Phân tích cảnh đám tang gương mẫu - Hạnh phúc của một tang gia

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Thùy Minh, 17 Tháng mười hai 2022.

  1. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Phân tích đoạn: "Sáng hôm sau, đúng 7 giờ thì cất đám [..] hoặc ghen ghét nó.." trích Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng.

    [​IMG]

    Tang gia là nhà có người chết, không khí bao trùm là buồn thương ảo não. Còn hạnh phúc là trạng thái sung sướng vì được thỏa mãn nhu cầu, nguyện vọng. Tang gia thì làm gì có hạnh phúc và hạnh phúc hẳn không phải là lúc nhà có tang. Vậy mà Vũ Trọng Phụng lại cho chúng ta thấy rất nhiều hạnh phúc của rất nhiều người trong đám tang cụ cố tổ trong chương "Hạnh phúc của một tang gia" (trích Số đỏ). Hãy xem qua ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng, niềm hạnh phúc ấy được miêu tả như thế nào trong đoạn:

    "Sáng hôm sau, đúng 7 giờ thì cất đám [..] hoặc ghen ghét nó.."

    Vũ Trọng Phụng là nhà văn hiện thực phê phán tiêu biểu bậc nhất của văn học hiện đại Việt Nam. Trong khoảng chưa đầy 10 năm cầm bút, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm lớn gồm nhiều thể loại, đặc sắc nhất là tiểu thuyết và truyện ngắn.

    "Số đỏ" là tiểu thuyết hiện thực trào phúng góp phần khẳng định tên tuổi Vũ Trọng Phụng trên văn đàn. Tác phẩm kể về hàng loạt vận may của Xuân - một tên ma cà bông chuyên trèo me, trèo sấu, nhặt ban quần, thổi kèn thuốc lậu.. nhờ sự cổ xúy của cái xã hội nhố nhăng, đồi bại mà trở thành đốc tờ Xuân, thành anh hùng cứu quốc. Qua "Số đỏ", Vũ Trọng Phụng đã kịch liệt phê phán xã hội tư sản thành thị với đủ các kiểu người lố bịch, giả dối, tham lam, hãnh tiến..

    Mỗi chương truyện là một màn hài kịch và "Hạnh phúc của một tang gia" (chương XV) là một trong những màn đặc sắc. Nhờ ơn Xuân, cụ cố tổ lăn đùng ra chết. Cái chết của cụ khiến nỗi mong chờ dồn nén lâu ngày của đám con cháu bỗng bật tung, niềm hạnh phúc như vỡ òa. Sau khi được lệnh phát tang, bọn con cháu "ai ai cũng sung sướng thỏa thích". Họ sung sướng vì được chia gia tài, vì được thỏa mãn những khát vọng riêng tư thầm kín. Đến cảnh đưa tang, niềm vui của những người trong gia đình hòa cùng niềm vui của quan khách tạo nên không khí vô cùng vui vẻ, huyên náo.

    Người đọc có thể nhận thấy sự vui vẻ, huyên náo ấy qua cách tổ chức đám tang "theo cả lối Ta, Tàu, Tây, có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng và bú dích, và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa", các phó nháy thì thi nhau chụp ảnh "như ở hội chợ", đám ma "đưa đến đâu làm huyên nào đến đấy.." Đó là không khí của một đám rước, đám hội, đâu phải không khí của một đám tang? Cái thứ văn minh nửa mùa thể hiện qua sự hỗn giao của các kiểu văn hóa đã nói lên phần nào bộ mặt của xã hội thành thị: Chạy đòi theo văn hóa ngoại bang, biến đám tang thành nơi phô trương thanh thế và sự giàu có.

    Đám tang nhưng không còn là đám tang, con người nhưng không còn là con người mà là những quái thai của xã hội. Vũ Trọng Phụng rất tài tạo phông, dựng cảnh để làm nền cho sự xuất hiện của những chân dung biếm họa nổi bật. Với thủ pháp của điện ảnh, Vũ Trọng Phụng chẳng khác gì một nhà quay phim, khi thì lia ống kính ra xa để ghi toàn cảnh, khi lại ghé ống kính lại gần để "chộp" lấy từng khoảng khắc vui vẻ của từng nhân vật.

    Giữa lúc không ai đáng phạt mà phạt, hai viên cảnh sát Min đơ, Min toa đang buồn rầu như những nhà buôn sắp vỡ nợ bỗng được thuê giữ trật tự cho đám ma thì "sung sướng đến cực điểm". Cái chết của ông cụ 80 tuổi bỗng trở thành cơ hội để bọn chúng kiếm chác thêm thu nhập. Cái khéo của Vũ Trọng Phụng là đặt các nhân vật vào tình huống éo le: Ngao ngán vì thất nghiệp rồi lấy đó làm đòn bẩy để làm bật lên niềm sung sướng tột đỉnh của nhân vật khi có người thuê. "Sung sướng cực điểm" là không còn gì sung sướng hơn, không còn niềm hạnh phúc nào có thể sánh bằng. Thật trớ trêu, niềm hạnh phúc ấy lại được sinh ra từ cỗ quan tài kẻ khác.

