- Xu
- 771,125,355
Bài viết: 4144 



Người hàng xóm phía bắc của Việt Nam-Trung Quốc, đã từng là người ủng hộ Việt Nam trong cuộc đấu tranh với thực dân Pháp, mà kết quả là Việt Nam đã giành lại độc lập. Trung Quốc cũng là bên đã giúp đỡ rất lớn về quân sự và kinh tế cho Việt Nam trong thời gian chiến đấu chống quân xâm lược Mỹ.
Tuy nhiên sau chiến thắng 1975, chính sách của Trung Quốc với CHXHCN Việt Nam bắt đầu thay đổi. Trung Quốc không muốn xuất hiện kề biên giới quốc gia của mình một quốc gia có xu hướng thân Xô viết. Quan hệ Trung-Xô đã trở nên lạnh nhạt sau cuộc xung đột biên giới năm 1969 ở đảo Daman và khu vực Semiplatinsk. Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa thời kỳ đó có quân số nhiều triệu người, nhưng về mặt kỹ thuật thua kém quân đội Xô viết, kinh nghiệm chiến đấu tích lũy thua kém quân đội nhân dân nước CHXHCN Việt Nam. Vì vậy, Trung Quốc chờ đợi một thời cơ thích hợp để "trừng phạt" người láng giềng phía nam. Và lý do thì họ đã tìm ra.
Năm 1975 tại Campuchia (trước 1970 - Cambôt), đã thiết lập chế độ "Khmer Đỏ" do PonPot đứng đầu. Bắt đầu các cuộc thử nghiệm quái gở của chế độ "Khmer Đỏ" trên ngay chính dân tộc mình (1, 7 triệu người bị chết trong tổng số dân số 7 triệu).
Dư luận thế giới đều lên án PonPot. Trung Quốc-đất nước duy nhất trên thế giới ủng hộ "Khmer Đỏ". Câu hỏi tự nhiên đặt ra - Tại sao? Đó là vì Trung Quốc đã thực hiện trò chơi của mình trong khu vực này, do đó họ ủng hộ chính quyền mới ở Campuchia và ra sức trợ giúp quân sự cho chính quyền đó. Bất chấp các cuộc thử nghiệm về tổ chức xã hội bên trong quốc gia, chính quyền "Khmer Đỏ" vẫn tạo ra các cuộc khiêu khích biên giới với Việt Nam. Các cuộc khiêu khích thường xuyên đã phát triển thành xung đột biên giới có sử dụng đến vũ khí nặng.
Để bảo vệ mình trong tương lai, Việt Nam đã ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô vào tháng 11 năm 1978, nó cho phép khẳng định sự sẵn sàng ủng hộ và trợ giúp của Moskva cho Hà Nội trong thời gian lâu dài.
Tháng 12 năm 1978, Việt Nam đưa quân đội vào Kampuchia và thay cho "Khmer Đỏ" là một chính quyền thân thiện với Việt Nam, đó là điều làm cho Trung Quốc vô cùng tức tối.
Ngày 15 tháng 2, Đặng Tiểu Bình, để đáp trả cuộc xâm nhập của Việt Nam vào Campuchia đã tuyên bố ý định "trừng phạt" Việt Nam. Cảnh báo cho điều này là tín hiệu Bắc Kinh phát đến Moskva về việc chính thức rút khỏi Hiệp ước 30 năm Hữu nghị và tương trợ lẫn nhau giữa Liên Xô và CHND Trung Hoa ký ngày 14 tháng 2 năm 1950 và ý định không muốn tiếp tục nó nữa. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân đội Trung Quốc vượt biên giới Trung-Việt. Trên toàn tuyến biên giới 1460 km, quân đội Trung Quốc bất ngờ tấn công. Quân số của QGPND Trung Quốc tham gia tấn công Việt Nam là 250 ngàn. Quân số của quân đội Việt Nam có thể huy động chống lại cuộc xâm lược là 100 ngàn người. Tất cả các đơn vị có khả năng chiến đấu của Việt Nam lúc đó đang ở Campuchia.
Ngày 19 tháng 2 năm 1979 báo "Sự thật" đăng "Tuyên bố của chính phủ Xô Viết" trong đó viết rằng: "Nhân dân Việt Nam anh hùng đang trở thành nạn nhân của một cuộc xâm lược mới, có khả năng tự bảo vệ mình, và lần này, bên cạnh họ là những người bạn tin cậy. Liên bang Xô Viết sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình, đã được quy định theo Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác giữa Liên Bang CHXHCN Xô Viết và CHXHCN Việt Nam.
