Hình ảnh người lính qua bài thơ đồng chí và bài thơ về tiểu đội xe không kính

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Cam Thuong, 15 Tháng hai 2022.

  1. Cam Thuong My name is Cẩm Thương :)

    Bài viết:
    92
    Hình ảnh người lính qua bài thơ đồng chí và bài thơ về tiểu đội xe không kính.

    Bài làm

    Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người chiến sĩ cầm súng bảo vệ tổ quốc có một vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là hình tượng nghệ thuật tiêu biểu trong nhiều tác phẩm mà còn là biểu tượng đẹp nhất của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Phần lớn các tác giả đều có mặt ở những mũi nhọn của cuộc kháng chiến để kịp thời ghi lại một cách chân thực và sinh động hiện thực chiến đấu của chiến sĩ ta. Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu đánh Pháp và người chiến sĩ giải phóng quân miền Nam thời đánh Mĩ đã được phản ánh khá rõ nét với những vẻ đẹp khác nhau. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua bài thơ Đồng chí

    Của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

    Bài thơ Đồng chí được nhà thơ Chính Hữu sáng tác năm 1948, in trong tập Đầu súng trăng treo. Hình ảnh người nông dân cầm súng được miêu tả trong bài thơ với vẻ đẹp mộc mạc, bình dị nhưng cũng thật lãng mạn, bay bổng. Là những nông dân quanh năm lam lũ với con trâu, mảnh ruộng, nghe theo tiếng gọi cứu nước, các anh đã tình nguyện từ giã quê hương đi chiến đấu. Phần đông chưa biết chữ, vào quân đội mới bắt đầu học i tờ nhưng họ lại rất giàu lòng yêu nước. Họ hiểu đơn giản mà rất đúng đắn rằng: Chiến đấu để bảo vệ tự do cho dân tộc cũng là bảo vệ mảnh vườn, thửa ruộng, mái ấm gia đình. Quyền sống thiết thực của mỗi con người đã thôi thúc họ hành động.

    Tình đồng đội, đồng chí của người lính cách mạng bắt nguồn từ đâu? Câu hỏi ấy được Chính Hữu lý giải trong những câu thơ đầu tiên:

    "Quê hương anh nước mặn đồng chua,

    Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

    Anh với tôi đôi người xa lạ,

    Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau."

    Cuộc đời chiến sĩ gian nan, vất vả, vào sống ra chết đã khẳng định phẩm chất cao đẹp của những người nông dân mặc áo lính. Hình ảnh "nước mặn đồng chua" và "đất cày sỏi đá" được tác giả sử dụng để chỉ những vùng đất khó khăn, khô cằn. Việc sử dụng biện pháp lặp cấu trúc trong hai câu thơ trên để diễn tả sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân. Họ vốn sinh ra và lớn lên từ những vùng quê nghèo khổ, cơ cực, các anh mang bản chất hồn nhiên,

    Chất phác của người lao động. Họ là những người nông dân cần cù, lam lũ, chân lấm tay bùn, vậy nên cách mà họ thổ lộ tâm sự, nói chuyện với nhau đều hết sức dân dã và mộc mạc đúng như cái chất của người nông dân. Từ bốn phương trời, không hẹn mà nên, họ gặp nhau, cùng chung mục đích, lý tưởng chiến đấu, chính những điều đó đã mang họ lại nơi đây, họ trở thành những người bạn, người đồng đội, đồng chí cùng nhau chia sẻ ngọt bùi và gian khổ.

    "Súng bên súng đầu sát bên đầu

    Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ."

    Tri kỷ là những người cùng bên nhau chia ngọt sẻ bùi, là đôi bạn thân thiết cùng bước qua những ngày tháng khốn khó và trong hoàn cảnh chiến đấu này, họ gọi nhau bằng hai tiếng thiêng liêng: Đồng chí.

    Hình ảnh súng bên súng, đầu bên đầu, thể hiện họ có chung một mục tiêu chiến đấu, có chung lý tưởng lẽ sống của đời mình. Họ có một kẻ thù chung của toàn dân tộc. Những người lính thân yêu của chúng ta ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, họ mang trong trái tim mình những hoài bão lớn lao, tình yêu quê hương to lớn. Họ sẵn sàng hiến dâng trái tim và thể xác để bảo vệ mảnh đất, ngọn cỏ dân tộc. Tình yêu quê hương đất nước lớn hơn tất cả khiến họ bỏ lại nơi quê nhà những điều chưa làm xong, những điều còn lo toan trăn trở, nhưng họ quyết tâm ra đi vì lý tưởng bảo vệ nền độc lập của dân tộc, quê hương, đất nước. Hai tiếng "Đồng chí!" kết thúc khổ thơ đầu thật đặc biệt với dấu chấm cảm, tạo một nét nhấn như một điểm tựa, điểm chốt, như đòn gánh, gánh hai đầu là những câu thơ đồ sộ. Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một tiếng gọi trầm, xúc

    Động từ trong tim, lắng đọng trong lòng người về hai tiếng mới mẻ, thiêng liêng ấy.

    "Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,

    Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay

    Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính".

    Với người nông dân, ruộng nương, căn nhà là cả cơ nghiệp, là ước mơ ngàn đời của họ, họ luôn gắn bó, giữ gìn và chắt góp cho những gì mình có. Vậy mà những người lính đã gác lại tất cả để đi ra đánh giặc. Câu thơ "Gian nhà không mặt kệ gió lung lay" hết sức tạo hình và biểu cảm. Để cả cơ nghiệp của mình hoang trống mà ra đi biết người thân ở lại trống trải nhưng cũng mặt kệ thì đó quả là sự hi sinh lớn lao, đó cũng là quyết ra đi mà không dửng dưng vô tình. Như vậy, câu thơ đã cho thấy được ý thức trách nhiệm công dân cao độ của người lính đối với dân tộc khi tổ quốc

    Lâm nguy. Điều đó cho thấy lòng yêu nước mạnh mẽ, sâu sắc của họ. Hình ảnh "giếng nước gốc đa" là một hình ảnh rất giàu sức gợi, đây vừa là nhân hóa, lại vừa là hoán dụ biểu trưng cho quê hương, người thân nơi hậu phương luôn luôn dõi theo và nhớ nhung người lính da diết. Câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực ra là người lính đang nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết, khôn nguôi. Nhưng chính nỗi nhớ quê hương ấy, lại là động lực mạnh mẽ, thôi thúc và tiếp bước cho họ vươn lên mà mạnh mẽ, trưởng thành, vì sự nghiệp chung lớn lao của đất nước, dân tộc.

    Không chỉ có vậy, hình ảnh người lính hiện lên với những vẻ đẹp của đời sống tâm hồn, tình cảm, là sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau, cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn. Trong những tháng ngày chiến đấu nguy nan, họ cùng

    Nhau vượt qua những cơn sốt rét giữa rừng thiêng nước độc, cuộc sống đầy thiếu thốn, trang phục phong phanh giữa mùa đông buốt giá, gian khổ nơi chiến trường:

    "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

    Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

    Áo anh rách vai

    Quần tôi có vài mảnh vá

    Miệng cười buốt giá

    Chân không giày

    Thương nhau tay nắm lấy bàn tay."

    Hình ảnh: "Ớn lạnh, sốt run người, ướt mồ hôi" là những biểu hiện cụ thể để nói về căn bệnh sốt rét rừng rất nguy hiểm khi mà trong chiến tranh không hề có đủ thuốc men để chạy chữa. Vì thế các anh – những người lính anh hùng dũng cảm phải cắn răng chịu đựng, tự lực, tự cường mà vượt qua gian khổ. Căn bệnh sốt rét – nỗi ám

    Ảnh kinh hoàng của người lính trong chiến tranh, đã hành hạ họ, khiến họ tiều tụy xanh xao, màu da vàng vọt, tóc thì rụng hết.. Vì thế lúc này, chỉ có tình yêu thương, sự đùm bọc lẫn nhau của những người lính là liều thuốc bổ tinh thần, giúp họ cùng nhau cộng hưởng, sẻ chia mà vươn lên chiến thắng chính mình. Đây là một hình ảnh xuất phát từ cái nhìn chân thực của người lính nhưng cô đọng và gợi cảm đã diễn tả sâu sắc sự gắn bó đồng cam cộng khổ của các anh, giúp các anh vượt qua mọi thiếu thốn, gian truân cực nhọc của đời lính. Không dùng lại ở đó, người lính còn phải đối diện với cả sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất: "Áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày". Nhưng trong hoàn cảnh ấy, những người lính vệ quốc, họ đã chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động chân thành: "Miệng cười buốt giá", "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay".

    Chính nụ cười đã xóa tan đi cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ đùa vui trong gian khổ thiếu thốn. Cùng động viên nhau qua ánh mắt nụ cười. Dù đó chỉ là nụ cười gượng gạo trong "buốt giá" nhưng vẫn chứa chan tình cảm, cho thấy được sự lạc quan mạnh mẽ của họ trong cuộc sống chiến đấu. Còn hành động "tay nắm lấy bàn tay" là một cử chỉ rất cảm động và cần thiết vào lúc này. Họ đã truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, cùng dắt tay nhau tiến lên phía trước, vì mục tiêu lý tưởng cách mạng lớn lao: Vì hòa bình dân tộc. Và có lẽ, tình yêu thương nhau đã lấp đầy khoảng trống, làm dịu vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Tất cả những cử chỉ ánh mắt, nụ cười, nắm tay ấy đã giúp họ có thêm động lực để vượt qua khó khăn, thử thách. Điều ấy đã làm cho tình đồng chí thêm keo sơn, gắn bó và hóa thành sức mạnh đoàn kết trong suốt cuộc kháng

    Chiến trường kỳ. Nhiệm vụ chủ yếu của người lính là đánh giặc vì vậy tình đồng chí cao đẹp nhất là tình đồng chí gắn bó thiêng liêng nơi tuyến đầu chống giặc, nơi sự sống và cái chết kề nhau trong tích tắc.

    "Đêm nay rừng hoang sương muối

    Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

    Đầu súng trăng treo."

    Ba câu thơ tả một đêm phục kích giặc trong một không gian âm u, hoang vắng và lạnh lẽo: "Rừng hoang sương muối". Không chỉ cái gió, cái rét cứ đeo đuổi họ mà còn bao nguy hiểm đang rình rập người chiến sĩ. Nổi bật trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy là những người lính "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới", cái nơi mà sự sống với cái chết chỉ đến trong gang tấc. Từ "chờ" ở đây cũng đã nói rõ lên cái tư thế hiên ngang, tự tin, sẵn sàng, chủ động đánh

    Giặc của họ. Và khi đó, tầm vóc của những người chiến sĩ ấy càng trở nên lớn lao hơn.

    Câu thơ cuối là một hình ảnh đẹp được nhận ra từ những đêm hành quân phục kích giặc của chính người lính. Đêm khuya, trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần, ở một vị trí nào đấy, vầng trăng như được treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ đang phục kích chờ giặc. Tình cảm đồng chí ấm áp, thiêng liêng đã mang đến cho người lính nét lãng mạn, cảm hứng thi sĩ trong hiện thực đầy khắc nghiệt qua hình ảnh "đầu súng trăng treo". Trong hoàn cảnh hết sức gian khổ, khốc liệt: Đêm đông giá lạnh, rừng hoang sương muối, cái chết cận kề, tâm hồn của người chiến sĩ vẫn tìm thấy chất thơ bay bổng trong vẻ đẹp bất ngờ của vầng trăng.

    Từ "treo" đã tạo nên một mối quan hệ bất ngờ độc đáo, nối hai sự vật ở cách xa nhau – mặt đất và bầu trời, gợi những liên tưởng thú vị, bất ngờ. "Súng" là biểu tượng của chiến đấu, "trăng" là biểu tượng của hòa bình. Súng và trăng là hư và thực, là chiến sĩ và thi sĩ, là một cặp tô đậm vẻ đẹp của những đồng chí đang đứng cạnh bên nhau. Chính tình đồng chí đã làm cho người chiến sĩ cảm thấy cuộc đời vẫn đẹp, vẫn thơ mộng, tạo cho họ sức mạnh chiến đấu và niềm tin chiến thắng. Đây là một sáng tạo đầy bất ngờ, góp phần nâng cao giá trị bài thơ, tạo được những dư vang sâu lắng trong lòng người đọc. Đây cũng là minh chứng cho bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn của Chính Hữu.

    Như vậy, tình đồng chí trong bài thơ là tình cảm cao đẹp và thiêng liêng của những con người gắn bó keo sơn trong

    Cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc. Tình cảm ấy được hình thành trên cơ sở là tình yêu quê hương, đất nước, cùng chung lý tưởng và mục đích chiến đấu. Hoàn cảnh chiến đấu gian khổ và ác liệt đã tôi luyện, thử thách làm cho tình đồng chí, đồng đội của người lính ngày càng bền chặt. Tình cảm thiêng liêng ấy đã giúp cho những người chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn của cuộc đời người lính, làm điểm tựa để tạo nên chiến thắng hào hùng cho dân tộc.

    Nếu "Đồng chí" được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp thì "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" ra đời vào năm 1969 - thời điểm công cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta đang diễn ra vô cùng ác liệt. Trong tác phẩm, vẻ đẹp của người chiến sĩ được tác giả Phạm Tiến Duật tái hiện thông qua sự song hành,

    Sóng đôi giữa hình ảnh những chiếc xe không kính và người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Bằng giọng điệu tự nhiên, tinh nghịch và ngôn ngữ đậm chất đời thường, nhà thơ đã đưa vào diễn đàn văn học Việt Nam hình ảnh những chiếc xe không kính độc đáo, những chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là hình ảnh thực, thực đến mức trần trụi:

    "Không có kính không phải vì xe không có kính

    Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi"

    Cấu trúc câu thơ dưới hình thức hỏi đáp, ba từ "không" đi liền nhau thể hiện cách nói hồn nhiên đầy chất lính, tác giả giải thích nguyên nhân xe mất kính là do bom giật, bom rung, đó chính là sự khốc liệt của chiến tranh, nhưng trải qua mưa bom bão đạn những chiếc xe càng trở nên méo mó biến dạng. Nét đẹp đầu tiên ta bắt gặp ở

    Những người chiến sĩ lái xe là tư thế hiên ngang, dũng cảm, tâm hồn trẻ trung, lãng mạn:

    "Ung dung buồng lái ta ngồi,

    Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng"

    Từ láy "ung dung" được đảo lên câu đầu kết hợp với từ "nhìn" được lặp lại ba lần đã khắc họa một tư thế thật đẹp của người lính, họ vẫn ung dung ngồi trong buồng lái khi mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau một gang tất, cụm từ "nhìn thẳng" được dùng thật hay, nhìn thẳng là nhìn vào con đường trước mắt, nhìn thẳng vào gian khổ nhưng không hề run sợ né tránh.

    Không chỉ đẹp ở tư thế hiên ngang, dũng cảm người lính còn rất đáng yêu bởi tâm hồn trẻ trung lãng mạng:

    "Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

    Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

    Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

    Như sa như ùa vào buồng lái."

    Những câu thơ nhanh, gấp mà nhịp nhàng như bánh xe lăn đều trên đường, bằng việc sử dụng phép điệp ngữ "nhìn thấy" kết hợp động từ "xoa, chạy thẳng, sa, ùa", tác giả đã diễn tả cảm giác mạnh và đột ngột của người chiến sĩ lái xe khi ngồi trong buồng lái, qua ô cửa kính vỡ trong tư thế "nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng", người lính như cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, đặc biệt "con đường chạy thẳng vào tim" là hình ảnh đặc sắc gợi lên tốc độ của chiếc xe đang nhanh trên con đường, nó cũng là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng của con đường cách mạng, con đường chiến đấu giải phóng miền Nam, người lính chỉ quan tâm tới nhiệm vụ không hốt

    Hoảng sợ hãi dường như tất cả thiên nhiên vạn vật đồng hành cùng họ tiến về phía trước.

    Xe không kính biết bao nguy hiểm nhưng người lính vẫn vượt lên hoàn cảnh bằng tinh thần lạc quan, bất chấp mọi gian khổ.

    "Không có kính, ừ thì có bụi,

    Bụi phun tóc trắng như người già

    Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

    Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

    Không có kính, ừ thì ướt áo

    Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời

    Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

    Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi."

    Thiên nhiên còn là sự khóc liệt của bụi gió, mưa nhưng với một thái độ ngang tàng thách thức, bất chấp mọi gian khổ, khó khăn với tinh thần quả cảm, người chiến sĩ lái xe buông những tiếng chắc gọn

    "Không có.. ừ thì" như một lời nói thường, nôm na mà cứng cỏi biến những khó khăn thành điều thú vị với ý nghĩ táo tợn "Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa". Giọng ngang tàng, bất chấp hiện thực đầy gian khổ nhưng các chiến sĩ đã bình thường hóa cái gian khổ ấy, chấp nhận nó như một tất yếu vẫn đùa vui, tếu táo: "Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha". Gian khổ là vậy nhưng qua cách nhìn của những người lính thì vô cùng nhẹ nhàng, bởi lòng dũng cảm đã trở thành cốt lõi, bản chất người lính trong cuộc chiến đấu. Trong gian lao thử thách tình đồng chí, đồng đội của họ càng thêm sâu nặng, thắm thiết.

    "Những chiếc xe từ trong bom rơi

    Ðã về đây họp thành tiểu đội

    Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

    Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

    Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

    Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

    Võng mắc chông chênh đường xe chạy

    Lại đi, lại đi trời xanh thêm."

    Nhịp thơ như lắng lại, những người chiến sĩ nói về đồng đội cũng như đang nói về mình, họ gặp nhau từ chỗ bom rơi, nghĩa là từ chỗ ác liệt của cuộc chiến, cũng từ nơi này họ đồng cảm chia sẻ và trở thành bạn bè, họ chào nhau bằng những cử chỉ hết sức thân mật "Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi", đó là niềm vui, lời động viên và chúc mừng nhau khi vượt qua khó khăn, là niềm tự hào sau mỗi lần chiến thắng.

    Cảnh sinh hoạt của người lính bữa ăn giấc ngủ được khắc họa bằng hai hình ảnh "bếp hoàng cầm, võng mắc" tất cả đều tạm bợ nhưng cách nhìn, cách nghĩ rất cảm động: "Gia đình đấy" họ coi nhau như anh em trong nhà, càng thiếu thốn thì càng

    Xích lại gần nhau, tiếp thêm sức mạnh để đi tiếp chặng đường mới và làm lên chiến thắng. Điệp ngữ "lại đi" có ý nghĩa khẳng định đoàn xe không ngừng tiến về phía trước khẩn chương và kiên cường, hình ảnh ẩn dụ "trời xanh thêm" gợi lên tâm hồn lạc quan "phơi phới tràn đầy niềm tin, hi vọng của người lính lái xe.

    Bốn câu thơ cuối bài đã hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe bởi ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam và lòng yêu nước nồng nhiệt của họ:

    " Không có kính, rồi xe không có đèn,

    Không có mui xe, thùng xe có xước,

    Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

    Chỉ cần trong xe có một trái tim. "

    Đối lập với những thứ không có ở chiếc xe:

    Không kính, không đèn, không mui thì

    Thùng xe ấy có xước cho thấy sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh khóc liệt khiến cho xe bị biến dạng, trần trụi. Bom đạn quân thù có thể làm biến dạng cái xe nhưng không đè bẹp được tinh thần, ý chí chiến đấu của những chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn. Xe vẫn chạy không chỉ vì có động cơ, máy móc mà còn có một động cơ tinh thần" Vì miền Nam phía trước ". Câu thơ cuối cùng như đọng lại một tâm huyết, cũng như một lời giải thích cho tất cả những điều kì lạ đẹp đẽ:

