Welcome! You have been invited by BÁN CHẤT XÁM to join our community. Please click here to register.
1 người đang xem
Bài viết: 14 Tìm chủ đề
1030 15
Phân tích bài thơ "Thu hứng kỳ 3" của Thi Thánh Đỗ Phủ

thu-hung-do-phu.PNG

秋 興 其 三

千 家 山 郭 靜 朝 暉,

日日 江 樓 坐 翠 微.

信 宿 漁 人 還 泛泛,

清 秋 燕 子 故 飛飛.

匡 衡 抗 疏 功 名 薄,

劉 向 傳 經 心 事 違.

同 學 少 年 多 不 賤,

五 陵 裘 馬 自 輕 肥.

Thu hứng kỳ 3

Thiên gia sơn quách tĩnh triêu huy

Nhật nhật giang lâu tọa thuý vi.

Tín túc ngư nhân hoàn phiếm phiếm,

Thanh thu yến tử cố phi phi,

Khuông Hành kháng sớ công danh bạc,

Lưu Hướng truyền kinh tâm sự vi.

Đồng học thiếu niên đa bất tiện,

Ngũ Lăng cừu mã tự khinh phì.


Dịch nghĩa

Nghìn nhà thành núi rạng nắng mai yên tĩnh,

Ngày ngày ngồi trên lầu sông giữa hơi núi biếc.

Đêm dài, người đánh cá bơi thuyền vùn vụt,

Trời thu trong, từng con én bay liệng.

Như Khuông Hành dâng sớ mà công danh mỏng,

Như Lưu Hướng giảng sách mà tâm sự ngang trái.

Nhiều bạn cùng học thời trẻ nay có hèn đâu,

Đều mặc áo cừu, cỡi ngựa béo ở Ngũ Lăng!


Bài phân tích của Vân Trang - Toiodayviban

(Phân tích bài thơ "Thu hứng Kỳ 3" của Đỗ Phủ theo đặc điểm của nghệ thuật thơ Đường luật)

- Thể thơ: Thất ngôn bát cú Đường luật

- Bố cục: Bài thơ tuân thủ đầy đủ bốn phần của Đường thi: đề, thực, luận, kết .

· Phần đề: Gồm hai câu đầu, câu thứ nhất là phá đề (mở ý của bài thơ), câu thứ hai là thừa đề (tiếp ý của phá đề để chuyển vào thân bài) : Khung cảnh thiên nhiên đẹp nhưng tĩnh lặng gợi niềm cô liêu, buồn tẻ


"Thiên gia sơn quách tĩnh triêu huy

Nhật nhật giang lâu tọa thuý vi."


· Phần thực (hay thích thực) gồm câu thứ ba và câu thứ tư, giải thích rõ ý củađề: Động cảnh xuất hiện trong bức phông nền toàn cảnh yên ắng cũng vội vã và rời rạc:

"Tín túc ngư nhân hoàn phiếm phiếm,

Thanh thu yến tử cố phi phi,"


· Phần luận: Gồm câu thứ năm và câu thứ sáu, phát triển rộng ý củađề: Suy tư của nhà thơ về thời thế gợi ra từ ngoại cảnh:

"Khuông Hành kháng sớ công danh bạc,

Lưu Hướng truyền kinh tâm sự vi."


· Phần kết: Gồm hai câu cuối, kết lại ý của toàn bài: Sự suy tư, lắng đọng:

"Đồng học thiếu niên đa bất tiện,

Ngũ Lăng cừu mã tự khinh phì."


- Niêm: Bài thơ tuân thủ chặt chẽ quy luật về "Niêm" giữa các liên thơ (một cặp câu) trong thơ Đường:

· Câu thứ hai của liên trên niêm với câu thứ nhất của liên dưới, khi chữ thứ nhì của hai câu này cùng thanh (bằng trắc)

· Trong bài thơ những câu thơ sau niêm với nhau: 1–8, 2–3, 4–5, 6–7:


"Thiên gia sơn quách tĩnh triêu huy

Nhật nhật giang lâu tọa thuý vi.

Tín túc ngư nhân hoàn phiếm phiếm

Thanh thu yến tử cố phi phi,

Khuông Hành kháng sớ công danh bạc,

Lưu Hướng truyền kinh tâm sự vi.

Đồng học thiếu niên đa bất tiện,

Ngũ Lăng cừu mã tự khinh phì."


Gia – lăng (B – B), nhật – túc (T – T),

Thu – Hành (B – B), Hướng – học (T – T)

- Luật: Bài thơ tuân thủ mẫu mực quy luật bằng trắc:

· Thu hứng kỳ 3 (Đỗ Phủ) là bài thơ luật Bằng (vì có chứ thứ hai của câu thơ thứ nhất: "Gia" mang thanh bằng)

· Công thức luật bằng trắc trong thơ Đường luật: "Nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh". Nghĩa là chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không bị luật bằng trắc ràng buộc; nhưng chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu phải tuân thủ chặt chẽ quy tắc "đòn cân thanh điệu" (Ở các vị trí "nhị, tứ, lục" (2, 4, 6) trong mỗi câu thơ, mô hình bằng trắc chỉ có thể là: B – T – B hoặc T – B – T)


"Thiên gia sơn quách tĩnh triêu huy

B T B

Nhật nhật giang lâu tọa thuý vi.

T B T

Tín túc ngư nhân hoàn phiếm phiếm,

T B T

Thanh thu yến tử cố phi phi,

B T B

Khuông Hành kháng sớ công danh bạc,

B T B


Lưu Hướng truyền kinh tâm sự vi.

