2 người đang xem
251 ❤︎ Bài viết: 58 Tìm chủ đề
49 0
Truyện ngắn: Người phu chột

Tác giả: Voltaire

Người phân tích, cảm nhận: Thuỷ Tô


*

Voltaire (1694-1778) là nhà văn, triết gia Pháp nổi bật trong thời kỳ Khai sáng. Chính vì tư cách văn nhân- triết gia ấy mà dẫu cho bị lưu đày và giam hãm trong ngục Bastille nhiều lần, ông vẫn không bao giờ chịu khuất phục trước những khuôn mẫu và xiềng xích của xã hội. Dưới nhiều bút danh khác nhau, ngòi bút của ông vẫn luôn thể hiện sự châm biếm, đả kích khéo léo, khảng khái chống lại chế độ nô lệ, các định chế quyền lực- thần quyền và vương quyền, các tư tưởng ảo mộng, phi thực tế, đồng thời đấu tranh cho tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, khuyến khích con người nhìn nhận cuộc sống một cách toàn vẹn, chân thực hơn. Truyện ngắn Người phu chột của được viết năm 1746 nhưng mãi đến năm 1774 mới được in lần đầu do cơ chế kiểm duyệt gắt gao của hoàng gia và giáo hội Pháp thế kỉ 18. Câu chuyện đã thể hiện sự manh nha ý tưởng của Voltaire về việc phê phán cách con người nhìn đời một cách phi thực tế, không toàn vẹn và điều này lại xuất hiện trong tiểu thuyết Candide (1759) của ông về sau.

Truyện kể về Mesrour- một người phu khuân vác bị chột một mắt, sống vô tư và hiền lành. Một ngày, anh tình cờ gặp và phải lòng một vị công nương đài các khi nàng đang dạo chơi một mình bằng xe ngựa. Cùng với vị công nương ấy, anh thấy mình có được chiếc nhẫn thần và bước vào thế giới hoàn mỹ có những cung điện tráng lệ và những vị thần uy nghiêm. Nhưng khi một dòng nước thánh đổ xuống, mọi ảo ảnh tan biến. Dẫu vậy, anh vẫn vui vẻ tiếp tục sống cuộc đời của mình.

Ở đầu truyện, nhà văn nói với chúng ta rằng: "Chỉ có mù mới không thấy Mesrour là một người chột. Hắn sinh ra đã chột..". Nhưng ở đoạn cuối truyện, nhà văn lại kể về sự việc mất một mắt lần nữa: "Hắn đã trút bỏ hết quần áo đẹp và lại mặc áo choàng; cái ống tên bằng vàng đã biến ra cái móc bằng gỗ, và lại khổ hơn nữa là hắn đã để lại một mắt ở dọc đường", như thể căn nguyên của con mắt chột là việc anh phu chàng bất cẩn "đánh rơi" nó. Hai chi tiết đó thoạt tiên có thể làm người đọc cảm thấy mâu thuẫn, phi lý. Nhưng nếu đọc những câu văn cuối như là một nghịch ngữ để mỉa mai, trào lộng thì sự khó hiểu lập tức trở thành tiếng cười. Trong giấc mơ, Mesrour có hai mắt như bao người, thậm chí anh còn mang vẻ đẹp hoàn mỹ, thần thánh: "Đôi mắt to vừa âu yếm vừa nhanh nhẹn, vừa biểu lộ sự khêu gợi khoái lạc". Anh đã sống trong giấc mơ- một thực tế khác, nơi anh có được khoái lạc, hạnh phúc và sự hoàn hảo. Khi anh choàng dậy khỏi giấc mơ, sự toàn vẹn hư ảo đó không còn nữa. Voltaire đã lặp lại sự việc "mất một mắt" như thể một tai họa mới, cho ta thấy rằng con người có thể cảm thấy mất mát, bị tước đoạt hay với hụt một cái gì đó dù cái đó chưa bao giờ tồn tại trong hiện thực. Bất hạnh chỉ nảy sinh khi có sự so sánh. Sự việc "mất một mắt" không phải là một tai họa mới mà là cảm giác về sự mất mát khi so sánh giữa ảo mộng và thực tại. Dường như một sự thật khôi hài và cay đắng đã được phơi bày: Chúng ta luôn đau khổ vì thói quen so sánh hình ảnh lý tưởng, hoàn hảo mà tâm trí mình vẽ nên với thực tại cuộc sống vốn bất toàn, khiếm khuyết. Chính sự mong cầu một hạnh phúc tuyệt đối, một nhân cách hoàn hảo- những điều không có thực, mà ta đánh mất thực tại, ta trở nên bất hạnh. Đó rõ ràng là một cái bẫy, nhưng chúng ta vẫn nhắm mắt bước vào nó.