    Nổi bật trong đám tang là cô Tuyết. Cô trở thành trung tâm của sự chú ý bởi bộ trang phục Ngây Thơ và vẻ mặt buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám. Cô mặc bộ y phục ấy để cả thiên hạ biết mình còn ngây thơ, trong trắng, chưa đến nỗi đánh mất cả chữ trinh. Nhưng thực chất đó chỉ là bộ đồ lố lăng, hở hang, đồi bại. Đồi bại như chính nhân cách của Tuyết vậy. Cô không hề buồn cho cái chết của ông nội, mà buồn vì mãi không được gặp bạn giai. Vậy nên, vẻ buồn lãng mạn của cô chỉ là tấm màn đạo đức che phủ sự hư hỏng, bất hiếu bên trong. Dù cô có che giấu thế nào, qua vài dòng phác họa của Vũ Trọng Phụng, tất cả đã bị phơi bày.

    Có chân dung biếm họa cá nhân, lại có chân dung biếm họa theo nhóm. Đó là nhóm các vị quan chức cao cấp, bạn thân cụ cố Hồng. Họ long trọng gắn trên ngực đủ các thứ huy chương: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh, đủ các thứ màu sắc và râu ria trên cằm "hoặc dài, hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn".. Các vị đi sát ngay linh cữu thì bị kích động bởi "làn da trắng thập thò Tuyết trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết". Thì ra, họ đi đưa tang là do xã giao, là để phô trương danh giá, cấp bậc, vị thế xã hội. Vẻ ngoài thì bệ vệ, oai phong, đường hoàng là thế, vậy mà chỉ cần nhìn thấy làn da trắng của Tuyết, họ bỗng trở nên mềm yếu đến lạ "cảm động hơn khi nghe tiếng kèn xuân nữ ai oán, não nùng". Họ đâu cảm động vì cái chết của người nằm trong quan tài, cái "cảm động" của họ phải chăng là cách nói hài hước của những dục vọng đang nổi loạn trong lòng? Anh hùng không qua ải mĩ nhân, ai đó nói thật đúng. Chỉ có điều, họ không phải là anh hùng, họ chỉ là những kẻ có cái "vỏ" anh hùng, còn bản chất thì dâm đãng, xấu xa.

    Xuân xuất hiện bất ngờ mang theo sự long trọng cho đám tang với "sáu chiếc xe, trên có sư chùa Bà Banh, xe nào cũng che hai lọng", "hai vòng hoa đồ sộ, một của báo gõ mõ, một của Xuân". Sự long trọng ấy khiến cụ bà "cảm động hết sức", hớt hải chạy lên "sung sướng" cảm ơn nó, còn cậu Tú Tân cũng vội chạy lên bấm máy ảnh lách tách. Thì ra, mọi người chẳng ai để ý đến cái tội của Xuân, tội làm cho cụ tổ uất lên mà chết, ngược lại họ còn ngầm coi Xuân là ân nhân đã gây nên cái chết của ông cụ già đáng chết. Họ thật bao dung, rộng lượng. Hay chính sự bất hiếu đã làm cho họ trở nên bao dung, rộng lượng? Còn Xuân, hắn chẳng mảy may ăn năn về việc làm của mình, ngược lại, hắn tỏ ra sung sướng, hãnh diện vì trở thành nhân vật đặc biệt của đám tang. Đến khi hạ huyệt, Xuân còn thản nhiên nhận món tiền năm đồng của ông Phán vì có công làm cho cụ cố tổ chết. Thật là lố bịch, bất nhân!

    Trong giới Phật giáo, sư thầy vốn dĩ được mọi người suy tôn, kính cẩn. Khi đã được gọi là "sư cụ" thì hẳn là ai nấy đều trọng vọng, mến yêu. Vậy mà trong cái xã hội nhố nhăng ấy, sư lại chẳng ra sư.. Đi dự tang mà lòng "từ bi" không hề lay động, trước cái chết của con người mà tâm tình không hề xót thương. Sư cụ Tăng Phú ngồi đạo mạo trên một chiếc xe trong trạng thái "sung sướng, vênh váo" vì với việc đi dự tang một gia đình danh giá, cụ coi đó là việc cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo - một cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ mõ. Cụ đến đám tang vì ý đồ cá nhân, vì muốn khoe mẽ danh giá bản thân trước đối thủ. Tâm không hướng thiện, lòng đầy sân si.. kẻ mặc áo cà sa mà không phải đạo tu hành. Thật đáng buồn.