T B T

Đồng học thiếu niên đa bất tiện,

T B T

Ngũ Lăng cừu tự khinh phì."

B T B

- Vận: Bài thơ tuân thủ nghiêm ngặt quy luật gieo vần (vần bằng) của thơ Đường. Vần này nằm ở các chữ cuối cùng của các câu: 1, 2, 4, 6, 8.


"Thiên gia sơn quách tĩnh triêu huy

Nhật nhật giang lâu tọa thuý vi .

Tín túc ngư nhân hoàn phiếm phiếm,

Thanh thu yến tử cố phi phi,

Khuông Hành kháng sớ công danh bạc,

Lưu Hướng truyền kinh tâm sự vi .

Đồng học thiếu niên đa bất tiện,

Ngũ Lăng cừu mã tự khinh phì ."


- Đối: Công đối :(đối chỉnh) câu thứ năm đối với câu thứ sáu, theo nguyên tắc cùng từ loại (động – động, danh – danh)

"Khuông Hành/ kháng sớ/ công danh bạc,

Lưu Hướng/ truyền kinh/ tâm sự vi."


- Tư duy nghệ thuật và cấu tứ thơ.

[HIDETHANKS=1]Bài thơ là là nỗi ưu tư của một tâm hồn đa cảm, giàu chiêm nghiệm về cuộc đời. Mạch cảm xúc đi từ ngoại cảnh vào tâm cảnh, từ tĩnh đến động, từ xa đến gần, từ tích xưa đến nay.

Bao trùm lên cả bài thơ là cái bâng khuâng vô định, sầu não về thời thế của một bậc anh tài đang tung hoành ngang dọc khắp Nam Bắc trong thiên hạ (bài thơ được viết vào khoảng thời gian (760-770) sau khi Đỗ Phủ từ quan đi Phiêu bạt tây nam)

· Bốn câu thơ đầu: Đỗ Phủ tập trung thể hiện khung cảnh mùa thu im ắng, cứ lặng lẽ chảy trôi trong lãng phí, bởi lòng người vô phương định:


"Thiên gia sơn quách tĩnh triêu huy

Nhật nhật giang lâu tọa thuý vi.

Tín túc ngư nhân hoàn phiếm phiếm,

Thanh thu yến tử cố phi phi,"


Có lẽ nhà thơ đã đứng từ trên cao, để thu lấy toàn cảnh vào trong mắt (nghìn mái nhà yên tĩnh, có người ngày ngày ngồi ngắm mùa thu lặng trôi) Hai hình ảnh động là người đánh cá vùn vụt chèo thuyền đêm, và chim én bay liệng tưởng như rời rạc, nhưng lại nhằm tô đậm lẽ vô thường của tạo hóa. Phải chăng nhà thơ cũng giống như "ngư nhân" kia, đang cố gắng vật lộn với màn đêm để trở về đoàn tụ? Giá có thể giống như những loài én thành thơi đôi cánh, chẳng quan hoài những chuyện thời thế nay mai. Song tâm hồn luôn đau đáu về dân về nước, luôn mang nặng công danh chưa thành, vợ con li tán.. nhà thơ không cho phép bản thân buông lơi sự đời, không giây phút nào quên đi nỗi đau thân phận của kẻ "sinh thời đã chọn nhầm thế kỷ".

· Bốn câu thơ cuối: Là những chiêm nghiệm về thời thế nỗi băn khoăn bẽ bàng của nhà thơ


"Khuông Hành kháng sớ công danh bạc,

Lưu Hướng truyền kinh tâm sự vi.

Đồng học thiếu niên đa bất tiện,

Ngũ Lăng cừu mã tự khinh phì."


Trông về quá khứ phải chăng Đỗ Phủ cũng đồng bệnh với những "Không Hành, Lưu Hướng" – đều là những kẻ sinh bất phùng thời, muốn đem tài năng cống hiến mà cứ hoài bị vùi dập, lay lắt. Trông sang ngang "Nhiều bạn cùng học thời trẻ nay có hèn đâu/ Đều mặc áo cừu, cỡi ngựa béo ở Ngũ Lăng!" thì quả là cái chua xót bẽ bàng khôn tả, khiến cho người ta phải đau đáu nghĩ suy! Cớ sao thói đời thường bạc bẽo với kẻ có tài, công danh không toại, chỉ đành phung phí một đời người vào chốn thâm sơn cùng cốc.. Bài thơ dừng bút, nhưng lại mở ra những phần trắng, nhường chỗ cho những suy tư, chiêm nghiệm.[/HIDETHANKS]

- Ngôn ngữ thơ

· Súc tích ngắn gọn, bài thơ hay ở "ý tại ngôn ngoại" nói ít mà gợi nhiều, chỉ vỏn vẹn trong 56 chữ nhưng gói trọn được cả những trăn trở một đời người.

· Giàu hình ảnh, giàu chất triết lý suy tư, người ta nói thơ ông là thi sử, nó đặc sắc bởi được hun đúc qua chính số phận và cuộc đời trầm nhiều hơn thăng của ông

· Lời thơ của ông thường trầm uất, nghẹn ngào thấm đẫm cái khao khát được cống hiến rồi lại bẽ bàng chua xót khi bị cuộc đời quay lưng lại.

LỜI KẾT: Tớ biết rằng, để hiểu và "cảm" được một bài thơ Đường luật, chưa bao giờ là điều dễ dàng cả. Nhưng tớ hi vọng những chia sẻ trên sẽ giúp các bạn phần nào trong việc tiếp cận bài thơ này. Xin cảm ơn sự đón đọc của mọi người!
 
Chỉnh sửa cuối:

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back