Nhà văn không nói với chúng ta rằng hãy dẹp bỏ những khao khát và ước mơ, vì đó dường như là động lực sống của mỗi con người. Ta không thể sống tiếp nếu không tin rằng ngày mai điều gì đó tốt đẹp và ý nghĩa sẽ xảy đến với mình, rằng ngày mai một ai đó trong cuộc đời này còn cần đến mình hay sự tồn tại của mình còn một ý nghĩa nào đó. Mơ ước có thể tồn tại ở hình hài nhỏ bé nhất và ngỡ như tầm thường nhất. Mesrour đã mất một con mắt và mất luôn cả khả năng nhìn thấy những điều tiêu cực nên sau giấc mơ, hắn vẫn vui vẻ trở lại làm việc, nhưng hắn vẫn "quyết tâm dùng tiền lương kiếm được để mua phương tiện đi tìm nàng Melinade thân yêu của hắn". Điều mà Voltaire phê phán dường như là việc con người ta ruồng bỏ những giá trị thực trong cuộc sống để đuổi theo hơi men của quyền uy, của cải, sắc đẹp, vinh quang.. Hay nói một cách phổ quát, đó là nỗ lực của con người nhằm xác định cho mình một chỗ đứng vững chãi trong cuộc đời vốn bất định và chênh vênh; nhằm tìm ra một khung hình rõ nét trong cuộc đời vốn mờ ảo và không thể nắm bắt; nhằm chạm đến hạnh phúc hứa hẹn trong một tương lai xa xôi phía trước.. Ta nghĩ rằng mình sẽ tạo ra được ý nghĩa cho bản thân chừng nào ta trở nên thật giàu có, nhưng khi giàu có, ta lại tin rằng mình chỉ có ý nghĩa khi có quyền lực trong tay. Ta nghĩ rằng cuộc sống sẽ ổn định khi vào được đại học, khi có công việc, có gia đình, khi con trưởng thành, khi con có cuộc sống tốt. Ta hy vọng rằng mình sẽ có được hạnh phúc khi có một công việc ổn định, nhưng đến lúc làm việc, ta lại thấy rằng mình chỉ có thể hạnh phúc khi bước đến tuổi già và được thụ hưởng thành quả lao động của mình. Cách nghĩ như thế khiến những tham vọng cứ nối tiếp nhau mãi, cuốn ta vào một vòng lặp bất tận. Sự thật là ta sẽ chẳng bao giờ thoát được trạng thái hoang mang, vô phương hướng hay những trăn trở và bất an trong cuộc đời. Do đó, thay vì chạy trốn hay cố tìm cách khỏa lấp, điều duy nhất ta có thể làm là hiện diện, chan hòa vào con sóng của thực tại, đón nhận, trải nghiệm và rồi từ từ đi qua những buồn vui, vinh nhục.. Đó là lý do Voltaire khen ngợi Mesrour rằng: ".. Hắn cứ thản nhiên tận hưởng cuộc đời hiện tại mà chẳng hề lo lắng đến tương lai; hắn đồng thời vừa là người chột, vừa là phu khuân vác, vừa là nhà hiền triết."