Những người hoạch định chính sách ở Bắc Kinh cần phải dừng lại trong khi chưa muộn. Liên bang Xô Viết kiên quyết yêu cầu chấm dứt cuộc xâm lược và rút ngay lập tức quân đội Trung Quốc ra khỏi lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam." (báo "Sự thật" ngày 19 tháng 2 năm 1979)
* * *
Liên Xô theo Hiệp định 1978 đã gửi đến Hà Nội nhóm cố vấn quân sự đứng đầu là Cố vấn trưởng cho Bộ quốc phòng CHXHCN Việt Nam, đại tướng G. I. Obaturov. Trong ngày thứ hai cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam, toàn bộ các thành viên đoàn cố vấn quân sự đã đến Hà Nội và bắt tay vào việc.
G. I. Obaturov có ảnh hưởng lớn đến Ban lãnh đạo QĐND Việt Nam, ông đã thuyết phục các nhà lãnh đạo chính trị Việt Nam ngay lập tức rút các quân đoàn chủ lực từ Campuchia về biên giới với Trung Quốc và đi tới những hành động quyết định. Đã bố trí trên hướng này tiểu đoàn pháo phản lực bắn loạt BM-21 "Grad" được phiên chế trên cơ sở khí tài chuyển giao đến từ Liên Xô. Hàng hóa chiến lược và trang thiết bị quân sự được vận chuyển liên tục không ngừng từ Liên Xô tới và được điều chỉnh linh hoạt.
Góp phần vào chiến thắng còn có cả một số chuyên gia Xô Viết. Các phi công phi đoàn vận tải "An-24" đã vận chuyển cả một quân đoàn từ Campuchia về, các nhân viên thông tin của trạm thông tin liên lạc đoàn cố vấn quân sự (gần 120 người ở đây từ tháng 8 năm 1978, và 68 người được điều đến sau khi chiến tranh bắt đầu) đã đảm bảo liên lạc thông suốt cho các cố vấn của chúng ta, trong đó cho cả nhóm cố vấn có mặt tại khu chiến. Vào tháng 3, đoàn cố vấn quân sự đã gặp tổn thất đầu tiên: Trong khi hạ cánh xuống sân bay Đà Nẵng, một chiếc An-24 của Việt Nam gặp nạn, 6 phi công-huấn luyện viên đứng đầu là thiếu tướng không quân Malykh hy sinh.
Liên Xô quyết định hành động để chấm dứt chiến tranh bằng cách lôi kéo Liên hợp quốc. Đại diện Liên Xô tại LHQ đã đặt vấn đề lên án Trung Quốc như một kẻ xâm lược, nhưng do chính sách của các nước phương Tây, hành động của người Trung Quốc đã không bị lên án ở diễn đàn LHQ. Quân đội Trung Quốc tiếp tục tấn công về hướng Hà Nội.
Ngày 2 tháng 3 đã ra lần thứ 2 "Tuyên bố của chính phủ Liên Xô", trong đó nói rằng: "Cuộc xâm lược của Trung Quốc chống Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn tiếp tục mở rộng.. Liên bang Xô Viết thấy cần tuyên bố hết sức rõ ràng rằng: Hành động của Trung Quốc khiến tất cả những ai hiện nay đang mong muốn bảo vệ nhân dân các dân tộc, giữ gìn hòa bình thế giới không thể thờ ơ. Quân đội Trung Quốc ngay lập tức phải rút khỏi lãnh thổ Việt Nam.."
Lãnh đạo Trung Quốc đồng thời được thông báo một cách đồng nghĩa rằng: Nếu quân đội của họ không lập tức rút khỏi Việt Nam, họ sẽ phải chiến đấu trên 2 mặt trận cùng một lúc. Tuyên bố của chính phủ Liên Xô được củng cố bởi những hành động thực tế. Bộ đội tên lửa Xô Viết, các sư đoàn đóng dọc biên giới Xô-Trung được chuyển ngay sang cấp báo động 1. Các cụm quân, gồm khoảng 250 ngàn người với sự yểm hộ của không quân bắt đầu triển khai dọc tuyến biên giới.