    " Chỉ cần trong xe có một trái tim. "

    Trái tim là hình ảnh hoán dụ, là hình ảnh yêu nước nồng nàn, trái tim của ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thân yêu, trái tim dũng cảm, trái tim ấy có sức mạnh vô biên, mạnh hơn mọi lỗi nguy lan, mạnh hơn mọi thứ bom đạn, mạnh hơn cả cái chết, sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là

    Công cụ vũ khí mà chính là con người mang trái tim nồng nàn yêu nước, kiên cường dũng cảm, có thể nói bài thơ hay nhất ở câu thơ cuối, nó như con mắt của bài thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng người lính.

    Bằng thể thơ tự do ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, giọng điệu pha chút ngang tàng, tinh nghịch, hình ảnh thơ chân thực, độc đáo. Và thể thơ tự do, kết hợp linh hoạt giữa thể thơ bảy chữ với thể thơ tám chữ, có chỗ sáu chữ hay mười chữ tạo cho bài thơ gần như là lời nói đời thường, văn xuôi hết sức tự nhiên sinh động.

    " Bài thơ về tiểu đội xe không kính "của Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công bức chân dung độc đáo về người chiến sĩ lái xe Trường Sơn với những nét đẹp về tâm hồn tình cảm, tinh thần của họ chính

    Là tiêu biểu cho vẻ đẹp của những người lính anh bộ đội cụ Hồ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng.

    Như vậy, qua hai tác phẩm, chúng ta có thể thấy được vẻ đẹp chung của những người lính về lí tưởng chiến đấu, ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc cùng tinh thần dũng cảm, yêu nước mãnh liệt, đồng thời, họ đều sử dụng sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội để vượt qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt. Tuy nhiên, trong mỗi một thi phẩm, vẻ đẹp người lính lại được khám phá ở một phương diện riêng.

    Ở bài thơ" Đồng chí ", tác giả Chính Hữu khắc họa vẻ đẹp của người nông dân mặc áo lính thông qua sự mộc mạc, chân chất và sự quyện hòa giữa chất hiện thực - lãng

    Mạn; còn trong tác phẩm" Bài thơ về tiểu đội xe không kính ", Phạm Tiến Duật đem đến bức chân dung người chiến sĩ lái xe trẻ trung, sôi nổi, ngang tàn qua cái nhìn đậm chất hiện thực về cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mĩ của dân tộc.

    Dù có những điểm giống và khác nhau rõ rệt nhưng điều đó càng khiến những người lính cụ Hồ hiện lên qua nhiều màu vẽ, sinh động và gần gũi. Điều đó trước hết giúp người đọc càng hiểu rõ hơn về những người lính. Hình ảnh của họ hiện lên thật đẹp đẽ, họ chính là biểu tượng, là niềm tin, khát vọng của nhân dân gửi gắm nơi họ. Ở các anh, người đọc nhận thấy một ánh sáng lí tưởng cao đẹp và thiêng liêng vô cùng. Không chỉ vậy, những nét khác biệt còn thể hiện từng phong cách riêng của mỗi tác giả trong phương thức thể hiện.

    Điều đó làm giàu, làm đẹp thêm cho vườn hoa nghệ thuật nước nhà.

    Bằng việc sử dụng thành ngữ, cấu trúc, hình ảnh sóng đôi giàu tính biểu tượng, hình ảnh hoán dụ mang tính nhân hóa, bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn," Đồng chí"đã làm hiện và nổi bật lên tình đồng chí cao đẹp vừa giản dị lại vừa thiêng liêng, thơ mộng của những người lính cụ

    Hồ. Qua đây cũng thể hiện sự xuất sắc của Chính Hữu khi viết về đề tài người lính và chiến tranh.

    Tác giả: DNNY
     
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...