Nhưng trớ trêu là, những mộng tưởng viển vông nhiều khi được củng cố bằng lời nói của người khác hay niềm tin của chính ta, mong ước của chính ta về việc níu giữ lấy những ảo ảnh của hạnh phúc tuyệt đối. Voltaire dường như đã đặt một chiếc bẫy để chính người đọc cũng bị rơi vào giấc mơ của Mesrour. Đó là sự hiện diện của công nương Melinade. Nàng không đơn thuần là một nhân vật trong giấc mơ, có vai trò chức năng nhằm bộc lộ tâm lý nhân vật Mesrour mà chính nàng cũng có nội tâm của mình. Nhà văn đã cho thấy ánh mắt khinh ghét của Melinade với người phu khuân vác thấp kém. Có những đoạn, câu chuyện được kể qua điểm nhìn, tâm trạng của vị công nương này: "Nhưng Melinade xiết đỗi ngạc nhiên khi trời vừa hửng sáng, bà mở mắt ra thấy mình đang ở trong một cảnh thần tiên..". Khi nhìn thấy người phu chột đã trở thành một thanh niên tuấn tú, hoàn mĩ, "Melinade quá đỗi ngạc nhiên, kêu lên: 'Tôi đang ở đâu thế này? Và chàng là ai?'". Qua lời kể của nhà văn, ta có cảm giác như chính Melinade cũng tham gia vào "giấc mơ" này và bởi vì giấc mơ hay câu chuyện càng có nhiều người "tham dự" vào thì càng trở nên "giống thực" hay chính là sự thực, giấc mơ kỳ ảo của Mesrour không chỉ là trải nghiệm của riêng anh mà trở nên "giống thực" lạ kì. Khi anh tỉnh giấc, không còn điện đài, không còn các vị thần và cũng không còn Melinade nữa. Những gì "có vẻ thực" trước đó bỗng lộ rõ bản chất bịa đặt, phi lý, không đáng tin của nó. Melinade không hoàn toàn là một nhân vật hư ảo mà là ước mơ và niềm khao khát của riêng Mesrour trong đời thực được hiện hình. Nhưng lời nói và cảm nhận của Melinade dường như chỉ là một trò đùa trong cách kể, cũng là trò đùa trớ trêu trong giấc mơ của chính Mesrour làm cái thực và cái ảo nhập nhoạng, khiến cho cái ảo mộng có sức tác động và lôi kéo mạnh mẽ hơn. Chính sự chuyển biến đột ngột từ cái mộng rất thực sang cái thực đích thực khiến người đọc ngỡ ngàng và bật cười. Dường như qua cách kể đó, Voltaire thể hiện thái độ châm biếm của mình với những tiểu thuyết phiêu lưu tình ái phổ biến lúc đương thời và sự mơ tưởng của con người về tình yêu lãng mạn, về cuộc sống hoàn hảo trong mơ..