Người ta có ý định tuyên bố một cách nghiêm túc và sự thật là như vậy: Trên đất Mông Cổ, đã hình thành cụm quân Xô Viết gồm 6 sư đoàn bộ binh cơ giới sẵn sàng vượt biên giới Trung Quốc; trong tháng 2-3 năm 1979, trung đoàn lính thủy đánh bộ 390 thuộc biên chế sư đoàn lính thủy đánh bộ số 55 của hạm đội Thái Bình Dương đã được chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu vì lý do cuộc chiến xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam. Đã tiến hành các bài tập chiến thuật của sư đoàn trên biên giới với CHND Trung Hoa bằng đổ bộ đường biển và một số bài tập chiến thuật tiểu đoàn có xạ kích.
Quân đội Việt Nam, được tăng cường bởi quân đoàn chủ lực không vận về từ Campuchia, đã có khả năng ngăn chặn cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc và gây cho họ thiệt hại đáng kể. Sự can thiệp ngoại giao của Liên Xô đã buộc Trung Quốc từ bỏ ý định tiếp tục xâm lược chống CHXHCN Việt Nam. Đến cuối tháng 3 năm 1979, Trung Quốc đã rút quân đội của họ ra khỏi toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
Trong những năm sau đó, ngoài sự giúp đỡ tái trang bị và tái cơ cấu Quân đội nhân dân Việt Nam, đoàn cố vấn quân sự Xô Viết còn đảm đương nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang cho Lào và Campuchia. Các cố vấn quân sự bên cạnh Bộ quốc phòng Lào và Campuchia thuộc quyền Cố vấn trưởng quân sự cho Bộ quốc phòng CHXHCN Việt Nam, đại tướng G. I. Obaturov.
Ngày nay, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn còn một loạt vấn đề căng thẳng.
Thứ nhất, Việt Nam không quên sự tức giận của mình với Trung Quốc, năm 1974 đã xâm chiếm quần đảo còn tranh cãi Hoàng Sa.
Thứ hai, cuộc tranh cãi Trung-Việt đã từ lâu về khu vực thềm lục địa nhiều dầu lửa quanh các đảo của quần đảo Trường Sa, cho đến nay vẫn đe dọa biến thành xung đột quân sự. Sau cuộc xung đột căng thẳng vì chủ quyền các đảo của quần đảo Trường Sa năm 1988, sự căng thẳng của vấn đề này sẽ chưa hết trong nhiều năm tới.
* * *
Tuy nhiên sau chiến thắng 1975, chính sách của Trung Quốc với CHXHCN Việt Nam bắt đầu thay đổi. Trung Quốc không muốn xuất hiện kề biên giới quốc gia của mình một quốc gia có xu hướng thân Xô viết. Quan hệ Trung-Xô đã trở nên lạnh nhạt sau cuộc xung đột biên giới năm 1969 ở đảo Daman và khu vực Semiplatinsk. Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa thời kỳ đó có quân số nhiều triệu người, nhưng về mặt kỹ thuật thua kém quân đội Xô viết, kinh nghiệm chiến đấu tích lũy thua kém quân đội nhân dân nước CHXHCN Việt Nam. Vì vậy, Trung Quốc chờ đợi một thời cơ thích hợp để "trừng phạt" người láng giềng phía nam. Và lý do thì họ đã tìm ra.
Năm 1975 tại Campuchia (trước 1970 - Cambôt), đã thiết lập chế độ "Khmer Đỏ" do PonPot đứng đầu. Bắt đầu các cuộc thử nghiệm quái gở của chế độ "Khmer Đỏ" trên ngay chính dân tộc mình (1, 7 triệu người bị chết trong tổng số dân số 7 triệu).
Dư luận thế giới đều lên án PonPot. Trung Quốc-đất nước duy nhất trên thế giới ủng hộ "Khmer Đỏ". Câu hỏi tự nhiên đặt ra - Tại sao? Đó là vì Trung Quốc đã thực hiện trò chơi của mình trong khu vực này, do đó họ ủng hộ chính quyền mới ở Campuchia và ra sức trợ giúp quân sự cho chính quyền đó. Bất chấp các cuộc thử nghiệm về tổ chức xã hội bên trong quốc gia, chính quyền "Khmer Đỏ" vẫn tạo ra các cuộc khiêu khích biên giới với Việt Nam. Các cuộc khiêu khích thường xuyên đã phát triển thành xung đột biên giới có sử dụng đến vũ khí nặng.
