước gừng pha trà cho chàng uống để tránh nhiễm lạnh rồi lấy khăn ấm ủ tay chân, lưng cho chàng. Vừa làm vừa lầm bầm:

    - Không rõ nhà mình gặp hạn gì mà vớ phải một ông chú dở điên dở khùng thế này. Ông chú! Lần sau nếu ngã thì phải tự đứng dậy rồi vào nhà sưởi ấm nhé!

    Nhìn Vô Kỵ vẫn ngơ ngẩn, cô dù đang bực cũng thấy vạn phần thương xót, hỏa khí cũng vì thế mà nguôi ngoai đi. Vô Kỵ đã ở nhà cô từ đầu đông đến được hai tuần rồi. Tuy là cũng chẳng tốn kém gì hơn nhưng thấy cha mẹ vất vả chăm sóc một người chẳng quen biết gì, cô cũng thấy bất bình thay cho hai người. Nhưng tính cô lương thiện, nhân hậu, không vì thế mà bỏ chuyện cùng cha mẹ chăm sóc Vô Kỵ. Cô lại lẩm bẩm:

    - Thôi thì coi như làm phúc. Mong cho cha mẹ luôn mạnh khoẻ. Con sớm học thành tài rồi sẽ không để cha mẹ phải vất vả sớm hôm nữa.

    Đang mải ủ lưng cho Vô Kỵ, bỗng thấy ngoài cửa có tiếng người ồn ào bàn tán. Kim Doãn Phụng vội chạy ra xem có việc gì thì thấy lão Tứ hàng xóm nhà cô và một thanh niên khác đang cáng cha cô vào sân. Lão Tứ hốt hoảng nói:

    - Kim Doãn Phụng! Cha con gặp nạn rồi! Chẳng biết làm sao tự nhiên thấy hắn ngã vật ra rồi rên hừ hừ như lạnh lắm. Lúc sau lại thấy kêu đau trong ngực và bụng rồi tự cào cấu bản thân đến rách da thịt kia kìa! Ngất rồi ta mới Tiểu Thái mới cáng được về đây đấy.

    Kim Doãn Phụng thấy cha nằm thiêm thiếp, hơi thở nặng nhọc, toàn thân đầy vết cào tươm máu nhìn rất đáng sợ, miệng hãy còn sùi bọt trắng trắng thì lo lắm, vội nói:

    - Lão Tứ, lão trông chừng cha con một chút, để con đi tìm sư phụ may ra mới cứu được cha con!

    Bỗng có tiếng người nói lớn vang lên từ phía sau:

    - Đừng đi tìm! Bệnh này không chữa trong một canh giờ tất sẽ chết. Để ta xem nào.

    Thì ra là Vô Kỵ đã lảo đảo đi từ trong nhà ra trên người vẫn khoác cái chăn vải gai cũ mèm. Chàng tiến đến lại gần Kim Doãn Phật, cầm tay người bệnh lên quan sát, thấy có một đường chỉ trắng chạy vòng quanh ngón tay giữa đã được hai phần ba đốt tay. Chàng lại bắt mạch, thấy trong tỳ phế dường như có dị vật đang cắn xé, nhất định là trùng cổ. Chàng quay sang bảo Kim Doãn Phụng:

    - Ngươi lấy giấy bút ra đây cho ta kê đơn. Cha ngươi bị trúng Bạch Nhẫn Cổ Trùng rồi. Đây là loại cổ trùng rất hiếm gặp, đã lâu lắm không xuất hiện trên giang hồ. May trong Độc Kinh cũng còn ghi chép lại.

    Kim Doãn Phụng nhìn kẻ thường ngày điên điên khùng khùng này với ánh mắt bán tín bán nghi, ngập ngừng hỏi:

    - Thúc thúc, ngươi có chắc là biết thuốc giải không đó?

    Vô Kỵ mỉm cười, nụ cười đã lâu lắm rồi không xuất hiện trên môi chàng sau ngày toàn gia ly biệt, nói:

    - Ta may mắn được học nghệ của Điệp Cốc Y Tiên - Hồ Thanh Ngưu. Bệnh này tuy hiếm, nhưng trong sách của người vẫn ghi lại cách chữa. Ngươi cầm đơn này đi cắt thuốc, tiện mượn người ta một bộ y châm về đây. Lão Tứ, lão giúp ta đưa Kim Doãn huynh vào trong nhà, nhóm bếp đun cho ta một bồn nước lớn, càng nóng càng tốt choc ho huynh ấy vào ngâm. Cổ trùng này càng lạnh càng phá hoại mạnh nên phải giữ ấm cho Kim Doãn huynh.

    Kim Doãn Phụng cầm đơn Vô Kỵ kê, đi nhanh vào trong trấn để cắt thuốc. Vô Kỵ lại nhờ lão Tứ ra ruộng, bắt cho mình càng nhiều đỉa sống càng tốt. Lão Tứ cũng chưa biết tên điên này định làm gì nhưng việc cứu người không thể chậm trễ, bèn cùng Tiểu Thái ra ngay ruộng gần đó bắt đỉa, chẳng mấy chốc mà cũng được gần hai chục con đỉa mang về, cũng đúng lúc Kim Doãn Phụng đã mang thuốc về tới. Vô Kỵ nói:

    - Ngươi theo đơn sắc thuốc. Ta sẽ tạm châm cứu để trì hoãn độc tính của Cổ Trùng. Chỗ đỉa kia lấy ít nước ruộng rồi thả vào chờ sẽ dùng đến.

    Nói rồi Vô Kỵ đỡ Kim Doãn Phật ngồi dậy, từ từ truyền Cửu Dương Chân Khí vào người Kim Doãn Phật. Luồng chân khí Cửu Dương ấm áp tựa như dòng nước suối ấm áp chảy khắp bát kỳ kinh mạch của Kim Doãn Phật, luân chuyển không ngừng. Chân khí đi tới đâu, Kim Doãn Phật thấy nhẹ nhàng tới đó. Khi chân khí đã đi qua được sáu tư lần tuần hoàn thì Vô Kỵ nhanh tay lấy châm phong bế hai đại mạch Thiếu Âm, Thiếu Dương lại để ngăn dương khí thoát ra nhanh chóng. Cũng vừa lúc thuốc đã sắc xong, Vô Kỵ cậy răng Kim Doãn Phật đổ thuốc từng ngụm nhỏ. Thuốc vào, đám cổ trùng như bị kích thích mạnh lắm lại náo loạn trong người Kim Doãn Phật khiến kim châm phong bế đại mạch cũng bị bắn ra ngoài. Toàn thân Kim Doãn Phật bỗng trở nên lạnh toát, run bần bật không ngừng. Kim Doãn Phụng đứng cạnh thấy thế, hoảng sợ hét lên:

    - Ngươi làm gì cha ta vậy? Cha ta sắp chết đến nơi rồi kìa! Ta thật ngu ngốc khi tin ngươi có thể cứu người!