Chi tiết đày tớ gái của một tín đồ Hồi giáo ở Bagdad đổ nước thánh lấy từ đền đạo Hồi qua cửa sổ và làm Mesrour tỉnh giấc, trở về làm người phu chột dường như hàm chứa sự mỉa mai, châm biếm sâu sắc. "Nước rơi xuống một người khốn khổ đang ngủ say ở cái xó mốc đá, gối đầu lên mốc đó. Người ấy ướt hết và sực tỉnh dậy. Kẻ đáng thương này chính là Mesrour ở cõi tiên về, đã đánh mất ở dọc đường cái nhẫn của Salomon." Voltaire cố tình gán lý do làm người phu chột tỉnh mộng là nước thánh. Ông đã hạ bệ cái thiêng liêng bằng cách đảo ngược quyền năng thần thánh của thứ nước ấy: Thay vì đưa con người đến gần Thượng đế, nó lại tước đi ảo tưởng thần thánh của nhân vật, "thức tỉnh" anh, đưa anh trở lại làm con người bình thường. Ở đây, tác dụng của nước thánh chẳng có gì là thần thánh cả, nó hiển nhiên sẽ đánh thức Mesrour, nhưng lại được miêu tả như thể một điều thần diệu làm sụp đổ cả thế giới mộng tưởng lộng lẫy, đẹp đẽ của con người. Đó là một sự giễu nhại kép: Vừa cho thấy sự hư ảo, mong manh của những mộng tưởng, vừa phê phán việc người ta gán cho những nghi lễ tôn giáo những quyền năng phi lý. Sự cứu rỗi của tôn giáo không đến từ hình thức bên ngoài mà phải đến từ sự nhận thức và thấu cảm từ bên trong. Khát vọng hướng thiện, hướng thượng của con người là điều vô cùng chính đáng. Nhưng điều đáng lên án là những gì người ta thuyết giáo lại đối lập với những hành động thực tế trong cuộc đời. Trong Candide, thái độ phê phán tôn giáo của Voltaire được thể hiện rất rõ. Điển hình là khi thầy trò Candide và Cacambo đến thành phố Surinam của người Hà Lan ở Nam Mỹ, họ đã bắt gặp một nô lệ da đen bị mất một tay và một chân do bị chủ trừng phạt khi phát hiện anh có ý định chạy trốn. Người nô lệ đau đớn mà hỏi họ rằng: Tại sao chủ nhật nào anh cũng đi lễ nhà thờ theo lời kêu gọi của các nhà truyền giáo mà "các ngài" không cho anh được sung sướng? Tại sao các ngài luôn nói về lòng bác ái, yêu thương, rằng tất cả con người đều là con của thuỷ tổ Adam, vậy mà các ngài lại đối xử với những người nô lệ thua cả con chó, con vẹt? Tôn giáo chỉ là công cụ để con người leo lên vị trí cao hơn trong những nấc thang xã hội. Tôn giáo trở thành cái cớ để người ta thanh trừng, sát phạt, chém giết nhau. Tôn giáo không lý giải được những khổ đau mà chỉ nguỵ biện cho tội ác và bạo lực, rằng đó chỉ là cái bóng mờ trên bức tranh hoàn mỹ của thế giới mà Chúa đã tạo ra. Trong truyện, chính vị triết gia Pangloss luôn tin vào trật tự hoàn hảo của Chúa cũng suýt chết vì bị người ta treo cổ để "hiến tế cho thần linh" nhằm ngăn cản thảm họa động đất. Qua các tác phẩm của mình, Voltaire đã mạnh mẽ phê phán, đả kích sự cuồng tín và hình thức rỗng tuếch của tôn giáo, kêu gọi con người phải dùng lý trí sáng suốt mà nhìn nhận thực tại cuộc sống, để chọn thái độ sống đúng đắn cho mình. Đó chính là tinh thần chủ chốt của thời đại Khai sáng.

"Sự tích" về con mắt chột được kể lại lần nữa ở đoạn cuối truyện như đang nhại lại mô típ một vị tiên, vị thánh trên trời bị đày đọa xuống làm người phàm và rồi tìm lại thân phận cao quý của mình. Không có phép màu nào xảy đến với người phu chột cả, tất cả những gì anh có là cuộc sống đời thường trong thân phận một người phu chột. Bằng cách phủ định tất cả những gì đã diễn ra chỉ là ảo mộng, dường như Voltaire đã hóa giải một mô típ cổ tích thông thường. Ông cố tình khiến ta tin vào cái kỳ ảo, nhiệm mầu để rồi sau đó phủ định tất thảy bằng hiện thực trần trụi khi nhân vật tỉnh giấc, khiến người đọc bối rối để rồi thức tỉnh: Hạnh phúc không phải là cái hoàn hảo tuyệt đối, là cái xa vời, viển vông mà là sự chấp nhận thực tại với bộ mặt toàn vẹn- có xấu, có tốt của nó. Nhưng đến đây, người đọc lại phải hoài nghi, chất vấn về chính nhân vật anh phu chột. "Hắn đồng thời (như các bạn thấy) vừa là người chột, vừa là anh phu khuân vác, và nhà hiền triết." Dường như đó không phải lời ngợi khen mà hàm chứa trong đó sự mỉa mai, châm biếm. Nếu một người khôn ngoan, theo quan niệm của Voltaire, là người nhìn thấy cả cái tốt và cái xấu, phúc lạc và đọa đày, niềm vui và đau khổ trong cuộc đời thì tại sao một người mắt chột và "chột" đi cả con mắt nhìn thấy khía cạnh xấu của sự vật lại là một nhà "hiền triết"?