    Như vậy, đám ma thì to tát, tiếng khóc thì thảm thương nhưng lại rỗng tuếch lòng người. Không ai mảy may xót thương cho người đã khuất, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Điểm chung ở họ là ai nấy đều vui vẻ, hạnh phúc. Cái chết của ông cụ đáng thương đã mang đến sinh khí cho cả gia đình, và lan tỏa sinh khí ấy đến với những người đi đưa tang.. Bằng việc kể về một đám tang, Vũ Trọng Phụng đã dựng lên và công kích cái "chó đểu", cái "tấn trò đời" nhố nhăng, lố bịch của xã hội tư sản thành thị trước Cách mạng tháng Tám. Hầu như các nhân vật trong tác phẩm đều xuất hiện trong đoạn trích này và đều hiện nguyên hình là những kẻ vô tình vô nghĩa, vô đạo đức, vô văn hóa, dối trá, bịp bợm. Đằng sau tiếng cười của nhà văn, ta có thể nhận ra niềm đau xót của một tâm hồn nghệ sĩ trước sự đảo lộn của những giá trị văn hóa đạo đức tinh thần truyền thống. Mỗi trang viết của ông đều khiến người đọc cười, khóc và suy ngẫm.

    Bằng nghệ thuật trào phúng bậc thầy, Vũ Trọng Phụng đã tạo cho mỗi người một vẻ, vẻ buồn, vẻ nghiêm trang, vẻ đạo mạo.. nhưng chỉ là vẻ bề ngoài, còn bên trong thì hạnh phúc, sung sướng. Ở nhân vật nào, nhà văn cũng tạo nên những mâu thuẫn đối lập giữa nội dung và hình thức, giữa cái bên trong và cái bên ngoài để dựng lên những chân dung biếm họa đặc sắc. Không chỉ thành công ở nghệ thuật xây dựng chân dung nhân vật, đoạn trích còn tạo ấn tượng ở lời văn hài hước, gây cười; bút pháp cường điệu phóng đại..

    "Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại" (Ban dắc). Với ngòi bút tôn trọng hiện thực và nghệ thuật trào phúng bậc thầy, Vũ Trọng Phụng giống như một người thư kí trung thành của thời đại ông đang sống. Ông đã dựng lên một bức tranh chân thực, nực cười về xã hội tư sản thành thị với lối sống văn minh nửa mùa, với đủ các kiểu người "quái thai" của xã hội.

    (Còn nữa)
     
    Chỉnh sửa cuối: 18 Tháng mười hai 2022
  2. Đăng ký Binance
  3. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Phân tích nghệ thuật trào phúng và ý nghĩa phê phán của đoạn trích sau:

    "Đám cứ đi..

    Kèn Ta, Kèn Tây, Kèn Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên

    [..]

    về những điều sơ suất của khổ chủ.."

    (Trích Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng)

    Tham khảo:

    Nhà phê bình văn học Trương Tửu từng nhận xét về Vũ Trọng Phụng: "Ông là một phần tử tiên phong và cam đảm trong văn chương. Ông giữ riêng một ngọn cờ tiểu thuyết mà chính tay ông đã dệt xong." Một trong những sợi tơ dệt nên ngọn cờ tiểu thuyết ấy là "Số đỏ". "Số đỏ" là đòn giáng mạnh mẽ vào cái xã hội thực dân tư sản thành thị nhố nhăng, đồi bại đầu thế kỉ XX bằng một cái cười tầm cỡ. Với chương XV - "Hạnh phúc của một tang gia", dường như cả cái xã hội "chó đểu" ấy đã lộ diện trong đám tang cụ cố tổ và đoạn trích sau đây là một màn hài kịch đặc sắc:

    "Đám cứ đi..

    Kèn Ta, Kèn Tây, Kèn Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên

    [..]

    về những điều sơ suất của khổ chủ.."

    Tang gia là nhà có chuyện buồn, chuyện đau đớn, bất hạnh. Vậy mà ở đây lại là tang gia hạnh phúc, thật nực cười! Điều gì khiến ông cụ 80 tuổi chết lại mang đến hạnh phúc cho cả tang gia? Cụ chết, họ được hưởng gia tài, họ còn được thỏa mãn ý đồ riêng, nên họ lấy đó làm hạnh phúc. Không chỉ những người trong gia đình cụ cố tổ hạnh phúc, mà những người ngoài cũng được hưởng niềm hạnh phúc từ cái chết ấy. Dưới ngòi bút trào phúng Vũ Trọng Phụng, niềm hạnh phúc thầm kín ấy được miêu tả như thế nào và bản chất xấu xa, lố bịch của cả một xã hội đã bị lột trần ra sao?

    Khai thác triệt để thủ pháp đối lập tương phản, mỗi dòng văn Vũ Trọng Phụng như đều chứa đựng mâu thuẫn gây cười: Mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung, giữa cái buồn rầu ảo não bên ngoài và niềm hạnh phúc, vui vẻ bên trong; giữa sự trang trọng, to tát của tang gia và sự lố bịch, giả dối của bản chất con người.

    Sau khi ghi lại từng khoảnh khắc vui vẻ của từng nhân vật trong lễ tang bằng góc quay cận cảnh, Vũ Trọng Phụng đã lia ống kính ra xa để thu vào máy quay cái cảnh:

    "Đám cứ đi..

    Kèn Ta, Kèn Tây, Kèn Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên"

    Mâu thuẫn gây cười xuất hiện ngay từ những dòng đầu tiên: Cảnh đưa tang bề ngoài có cái lễ nghi, trang trọng của "đám cứ đi" như bất cứ đám tang nào. Nhưng trong cái nghiêm chỉnh của đoàn người nối đuôi nhau đưa người chết về cõi vĩnh hằng ấy, người đọc nhận ra biết bao sự bất thường. Bất thường từ sự nhốn nháo, lẫn lộn của kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu - một sự pha tạp văn hóa lố bịch, rởm đời. Bất thường bởi tiếng kèn không phải vang lên mà là rộn lên "thay nhau mà rộn lên" - nhạc cụ nào cũng như cố khuếch đại âm thanh để làm huyên náo thêm cho đám tang, khiến không khia đám tang vui vẻ, náo nhiệt như đám hội, đám rước.

    Mâu thuẫn gây cười lần lượt hiện ra trong từng chân dung trào phúng. Những kẻ đi đưa tang "ai nấy cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh". Chữ dùng của nhà văn thật thâm thúy, "làm ra" chẳng phải là cố ý, là diễn, là sắp đặt hay sao? Thì ra, họ chỉ đang cố tỏ ra nghiêm chỉnh thôi, còn thực chất, sau cái nghiêm chỉnh ấy, họ bận trò chuyện với nhau đủ chuyện về vợ con, nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may. Họ phần nhiều là tân thời, bạn của cô Tuyết, cô Hoàng Hôn, bà phó Đoan, họ được Vũ Trọng Phụng gọi là "giai thanh gái lịch". Cách gọi ấy thực chất là chiếc đòn bẩy nhà văn dùng để làm bật lên cái không thanh lịch của họ mà thôi. Giữa đám tang mà họ ngang nhiên chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau. Lố bịch thay, những hành động ấy lại được khoác áo đạo đức, được xức nước hoa văn minh bằng những "vẻ mặt buồn rầu" rất hợp đạo. Thì ra vẻ mặt buồn rầu kia là tấm bình phong che chắn sự giả dối, kệch cỡm bên trong.

    Ghé ống kính vào đám đông, "ông vua phóng sự đất Bắc" đã bắt trọn từng câu "thì thào" của những người đi đưa tang: Con bé nhà ai kháu thế? – Con bé bên cạnh đẹp hơn nữa! - Ừ, ừ, cái thằng ấy bạc tình bỏ mẹ! – Xưa kia vợ nó bỏ nó chớ? – Hai đời chồng rồi! – Còn xuân chán! - Gớm cái ngực, đầm quá đi mất! – Làm mối cho tớ nhé? - Mỏ vàng hay mỏ chì? – Không, không hẹn hò gì cả - Vợ béo thế, chồng gầy thế thì mọc sừng mất! Vân vân.. Vẫn là lời văn hài hước cùng phép liệt kê và cách nói "vân vân" quen thuộc, Vũ Trọng Phụng chỉ như ngẫu nhiên ghi lại từng câu nói của người đi đưa tang mà tiếng cười đã bật lên sảng khoái. Bởi họ nói với nhau những gì? Toàn là chuyện trai gái, ngoại tình, bỏ chồng bỏ vợ, chuyện cắm sừng, đào mỏ - những câu nói chẳng những không phù hợp với hoàn cảnh đám tang mà còn thô tục, vô văn hóa. Dân gian có câu:

    "Chim khôn kêu tiếng rảnh rang

    Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe."

    Lời nói thể hiện nhân cách, văn hóa của con người. Vậy những lời nói kia chẳng phải cho thấy bản chất xấu xí, vô đạo của những kẻ đưa tang sao?

    Như không thể liệt kê hết sự lố bịch, giả dối của người đi đưa tang, Vũ Trọng Phụng khái quát lại toàn cảnh bằng câu văn: "Và còn nhiều câu nói vui vẻ, ý nhị khác nữa, rất xứng đáng với những người đi đưa đám ma." Lời nhận xét ngỡ như bình thản mà nghe thật chua chát, sắc lạnh. Sự tương phản giữa bề ngoài và thực chất của đám ma cho thấy cả xã hội ấy là bịp bợm. Tác giả hai lần nhắc lại điệp khúc "đám cứ đi" như nhấn mạnh sự đối lập giữa cái bình thường (cứ đi) và cái bất thường: Sự nhốn nháo, ô hợp, vô văn hóa. Đồng thời, nhà văn như muốn nói: Đám cứ đi thì sự vô văn hóa ấy không dừng lại, nó kéo dài, kéo dài mãi đến tận miệng huyệt.