    Nói rồi cô chạy ngay ra ngoài tìm sư phụ, mong có thể cứu vớt chút nào. Vô Kỵ vẫn bình tĩnh lấy trong người ra một con dao nhỏ, lưỡi dao cong tựa trăng non, ánh thép ngả hồng, tỏa ra thứ khí nhiệt nhè nhẹ, ấm áp. Chàng lướt dao dọc theo hai cánh tay cho máu Kim Doãn Phật chảy ra rồi cho đỉa bám lên hút lấy. Đám đỉa hút máu độc, con nào con nấy trương lên như quả nho đen sì, nhưng lạnh như tuyết vậy. Những con đỉa hút no máu xong đều chết vì độc cổ trùng. Vô Kỵ lần lượt cho đám đỉa hút máu, đến khi vừa hết con đỉa cuối cùng thì Kim Doãn Phật cũng đã điều hòa trở lại. Vô Kỵ thấy hơi thở đã thông suốt, bắt mạch thấy khí huyết tuy yếu nhưng đã lưu thông trở lại ổn định, mỉm cười nói:

    - Kim Doãn huynh ổn rồi. Lão Tứ, phiền lão nấu giúp tại hạ chút cháo nếp, cho thêm chút táo đỏ, lá nếp, mật ong để cho huynh ấy ăn.

    Lão Tứ thấy tên điên này lại cứu được người, trong bụng cũng mấy phần kính nể, răm rắp nghe theo. Vừa đi ra ngoài thì gặp Đoàn Trường Lạc và Kim Doãn Phụng đi tới. Đoàn Trường Lạc bước vào, thấy đỉa chết lăn lóc trong chậu, cười nói:

    - Quả nhiên Trương giáo chủ y thuật tinh thông. Bạch Nhẫn Cổ Trùng xưa nay hiếm gặp mà giáo chủ có thể chữa được, không phải tầm thường. Thâm tâm giáo chủ vẫn là người lương thiện, hướng đến bá tính.

    Tuy không còn quá nhạy cảm với từ giáo chủ, nhưng Vô Kỵ trong lòng vẫn còn gợn chút khó chịu, nhíu mày nói:

    - Không cần tâng bốc ta. So với số người chết dưới tay ta thì một mạng Kim Doãn huynh ta cứu được có là gì.

    Đoàn Trường Lạc vỗ vai Vô Kỵ, nói:

    - So với khi giết người, ta thấy khi ngươi hành y cứu nhân mới chính là lúc thư thái nhất. Chẳng phải vậy sao?

    Vô Kỵ không nói gì, cúi gằm mặt xuống, lẳng lặng vớ lấy hũ rượu dưới sàn, tợp một ngụm rồi lảo đảo đi ra ngoài, nói:

    - Cứu người không giúp ta tìm lại nương tử và hài nhi..

    Đoàn Trường Lạc bắt mạch cho Kim Doãn Phật, gần đầu ra hiệu cho Kim Doãn Phụng yên tâm rồi cùng Vô Kỵ ra ngoài sân ngắm tuyết rơi. Ông nói:


    - Vạn sự trên đời đều là duyên và nghiệp. Ngươi tích đủ duyên tốt tất sẽ có nghiệp tốt. Ngươi làm chuyện ác, tất ác giả ác báo.

    Vô Kỵ chẳng nói gì, chỉ thở dài, lặng lẽ uống rượu. Hai người cứ đứng vậy có đến nửa canh giờ, bỗng Vô Kỵ lên tiếng hỏi:

    - Thứ cổ trùng này ở đâu mà ra? Chắc chắn có người hạ độc chứ thứ cổ trùng này vốn chỉ sinh sống ở đỉnh Cực Phong dãy Trường Bạch. Không có lí gì lại tự nhiên xuất hiện ở đất này.

    Đoàn Trường Lạc trầm ngâm nói:

    - Ta đi ngao du bốn bể, thấy không chỉ một nơi này mà xem ra rất nhiều địa phương bị nạn cổ trùng. Trong dân gian gần đây đồn rằng chỉ có đến Khởi Nguyên Đạo Quán mới có thuốc chữa.

    Vô Kỵ nhíu mày, hỏi:

    - Khởi Nguyên Đạo Quán? Sao trước nay ta chưa từng nghe đến Đạo Quán này nhỉ?

    Đoàn Trường Lạc đáp:

    - Đạo quán này cũng chỉ mới nổi danh chừng vài năm gần đây. Nghe đồn có một vị Thiên Sư là Thái Thượng Lão Quân hạ phàm, có thể xem trọn được chuyện quá khứ, hiện tại, vị lai. Lại có y thuật cao thâm, chữa được bách bệnh. Không những vậy, bùa chú cầu an, cầu tài xem ra cũng rất hiệu nghiệm.

    Vô Kỵ cười khẩy, nói:

    - Mấy thứ này bày ra để mê hoặc người ta, có đến bảy phần là giả dối, hay ho gì chứ.

    Đoàn Trường Lạc mỉm cười ý nhị, thong thả ra về, nói vọng lại:

    - Ngươi nếu không tin, có thể đến đó xem thử. Ta phải đi có chút việc đây. Nghe nói hôm nay có sinh thần lễ của Thái Sư gửi tặng Hoàng Thượng, ta cũng muốn xem xem có gì hay ho.

    Vô Kỵ lắc đầu nói:

    - Trộm thì có gì hay mà ông ta thích đi trộm vậy?

    Kim Doãn Phụng ở trong nhà chăm sóc cha nói vọng ra:


    - Sư phụ ta tiền tài các vạn nhưng thích trộm đồ phi nghĩa, cứu tế bách tính. Thúc thúc không biết thì đừng nói xấu sư phụ ta. Nếu có rảnh rỗi thì vào đây giúp ta chăm sóc cha này.

    Vô Kỵ thấy Kim Doãn Phụng đã gọi mình là thúc thúc thay vì tên điên này, kẻ điên nọ, trong lòng cũng có chút vui vui. Chàng đi ra bếp, thấy lão Tứ đã nấu xong nồi cháo nếp mang đến. Mùi cháo nếp thanh thanh, thoang thoảng ấm áp khiến chàng bất giác nhớ đến bát cháo khê năm xưa Mẫn Mẫn nấu cho chàng ăn, chẳng phải cũng tại một thôn nhỏ như thế này sao. Nhớ nụ cười nàng mãn nguyện khi thấy chàng ăn ngon lành bát cháo khê. Nhớ đêm kề vai nhau ngắm trăng rằm, đom đóm. Những nỗi nhớ lại ồ ạt kéo đến, nhưng lòng chàng cũng đã không còn quặn lên một nỗi sục sôi chán ghét, căm hờn như trước. Đoàn Trường Lạc nói cũng có lý, tích đủ duyên tốt tất sẽ có nghiệp tốt. Chờ Kim Doãn Phật hồi phục, có lẽ chàng phải lên đường xem kẻ nào đã gieo rắc Bạch Nhẫn Cổ Trùng một phen. Chàng lại nhấp một ngụm rượu, bỗng thấy rượu nhạt đi nhiều, hoa tuyết vẫn bay lững lờ mà xem ra tâm người đã không còn như trước, không còn tửu hứng nữa rồi. Chàng hãm một ấm trà râu ngô thanh mát, chẻ thêm vài lát mía ngọt lành thả vào rồi rót xách lên chỗ bậu cửa thư thái ngồi. Bỗng có tiếng Kim Doãn Phụng cất lên:

    - Thúc thúc, người ngồi đây cả ngày hết uống rượu lại uống trà, chẳng thiết ăn uống gì. Có phải thúc thúc nhớ nương tử và hài nhi không?