Để bảo vệ mình trong tương lai, Việt Nam đã ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô vào tháng 11 năm 1978, nó cho phép khẳng định sự sẵn sàng ủng hộ và trợ giúp của Moskva cho Hà Nội trong thời gian lâu dài.
Tháng 12 năm 1978, Việt Nam đưa quân đội vào Kampuchia và thay cho "Khmer Đỏ" là một chính quyền thân thiện với Việt Nam, đó là điều làm cho Trung Quốc vô cùng tức tối.
Ngày 15 tháng 2, Đặng Tiểu Bình, để đáp trả cuộc xâm nhập của Việt Nam vào Campuchia đã tuyên bố ý định "trừng phạt" Việt Nam. Cảnh báo cho điều này là tín hiệu Bắc Kinh phát đến Moskva về việc chính thức rút khỏi Hiệp ước 30 năm Hữu nghị và tương trợ lẫn nhau giữa Liên Xô và CHND Trung Hoa ký ngày 14 tháng 2 năm 1950 và ý định không muốn tiếp tục nó nữa. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân đội Trung Quốc vượt biên giới Trung-Việt. Trên toàn tuyến biên giới 1460 km, quân đội Trung Quốc bất ngờ tấn công. Quân số của QGPND Trung Quốc tham gia tấn công Việt Nam là 250 ngàn. Quân số của quân đội Việt Nam có thể huy động chống lại cuộc xâm lược là 100 ngàn người. Tất cả các đơn vị có khả năng chiến đấu của Việt Nam lúc đó đang ở Campuchia.
Ngày 19 tháng 2 năm 1979 báo "Sự thật" đăng "Tuyên bố của chính phủ Xô Viết" trong đó viết rằng: "Nhân dân Việt Nam anh hùng đang trở thành nạn nhân của một cuộc xâm lược mới, có khả năng tự bảo vệ mình, và lần này, bên cạnh họ là những người bạn tin cậy. Liên bang Xô Viết sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình, đã được quy định theo Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác giữa Liên Bang CHXHCN Xô Viết và CHXHCN Việt Nam.
Những người hoạch định chính sách ở Bắc Kinh cần phải dừng lại trong khi chưa muộn. Liên bang Xô Viết kiên quyết yêu cầu chấm dứt cuộc xâm lược và rút ngay lập tức quân đội Trung Quốc ra khỏi lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam." (báo "Sự thật" ngày 19 tháng 2 năm 1979)
* * *
Liên Xô theo Hiệp định 1978 đã gửi đến Hà Nội nhóm cố vấn quân sự đứng đầu là Cố vấn trưởng cho Bộ quốc phòng CHXHCN Việt Nam, đại tướng G. I. Obaturov. Trong ngày thứ hai cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam, toàn bộ các thành viên đoàn cố vấn quân sự đã đến Hà Nội và bắt tay vào việc.
G. I. Obaturov có ảnh hưởng lớn đến Ban lãnh đạo QĐND Việt Nam, ông đã thuyết phục các nhà lãnh đạo chính trị Việt Nam ngay lập tức rút các quân đoàn chủ lực từ Campuchia về biên giới với Trung Quốc và đi tới những hành động quyết định. Đã bố trí trên hướng này tiểu đoàn pháo phản lực bắn loạt BM-21 "Grad" được phiên chế trên cơ sở khí tài chuyển giao đến từ Liên Xô. Hàng hóa chiến lược và trang thiết bị quân sự được vận chuyển liên tục không ngừng từ Liên Xô tới và được điều chỉnh linh hoạt.
Góp phần vào chiến thắng còn có cả một số chuyên gia Xô Viết. Các phi công phi đoàn vận tải "An-24" đã vận chuyển cả một quân đoàn từ Campuchia về, các nhân viên thông tin của trạm thông tin liên lạc đoàn cố vấn quân sự (gần 120 người ở đây từ tháng 8 năm 1978, và 68 người được điều đến sau khi chiến tranh bắt đầu) đã đảm bảo liên lạc thông suốt cho các cố vấn của chúng ta, trong đó cho cả nhóm cố vấn có mặt tại khu chiến. Vào tháng 3, đoàn cố vấn quân sự đã gặp tổn thất đầu tiên: Trong khi hạ cánh xuống sân bay Đà Nẵng, một chiếc An-24 của Việt Nam gặp nạn, 6 phi công-huấn luyện viên đứng đầu là thiếu tướng không quân Malykh hy sinh.