    Phút hạ huyệt là phút vĩnh biệt thiêng liêng nhất. Chỉ một khoảnh khắc nữa thoi là âm dương cách trở. Đó là giây phút của lương tri, của lương tâm, của cảm xúc thành kính, không cho phép người ta giả dối, bịp bợm xúc phạm đến anh linh người đã khuất. Nhưng đến phút cuối cùng ấy, phút hạ huyệt để vĩnh biệt người quá cố, bọn người kia vẫn công khai diễn các trò lố: Cậu Tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng đã bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ.. để cậu chụp ảnh kỷ niệm lúc hạ huyệt. Cậu không nhỏ một giọt lệ tiếc thương ông nội, không đắp một nắm đất ấm cho người nằm sâu ba thước đất mà vui vẻ biến miệng huyệt thành nơi khoe mẽ tài năng. Cậu lúc này chẳng khác gì đạo diễn cho một vở hài kịch đang tác nghiệp trên sân khấu là nghĩa địa và diễn viên là những người đi đưa tang. Còn bạn hữu của cậu thì rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Ảnh khỏi giống nhau là ảnh phải linh hoạt, phải phong phú, đẹp từng góc cạnh. Chi tiết chụp ảnh rất bình thường lại lật tẩy bao cái giả dối, lố bịch: Cái khom lưng, gục đầu, lau mắt cũng phải diễn chứ không hề có cảm xúc thực; và để chụp những pô ảnh đẹp các cậu tài tử lại ngang nhiên nhảy lên mả của người khác thì còn gì là văn hóa?

    Con mắt trào phúng của Vũ Trọng Phụng vô cùng sắc sảo, đủ sức nhạy bén để chộp lấy pha trào phúng xuất thần ấy mà mang đến cái cười chua chát cho độc giả. Pha thứ hai, ý vị trào phúng tinh vi, tinh tế hơn. Vũ Trọng Phụng đã dừng lại miêu tả nhân vật gây chú ý nhất lúc hạ huyệt: Ông Phán, ông cháu rể quý hóa. Ông Phán như đang cùng cụ cố Hồng "đi bè" với nhau trong khúc bi ca. Cụ Hồng đi "bè trầm", còn ông Phán đi "bè cao". Lúc cụ Hồng ho khạc, khóc mếu và ngất đi thì Phán ta gào to: "Hứt, hứt, hứt". Tiếng khóc kì cục chênh phô ấy khiến ai cũng phải để ý đến Phán. Phụ họa cùng tiếng khóc ấy là trạng thái "lặng đi", "oặt người đi".. Người khác dễ nghĩ hẳn Phán thương ông nội lắm, đau buồn lắm trước cái chết của ông mới khóc mãi không thôi như thế. Song, dưới ngòi bút Vũ Trọng Phụng, đó chỉ là vẻ bề ngoài, còn thực chất Phán ta đang rất tỉnh táo. Tỉnh táo để hoàn tất một mối làm ăn, để giữ chữ tín với Xuân. Hắn giúi vào tay Xuân một tờ giấy bạc năm đồng gấp tư - món nợ hắn trả cho Xuân vì Xuân đã tố cáo tội hoang dâm của vợ mình. Có người chồng nào lại trả tiền cho người khác tố cáo tội ngoại tình của vợ, để khoe ra trước thiên hạ cái sừng của mình? Sự đối lập giữa vẻ ngoài và hành động bí mật phía sau đã nói lên bản chất con người Phán: Một ông cháu bất hiếu, giả dối, sẵn sàng bán rẻ thanh danh chỉ vì tiền.

    Chi tiết tờ giấy bạc năm đồng gấp tư xuất hiện trong cảnh hạ huyệt có thể nói là một pha trào phúng xuất thần của Vũ Trọng Phụng. Giữa lúc tang gia bối rối, con người vẫn không thôi nghĩ đến tiền. Đồng tiền len lỏi vào từng ngõ ngách tâm hồn u tối của của một lũ hám lợi và hơi đồng của nó đã làm lạnh băng cảm xúc con người, biến chúng thành những kẻ vô tâm, vô đạo. Chi tiết này khiến ta nhớ đến đoạn tả đám tang lão Gô-ri-ô trong truyện Lão Gô-ri-ô của Ban dắc với hình ảnh những tên đào huyệt vừa đào vừa ngóc đầu lên đòi tiền công.. Nếu Ban dắc dùng cái bi để miêu tả thì Vũ Trọng Phụng lại dùng cái hài, nhưng là cái cười ra nước mắt.