Sự phân chia con mắt nhìn thấy cái tốt và con mắt nhìn thấy cái xấu là sự ẩn dụ cho cách nhìn, quan điểm, tư tưởng của con người về cuộc đời. Mở đầu truyện, nhà văn cho rằng đa số chúng ta thường bỏ qua khía cạnh tốt đẹp của sự vật để chằm chặp nhìn vào cái khía cạnh xấu xa, bất toàn của nó. Nhưng với Mesrour, một cách may mắn hay xui rủi, đã mất đi khả năng nhìn thấy những bất hạnh của đời. Cuộc sống của anh là chuỗi ngày vui vẻ, nhẹ tênh, không cũng như có, mất cũng như được, anh đều đón nhận tất cả những gì đến với mình. Nhưng dường như anh không thể phân biệt đâu là mơ, đâu là thực. Tỉnh lại vào buổi sáng, giấc mơ đã tan đi với Mesruour lại như một thực tại mà anh đã thực sự trải qua: "Lúc đó hắn mới chợt nhớ ra rằng tối hôm trước hắn đã uống quá nhiều rượu mạnh làm cho các giác quan bị liệt đi và trí tưởng tượng bốc lên. Cho nên lúc đó hắn đã thích thứ rượu ấy, vì nó hợp với khẩu vị của hắn, nay hắn lại thích nó vì biết ơn nó..". Nhưng anh phu chột vẫn không hề buồn lòng về ảo mộng hạnh phúc đã tan đi, như thể mộng cũng là thực, hạnh phúc cũng là khổ đau, tất cả với anh là một. Nhận thức và tâm thế sống đó có lẽ là vô cùng sáng suốt nếu nó đến từ sự suy ngẫm sâu sắc về bản chất đời sống- hạnh phúc hay khổ đau chỉ là những trải nghiệm khác nhau trong giấc mộng cuộc đời. Nhưng nếu đem cái nhìn tích cực ấy rọi chiếu vào đời sống để rồi đồng nhất mọi tai ương, tội lỗi vào cái tốt đẹp thì nó trở thành một sự lạc quan mù quáng. Điều này lại được thể hiện trong tiểu thuyết Candide của ông, với nhân vật Candide- chàng Ngây thơ đại diện cho "con mắt nhìn cái tốt" và nhà thông thái Martin là "con mắt nhìn cái xấu". Dù có trải qua đủ mọi thảm họa, tai ương, chứng kiến và nghe kể về sự giả dối, tham lam, cuồng tín, tàn bạo của con người trong hành trình lang bạc, Candide vẫn tin vào trật tự hoàn hảo của cuộc đời, rằng tất cả những điều xấu ác xảy ra trên đời và những bất hạnh trong số phận cá nhân chỉ là sự bù trừ, hy sinh tất yếu để dẫn đến hạnh phúc chung lớn nhất. Những lý luận của Candide nhằm biện minh cho trật tự hoàn hảo đó trở nên thật yếu ớt, ngớ ngẩn và tàn nhẫn khi đứng trước những hoàn cảnh tàn khốc, nghiệt ngã không thể phủ nhận xảy ra trong đời. Sự lạc quan và ngây thơ của Candide khiến anh không còn khả năng đưa ra những quyết định đạo đức đúng đắn và phán xử chính mình một cách chính trực, công bằng. Candide giết người một cách hết sức nhanh chóng, đơn giản và bốc đồng, hầu như không có sự suy xét của lý trí mà chỉ để bản năng kiểm soát: Trong hai phút ngắn ngủi, Candide hiền lành đã giết chết một người Do Thái và một tên quan tôn giáo Pháp. Có lẽ anh chỉ nghĩ rằng đó là cách duy nhất cần phải làm để đạt được hạnh phúc lớn hơn là chạy trốn cùng người tình Cunegonde. Candide ngây thơ đến mức không nhận ra sự mâu thuẫn trong hành động giết người của mình với trật tự tốt đẹp của thế giới mà anh luôn tin tưởng mà chỉ lặp lại những gì Pangloss đã dạy cho mình như một sự tự động viên: "Rồi mọi chuyện sẽ tốt đẹp cả". Trong Người phu chột, cách Voltaire miêu tả người phu khuân vác đánh mất chút lý trí cuối cùng để rồi vi phạm sự tế nhị của tình yêu khi bị cám dỗ trước Melinade cũng cho thấy sự lấn át của bản năng với lý trí. Nếu mọi thứ trên đời là toàn thiện, toàn mĩ thì ắt những việc xấu ác ta làm cũng đã là ý Trời! Đó cũng là khát khao vô lý của trùm phát xít Hitler khi muốn "phụng mệnh" Chúa Trời mà viết lại lịch sử nhân loại.

Như vậy, Voltaire đã phê phán cả những người chỉ nhìn vào khía cạnh xấu xa cũng như những người chỉ nhìn thấy cái tốt đẹp của đời. Để nhìn thấy sự thật, ta phải mở cả hai mắt ra mà nhìn. Những niềm tin, triết lý hay bất kì sự xác quyết nào từ chối nhìn vào hiện thực đời sống đều là cuồng tín. Nếu lý thuyết mâu thuẫn với thực tại thì lý thuyết phải sai. Do đó, con người phải tìm cách điều chỉnh lại cách nhìn và thái độ sống của mình cho phù hợp. Quá trình không ngừng thay đổi nhận thức và tự điều chỉnh được gọi là trưởng thành. Nhưng muốn như vậy, con người lại phải thoát khỏi những khuôn mẫu và lý thuyết sẵn có của mình để va chạm với thực tại đời sống, tiếp xúc với cả những cơ may và những điều run rủi, ngặt nghèo của nó. Chế độ vương quyền của Pháp thời Voltaire có lắm những điều giả dối, lừa mị, những khuôn khổ, phép tắc đi trái lại bản chất tự nhiên và quyền lợi của con người. Trong truyện, đôi chân nhỏ và đôi giày đính kim sa của nàng Melinade cũng là một chi tiết thú vị: "Khi người ta kéo dài cuộc đời của mình ở trên cái tràng kỷ giữa một đám công tử bột, có một bộ giò tồi mà lại có hai bàn chân đẹp thì cũng đủ an ủi lắm rồi. Nhưng đôi giày thêu kim tuyến có tác dụng gì ở trên đường lởm chởm những đá và dọc đường chỉ có mỗi anh phu khuân vác trông thấy, mà lại là anh phu khuân vác chỉ có một mắt?". Ta lại thấy một sự giễu cợt ngấm ngầm hiện lên: Đôi chân lành lặn của con người còn để làm gì nữa nếu đôi chân ấy còn không thể bước đi một cách đường hoàng chỉ tại một đôi giày lố bịch? Dường như đôi giày nhỏ của nàng Melinade tượng trưng cho những phép tắc của đời sống quý tộc luôn cố gắng gò ép con người vào những hình mẫu cao sang, lý tưởng; nó là hình thức lố bịch, không cần thiết trong cách mà xã hội vận hành không thể che đậy được cho sự tàn hoại và mục ruỗng của chính xã hội đó khi đứng trước những chuyển biến lớn của lịch sử; nó ẩn dụ cho cái địa vị hão huyền mà người ta sẵn sàng vứt bỏ tự do và nhân cách của mình để có được.. Một Voltaire bị tống giam vào ngục Bastille có khi lại tự do hơn là một nịnh thần trong triều đình vua Louis vì ông không mang vào chân đôi giày mĩ miều ngăn cách mình với thực tại mà đương đầu với những điều gai góc của chính thực tại đó.

Trên đây, tôi đã trình bày một số điều mình đã nhận ra được trong truyện ngắn Người phu chột của Voltaire. Tất cả những phán đoán và lý lẽ được trình bày có thể đúng, có thể sai, nhưng chẳng sao cả, vì điều quan trọng nhất là "chăm tưới khu vườn của mình". Chắc hẳn, như Socrates nói, rằng cuộc đời không suy tư là cuộc đời không đáng sống. Nhưng những suy tư phải đi cùng với hành động, triết lý phải gắn bó với thực tế. Voltaire không nói với chúng ta hãy ngừng suy tưởng mà ông khuyến khích ta dùng lý trí, sự tự do tư tưởng và tinh thần phản biện để thoát khỏi những triết lý mù quáng, phi thực tế để rồi dám nhìn vào cuộc đời bằng đôi mắt sáng rõ, bình thản và trong veo của mình.
 

Những người đang xem chủ đề này

Back