    Vô Kỵ quay lại thì thấy Kim Doãn Phụng đã đứng sau lưng từ khi nào. Bên trong xem ra Kim Doãn Phật đã yên giấc nên cô nhẹ bước ra đây cho cha ngủ. Chàng đưa cho cô bát trà râu ngô mía. Cô nhấp một ngụm nhỏ rồi xuýt xoa:

    - Ôi chao, chỉ có râu ngô với mía mà hãm được ấm trà ngon vậy.

    Vô Kỵ mỉm cười, bâng quơ nhìn ra ngoài, nói:

    - Ta nhớ khi trước ở thảo nguyên cùng nương tử và các con, chỉ sẵn râu ngô mà không có mía. Để pha được ấm trà này lại phải thay bằng mật nên vị không được thanh như thế này. Nhưng nương tử và các con ta ai cũng thích, thoáng chốc đã hết ấm trà, ta nhiều khi còn chẳng uống được ngụm nào.

    Kim Doãn Phụng bỗng thấy trong lòng nao nao, khẽ nói:

    - Thúc thúc, ta tin thúc thúc nhất định sẽ sớm được đoàn tụ với gia đình..

    Vô Kỵ mỉm cười, nhìn sang Kim Doãn Phụng thấy cô nương này khi thường hay mắng mình nhưng xem ra tâm địa rất tốt. Chỉ là khi thần trí chưa tỉnh táo, chàng lại không nhận ra điều này. Vô Kỵ gật đầu, nói:

    - Chắc chắn là vậy. Rồi một mai ngươi sẽ gặp được người yêu thương ngươi thật lòng. Một người không bao giờ mất hi vọng vào ngươi, dù cho chuyện gì xảy ra.

    Kim Doãn Phụng tự nhiên thấy Vô Kỵ nói chuyện yêu đương, đỏ mặt nói

    - Thúc thúc nói bậy gì đó! Ta không có ai yêu thương như thúc nói đâu.

    Vô Kỵ cười nói:

    - Ngươi xinh đẹp như vậy. Lại lương thiện, nết na, sớm muộn gì cũng sẽ có người thương. Trai khôn dựng vợ, gái lớn gả chồng là chuyện thiên kinh địa nghĩa, có gì mà bậy bạ.

    Kim Doãn Phụng vùng vằng đứng lên, bỏ vào nhà, nói hờn:

    - Thôi, chẳng nói chuyện với thúc nữa. Ta vào xem cha thế nào rồi.

    Vô Kỵ khẽ gật đầu, nhớ lại vết trắng như sợi chỉ quanh ngón giữa của Kim Doãn Phật, chàng cũng lờ mờ đoán được ai là kẻ thủ ác. Chỉ không rõ hắn có ý đồ gì, và Khởi Nguyên Đạo Quán là nơi thế nào. Chàng uống một ngụm trà râu ngô, thấy có bông tuyết lạc vào bát trà, chớp mắt đã biến mất, lại nghĩ đời vô thường, mình sống trên đời nhất định không nên như bông tuyết kia đến hạ lại tan đi mất không dấu vết. Huống chi, chàng linh cảm rằng đạo quán này sẽ cho chàng chút manh mối về Mẫn Mẫn và hai con.

    .. Như kim hảo thướng cao lâu vọng,

    Cái tận nhân gian ác lộ kỳ.


    Dịch:

    .. Hôm nay thích chí lầu cao ngắm

    Ngõ ngách nhân gian tuyết phủ đầy
     
    chiqudollLieuDuong thích bài này.
  11. Nguyên Không

    Bài viết:
    55
    Chương 9:

    Lưỡng Long Trại, Tuệ Phong từ biệt lão Hồ

    Cự Kình Bang, Băng Tâm truy tích Vô Kỵ


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tuệ Phong ngả người đong đưa trên chiếc ghế gỗ đã gãy chỉ còn một chân. Hai chân cậu gác lên thành lan can trạm gác, tay chắp sau đầu, thư thả ngắm trời mùa đông u ám vùng núi Lưỡng Long. Đứng từ gác canh sơn trại nhìn ra xung quanh, ai mới đến lần đầu ngỡ tưởng mình đang đứng trên mây khi tuyết phủ dày trắng trên những tán lá tùng, thông ken nhau dày đặc. Tuyết vẫn rơi mau làm những cành tùng to chắc cũng phải oằn mình mới đỡ được. Một số cành già cũng đành chịu thả mình xuống đất nghe bình bịch như tiếng ai lén lút dạo quanh khu rừng, làm những kẻ yếu bóng vía phải ngoái đầu nhìn trước sau với một cái thót tim khẽ. Tuệ Phong ngâm nga một câu hát mà đám sơn tặc hay hát:

    Rượu Nữ Nhi Hồng sao hồng bằng má giai nhân trước mặt.

    Ta say rượu thì ít mà say nàng thì nhiều.

    Vậy mà nàng chỉ nhìn ta một lần rồi quay đi.

    Vì ta là đạo tặc, không xứng với nàng tiểu thư khuê các.

    Vì ta là đạo tặc, ngày ôm bầu rượu tối ôm đao.

    Một đao xả hận

    Hai đao đoạn tình

    Ba đao nhìn lại quanh mình chẳng có ai

    Ta lại uống rượu Nữ Nhi Hồng, ngắm nhìn giai nhân trước mặt..


    Bỗng cậu nhíu mày bởi tiếng rên khe khẽ từ phía sau. Dưới sàn là ba kẻ mặc đồ bạch y, che mặt kín mít đang lăn lộn, khẽ rên rỉ đau đớn. Xung quanh chúng là ba cái chân ghế gãy đã nhuốm đỏ màu huyết dụ. Tuệ Phong bình thản hỏi:

    - Các ngươi không khai mau ra là kẻ nào sai các ngươi đến do thám Lưỡng Long Trại? Ta đang ngồi thoải mái, đừng để ta phải đứng dậy mà làm gãy nốt cái chân ghế duy nhất còn lại đấy..

    Nói đoạn, cậu liếc mắt về một tên, xem ra là trẻ nhất. Hắn cũng chỉ tầm tầm tuổi cậu, đôi mắt hắn vẫn còn nhiều nét sợ hãi lẫn ngơ ngác mà cậu đã bắt gặp nhiều lần khi soi mình xuống dòng suối trước kia. Cậu búng người nhẹ đáp xuống trước mặt hắn, đoạn tiện tay trảm gãy nốt cái chân ghế còn lại trước khi nó kịp đổ. Cầm chân ghế trong tay, Tuệ Phong nhìn vào mắt hắn, nói:

    - Ta biết ngươi đang sợ. Ban nãy ta đánh ngươi cũng khá đau rồi. Ta không biết là giờ khi ta không còn ghế để ngồi thì sẽ đánh ngươi thảm hại hơn hay là hai tên đồng bọn hết sức kia của ngươi trừng trị ngươi đau đớn hơn. Nào, nói ta nghe, ai sai ngươi đến đây? Tại sao lại giám sát ta?

    Nếu có ai từng đứng trước mặt một con gấu xám đói, cảm nhận được sát khí nặng nề đè nặng lên ngực mình, thì hẳn cũng hiểu tâm trạng của tên mặc đồ bạch y đã loang máu đỏ trẻ tuổi bây giờ. Hắn nhắm tịt mắt lại, lắp bắp:

    - Là Độc Vương sai chúng tôi giám sát cậu! Ông ấy muốn biết cậu học võ công từ ai!

    Tuệ Phong nhíu mày, hỏi:

    - Độc Vương? Ta có đâu có quen biết ai là Độc Vương? Mà tại sao ông ta lại muốn biết ta học võ công từ đâu chứ? Ngươi tên gì?

    Kẻ kia run run nói, mắt vẫn lén lén nhìn cái chân ghế đang nhịp nhịp trong tay Tuệ Phong:

    - Ta.. ta tên.. Dã.. Dã.. Tượng..

    Tuệ Phong gật gù nói:

    - Dã Dã Tượng, tên cũng lạ đấy. Dã Dã Tượng, ngươi kể ta nghe rõ hơn về Độc Vương này đi.

    Tên Dã Tượng kia liếc nhìn sang đồng bọn, thấy đồng bọn lắc đầu, ra hiệu đừng nói. Nhưng nhìn sang cái chân ghế vừa gõ đánh rầm một tiếng ngay bên cạnh bàn tay hắn, hắn lại run run thưa:

    - Độc Vương là tiền bối chuyên dùng độc nức tiếng giang hồ. Tên thật thì tiểu nhân cũng không hay, chỉ biết ông ấy xem ra rất thân thiết với trại chủ Lưỡng Long Trại. Ngoài đó ra thì tiểu nhân cũng không biết gì hết. Tiểu nhân thề có trời đất chứng giám!

    Tuỳ Phong gật gù nói:

    - Vậy là đủ rồi. Vì tên này đã thành thực khai ra nên ta tha mạng cho mấy người các ngươi. Nhưng nếu ta mà thấy các ngươi lảng vảng ở Lưỡng Long Trại một lần nữa thì đừng có trách!

    Mấy kẻ kia vội vã đứng lên, toan bỏ chạy nhưng nghĩ gì lại ngần ngừ đứng ở cửa trạm gác. Tuệ Phong thấy thế, gắt lên:

    - Còn không mau cút đi!

    Dã Tượng thở dài quay lại, nói:

    - Tiểu nhân nghĩ kỹ rồi. Lần này quay về mà lại không có tin tức gì thì Độc Vương cũng sẽ hạ độc thủ với chúng tiểu nhân. So với chết vì độc thì xem ra chết dưới gậy của công tử có vẻ dễ chịu hơn.

    Tuệ Phong bật cười, nhưng nghĩ cũng thông cảm cho gã, bèn nói:

    - Thôi được, các ngươi giờ ngày ngày đúng giờ dần cứ đến trạm gác này, nhớ mang theo đồ ăn, thức uống mà ngồi đến chiều, thay ta canh gác nơi này. Mỗi ngày ta sẽ cho các ngươi vài tin về mà bẩm báo, giữ mạng cho các ngươi. Các ngươi thấy sao?

    Đám người kia thấy bùi tai, vội quỳ xuống lạy sì sụp, nói:

    - Công tử đúng là rộng lượng tựa hải hà, không chấp lũ tiểu nhân lại còn bày đường sống. Chúng tiểu nhân nguyện làm trâu ngựa cho công tử sai phái, miễn là giữ được mạng.

    Tuệ Phong nhếch mép cười:

    - Các ngươi đổi lại cũng phải thăm dò về Độc Vương và trại chủ này cho ta. Hôm nay về cứ bẩm Độc Vương rằng ta học võ công từ một con cáo trắng đã già. Ngày ngày ta ra xem con cáo đó uống nước, săn mồi mà suy ra đao pháp. Giờ ta phải đi có việc. Các ngươi ở lại đây canh trại thay ta, rõ chưa?

    Nói rồi cậu xách hũ rượu Nữ Nhi Hồng ở góc phòng, bật người khinh công lướt đi tựa như én lượn ra ngoài. Lao xuống từ trạm gác dựng dọc vách núi, Tuệ Phong khoan khoái cảm nhận từng cơn gió lạnh buốt lùa qua mái tóc thả lòa xòa, xát lên gò má cậu đến ửng đỏ. Cậu thích mùa đông, thích cái lạnh tê tái của gió bắc, thích cảm giác đau đau mỗi khi tung người lướt đi trong gió, có lẽ vì nó làm dịu đi nỗi đau âm ỉ trong lòng cậu suốt tám năm qua. Tám năm.. không một ngày nào cậu không giật mình tỉnh giấc giữa đêm vì những cơn ác mộng về ngày xưa ở Ô Quy Khách. Ngày còn bé, mỗi lúc như vậy cậu đều hét lên bật dậy và bị một cái bạt tai của mấy tên thảo khấu trong trại, sờ xuống gối thì đã ướt đầm nước mắt. Lớn hơn chút, trước khi ngủ cậu cố uống cho thật say với ước mong có một đêm yên giấc, không mộng mị. Nhưng mẹ trong mơ vẫn cứ đêm đêm bước tới, vuốt mặt cậu dặn dò chăm sóc cho Vĩnh Tình. Rồi lại nghe tiếng Vĩnh Tình hét lên lúc cậu bị đánh ngất mang đi. Nỗi ám ảnh đó không vì rượu mà buông tha cậu. Rượu chỉ giúp cậu không đủ sức mà bật dậy, nên thoát được mấy cú bạt tai mà thôi..

    Nhẹ bước khinh công thêm một lúc, cậu đã đến trảng cỏ thưa ven rừng, gần thác bạc nơi cậu ngày ngày luyện đao. Hôm nay cũng như bao hôm, lão Hồ ôm đao nằm đong đưa trên một sợi dây leo mắc ngang hai thân cây, nghe thấy tiếng chân cậu bước lại vội bật dậy, khoắng đao một cái đã thấy cuỗm mắt vò rượu trong tay cậu. Lão bật nắp, hít hà thích thú reo lên:

    - Nay lại có của hiếm! Nữ Nhi Hồng có mấy khi lại xuất hiện ở cái đất thô lậu này chứ!

    Tuệ Phong nhún vai, nói:

    - Sắp tới ta phải đi theo hộ tiêu cho chuyến đưa lễ sinh thần đến phủ Thái Sư. Rượu này là ta trộm được trong xe lễ vật đấy. Trong đó có đến cả trăm vại, mất một vài vại cũng chẳng ai biết.

    Lão Hồ cười lớn:

    - To gan lắm! Dám trộm ngay trước mũi Lãng Nghệ! Nhưng không sao, có rượu là ta thích rồi. Rượu này không phải Nữ Nhi Hồng thường đâu mà là loại hảo hạng đấy.

    Tuệ Phong cũng rút đao, xoẹt một cái hất ngay hũ rượu trong tay lão Hồ nghiêng đi, đoạn dùng bản đao hứng rượu dốc vào miệng một ngụm lớn, nói:

    - Sảng khoái! Thôi, ta ra thác luyện đao tiếp đây.

    Nói đoạn cậu trút bỏ áo ngoài, cởi trần xách đao từ từ đi xuống dưới ngọn thác. Nước mùa đông lạnh đến thấu xương. Nước thác đổ xuống bắn lên những giọt nước li ti tựa nhưng một làn khói lạnh mịt mờ dần che khuất dáng người gọn gàng, rắn chắc của Tuệ Phong. Trong lớp sương mờ đó, bóng cậu từ từ xuất đao. Một luồng khí âm hàn lạnh thấu xương từ từ phát tiết theo mỗi đường đao chầm chậm lướt qua. Qua vài đường đao, lớp sương mờ đó bị kình phong của đao chiêu chém tan hết, không gian dưới chân thác quang đãng lộ ra những đường đao từ tốn nhưng kéo theo một kình lực âm tàng mãnh liệt. Đao chém qua thác tuy không nhanh nhưng kéo theo những luồng xoáy nước trắng xóa. Tuệ Phong lẩm bẩm:

    - Vân Long Tam Hiện!

    Đoạn lật đao chém ngược từ dưới lên ba đường, đường sau tiếp nối đường trước thành ba vòng tròn, kình lực cực kỳ mãnh liệt. Luồng kình khí xả đôi mạch nước thác ầm ầm chảy xuống đến hơn năm trượng một lúc rồi nước mới nhập lại thành dòng như cũ. Tuệ Phong mỉm cười đắc ý, nói:

    - Sư phụ! Chiêu Vân Long Tam Hiện này ta đã đạt thành tựu bằng nửa sư phụ rồi. Thêm một thời gian nữa tất sẽ đạt hoàn mỹ thành tựu.

    Lão Hồ gật gù, nhè nhẹ nâng vại rượu uống một hớp nhỏ tựa như đang âu yếm với người tình vậy, nói giọng bỡn cợt:

    - Phải rồi, uy lực cũng được đấy. Nhưng đó không phải chiêu Vân Long Tam Hiện.

    Tuệ Phong chưng hửng, nghĩ sư phụ đùa mình, hỏi:

    - Ta đi sai bộ vị, thế tay, khí lực chỗ nào sao?

    Lão Hồ lắc đầu, nói:

    - Không sai.

    Tuệ Phong phát cáu:

    - Thế đó chẳng phải Vân Long Tam Hiện còn gì?

    Lão Hồ thủng thẳng bước đến, chỉ chỉ tay vào ngực cậu, nói:

    - Ngươi sai ở tâm. Tâm loạn làm khí loạn, khí loạn làm lực loạn. Ngươi nhớ khi dùng chiêu này với Vu Chính, lòng ngươi nghĩ gì không?

    Tuệ Phong bỗng nhớ lại lần đầu sử chiêu này, lúc đó tuy áp lực từ Vu Chính rất nặng nề nhưng không hiểu sao lòng cậu lại rất thanh thản, nhẹ nhàng, dường như quên đi tất cả nỗi sợ lẫn đau buồn. Cậu ngỡ ngàng nhìn lão Hồ, gật đầu. Lão Hồ mỉm cười nói:

    - Vân Long Tam Hiện là chiêu đầu tiên trong Lãnh Nguyệt Đao Pháp, vốn tựa như bóng rồng ba lần ẩn hiện. Chính yếu không phải ở sức cương cường, mà chính là ở kình khí tiềm tàng như thần long bất lộ, khi địch nhân nhận ra thì cũng muộn rồi.

    Nói đoạn lão Hồ vào thế, phát chiêu. Cũng ba đường đao chém vào thác nhưng không để lại tăm hơi gì, nhưng lưng chừng thác, dòng nước như vỡ toang tựa như vừa có một quả đại pháo phát nổ, nước bắn rào rào ra xung quanh đến hơn năm, sáu trượng, chưa kịp chạm đất thì hàn khí từ đao đã phát ra lạnh buốt đến hóa tuyết, lả tả rơi xuống. Lão Hồ đưa lại đao cho Tuệ Phong, đoạn xuất đao của mình chém tới, quát:

    - Đỡ chiêu!

    Lão Hồ đột ngột hoa đao chém tới, sử chiêu Yên Vân Động Vũ của tuyệt kỹ Kim Ô Đao Pháp. Đao chiêu đi vừa nhanh, vừa chuẩn, lại rất cương liệt như muốn đoạt mạng người. Nên biết Kim Ô Đao Pháp bảy mươi ba chiêu, không chiêu nào không đầy sát khí, thù hằn, nhất nhất đều nhằm đoạt mạng địch nhân, bất chấp tổn hại bản thân. Sát khí từ lão Hồ phát ra ào ạt như lũ thượng ngàn càn quét. Chim chóc trên trời đang chao lượn cũng khép cánh trú thân, muông thú dưới đất đang sục sạo kiếm ăn cũng nằm im run rẩy. Nhưng lạ thay Tuệ Phong không chút nao núng, đơn đao trong tay nương theo đao chiêu của lão Hồ, dĩ khách phạm chủ, tuyết mộng vị tỉnh, đao ý mông lung, nhẹ gạt đao của lão Hồ chệch đi một đường, lại thuận tay đảo chính thủ thành phản thủ, ngược đao xuất một chiêu Triền Thân Trích Tâm, lướt dọc theo sống đao lão Hồ mà chém tới. Lão Hồ mỉm cười, thả cho đao rơi, đoạn một tay vươn ra tóm lấy cổ tay Tuệ Phong, cản đường đao, lại uyển chuyển áp sát, tay kia sử Lãnh Nguyệt Chưởng đánh vào bụng cậu khi bịch một tiếng. Tuệ Phong thấy người như bị sét đánh, tê liệt không thể gượng dậy được, từ từ khuỵu xuống gục trước mặt lão Hồ. Lão Hồ cười lớn nói:

    - Hôm nay ta dạy cho ngươi thêm một chiêu, không phải là Lãnh Nguyệt Đao Pháp, mà là một chiêu để khi cấp bách có thể dùng, phản khách vi chủ. Đây là chiêu Tuyết Hồ Ảo Mộng. Nhớ kỹ lấy nhé.

    Nói đoạn ông đỡ Tuệ Phong dậy, khẽ truyền một luồng chân khí vào người cậu khiến cậu tỉnh táo lại tức thì. Với lấy vại rượu, Tuệ Phong uống một ngụm lớn, thở hồng hộc. Có lẽ chưa bao giờ cậu cảm giác gần cái chết đến vậy. Lão Hồ nheo mắt cười:

    - Ngươi còn trẻ, không biết uống rượu rồi. Nữ Nhi Hồng mà uống ngụm lớn như thế thì chẳng phải thô lỗ quá sao? Mai sau có cô nương nào ngươi thích, há ngươi cũng suồng sã lao tới như vậy? Phải biết nâng niu, nhẹ nhàng âu yếm, đó mới chính là biết trân quý hảo tửu lẫn giai nhân đó!

    Đang vừa sợ vừa bực mà nghe lão Hồ đùa khiến Tuệ Phong cũng bật cười. Tuy cũng đã mười tám tuổi nhưng trước giờ cậu chưa từng gặp giai nhân nào. Trong Lưỡng Long Trại này uống rượu, đánh bạc, đánh nhau thoải mái nhưng tuyệt đối không được phạm nữ sắc. Nghe lão Hồ nói đùa, nhưng cậu cũng đỏ hết mặt, trong lòng dâng lên thứ cảm giác cậu chưa biết đến bao giờ. Nhưng rồi lão Hồ cũng trầm ngâm nói thêm:

    - Kỳ lạ thay.. Người thường khi gặp sát ý, trong lòng ít nhiều không tránh khỏi run sợ, rúng động. Nhưng ngươi đứng trước sát khí càng mạnh, tâm lại càng tịnh. Quả là hiếm thấy. Nhưng ta biết trong lòng ngươi lúc này không thể lặng được. Chuyến áp tiêu này.. có lẽ lại là một cơ hội tốt cho ngươi tìm lại được bình yên trong lòng.

    Tuệ Phong nghĩ về chuyến áp tiêu sẽ khởi hành vào sớm mai, trong lòng bỗng thấy có chút buồn len lỏi. Nhìn lão Hồ vẫn thong thả uống rượu, cậu mới nhận ra bao năm nay lão Hồ chẳng những là sư phụ truyền võ, mà cũng chính là người thân duy nhất quan tâm đến cậu. Lần này đi xa, trong lòng ít nhiều cũng có chút hoài niệm. Cậu bùi ngùi nói:

    - Lão Hồ.. mai ta phải đi áp tiêu rồi. Ta..

    Lão Hồ vẫn lặng lẽ uống rượu, nhấp từng ngụm nhỏ, nhưng giờ không phải với thái độ âu yếm nữa mà dường như ông đang mượn rượu nguôi đi một nỗi buồn không tên. Ông không quay đầu lại, nói:

    - Cũng không còn sớm nữa. Ngươi về trại đi không lũ thảo khấu đó lại nghi ngờ. Mai lên đường.. bảo trọng.

    Tuệ Phong ôm đao, bái lạy sư phụ rồi quay người chạy đi ngay, để lại sau lưng một tiếng thở dài của lão Hồ..

    * * *

    Băng Tâm đứng trên ngọn tre, mặc cho gió bắc lay thân tre nghiêng ngả, ông vẫn đứng bình thản tựa như dưới chân là đất bằng vậy. Phóng tầm mắt nhìn xuống bến thuyền trước kia là cứ địa của bang Cự Kình chi Hồ Nam, nay đã thành một chợ cá tấp nập, tuyệt không thấy bóng dáng người bang Cự Kình đâu cả. Bang Cự Kình chuyên làm bảo kê tàu cá và bảo vệ cho đám diêm tiêu, một bến thuyền tấp nập như vậy mà không thấy bang chúng Cự Kình Bang lai vãng thì thực lạ. Xem ra chi phái này cũng đã bị diệt rồi. Đứng dưới gốc tre, Dương Vĩnh Niệm co ro kéo lớp áo cừu che kín người cho khỏi lạnh, đoạn lại nhìn sư phụ đứng trên cao lộng gió mà chỉ mặc độc áo mỏng như ngày hè khiến cô cũng bất giác run lên, gọi vọng lên:

    - Thái sư phụ! Người đứng trên đó gió to, áo mỏng mà không lạnh ạ?

    Băng Tâm khẽ nhún người, đáp xuống đất, khẽ phủi phủi mấy bông tuyết còn đọng lại trên áo, nói:

    - Nếu con luyện xong Cửu Âm Chân Kinh thì hàn khí bất nhập, hỏa khí bất xâm, dẫu ngày hè nóng như chảo lửa hay mùa đông rét thấu xương thì cũng như đang hưởng không khí mát mẻ của mùa thu thôi.

    Vĩnh Niệm gật gù, nghĩ bụng:

    - Cũng phải, thái sư phụ dù sao cũng đã đạt cảnh giới tối cao của Cửu Âm Chân Kinh, chẳng phải là người phàm nữa rồi. Giờ chắc cũng không cần ăn cơm, chỉ cần chút hương đèn là đủ.

    Đang nghĩ lung tung thì bị Băng Tâm cộc đầu cho một cái đau điếng. Ông nghiêm giọng:

    - Lại nghĩ linh tinh gì đấy. Không mau lại bến thuyền thăm dò tung tích của Trương bá bá ngươi đi.

    Vĩnh Niệm phụng phịu, tung người thi triển Đạp Tuyết Vô Ngân Công đi trước. Nhìn nơi Vĩnh Niệm đạp xuống khinh công đi không có dấu chân, Băng Tâm khẽ mỉm cười, thong thả rảo bước đi sau. Đến bến thuyền thì thấy Vĩnh Niệm đã quay lại, nói:

    - Thái sư phụ! Mấy người này nói cách đây khoảng hơn một tháng thì đám bảo kê của Cự Kình Bang đã không còn lai vãng đến nữa. Chi phái Cự Kình Hồ Nam cũng đóng cửa im ỉm một thời gian dài. Dân chài ở đây cũng không biết gì hơn, nhưng vì không bị bọn Cự Kình Bang ức hiếp nữa nên rất vui mừng.

    Băng Tâm gật đầu, nhìn đoàn thuyền vừa trở về mang theo mùi mặn mòi của biển và cá, nói:

    - Không ngoài dự đoán, xem ra Vô Kỵ đã đến đây được một thời gian và tận diệt chi Hồ Nam rồi. Thời gian gần đây các chi phái khác của Cự Kình Bang không thấy gặp nguy biến, có lẽ Vô Kỵ chỉ ở gần đây thôi. Chúng ta đến tàn tích của chi Hồ Nam xem có manh mối gì không.

    Hai người khinh công đi tiếp khoảng ba mươi dặm thì đến chi phái Hồ Nam. Nơi này xây dựng vào vách núi, xung quanh thoáng đãng, dễ thủ khó công. Khuôn viên rộng lớn có thể ở cả trăm người, ngoài sân còn bày la liệt bàn ghế, chum rượu lăn lóc khắp nơi, hẳn khi thường nơi đây cũng nhộn nhịp lắm. Băng Tâm lướt qua thấy trên bàn bụi đã phủ dày nhưng cũng không che hết vết máu đã khô ngấm vào mặt bàn, mặt ghế. Nhìn vết máu khô loang lổ khắp sân, vấy cả lên những chum rượu vỡ lăn lóc cũ đủ biết nơi đây đã xảy ra một vụ huyết chiến. Vĩnh Niệm đi cạnh thái sư phụ, nhìn cảnh hoang tàn xung quanh mà rùng mình ớn lạnh. Nếu Trương bá bá thực sự một tay có thể tận diệt cả một chi phái lớn như thế này thì chỉ có thể gọi là sát thần chứ không còn là người nữa. Cô vẫn không thể tưởng tượng ra được một người theo lời mẹ kể là tâm địa nhân hậu, rất mực bao dung, lại có thể xuống tay tàn nhẫn đến vậy. Cô dè dặt nói với Băng Tâm:

    - Thái sư phụ, chắc không phải một tay Trương bá bá đồ sát cả đám Cự Kình Bang này chứ?

    Băng Tâm nhíu mày, nhìn một vài mảnh xương vỡ vụn còn găm ở rường nhà, loáng thoáng chỗ kia răng người còn vương vãi. Ông nói:

    - Ta quả thực không dám tin, nhưng với mức sát thương như thế này, dựa vào vị trí chỗ xương và răng kia, hẳn mấy kẻ này đã trúng phải chiêu thức lạ. Võ công Trung Nguyên chúng ta đa phần là Vũ Kích (1). Nhưng võ công một số vùng ngoại biên lại có cả Giốc Để (2). Ta đã từng giao chiêu với võ công Thánh Hỏa Lệnh đôi lần, chiêu thức rất kì dị. Nhìn đám xương kia hẳn đã bị người ra chiêu luồn xuống vùng hạ bàn rồi một chưởng đánh ngược vào ức khiến ngực nát vụn, chấn lực ép văng xương lên rường nhà. Chỗ răng này hẳn người chết bị song quyền vỗ đến, ép đến nát đầu, răng bị văng xa và nhiều đến vậy. Mấy người dọn dẹp chỗ này hẳn cũng kinh hãi nên không dọn hết. Không sai, người giết đám người này chính là Trương bá bá của con.

    Đang nói bỗng có tiếng sột soạt nhẹ nơi hậu viện. Vĩnh Niệm vội tung người lướt tới, sử cước bộ Loa Toàn Cửu Ảnh, biến trước thoát sau, khi lướt sang trái, lúc vòng sang phải, cước pháp nhanh vô cùng tạo thành chín bóng ảnh bao vây lấy kẻ nào lén lút nấp nơi kia. Kẻ kia thấy trước mặt mình bỗng có chín người giống nhau như đúc, tưởng ma quỷ hiện hình, hoảng sợ quỳ sụp xuống van lạy:

    - Ô hô! Thần thánh nơi nào hạ phàm xin tha tiểu nhân một mạng! Tiểu nhân chỉ là thấy nơi này hoang tàn, tưởng không có người nên mạo muội đến cư ngụ đôi hôm, không biết đã mạo phạm thánh thần! Xin tha mạng, xin tha mạng!

    Vĩnh Niệm bật cười, tính trêu gã khất cái này thêm chút nữa thì Băng Tâm đã nghiêm giọng nói:

    - Không đùa nữa. Để thái sư phụ có vài lời hỏi tên khất cái này. Tên khất cái kia, ngươi tên gì?

    Gã khất cái thấy người này tóc trắng như cước nhưng giọng nói mười phần thần uy lẫm lẫm, biết không phải người thường, vội quay sang lạy lục, thưa:

    - Tiểu nhân tên Tiểu Xú ạ. Lão tiền bối tha mạng!

    Băng Tâm vẫn nghiêm giọng hỏi:

    - Ngươi khất cái qua đây lâu chưa? Có biết sao nơi này lại hoang tàn thế không?

    Tiểu Xú thật thà nói:

    - Tiểu nhân vốn đi khất cái khắp nơi, cách đây tầm một tháng thì ghé nơi đây. Thấy chỗ này tối tối đều tấp nập người ra kẻ vào, đêm nào cũng tụ vạ uống rượu đánh bạc, tiểu nhân cũng quanh quẩn ở đây hòng kiếm chút đỉnh. Các tay được bạc thi thoảng cũng hào phóng mà cho chút ít. Được tầm một tuần thì có một tên khất cái khác cũng đến. Thấy hắn ta ăn mặc rách nát còn hơn cả tiểu nhân, lại xem ra nhiều ngày rồi không ăn gì, tiểu nhân niệm tình cùng là khất cái mà cho hắn ngồi xin ăn cùng. Ai dè..

    Băng Tâm hừm giọng:

    - Sao vậy? Nói tiếp đi chứ!

    Tiểu Xú nhăn nhó nói:

    - Lão tiền bối, mấy hôm nay rồi tiểu nhân không được chút gì bỏ vào mồm, nên..

    Nói đến đây, bụng Tiểu Xú réo lên mấy tiếng lọc xọc đến tội. Vĩnh Niệm lấy trong túi ra một tấm bánh dừa nướng, đưa cho gã nói:

    - Ta chẳng có gì nhiều, có cái bánh nướng, ngươi ăn đi rồi nói tiếp ta nghe.

    Tiểu Xú vồ ngay lấy bánh, cho vào mồm cắn một miếng lớn. Vừa nhai nhồm nhoàm vừa nói:

    - A ạ ô ương.. Đa tạ cô nương. Cô nương đúng là Quán Thế Âm Bồ Tát hạ phàm, thương xót cho chúng sinh đang cảnh nguy khốn. Tiểu..

    Băng Tâm ngắt lời, giọng lạnh lùng nói:

    - Ngươi ăn rồi nói tiếp chuyện ở đây đi. Chớ vòng vo nữa!

    Tiểu Xú gật đầu, lại cắn một miếng to bánh nữa rồi từ từ nói tiếp:

    - Nói đến tên khất cái kia mới lạ. Hắn cứ ngồi im, chẳng nói năng gì, cũng không van vỉ xin ăn. Được ai cho gì cũng trút sang bát tiểu nhân. Tiểu nhân cũng không ăn mảnh, được bao nhiêu đồ ăn đều chia đôi. Được vài hôm như thế thì bang chủ Cự Kình Bang đến thăm chi phái. Lúc đó tiểu nhân mới biết hóa ra tên khất cái kia là một sát thần!

    Vĩnh Niệm nghe hai chữ sát thần, lại nhớ lại chỗ bàn ghế, mặt đấy phủ đầy máu mà rùng mình. Tiểu Xú cũng run rẩy nói tiếp:

    - Tối đó nơi này mở tiệc lớn lắm. Có cả trăm bàn rượu thịt, nghìn khách kéo đến ăn uống đông như hội. Tiểu nhân chắc mẩm cứ ngồi đây kiểu gì chẳng hưởng dư dả đồ thừa. Ai dè tên khất cái kia không biết điều, cứ xăm xăm nhằm hậu viện mà đi đến. Tiểu nhân nghĩ hắn ngửi mùi nấu nướng ở nhà bếp thơm quá không chịu được nên tính đi ăn mảnh, trong lòng bất bình cản lại thì hắn gạt tay, xô tiểu nhân ngã dúi dụi.

    Băng Tâm thầm nghĩ:

    - Kiếp trước hẳn ngươi ăn ở không đến nỗi nào nên mới thoát chết. Bằng cỡ ngươi, Vô Kỵ chỉ nhả một kình là vong mạng.

    Tiểu Xú vẫn thao thao bất tuyệt:

    - Tiểu nhân nghĩ lại trong lòng vẫn có chút cay cú. Thế nên lúc đó tiểu nhân cũng chui lỗ chó, tính lẻn ra bếp theo hắn kiếm chút đồ sạch sẽ. Ai ngờ vào đến bếp chẳng thấy hắn đâu, mà bên ngoài tiếng la hét, tiếng kêu la vang như giết trâu mổ bò. Tiểu nhân nghĩ chắc có mấy tên say rượu rồi gây chuyện nên cũng chẳng để tâm, chỉ rình kiếm chút gì ăn. Nào ngờ bỗng bên tai nghe tiếng gã khất cái kia vang lên như sấm động. Gã hỏi bang chủ Tiêu Hải Triều đâu. Tiểu nhân ngạc nhiên mới lén lén thò đầu ra ngoài xem thì thấy gã khất cái kia đang ra tay đồ sát mấy tên Cự Kình Bang. Đám Cự Kình Bang cũng chạy loạn lên, ném nào xích sắt rồi còn cả muối độc nữa. Muối độc lắm, tại hạ bị mấy hạt rơi trúng mà lõm cả thịt, đau không tả được. Mịt mù thế mà tên khất cái kia không bị trúng chút nào. Hắn túm người này, quật người kia làm lá chắn. Tay hắn cứ như chớp, đấm đến đâu là người ta gục đến đấy. Máu nhiều lắm, lênh láng khắp sân. Gã bang chủ tưởng khí khái thế nào cũng định chui lỗ chó bỏ chạy. Nào ngờ tên khất cái kia phát hiện ra, túm lấy. Mà nhìn tên khất cái trông cũng không to lớn gì, mà một tay xách gã bang chủ to béo kia nhẹ bẫng. Hắn nói..

    Nói đến đây Tiểu Xú lại ngoạm một miếng bánh lớn đến phát nghẹn. Băng Tâm hít một hơi thật sâu, thật kiềm chế không cho hắn một cái bạt tai. Vĩnh Niệm lại đưa nước cho hắn uống. Hắn tu bầu nước ừng ực rồi, quẹt miệng nói tiếp:

    - Hắn nói: "Vợ con ta ở đâu? Kẻ nào sai ngươi bắt cóc họ?". Lúc đó tiểu nhân thấy tên bang chủ bị bóp cổ đến gần hết hơi, nói lí nhí cái gì ấy mà Lưỡng Lưỡng hay Lãng Lãng gì đó. Tiểu nhân định nán lại nghe tiếp thì lỡ gây động, sợ bị giết nên chạy luôn, không dám ở lại nữa. Mãi rồi mới dám quay lại đây lão tiền bối ạ.

    Băng Tâm nghe xong cả một chuyện dài cũng chỉ có được một manh mối quan trọng là kẻ thủ ác sau vụ Trương gia mất tích này tên có chữ Lãng hoặc Lưỡng. Nhưng thế gian rộng lớn, vô số kẻ tên có chữ như vậy, hẳn phải tìm hiểu thêm mới có thể tìm được Trương gia. Ông lấy trong túi ra một chĩnh bạc đưa cho Tiểu Xú nói:

    - Ngươi cầm số bạc này mà rời khỏi đây ngay đi. Nơi này đất dữ, lưu lại sợ không tốt đến mạng đâu.

    Tiểu Xú tuy chỉ là một gã khất cái nhưng không phải là tên ngốc. Nghe Băng Tâm nói vậy cũng hiểu có ý đừng để lộ chuyện này ra nếu không sẽ mất mạng, bèn rón rén nhận bạc, bái tạ rồi đi ngay. Vĩnh Niệm đứng sau lưng thái sư phụ, hỏi:

    - Vậy chúng ta phải tìm kẻ nào họ Lưỡng hay Lãng sao?

    Băng Tâm trầm giọng, nói:

    - Cũng có thể đó là tên của hắn. Phải tìm hiểu thêm thì mới có thể truy đã được đầu mối tiếp theo. Hôm nay như vậy là đủ rồi, chúng ta rời khỏi đây thôi.

    Gió vẫn thổi hiu hắt, hai người khinh công nhẹ bước lướt đi. Vĩnh Niệm theo sau thái sư phụ, trong lòng không kìm được, buột hỏi:

    - Thái sư phụ, Trương bá bá là sát thần vậy sao?

    Băng Tâm im lặng không nói gì. Hai người khinh công đi được chừng mười dặm đến đầu trấn thì Băng Tâm dừng bước, quay đầu hỏi:

    - Con sợ sao?

    Vĩnh Niệm khẽ gật đầu, nét mặt vẫn đầy sự lo lắng, sợ hãi bứt rứt. Băng Tâm khẽ gật gù, thở dài, nói:

    - Trước kia.. ta cũng từng giết người vô số. Số người ta giết, so với Trương bá bá của con chắc nhiều hơn phải gần mười lần. Con có sợ ta không?

    Vĩnh Niệm nghe vậy, giật mình, hoảng hốt lùi lại một bước. Nhưng nhìn ánh mắt của thái sư phụ không có nét gì là tà ác, chỉ ngập sự đau buồn, cô độc, cô lại thấy lòng mình chùng lại. Cô tiến lại gần thái sư phụ, lắc đầu nói:

    - Con không sợ.

    Băng Tâm mỉm cười hỏi:

    - Tại sao con lại không sợ?

    Vĩnh Niệm chỉ tay vào ngực mình, nói:

    - Con chỉ biết thái sư phụ là người tốt. Con cảm nhận được vậy.

    Băng Tâm cũng chỉ tay vào ngực bản thân, nói:

    - Đi lại trên giang hồ, nhiều lúc tay phải nhuốm máu. Mỗi mạng sống chúng ta lấy đi chúng ta đều sẽ phải trả giá bằng chính một mảnh lương tâm. Nhưng ta cũng cảm nhận được Trương bá bá của con vẫn có phần thiện. Ta tin vào điểm thiện đó.

    Nói rồi ông quay người tiến vào trấn, để lại Vĩnh Niệm lặng người trong những suy tư của bản thân mình trước khi giật mình đuổi theo ông. Người mà thái sư phụ tin tưởng, nhất định vẫn còn hi vọng..

     
    chiqudollLieuDuong thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...