    Với nghệ thuật tạo tình huống trào lộng, dựng chân dung biếm họa, lời văn hài hước.. Vũ Trọng Phụng đã dựng lại bức tranh hiện thực xã hội tư sản thành thị nhơ nhớp, đáng cười. Đó là tiếng cười thông minh, trí tuệ của tiểu thuyết hiện đại. Tiếng cười ấy có sức mạnh "lộn trái, bóc trần" mọi loại đối tượng. Từ cái tên chương Hạnh phúc của một tang gia mở đầu cho đến những dòng cuối miêu tả cảnh hạ huyệt với tiếng khóc của ông Phán, ngòi bút "lộn trái" Vũ Trọng Phụng đã "bóc trần" những lớp vỏ văn minh, để trơ ra những hình hài quái thai của xã hội.

    Tóm lại, đoạn trích là chuỗi cười dài trong trận cười bất tận của tác phẩm. Miêu tả đám tang cụ cố tổ, đoạn trích trở thành một cuộc tiễn đưa tập thể, cuộc hành trình tới mộ của cả xã hội, cái xã hội tư sản thành thị Âu hóa rởm, văn minh rởm hết sức lố lăng, đồi bại đang hiện diện ở Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám. Mỗi chi tiết, mỗi nhân vật cứ tự nhiên làm bật ra tiếng cười. Tiếng cười mang nhiều sắc độ, liên tục không dứt, nó kéo dài suốt thời gian lễ tang, suốt cuộc hành trình đưa tiễn.

    (còn nữa)
     
    Chỉnh sửa cuối: 25 Tháng mười hai 2022
  4. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Phân tích các chân dung trào phúng trong Hạnh phúc của một tang gia

    Tham khảo:

    "Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại" (Ban dắc). Với ngòi bút tôn trọng hiện thực và nghệ thuật trào phúng bậc thầy, Vũ Trọng Phụng giống như một người thư kí trung thành của thời đại ông đang sống. Trong Số đỏ, ông đã dựng lên một bức tranh chân thực, nực cười về xã hội tư sản thành thị với lối sống văn minh nửa mùa, với đủ các kiểu người "quái thai" của xã hội. Khối căm ghét của ông đối với xã hội thối nát không còn là lời chửi rủa tuyệt vọng nữa mà nổ ra thành những trận cười sảng khoái, có sức công phá mạnh mẽ. Hạnh phúc của một tang gia là một trong nhiều trận cười ấy. Nét đặc sắc thể hiện ngòi bút trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng trong chương truyện này là nghệ thuật xây dựng chân dung các nhân vật biếm họa.

    Chương truyện kể lại tình huống bi hài trong gia đình cụ cố Hồng: Cụ cố tổ (cha cụ cố Hồng) vừa qua đời. Một gia đình có tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến bực nào, ấy vậy mà lại hạnh phúc? Mới nghe nhan đề có vẻ ngược đời nhưng đọc cả chương truyện, ta mới thấy Vũ Trọng Phụng đã phát hiện ra rất nhiều niềm hạnh phúc của những người trong gia đình ấy.

    Cái chết của cụ Tổ tạo một dịp may cho tất cả mọi người chung một nhịp sống rộn ràng vui vẻ đón nhận cái gia tài kếch xù sẽ được chia sau đám tang của cụ. "Bọn con cháu ai nấy đều sung sướng thỏa thích.. người ta từng bừng đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma" . Tuy nhiên trong niềm hạnh phúc chung ấy ai cũng có những hạnh phúc riêng: Nhà văn kể: "Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm".

    Phán mọc sừng là người đầu tiên được lợi từ cái chết của cụ cố Tổ là thằng cháu rể bị mọc sừng. Ngay sau cái chết của cụ Tổ hắn đã được cụ cố Hồng ghé vào tai hứa sẽ chia thêm cho mấy nghìn bạc vì có công trong việc làm cho cụ cố chết bằng chính sự việc bị mọc sừng. Có được cái lợi ấy, hắn sung sướng hả hê tự hào vì không ngờ rằng đôi sừng trên đầu hắn lại có giá trị to thế. Phán mọc sừng hiện lên đúng là một quái thai, hắn cúi mình trước đồng tiền một cách đê tiện nên sẵn sàng đánh đổi hạnh phúc vợ chồng, danh dự của một thằng đàn ông lấy vinh quang của đôi sừng vô hình trên đầu hắn mà không cảm thấy nhục nhã.

    Cố Hồng lẽ ra là người phải lưu tâm nhiều nhất có trách nhiệm với cái chết của cụ cố Tổ. Nhưng ông vẫn dửng dưng như không, nằm bẹp hút thuốc phiện một cách bình tĩnh, lập lại như một cái máy 1872 câu "Biết rồi, khổ lắm nói mãi" mà thực chất chả biết cái gì. Thậm chí ông chỉ mơ tưởng tới hình ảnh mình "mặc áo xô gai, chống gậy vừa ho lụ khụ vừa mếu máo, sung sướng được thiên hạ chỉ chỏ khen:" Ái chà, con giai nhớn của cụ già đến thế kia à? ". Thì ra niềm hạnh phúc của cụ là được diễn trò già yếu trước tất cả mọi người. Cố Hồng hiện lên là một kẻ" trưởng giả ", hiếu danh, hủ lậu, hợm hĩnh một cách vô nghĩa lí, vô tình, vô trách nhiệm.

    Bà cố Hồng là dâu trưởng, khi cụ cố tổ chết, bà cứ bấn cả lên. Nhưng không phải vì tang gia bối rối mà vì bây giờ bà mới nhận thấy hết giá trị của ông Đốc tờ Xuân, bà lo bây giờ Xuân sẽ hối hôn với cô Tuyết - cô con gái hư hỏng một cách có lý luận của bà. Rốt cuộc bà cũng gặt được hạnh phúc, sự sung sướng khi được cậu Tú Tân thông báo có xe, kiệu, lọng, vòng hoa và cả Xuân Tóc Đỏ đến đưa đám. Bà cảm động hết sức vì" ấy giá không có cái món ấy thì là thiếu, chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩa hộ tôi ". Cái" món ấy "với bà cố Hồng, đó không phải chỉ là xe, lọng, vòng hoa mà quan trọng là vì có ông me xừ Xuân đến giúp đáp phúng viếng, làm danh giá cho đám tang, mà số phận của cô Tuyết như thế cũng được giải quyết êm thấm.

    Ông cháu đích tôn Văn Minh thì mang một bộ mặt đưa đám: vò đầu bứt tóc, mặt đăm đăm chiêu chiêu rất hợp thời trong đám ma. Nhưng vẻ nghĩ ngợi, bối rối kiểu đưa đám ấy chẳng qua là vì hắn đang lao lung nghĩ cách hiện thực hóa cái chúc thư của cụ Tổ, làm thế nào để gột rửa cái quá khứ nhơ nhớp của Xuân để gán cho Tuyết. Như vậy con người Văn Minh, cái vẻ đám ma chỉ là giả, nó che dấu cái bản chất vụ lợi có thật trong con người hắn. Hắn chẳng qua cũng là một quái thai, giả nhân giả nghĩa trong gia đình đó, xã hội đó.

    Còn bà Văn minh và ông TYPN thì đều đang sốt ruột chờ đợi để trình diễn tang phục, bộ đồ xô gai tân thời ở tiệm" âu hóa ". Cái chết của cụ Cố Tổ trở thành dịp may hiếm có để" lăng xê "những mốt quần áo những thứ quần áo tang phục tối thượng tiết kiệm vải được may với quan niệm quần áo không phải để mặc để che mà để phô diễn da thịt," Có thể ban cho những ai có tang đang đau đớn vì kẻ chết "cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời.

    Xã hội tư sản nửa thực dân vừa chào đời đã đầm đìa máu và bùn, con người sống vô tình, vụ lợi, cái chết của một người trở thành dịp kiếm ăn của bao kẻ. Người ta sẵn sàng kinh doanh trên xác người chết. Ngòi bút trào phúng hiện thực của Vũ Trọng Phụng đã không ngần ngại vạch ra chân dung dị dạng đó của nó. Niềm hạnh phúc nảy sinh từ tang gia cứ thế chảy trong mạch huyết trong đám con cháu cụ Tổ từ già tới trẻ, từ lúc phát tang cho tới lúc hạ huyệt.

    Khi đưa tang, Tuyết mặc bộ đồ xô gai ngây thơ, chiếc áo dài voan mỏng, trong có coóc xê, nửa kín nửa hở.. lượn lờ đi lại mời khách, trên mặt điểm một nét buồn lãng mạn. Đi qua đi lại trước mặt các cụ ngực đầy huân chương làn da trắng và bộ ngực thập thò khiến ai nấy đều cảm động hơn là nghe thấy tiếng kèn xuân nữ ai oán. Tuyết đau khổ một cách chính đáng vì không thấy bạn giai đâu. Với Tuyết, đám ma là cơ hội để phô diễn thân thể, thời trang, trình bày với thiên hạ về sự hư hỏng một cách có lí luận của mình, rằng mình mới chỉ đánh mất nửa chữ trinh.

    Cậu Tú Tân đi du học mấy năm không đỗ nổi tú tài, chỉ đem về được mỗi cái máy ảnh. Cậu hạnh phúc vô cùng vì lâu rồi mới có cơ hội để trổ tài nhiếp ảnh gia. Vậy nên cậu" cứ điên người lên "vì người chết đã lâu mà mãi chưa phát tang.

    Gia đình có tang lại là tang cụ cố Tổ nhưng con cháu nội ngoại không một ai khóc thương, suy nghĩ tưởng nhớ. Trái lại họ đều vui vẻ, hả hê. Họ tổ chức đám tang không phải vì là một nghi lễ thiêng liên vĩnh biệt một con người, dứt đi một phần máu mủ mà vì tiền tài, vì danh vọng, vì một mối tình nhem nhuốc, vì một cuộc buôn bán lén lút xấu xa. Mỗi người trong họ đều có một động cơ riêng, một niềm hạnh phúc riêng tây trong đám tang này nhưng họ đều giống nhau ở chỗ bất hiếu, bất nhân, vô đạo đức, mất hết nhân tâm, nhân phẩm. Đúng như cụ cố Tổ khi ốm cũng nói với họ:" Để tao chết. Sống cũng nhục! Cố chạy chữa thì chạy chữa cho cái thanh danh nhà tao mà bọn chúng mày đang bôi nhọ ". Và quả thực chúng đã để cụ cố chết nhưng cũng không chạy chữa thanh danh. Họ đang sống một cách nhốn nháo nhưng đang nêu gương cho cả xã hội.

    Cái hạnh phúc ấy không chỉ giới hạn trong gia đình ấy mà nó còn lây lan sang một đám đông nữa.. Vậy đó là những ai, vì sao họ cũng được" sung sướng "như vậy?

    Xuân Tóc đỏ đang từ kẻ có tội bỗng trở thành có công. Vênh vang, danh giá vì nhờ hắn mà cụ cố Tổ lăn đùng ra chết. Ngay lập tức được gia đình cố Hồng chào đón nhiệt liệt, tin cậy..

    Bọn cảnh sát MinĐơ MinToa đang sống trong cảnh" thất nghiệp ", buồn như nhà buôn vỡ nợ vì chả rình phạt được ai bỗng nhờ có đám tang thành thử lại có công ăn việc làm vì thế mà chúng" sung sướng đến cực điểm ", đã dốc lòng phục vụ đám tang tận tình.

    Đám đông bạn bè cụ cố Hồng dự tang lễ đông đủ nhưng không phải là đến chia buồn chẳng qua thấy đây cũng là một cơ hội phô trương thanh thế, khoe mẽ cái mã hào nhoáng của bọn trưởng giả. Vì thế mà đến dự tang các cụ trên ngực đầy huân chương nào là Bắc Đẩu bội tinh, long bội tinh, cao niên bội tinh, Vạn tượng bội tinh. Trên mép và cằm đều đủ râu ria hoặc dài hoặc ngắn hoặc đen hoặc hung hoặc lún phún hay rầm rậm.. Các cụ đến dự đám tang nhưng lòng cảm động biết bao khi trông thấy Tuyết..

    Còn số đông bạn bè của cô Tuyết, cô Hoàng hôn, bà Văn Minh đến dự đám nhưng họ toàn trò chuyện với nhau, chim nhau, cười tình với nhau. Cả đám tang chỉ vang lên những tiếng thì thầm về nhà cửa, vợ con, quần áo, sắc đẹp.. Toàn những chuyện tầm phào đại loại" thằng ấy bạc tình bỏ mẹ "," Con bé nhà ai kháu thế - Gớm cái ngực đầm quá đi mất ".

    Đám ma đến cảnh hạ huyệt càng đáng nhớ hơn: Cậu Tú Tân lăng xăng bắt bẻ từng người này là chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt như thế này đi làm cậu chụp ảnh. Bạn bè cậu quýnh lên dẫm bừa bãi lên mồ mả nhà người ta.

    Cảnh hạ huyệt diễn ra nhanh chóng sau ba tiếng khóc như cố nặn ra của Phán mọc sừng" Hứt.. Hứt.. hứt.. ", người ta tưởng ông ta đau lòng quá đến mức ngất đi nhưng thực ra ông vô cùng tỉnh táo, tỉnh táo để thanh toán nốt cho Xuân năm đồng bạc trong một cuộc thương lượng trước đó.

    Tất cả đều là giả dối từ lúc đưa cho tới lúc hạ huyệt. Sự giả dối ấy bộc lộ rõ nhất ở cảnh cuối, người ta chỉ mau chóng vùi cho xong một xác chết. Mọi sự gục đầu, lau nước mắt đều để chụp ảnh, có duy nhất một tiếng khóc" Hứt.. hứt.. hứt"của Phán mọc sừng chẳng qua cũng để che khuất hành động mua bán xấu xa giữa Phán và Xuân.

    Qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc bút pháp trào phúng của mình trong cách xây dựng chân dung nhân vật. Nhà văn tạo cho mỗi người một vẻ, mang sẵn trong mình những mâu thuẫn, đặt trong những tình thế luôn biến hóa, làm hoàn chỉnh thêm chân dung của họ trong cuốn tiểu thuyết. Cùng với nghệ thuật cường điệu phóng đại, lời văn hài hước, giễu nhại, cách dựng tình huống gây cười.. cảnh đám tang với sự xuất hiện của các nhân vật tham dự hiện lên như một màn hài kịch sinh động hay như một bức biếm họa khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự cho là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của nó.
     
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...