Liên Xô quyết định hành động để chấm dứt chiến tranh bằng cách lôi kéo Liên hợp quốc. Đại diện Liên Xô tại LHQ đã đặt vấn đề lên án Trung Quốc như một kẻ xâm lược, nhưng do chính sách của các nước phương Tây, hành động của người Trung Quốc đã không bị lên án ở diễn đàn LHQ. Quân đội Trung Quốc tiếp tục tấn công về hướng Hà Nội.
Ngày 2 tháng 3 đã ra lần thứ 2 "Tuyên bố của chính phủ Liên Xô", trong đó nói rằng: "Cuộc xâm lược của Trung Quốc chống Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn tiếp tục mở rộng.. Liên bang Xô Viết thấy cần tuyên bố hết sức rõ ràng rằng: Hành động của Trung Quốc khiến tất cả những ai hiện nay đang mong muốn bảo vệ nhân dân các dân tộc, giữ gìn hòa bình thế giới không thể thờ ơ. Quân đội Trung Quốc ngay lập tức phải rút khỏi lãnh thổ Việt Nam.."
Lãnh đạo Trung Quốc đồng thời được thông báo một cách đồng nghĩa rằng: Nếu quân đội của họ không lập tức rút khỏi Việt Nam, họ sẽ phải chiến đấu trên 2 mặt trận cùng một lúc. Tuyên bố của chính phủ Liên Xô được củng cố bởi những hành động thực tế. Bộ đội tên lửa Xô Viết, các sư đoàn đóng dọc biên giới Xô-Trung được chuyển ngay sang cấp báo động 1. Các cụm quân, gồm khoảng 250 ngàn người với sự yểm hộ của không quân bắt đầu triển khai dọc tuyến biên giới.
Người ta có ý định tuyên bố một cách nghiêm túc và sự thật là như vậy: Trên đất Mông Cổ, đã hình thành cụm quân Xô Viết gồm 6 sư đoàn bộ binh cơ giới sẵn sàng vượt biên giới Trung Quốc; trong tháng 2-3 năm 1979, trung đoàn lính thủy đánh bộ 390 thuộc biên chế sư đoàn lính thủy đánh bộ số 55 của hạm đội Thái Bình Dương đã được chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu vì lý do cuộc chiến xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam. Đã tiến hành các bài tập chiến thuật của sư đoàn trên biên giới với CHND Trung Hoa bằng đổ bộ đường biển và một số bài tập chiến thuật tiểu đoàn có xạ kích.
Quân đội Việt Nam, được tăng cường bởi quân đoàn chủ lực không vận về từ Campuchia, đã có khả năng ngăn chặn cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc và gây cho họ thiệt hại đáng kể. Sự can thiệp ngoại giao của Liên Xô đã buộc Trung Quốc từ bỏ ý định tiếp tục xâm lược chống CHXHCN Việt Nam. Đến cuối tháng 3 năm 1979, Trung Quốc đã rút quân đội của họ ra khỏi toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
Trong những năm sau đó, ngoài sự giúp đỡ tái trang bị và tái cơ cấu Quân đội nhân dân Việt Nam, đoàn cố vấn quân sự Xô Viết còn đảm đương nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang cho Lào và Campuchia. Các cố vấn quân sự bên cạnh Bộ quốc phòng Lào và Campuchia thuộc quyền Cố vấn trưởng quân sự cho Bộ quốc phòng CHXHCN Việt Nam, đại tướng G. I. Obaturov.
Ngày nay, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn còn một loạt vấn đề căng thẳng.
Thứ nhất, Việt Nam không quên sự tức giận của mình với Trung Quốc, năm 1974 đã xâm chiếm quần đảo còn tranh cãi Hoàng Sa.
Thứ hai, cuộc tranh cãi Trung-Việt đã từ lâu về khu vực thềm lục địa nhiều dầu lửa quanh các đảo của quần đảo Trường Sa, cho đến nay vẫn đe dọa biến thành xung đột quân sự. Sau cuộc xung đột căng thẳng vì chủ quyền các đảo của quần đảo Trường Sa năm 1988, sự căng thẳng của vấn đề này sẽ chưa hết trong nhiều năm tới.
* * *
Last edited by a moderator: