Hồi 49: Sống chết chẳng qua là giấc mộng, sá gì phú quý với vinh hoa Bấm để xem Trong hoàng cung nước Đại Lý, Đoàn Chính Minh đang truyền ngôi vua cho Đoàn Dự, dặn bảo mọi điều. Cùng lúc này nhưng cách đó về phía bắc mấy ngàn dặm, ở điện Sùng Khánh trong hoàng cung thành Biện Lương nhà Đại Tống, thái hoàng thái hậu là Cao Thị đang nằm trên giường bệnh dặn dò hoàng tôn là Triệu Hú (tức Tông Triết Tôn) : "Hài nhi! Tổ tiên biết bao khó nhọc mới dựng nên cơ đồ, đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được thiên hạ thái bình như ngày nay. Trước kia gia gia ngươi nắm quyền đã làm xáo động bách tính, gây nên đại biến. Hiện nay trăm họ đã được yên vui, nhưng nhớ tới những ngày khủng khiếp đã qua vẫn còn kinh tâm động phách. Ngươi có biết tại sao không?" Triệu Hú đáp: "Hài nhi thường nghe tổ mẫu nói là vì gia gia hài nhi tin theo lời Vương An Thạch, thay đổi pháp độ cũ của nhà nước, khiến cho muôn dân cực khổ." Nét mặt khô đét của Thái hoàng thái hậu khẽ động, thở dài rồi nói: "Vương An Thạch đã có học vấn lại có tài năng, nhất định không phải là người vô dụng. Chỉ vì gia gia ngươi nóng lòng về việc trị nước, dụng tâm của y cũng là vì nước vì dân, có điều.. Hỡi ơi! Tính tình y nóng nảy, muốn thành công mau lẹ nên thành ra hỏng việc. Dục tốc bất đạt là thế đó." Bà nói tới đây lại ho rũ rượi, ngừng lại một lúc rồi nói tiếp: "Còn một điều nữa là y không chịu nghe lời trung ngôn nghịch nhĩ. Ai khen y là Thánh Thiên Tử thì không sao, còn kẻ nào thấy y làm việc gì bất lợi mà mở miệng khuyên can mấy câu, là y lập tức nổi nóng, kẻ thì bãi quan, kẻ thì thuyên chuyển đi xa. Như thế thì còn ai dám đem lời ngay thẳng mà can gián nữa?" Triệu Hú đáp: "Tổ mẫu! Tiếc là chí lớn của gia gia chưa được toại nguyện. Những chính sách của người đều bị bọn tiểu nhân làm cho hỏng việc." Thái hoàng thái hậu nghe nói cả kinh, run giọng hỏi: "Chính sách là chính sách nào? Tiểu nhân là ai?" Triệu Hú đáp: "Gia gia đã lập ra những phép Thanh Miêu, Bảo Mã, Bảo Giáp, chẳng phải là chính sách làm cho quốc phù, binh cường ư? Chỉ hận là bọn hủ nho như Tư Mã Quang, Lã Công Trứ, Tô Thức làm hỏng mất đại sự." Thái hoàng thái hậu đổi sắc mặt, gượng ngồi dậy, nhưng sức bà đã yếu quá rồi nên khó khăn lắm mới nhấc mình lên được một hai tấc, lại còn ho hắng không ngớt. Triệu Hú đáp: "Tổ mẫu đừng tức giận làm chi, cần giữ mình cho khỏe là hơn." Giọng nói của y đầy vẻ châm chọc. Thái hoàng thái hậu ho xong một trận, cố bình tâm lại rồi nói: "Hài nhi! Ngươi làm hoàng đế đã chín năm, nhưng chín năm nay.. chín năm nay hoàng đế thật sự là tổ mẫu ngươi, việc gì cũng do tổ mẫu quyết định. Ngươi.. ngươi tức tối, oán hận tổ mẫu lắm phải không?" Triệu Hú đáp: "Tổ mẫu làm hoàng đế thay cho hài nhi, tức là thương hài nhi, sợ hài nhi cực khổ. Việc dùng người là do tổ mẫu quyết định, thánh chỉ cũng do tổ mẫu ban bố. Hài nhi được hưởng phúc thanh nhàn, sao lại dám oán hận tổ mẫu?" Thái hoàng thái hậu lại thở dài rồi nói: "Người giống tính gia gia như đúc, lại tự cho là thông minh hơn người, muốn làm nên đại nghiệp. Trong lòng ngươi vẫn oán hận ta, lẽ nào ta không biết?" Triệu Hú mỉm cười nói: "Dĩ nhiên là tổ mẫu đã biết rồi. Quân ngự lâm trong cung do người thân tín của tổ mẫu chỉ huy, bọn thái giám cũng là người tâm phúc của tổ mẫu, văn võ đại thần trong triều đều vâng mệnh tổ mẫu. Hài nhi chỉ có việc vâng lời dạy bảo của tổ mẫu, ngoài ra không còn việc gì phải làm nữa." Thái hoàng thái hậu nhìn lên đỉnh màn nói: "Chắc ngày ngày đều như hôm nay, ngươi chỉ mong cho bệnh ta nặng thêm rồi chết, cho ngươi.. ngươi được rảnh tay hành động." Triệu Hú nói: "Cái gì của hài nhi cũng là của tổ mẫu ban cho. Ngày mà gia gia hài nhi băng hà, nếu không được tổ mẫu chủ trương, thì các vị đại thần trong triều chẳng lập Ung vương thì cũng lập Tào vương lên ngôi, đâu đến lượt hài nhi? Ơn đức của tổ mẫu, hài nhi chẳng khi nào quên được. Nhưng.. nhưng.." Thái hoàng thái hậu hỏi: "Nhưng cái gì? Sao ngươi không nói huỵch toẹt ra, mà cứ úp mở như vậy?" Triệu Hú nói: "Hài nhi nghe người ta nói, sở dĩ tổ mẫu lập hài nhi là vì hài nhi còn nhỏ tuổi. Như thế thì tổ mẫu mới thao túng được việc triều chính." Triệu Hú thu hết can đảm để nói câu này, trái tim non trẻ đập loạn lên. Y liếc mắt nhìn ra cửa điện, thấy bọn thái giám đều là tâm phúc của mình, tên nào cũng tay cầm khí giới phòng vệ rất nghiêm mật, mới tạm yên lòng. Thái hoàng thái hậu gật gật đầu, đáp: "Ngươi nói không sai, quả là ta muốn chính mình xử lý mọi việc trong nước. Chín năm nay ta đã trị quốc ra sao?" Triệu Hú lấy trong bọc ra một cuộn giấy, đáp: "Tổ mẫu! Trong chín năm nay đã có không biết bao nhiêu những bậc văn nhân trong triều ngoài nội ca tụng công đức, tổ mẫu chắc đã nghe đến phát ngán. Hôm nay có người mang đến một bản tấu chương của tể tướng nước Liêu trình lên Liêu đế, trong đó có đề cập đến chính sách trị quốc của tổ mẫu. Đây là luận điệu của đại thần địch quốc, tổ mẫu có muốn nghe chăng?" Thái hoàng thái hậu than thở: "Thiên hạ ca tụng ta cũng được, phỉ báng ta cũng được, lão.. lão thân chỉ sống đến đêm nay là hết.. Chẳng hiểu ta có còn được thấy mặt trời mọc sáng mai không? Tể tướng nước Liêu nói về ta như thế nào?" Triệu Hú mở cuốn trục ra, rồi nói: "Tên tể tướng đó nói về thái hoàng thái hậu như sau: Buông rèm nhiếp chính, chiêu nạp danh thần, bài trừ chính trị hà khắc. Trong chín năm trời, triều đình hưng thịnh, trăm họ yên vui.." Triệu Hú đọc đến đây thì ngừng lại, liếc sang thì thấy cặp mắt lờ đờ của thái hoàng thái hậu có mấy tia phấn khởi. Hắn lại đọc tiếp: "Người này đúng là nữ trung Nghiêu Thuấn.." Thái hoàng thái hậu lẩm nhẩm: "Nữ trung Nghiêu Thuấn, nữ trung Nghiêu Thuấn! Dù thật là như vậy, cũng khó mà khỏi chết." Đột nhiên trong bộ óc đã mờ mịt của bà lóe ra một tia sáng, bà lại hỏi: "Sao tể tướng nước Liêu lại đề cập đến ta? Hài nhi! Ngươi.. ngươi phải cẩn thận đề phòng, chắc là bọn chúng đã biết ta sắp chết, chuẩn bị khinh nhờn ngươi đó." Bộ mặt non choẹt của Triệu Hú lộ vẻ kiêu ngạo. Y nói: "Họ muốn khinh nhờn hài nhi, hừ, đúng là như vậy, nhưng không phải chuyện dễ dàng đâu. Người Khất Đan có thám tử ở Đông Kinh nên biết tổ mẫu lâm trọng bệnh, chẳng lẽ chúng ta không biết đặt do thám ở Thượng Kinh hay sao? Đến tấu chương của chúng trình lên hoàng đế Đại Liêu cũng bị chúng ta lấy được đó thôi. Vua tôi Khất Đan thương nghị với nhau, nói là khi tổ mẫu trăm tuổi rồi, mà văn võ đại thần bên ta vẫn không thay đổi chính sách bảo quốc an dân thì thôi. Khi nào hài nhi.. hài nhi khinh suất vọng động gì.. thì bọn họ mới cử sự." Thái hoàng thái hậu thất thanh nói: "Nếu thế thì bọn chúng sẽ xuất binh nam chinh ư?" Triệu Hú đáp: "Đúng thế!" Y xoay người ra cửa sổ, nhìn lên chòm sao Bắc Đẩu thất tinh giữa bầu trời. Y tìm sao Bắc Cực, chăm chú nhìn về hướng Bắc mà lẩm bẩm: "Nhà Đại Tống ta binh cường lương đủ, nhân số cũng nhiều, sợ gì bọn Khất Đan? Chúng chẳng nam chinh thì ta cũng đem quân bắc phạt, quyết tỉ thí một phen" Thái hoàng thái hậu nghe không rõ, hỏi lại: "Ngươi nói gì vậy? Cái gì mà tỉ thí một phen?" Triệu Hú lại trước giường bệnh rồi đáp: "Tổ mẫu! Dân số Đại Tống ta nhiều gấp mười nước Liêu, mà lương thảo cũng gấp ba mươi lần, có đúng thế không? Mười người chọi một, chẳng lẽ không thắng được họ hay sao?" Thái hoàng thái hậu run giọng hỏi: "Ngươi muốn khai chiến với nước Liêu ư? Năm trước Châu Nguyên hoàng đế oai võ như vậy, ngự giá thân chinh rồi cũng phải ký vào hòa ước Thiên Uyên. Ngươi.. ngươi lại còn dám dấy động binh đao ư?" Triệu Hú tức tối đáp: "Tổ mẫu vẫn chưa tin hài nhi, cứ coi hài nhi như một đứa con nít hỉ mũi chưa sạch, không hiểu việc đời. Nói hài nhi không bằng Thái tổ, Thái tông thì còn có lý, chẳng lẽ lại không bằng được Chân Tôn hoàng đế hay sao?" Thái hoàng thái hậu hạ giọng nói: "Ngay cả Thái Tôn hoàng đế năm xưa cũng bị Bắc quốc đánh cho đại bại, may mà chưa mất mạng." Triệu Hú đáp: "Chuyện thiên hạ không phải lúc nào cũng giống nhau. Ngày trước Đại Tống ta không thắng nổi nước Liêu, nhưng vị tất đã vĩnh viễn chịu thua họ." Thái hoàng thái hậu còn muốn nói rất nhiều song tinh lực đã hết, đầu óc mờ mịt không còn sáng suốt, ngay việc nói ra tiếng cũng đã khó khăn. Nhưng vì lòng kiên cường nổi lên, thanh âm dõng dạc trở lại, bà nói tiếp: "Binh đao là việc dữ, sinh linh đồ thán, ngàn vạn lần không được khinh suất mà vọng động." Bà hít một hơi chân khí, rồi từ từ nói tiếp: "Hài nhi! Ta cầm quyền chính suốt chín năm trời, mà chưa phân tích rõ cho hài nhi hiểu. Đó là lỗi của ta, cứ tưởng rằng còn sống được lâu năm, ngờ đâu.." Bà ho hắng mấy tiếng rồi lại nói: "Đúng là chúng ta nhân số đông đúc, lương thực đầy đủ, nhưng Đại Tống vốn chuyên về văn học, còn võ bị lại kém Khất Đan. Hơn nữa, nếu xảy việc binh đao thì quân dân gan óc lầy đất, biết bao nhiêu người uổng mạng, bao nhiêu nhà cửa bị thiêu hủy? Làm vua thì trong lòng lúc nào cũng phải nghĩ đến chữ Nhân. Chưa nói đến chuyện thắng bại khó mà biết trước, dù có nắm chắc phần thắng cũng chẳng nên động binh là hơn." Triệu Hú nói: "Mười sáu châu quận Yên Vân của chúng ta đã bị người Liêu vô cớ chiếm đóng. Chúng còn đòi hàng năm phải tiến cống vàng lụa, chẳng khác nào một nước phiên thuộc. Hài nhi làm thiên tử nhà Đại Tống, làm sao chịu nổi cái nhục này? Chẳng lẽ cứ để bọn chúng vĩnh viễn khinh nhờn hay sao?" Thanh âm Triệu Hú mỗi lúc một vang dội. Y nói tiếp: "Ngày trước Vương An Thạch thay đổi pháp lệnh, dựng ra phép Bảo Giáp, Bảo Mã, cũng chỉ muốn cho quốc gia giàu mạnh để rửa nhục cho tổ tông. Kẻ làm con cháu, biết trả thù rửa hận cho tổ tông mới là đạo hiếu. Phụ hoàng của hài nhi suốt đời hoài bão ý chí làm cho đất nước hưng thịnh, phải chăng cũng là vì vậy? Hài nhi nhất quyết noi theo di chí của gia gia, nếu không thì nguyện như chiếc ghế này." Y đột nhiên rút thanh kiếm ở trên lưng ra, chém chiếc ghế bên cạnh đứt làm hai đoạn. Khi hoàng đế vào đây vốn không được xách đao đeo kiếm. Hoàng thái hậu thấy Triệu Hú còn nhỏ tuổi mà có hành động vũ phu thì không khỏi giật mình kinh hãi, liền nói bằng một giọng đau buồn, uất ức: "Sao mi dám đeo kiếm vào đây? Có phải là để giết ta không? Hay là ngăn cấm không cho ta buông rèm nhiếp chính? Thằng lỏi này lớn mật làm càn, ta phải truất phế mi!" Bản tính thái hoàng thái hậu vốn hiền từ, nhưng bà đã từng nắm giữ quyền binh lâu ngày, bây giờ bà thấy quyền hành bị uy hiếp liền lập tức nghĩ tới chuyện loại trừ đối thủ, dù là cốt nhục cũng không thể khoan dung. Trong lúc hoảng hốt, bà quên mất lúc này mình chỉ như ngọn đèn khô dầu, trong chốc lát là phải từ trần. Trong lòng Triệu Hú thì chỉ nghĩ đến chuyện xung trận giết giặc, thu phục mười sáu châu quận Yên Vân. Mộng tưởng của y đã đạt đến cực đại, chỉ muốn thống suất trăm vạn hùng binh công phá Thượng Kinh, bắt Liêu chúa Gia Luật Hồng Cơ phải ra hàng. Y giơ cao thanh kiếm lên nói: "Quốc gia đại sự mà hư hỏng là vì bọn hủ nho kém cỏi nhát gan. Chúng tự xưng là quân tử, song thực ra đều tham sinh úy tử, chỉ là hạng tiểu nhân tự tư tự lợi. Hài nhi.. hài nhi phải trừng phạt bọn chúng nặng nề, nhất định không tha!" Thái hoàng thái hậu đột nhiên tỉnh táo lại, nghĩ bụng: "Thằng nhỏ này là đương kim hoàng đế. Nó có chủ ý của nó, ta không thể bắt nó nghe ta được nữa. Ta chỉ là một lão thái bà sắp chết đến nơi, còn nó là hoàng đế, nó mới là hoàng đế." Bà dồn hết sức tàn, cố cao giọng lên nói: "Hài nhi! Ngươi có chí khí như vậy, tổ mẫu hết sức phấn khởi." Triệu Hú cả mừng tra kiếm vào vỏ, hỏi lại: "Tổ mẫu! Hài nhi nói vậy có đúng không?" Thái hoàng thái hậu hỏi: "Hài nhi có biết thế nào là kế vẹn toàn chắc thắng không?" Triệu Hú chau mày đáp: "Dạy tướng luyện quân, nuôi ngựa tích lương, cùng người Liêu quyết một trận sống mái thì có thể thắng, nhưng không thể nói là vẹn toàn chắc thắng được." Thái hoàng thái hậu nói: "Ngươi cũng đã hiểu đem quân đi đánh thì chưa chắc đã nắm vững được phần thắng. Đại Tống ta cũng có thể không đánh mà khuất phục được người ta." Triệu Hú đáp: "Cho dân nghỉ ngơi, thi hành nhân chính, thì có thể không đánh mà khuất phục được lòng người, có phải thế chăng? Tổ mẫu! Đó chỉ là kiến thức thiển cận của bọn thư sinh kiểu như Tư Mã Quang, làm sao mà thành đại sự được?" Thái hoàng thái hậu thở dài, nhẹ nhàng nói: "Kiến thức của Tư Mã tướng công thật là siêu tuyệt, sao lại bảo là thư sinh thiển cận? Ngươi có lúc nào rảnh việc thì nên đọc bộ sách Tư Trị Thông Giám của Tư Mã tướng công. Các triều đại hơn ngàn năm nay vì sao thịnh, vì sao suy, vì sao vong quốc, bộ sách này đều có ghi chép rõ ràng. Đại Tống ta đất cát phì nhiêu, dân cư đông đúc gấp mười nước Liêu, nếu không có việc chiến chinh thì mỗi ngày một hưng thịnh lên. Người Liêu tính nết hung hãn hiếu chiến, ta chỉ cần phòng thủ biên cương nghiêm mật, thì trong nội bộ của họ tất sinh nội biến, tàn sát lẫn nhau mà hao hụt nguyên khí. Năm trước, cái loạn Sở vương đã làm hao mòn mất một số lớn quân tinh nhuệ của nước Liêu.." Triệu Hú vỗ đùi lớn tiếng nói: "Đúng thế! Khi ấy hài nhi đã toan xua quân bắc tiến để nội ngoại giáp công, nước Liêu đang có nội loạn, nhất định không thể đối phó được. Trời ơi! Thật là cơ hội ngàn năm một thuở mà bị lỡ mất rồi!" Thái hoàng thái hậu nghiêm giọng nói: "Lúc nào ngươi cũng chỉ nghĩ đến chuyện gây hấn với nước Liêu. Ngươi.. ngươi.." Đột nhiên bà ngồi dậy, trỏ tay vào mặt Triệu Hú. Triệu Hú thấy thái hoàng thái hậu nổi cơn thịnh nộ, giật mình lùi lại ba bước. Chân y loạng choạng suýt té ngã, tay nắm chặt đốc kiếm, trống ngực đánh thình thình, miệng lớn tiếng la: "Mau! Các ngươi mau vào đây!" Bọn thái giám nghe hoàng thượng la gọi, liền tiến vào điện. Triệu Hú run giọng hỏi: "Bà.. bà.. Các ngươi xem kỹ, bà làm sao rồi?" Y vừa thổ lộ bao nhiêu là hùng tâm tráng chí, muốn quyết một trận tử chiến cùng người Khất Đan, thế mà một bà già ốm o bệnh hoạn vừa ra oai, y lập tức hồn bất phụ thể, chân tay luống cuống. Một tên thái giám tiến lại mấy bước, nhìn kỹ thái hoàng thái hậu, lại đưa tay ra sờ mặt bà, rồi nói: "Khải tâu hoàng thượng, thái hoàng thái hậu đã cỡi hạc về trời rồi!" Triệu Hú cả mừng, cười ha hả rồi la lớn: "Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Ta là hoàng đế rồi! Ta là hoàng đế rồi!" Thực ra, y đã làm hoàng đế được chín năm rồi, nhưng trong chín năm ấy thì chỉ là hoàng đế hữu danh vô thực, việc lớn đều ở trong tay thái hoàng thái hậu. Từ bây giờ y mới thực sự là hoàng đế cầm quyền trị nước. * * * Triệu Hú tự mình trông nom triều chính, việc đầu tiên là y giáng chức Lễ bộ thượng thư Tô Thức, bắt phải đi làm tri phủ ở Định Châu. Tô Thức là một văn nhân lừng danh thiên hạ, ai cũng trọng vọng. Ông là nhân vật chính trong việc phản đối biến pháp cải cách của Vương An Thạch. Những năm Nguyên Hựu, thái hoàng thái hậu buông rèm nhiếp chính, bắt đầu trọng dụng Tư mã Quang và huynh đệ Tô Thức, Tô Triệt. Bà vừa qui thiên, hoàng đế đã đuổi Tô Thức đi, khiến cho từ triều đình đến dân gian đều bị bao phủ một không khí ảm dạm. Ai nấy than thầm: "Hoàng đế lại thi hành biến pháp, trăm họ khốn khổ đến nơi rồi!" Dĩ nhiên cũng có lắm kẻ mừng thầm, vì nếu hoàng đế thi hành cải cách thì chúng lại có cơ hội thăng quan phát tài. Lúc này những người nắm quyền trong triều đều là cựu thần do thái hoàng thái hậu bổ nhiệm. Hàn lâm học sĩ Phạm Tô Vũ trình lên một bản tấu chương, nói rằng: "Tiên thái hoàng thái hậu lấy công bình chính trực làm gốc, bãi bỏ biến pháp của bọn Vương An Thạch, Lã Huệ Khanh, mà áp dụng chính sách cũ của tổ tiên. Nhờ thế mà xã tắc nguy nan rồi lại an bình, lòng người ly tán trở nên đoàn kết. Thậm chí Liêu chúa thương nghị cùng tể tướng, cũng nói là nếu Nam triều duy trì chính sự nhân hòa, thì chỉ nên giữ nguyên hiện trạng mà phòng thủ biên cương, không nên sinh sự. Bệ hạ nghĩ xem, địch quốc còn suy nghĩ như vậy, đủ biết lòng người trong nước thế nào. Nay nếu bệ hạ thay đổi chính sách, bọn tiểu nhân sẽ thừa cơ ngóc đầu dậy, mà kẻ vụ lợi cũng ghé mắt nhìn. Thần xin bệ hạ nghĩ đến tổ tiên trải gian nan dựng xây cơ nghiệp, nghĩ đến thái hoàng thái hậu phải nhọc lòng giữ vững giang sơn mà duy trì chính đạo, đừng nghe tiểu nhân sàm tấu, giữ chính sách cũ khiến quốc gia vững bền, bá tính an vui, thì thiên hạ thật là may lắm." Triệu Hú đọc tấu chương mà tức giận, đập bàn quát: "Ngươi bảo ta duy trì chính đạo, đừng nghe tiểu nhân sàm tấu. Hai câu này quả là không sai chút nào. Chỉ có điều, ai là quân tử, ai là tiểu nhân?" Nhà vua lại quắc mắt lên nhìn Phạm Tô Vũ. Phạm Tô Vũ dập đầu tâu: "Bệ hạ minh xét. Lúc thái hoàng thái hậu bắt đầu buông rèm nhiếp chính thì hàng vạn thần dân trong triều ngoài nội đều nói là biến pháp làm cho bách tính phải lầm than. Thái hoàng thái hậu thương dân như con, đã thay đổi chính sách, ân xá cho những người có tội. Khi đó bệ hạ đã thuận lòng dân mà vâng theo lời thái hoàng thái hậu. Những quan chức bị bãi miễn đó, chính là tiểu nhân." Triệu Hú cười nhạt nói: "Họ bị thái hoàng thái hậu bãi miễn, có can dự gì đến trẫm đâu?" Y nói xong, lập tức rũ áo bãi triều. Triệu Hú nhìn bọn đại thần mà ngứa mắt, nhưng vừa được chấp chính nên không tiện đuổi sạch. Y tạm thời hạ chiếu, thăng quan cho bọn nội thị Nhạc Sĩ Tuyến, Lưu Duy Giản, Lương Tòng Chính để thưởng chúng đã có công phụ họa với mình. Y cáo bệnh, không lâm triều mấy ngày liền. Một hôm, thái giám đưa vào một tấu chương, nét chữ rồng bay phượng múa, dưới ký tên Tô Thức. Triệu Hú nói: "Thằng cha này viết chữ thật là đẹp, không hiểu hắn muốn nói những chuyện hồ đồ gì." Rồi y mở tấu chương ra xem, thấy viết rằng: "Hạ thần đang chầu chực. Trong triều thì được lệnh đi giữ biên cương. Hạ thần không muốn ra đi mà chưa được vào bái biệt, muốn thông tin đến bệ hạ cũng không phải dễ." Triệu Hú nói: "Ta không thích bộ râu quai nón của ngươi, trọn đời không muốn nhìn thấy ngươi nữa." Y lại đọc tiếp: "Nhưng hạ thần không dám chẳng tận trung, đó là hành vi của thánh nhân đã dạy, phải vào chỗ tối để nhìn chỗ sáng, ngồi chỗ tĩnh mà xem chỗ động, thì vạn vật đều rõ ràng trước mắt. Bệ hạ là bậc thánh trí hơn đời, đang tuổi thanh niên.." Triệu Hú cười khẩy, nghĩ bụng: "Thằng cha rậm râu này hỗn láo, dám ra giọng mỉa mai. Hắn bảo ta" thánh trí hơn đời ", mà lại chú thích" đang tuổi thanh niên ", thì ra hắn bảo mình nhỏ tuổi, chưa hiểu việc trị nước." Y lại đọc tiếp: "Hạ thần chỉ mong bệ hạ hãy khoan hành động, cứ để tâm theo dõi để nhận rõ chính sách lợi hại ra sao, quần thần tà chính thế nào. Giả tỉ bệ hạ nghiên cứu ba năm rồi mới thực hiện, thì khi hành động tất nhiên bách tính không oán hận, bệ hạ không hối tiếc. Hạ thần e rằng chỉ có bọn thần tử vụ lợi mới nông nổi mà muốn hành động gấp rút, nay dâng biểu tấu này, mong rằng bệ hạ thận trọng mà cải cách thì phúc cho xã tắc, may cho thiên hạ lắm thay." Triệu Hú đọc hết tấu chương, thầm nghĩ: "Người ta nói thằng cha rậm râu họ Tô thông minh tuyệt đỉnh, quả nhiên danh bất hư truyền. Hắn biết ta nhất định noi theo tiên đế mà thi hành biến pháp, nhưng hắn không dám công khai ngăn trở mà chỉ khuyên ta hoãn lại ba năm. Y nói gì gì:" Hành động tất nhiên bách tính không oán hận, bệ hạ không hối tiếc ", chỉ là lời nói uyển chuyển. Như vậy tức là gấp rút vụ lợi thì bách tính oán hận, ta phải hối tiếc." Triệu Hú nghĩ tới đó thì bất giác nổi lôi đình, xé vụn tấu chương. Mấy hôm sau Triệu Hú lâm triều, Phạm Tô Vũ lại dâng tấu chương: "Đầu niên hiệu Chiêu Ninh, Vương An Thạch cùng Lã Huệ Khanh dựng ra biến pháp, cải cách lề luật cũ của tổ tông, đưa nhiều kẻ tiểu nhân vào làm hỏng việc nước. Chúng lại dấy động binh đao để mở rộng biên thùy, gây thù oán với ngoại bang khiến cho sinh linh đồ thán, trăm họ lầm than". Triệu Hú xem tới đây thì lửa giận đã bốc lên, mắng thầm: "Ngươi thóa mạ Vương An Thạch cùng Lã Huệ Khanh thì có khác gì thóa mạ phụ hoàng ta?" Y lại xem tiếp: "Thái Xác liên tiếp mở nhà ngục lớn, Vương Thiều lấp Tây Hà, Chương Đôn mở rộng khe cừ, Thẩm Khởi nhiễu loạn bang giao, Thẩm Quát động binh ở phía tây làm quân dân tử thương tới hai mươi vạn người. Tiên đế lâm triều đã tỏ ra hối hận, Ngài tuyên bố triều đình phải chịu trách nhiệm này.." Triệu Hú càng xem càng tức giận, bỏ qua mấy dòng, lại đọc ở dưới: "Dân chúng khổ não như nhà có loạn, chỉ mong bệ hạ khai ân cứu giúp, để người khắp thiên hạ đều được bình yên.." Triệu Hú coi tới đây không nhịn được nữa, vỗ bàn đứng dậy. Triệu Hú mới mười tám tuổi đã ở ngôi cao, tính tình lại nóng nảy. Y nổi nóng giữa buổi triều thì quần thần không khỏi sợ hãi thất sắc. Triệu Hú nghiêm giọng quát hỏi: "Phạm Tô Vũ! Ngươi trình tấu chương có phải là để phỉ báng chăng?" Phạm Tô Vũ dập đầu tâu: "Bệ hạ minh xét. Hạ thần vạn vạn lần không dám." Triệu Hú mới lên nắm quyền mà được thấy quần thần khiếp sợ, trong lòng đắc ý nên nộ khí tiêu tan. Nhưng y vẫn giữ vẻ mặt nghiêm khắc lớn tiếng nói: "Tiên đế là bậc thiên tài đại chí, muốn bình định, giang sơn, thống nhất thiên hạ, chỉ tiếc là ngài còn trẻ đã băng hà. Nay trẫm muốn nối chí của tiên đế, sao lại không được? Các ngươi cứ trách tiên đế thay đổi chính sách, nhàm cả tai trẫm là nghĩa làm sao?" Trong quần thần có một vị đại thần tướng mạo thanh tú oai phong, bệ vệ bước ra, chính là tể tướng Tô Triệt. Triệu Hú vừa trông thấy đã phát ngán, nghĩ thầm: "Lão này là em thằng cha rậm râu họ Tô. Huynh đệ y cấu kết với nhau, chắc chắn trong miệng chó không thể mọc ngà voi." Bỗng nghe Tô Triệt lên tiếng: "Bệ hạ minh xét. Tiên đế có nhiều điểm vượt cả tiền nhân, tỉ như ngài ở ngôi mười hai năm trời, đến cuối đời vẫn không chịu nhận tôn hiệu nào. Thần đã trình tấu chương ca tụng công đức, mà tiên đế vẫn khiêm nhường không nhận. Còn việc triều chính có điều lầm lẫn thì đời nào mà chẳng có? Hơn nữa, con cái sửa chữa việc cha đã lầm lẫn, đó là đạo hiếu của người xưa." Triệu Hú hắng giọng một tiếng, lạnh lùng hỏi lại: "Con cái sửa chữa việc cha đã lầm lẫn, là nghĩa làm sao?" Tô Triệt đáp: "Tỉ như việc ngày xưa, Hán Võ Đế ngoài đánh tứ di, trong dựng cung thất, tiền tài khánh kiệt, đến nỗi phải cướp bóc tài vật cùng nguồn lợi của bá tính, dân chúng không chịu nổi, suýt gây ra họa loạn. Khi Võ Đế băng hà, Chiêu Đế lên nối ngôi, thu dùng Hoắc Quang, bỏ những việc phiền hà, khiến cho Hán thất trở lại vững vàng." Triệu Hú hừ một tiếng, thầm nghĩ: "Ngươi dám đem Hán Võ Đế mà so sánh với phụ hoàng ta!" Tô Triệt thấy long nhan nhăn nhó đã biết là nguy hiểm, nghĩ thầm: "Nếu ta còn nói nữa thì hoàng thượng tất nổi lôi đình, không chừng mất mạng. Nhưng nếu cứ thuận gió theo chiều để cho thiên hạ loạn lạc, bách tính lầm than, cửa nhà tan nát, thì ta đây là một vị đại thần trong nước, nhẫn tâm thế nào được? Hôm nay chính là lúc ta phải đem sinh mạng nhỏ nhoi mà báo đáp thâm ân của thái hoàng thái hậu". Ông bèn tiếp: "Đời Minh Đế nhà Hậu Hán lấy hai chữ Giám Sát làm gốc, tra xét lời nói cùng việc làm của bá quan thật là tỉ mỉ, tin tưởng các loại bùa chú quái đản tà đạo, khiến cho trên dưới đều phập phồng lo sợ, người người đều không thể sống yên. Khi Chương Đế lên nối ngôi, đã kiểm điểm lại chỗ được mất, đổi sang chính sách khoan hồng để lòng người vui vẻ, thiên hạ thịnh trị. Đó là những bậc làm con đã sửa chữa lỗi lầm của tiên phụ, trở thành những bậc đại hiếu để tiếng thơm muôn đời như thánh nhân đã dạy." Tô Triệt đã biết Triệu Hú lên ngôi lúc mới mười tuổi, chín năm nay việc gì cũng phải nghe theo mệnh lệnh của thái hoàng thái hậu, nhất định y thầm phẫn nộ trong lòng, quyết ý muốn hủy những chính sách của bà để quay về chính sách của đời Thần Tông, để tỏ lòng hiếu thuận với phụ thân. Do đó Tô Triệt mới đem chuyện đại hiếu của thánh nhân ra mà khuyên can hoàng thượng. Triệu Hú lớn tiếng hỏi: "Hán Minh Đế theo đạo thuật thì đã có gì là không tốt? Ngươi đem Hán Võ Đế mà so với tiên đế là có dụng ý gì? Phải chăng là công nhiên phỉ báng? Hán Võ Đế dấy binh đại bại để chết hết quân lính, cuối đời đã hạ chiếu tự phê phán mình, tự trách cứ nặng nề những hành vi hoang đường. Đó là một ông vua bị hậu thế chê cười, sao ngươi dám đem ra so sánh với tiên đế?" Y càng nói, thanh ám càng nghiêm khắc, sắc mặt cũng biến đổi. Tô Triệt dập đầu lia lịa, rồi bước ra khỏi điện, quì trước sân để chờ xử tội, không dám nói gì nữa. Rất nhiều đại thần cùng nghĩ: "Tiên đế thi hành biến pháp đã làm trăm họ ngày đêm hoảng hốt, so ra còn tệ hơn Hán Võ Đế nhiều." Nhưng bá quan đều sợ hãi, không ai dám nói câu nào, cũng không ai dám năn nỉ giùm Tô Triệt. Bỗng thấy một vị đại thần đầu tóc bạc phơ rẽ mọi người đi ra, chính là Phạm Thuần Nhân. Ông chậm rãi nói: "Xin bệ hạ bớt giận. Tô Triệt nói năng có điều thất thố, cũng chỉ vì y một dạ trung thành với bệ hạ. Bệ hạ mới lên chấp chính, đối với đại thần nên giữ lễ." Triệu Hú nói: "Người ta đã có câu: Tần Hoàng Hán Võ, vậy Hán Võ Đế cũng tàn bạo như Tần Thủy Hoàng. Y nói thế còn chưa vô đạo hay sao?" Phạm Thuần Nhân tâu: "Tô Triệt chỉ nghị luận về thời thế cùng sự việc, chứ không so sánh về con người." Triệu Hú nghe Phạm Thuần Nhân giải thích mới nguôi giận, quát lên: "Tô Triệt vào đây!" Tô Triệt từ trong sân trở vào điện, không dám đứng ở chỗ cũ mà quỳ sau hết thảy quần thần, lên tiếng: "Hạ thần biết mình đắc tội với bệ hạ, xin nhận trách phạt." Hôm sau, có chiếu chỉ giáng chức Tô Triệt làm Đoan Minh Điện Học Sĩ kiêm Tri châu Nhữ Châu, biệt phái tể tướng đi làm một quan châu nho nhỏ. * * * Động tĩnh của quần thần Nam triều đều được thám tử nước Liêu phi báo về Thượng Kinh rất nhanh. Liêu chúa là Gia Luật Hồng Cơ được tin thái hoàng thái hậu Nam triều đã chết, hoàng đế Triệu Hú còn nhỏ tuổi đã giáng chức đại thần, thi hành biến pháp, thì vô cùng mừng rỡ nói: "Chuẩn bị xa giá để ta xuống Nam Kinh, thương nghị với Tiêu đại vương." Gia Luật Hồng Cơ lại nói: "Bọn thám tử Nam triều ở Thượng Kinh không phải là ít. Nếu chúng biết ta đến Nam Kinh, chắc sẽ chú ý đề phòng. Vậy phải giảm bớt số quân kỵ theo ta, lập tức lên đường, chẳng cần báo trước với Nam Viện Đại Vương nữa." Liêu chúa dẫn ba ngàn giáp binh lập tức xuôi nam, lại nhớ đến cái loạn Sở vương ngày trước, bèn giao cho chính hoàng hậu là Tiêu thị thống lãnh binh quyền lưu lại giữ Thượng Kinh. Liêu chúa lại cắt ra năm vạn binh mã theo hộ tống, nhưng để đi sau. Ngày mà Liêu chúa đến ngoài thành Nam Kinh thì Tiêu Phong đang đem hơn hai chục kỵ binh đi săn bắn. Ông được tin Liêu chúa đột ngột đến Nam Kinh, liền ruổi ngựa tiến về hướng Bắc để nghênh tiếp. Vừa thấy cờ trắng lọng vàng ở phía xa, Tiêu Phong đã xuống ngựa, lật đật chạy lại bái phục dưới đất. Gia Luật Hồng Cơ xuống ngựa cười ha hả nói: "Hiền đệ! Ta cùng hiền đệ tiếng là vua tôi mà tình như cốt nhục, cần gì phải làm đại lễ?" Lão nâng Tiêu Phong dậy hỏi: "Có nhiều dã thú không?" Tiêu Phong đáp: "Mấy hôm nay lạnh quá, dã thú đều trốn xuống phương nam. Thần đi săn đã nửa ngày mới được một con sói và mấy con hươu nhỏ, chẳng có chi đáng kể." Gia Luật Hồng Cơ cũng thích săn bắn, liền nói: "Chúng ta cùng xuống phía nam tìm dã thú đi!" Tiêu Phong đáp: "Phía nam giáp với đất đai của Nam triều. Thần sợ mất hòa khí giữa hai nước, nên nghiêm cấm thuộc hạ không được đi săn về phía đó." Gia Luật Hồng Cơ hơi nhíu mày hỏi: "Thế thì không đi thu hoạch ư?" Tiêu Phong đáp: "Thần không dám." Gia Luật Hồng Cơ nói: "Hôm nay huynh đệ ta tụ hội, phá lệ một lần cũng chẳng hề chi." Tiêu Phong "Vâng!" một tiếng. Hiệu tù và nổi lên, Gia Luật Hồng Cơ cùng Tiêu Phong cưỡi ngựa sánh vai mà đi, vòng quanh tường thành Nam Kinh, thẳng xuống phía nam. Đi chừng hơn hai trăm dặm, quân sĩ reo hò chia ra hai ngả, đi một quãng xa, rồi tiến lại gần nhau tựa như thắt miệng túi. Tiếng ngựa hí lẫn với tiếng chó sủa loạn lên, bốn bề từ từ quây lại. Vòng vây mỗi lúc một nhỏ hẹp, chồn cáo trong cỏ rậm chạy ra. Gia Luật Hồng Cơ không muốn bắn giết những con thú nhỏ bé này, nhưng chờ hàng nửa ngày vẫn chẳng thấy những loài thú lớn như gấu, hổ xuất hiện. Lão đang cụt hứng, bỗng nghe có tiếng la hét loạn lên, từ phía đông nam có mười mấy hán tử đang chạy như bay tới. Cứ nhìn cách ăn mặc của họ thì biết ngay đó là bọn thợ săn và tiều phu người Nam triều. Quân Liêu đuổi không có dã thú, biết là hoàng thượng không vui, liền quay ra vây mười mấy người Hán này. Chúng quát tháo om sòm, rượt đuổi bọn này phải chạy đến chỗ Liêu chúa. Gia Luật Hồng Cơ cười nói: "Hay lắm!" Rồi giương cung lắp tên bắn ra veo véo. Lão bắn không trật phát nào, chớp mắt đã có sáu người bị tên xuyên qua bụng cắm chặt xuống đất. Những người chưa trúng tên, khiếp đảm chạy về phía Nam thì lại gặp quân Liêu dùng trường mâu để buộc họ quay trở lại. Tiêu Phong đau xót trong lòng, la lên: "Bệ hạ!" Gia Luật Hồng Cơ cười nói: "Bọn này để dành cho ngươi, ta muốn coi thần tiễn của hiền đệ!" Tiêu Phong lắc đầu đáp: "Bọn này vô tội, nên tha cho họ là hơn!" Gia Luật Hồng Cơ cười nói: "Người Hán đông quá, giết bớt đi thì dĩ nhiên thiên hạ thái bình thịnh trị. Bọn chúng đầu thai làm người Hán cũng là đáng tội chết rồi!" Nói xong, lão dùng liên châu tiễn bắn ra, mỗi mũi tên trúng một người. Mười mấy người Hán chẳng may mắn chút nào, có người chết ngay lập tức, có người trúng vào bụng chưa tuyệt khí chết ngay thì ngã lăn ra rên xiết! Bọn Liêu binh lớn tiếng reo hò, hoan hô: "Vạn tuế!" Giả tỉ lúc ấy Tiêu Phong muốn ra tay ngăn trở, thì dĩ nhiên có thể ngăn Liêu chúa bắn tên, nhưng trước mặt quân sĩ mà công nhiên làm bẽ mặt hoàng đế thì phạm tội đại nghịch, nên chàng không nói gì, chỉ có nét mặt là lộ vẻ không bằng lòng. Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi: "Sao thế?" Lão đang định cất cung đi, thì chợt thấy một người cưỡi ngựa xông qua vòng vây chạy đến. Gia Luật Hồng Cơ thấy kỵ sĩ ăn mặc kiểu người Hán thì chẳng thèm hỏi gì, giương cung lắp tên bắn ngay. Người kia đưa hai ngón tay kẹp lấy đuôi mũi tên. Lúc ấy thì mũi tên thứ hai của Gia Luật Hồng Cơ bắn tới, người kia lại đưa tay lên kẹp, ngựa vẫn xông về phía Liêu chúa không hề dừng vó. Hồng Cơ liền bắn liên châu, tên nối nhau bay ra vun vút. Nhưng tên bắn nhanh, thì người kia cũng bắt nhanh. Chỉ trong chớp mắt, một người bắn ra bảy mũi tên, một người bắt được bảy mũi tên. Bọn quân Liêu hộ vệ đều hò hét vang trời, tên nào cũng chĩa trường mâu ra ngăn cản trước mặt Liêu chúa, chỉ sợ người đó làm kinh hãi nhà vua. Lúc này hai bên đã gần nhau, Tiêu Phong vừa nhìn rõ mặt người mới đến đã giật mình, kinh hãi la lên: "A Tử! Là muội đấy ư? Không được vô lễ với hoàng thượng!" Kỵ sĩ kia cười khanh khách, ném cả bảy mũi lang nha tiễn cho bọn vệ binh, rồi nhảy xuống ngựa, quì mọp mà nói: "Hoàng thượng! Hạ thần đã bắt hết tên của ngài, ngài đừng trách nhé!" Gia Luật Hồng Cơ cười rộ, lên tiếng khen ngợi: "Hảo thân thủ! Hảo bản lĩnh!" A Tử đứng dậy, gọi to: "Tỉ phu! Tỉ phu đến đón tiểu muội đấy ư?" Rồi nàng nhún chân một cái lại nhảy lên lưng ngựa, phi đến trước mặt Tiêu Phong. Tiêu Phong thấy đôi mắt nàng đã có thần sắc thì vừa kinh ngạc vừa vui mừng, reo lên: "A Tử! Sao.. sao mắt của muội lại khỏi được?" A Tử cười đáp: "Chính nhị đệ của tỉ phu đã chữa cho múội. Tỉ phu thấy y có giỏi không?" Tiêu Phong nhìn lại mắt A Tử thì không khỏi run lên, vì trong khóe mắt nàng chứa đầy nỗi thương tâm tịch mịch, không bút mực nào tả được. Lẽ ra, mắt nàng đã hết mù lòa, mà được gặp lại Tiêu Phong thì nàng phải vui mừng khôn xiết, thế mà mắt nàng lộ vẻ cực kỳ đau khổ là nghĩa làm sao? Nhưng tiếng cười của A Tử lại tỏ ra rất vui mừng. Tiêu Phong thầm nghĩ: "Không chừng Tử muội dọc dường đã gặp chuyện không được như ý." A Tử đột nhiên thét lên lanh lảnh, người nàng đang ở trong lòng Tiêu Phong bỗng co lại, rồi nhảy vọt qua vai chàng. Tiêu Phong cũng đã phát giác ra có người đột nhiên ám toán sau lưng mình. Chàng xoay mình lại đưa hai tay lên chặn trước ngực, thì thấy một cây đinh ba phóng tới. A Tử vươn tay trái ra chụp lấy cây đinh ba, ném ngược lại trúng vào trước ngực một người nằm dưới đất, đóng đinh hắn xuống. Người này vốn là một thợ săn người Hán, bị trúng tên của Gia Luật Hồng Cơ ngã ra nhưng chưa chết. Hắn thu tàn lực, phóng đinh ba vào sau lưng Tiêu Phong vì gã thấy chàng ăn mặc kiểu như đại thần nước Liêu, định giết chàng để rửa mối hận mình bị giết oan. " A Tử trỏ vào mặt tên thợ săn đã chết, lớn tiếng mắng:" Mi không biết tự lượng, cái sức heo chó mà dám ám toán tỉ phu ta ư? " Gia Luật Hồng Cơ thấy A Tử phóng đinh ba đâm chết tên thợ săn, cả mừng nói:" Hảo cô nương! Thân thủ cô nương tuyệt diệu ít người bì kịp. Mũi đinh ba vừa rồi không đả thương đựợc Nam Viện Đại Vương, thật là may mắn. Nếu y chỉ bị thương rất nhẹ, cũng đủ làm lỡ đại sự của ta. Không biết ta phải trọng thưởng cô nương thế nào cho xứng đáng? " A Tử đáp:" Hoàng thượng! Hoàng thượng đã phong cho tỉ phu tiểu nữ làm quan lớn, thì xin hoàng thượng cũng cho tiểu nữ một chức quan để làm chơi. Tiểu nữ không cần chức to như tỉ phu, nhưng cũng đừng nhỏ quá để người ta chê cười. "Gia Luật Hồng Cơ cười đáp:" Ở nước Liêu ta phụ nữ không làm quan, để ta phong cho ngươi làm công chúa. Công chúa gì nhỉ? À phải rồi, kêu bằng Bình Nam Công Chúa! "A Tử bĩu môi nói:" Làm gì cũng được, nhưng làm công chúa thì tiểu nữ không làm đâu. "Hồng Cơ kinh ngạc hỏi:" Sao lại không làm? "A Tử đáp:" Hoàng thượng là huynh đệ với tỉ phu. Nếu tiểu nữ nhận làm công chúa thì hóa ra là hàng con hoàng thượng, chịu thấp xuống một bậc ư? " Gia Luật Hồng Cơ thấy tình cảm A Tử đối với Tiêu Phong thật là nồng nhiệt. Tiêu Phong tuy ở ngôi cao mà không gần nữ sắc. Theo tập tục nước Liêu thì bậc đại thần như chàng, đừng nói tam thê tứ thiếp mà đến ba chục thê bốn chục thiếp cũng là chuyện thường. Liêu chúa thấy nàng có tình ý với Tiêu Phong, nhưng vì nàng còn nhỏ tuổi không tiện thành thân. Y liền cười nói:" Chức công chúa của ngươi là Trưởng công chúa, vai vế là muội tử ta, chứ không ngang hàng con gái ta. Chẳng những ta phong cho ngươi làm Bình Nam Công Chúa mà còn giúp cho ngươi thỏa lòng tâm nguyện, có được chăng? " A Tử đỏ mặt lên hỏi:" Tiểu nữ có tâm nguyện gì? Sao bệ hạ lại biết? Bệ hạ là hoàng đế, sao lại gặp đâu nói đấy như thế? "A Tử chẳng biết sợ trời sợ đất là gì, ăn nói với Gia Luật Hồng Cơ mà chẳng giữ lễ vua tôi. May mà lễ giáo nước Liêu cũng không nghiêm lắm, Tiêu Phong lại được Hồng Cơ yêu mến tin cậy. Vì thế A Tử nói sao thì nói, Hồng Cơ vẫn cười ha hả rồi đáp:" Nếu ngươi không thích chức Bình Nam Công Chúa đó thì ta không phong nữa. Một, hai, ba, ngươi có thích không? "A Tử liền lạy phục xuống, khẽ nói:" A Tử tạ ân! "Tiêu Phong cũng khom lưng thi lễ nói:" Đa tạ bệ hạ tấn phong. "Tiêu Phong vốn coi A Tử như muội tử mình, nên nàng được Liêu chúa gia ân, chàng cũng ngỏ lời bái tạ. Gia Luật Hồng Cơ lại cho là mình đoán không sai, nghĩ thầm:" Bây giờ ta đứng chủ hôn cho y một cách trọng thể, rồi sai y khởi binh đánh Tống, thì chắc là y phải tận tâm tận lực. "Còn Tiêu Phong lại tự hỏi:" Phen này hoàng thượng đến đây là có ý gì? Ngài phong A Tử làm công chúa, lại thêm hai chữ Bình Nam là nghĩa làm sao? Bình Nam, Bình Nam.. Phải chăng là có ý động binh đánh xuống Nam triều? " Gia Luật Hồng Cơ nắm tay Tiêu Phong nói:" Hiền đệ! Hai ta lâu ngày chưa được gặp nhau, bây giờ đi chơi nói chuyện một lúc. " * * * Hai người cưỡi ngựa đi về phía nam. Ngựa hay, đường tốt, chớp mắt đã đi được ngoài ba mươi dặm. Nơi đây là một cánh đồng bát ngát nhưng lại hoang vu, lúa má cùng cỏ dại mọc chen nhau. Chỗ nào cũng đầy chông gai, vì lâu ngày không người đi lại. Tiêu Phong nghĩ thầm:" Vì người Tống sợ bọn mình đến đây thu hoạch, đành phải bỏ hoang mấy chục vạn khoảnh ruộng tốt này ". Gia Luật Hồng Cơ ra roi quất ngựa chạy lên một cái gò nhỏ, đứng nhìn đầy vẻ tự mãn. Tiêu Phong cũng giục ngựa theo lên. Chàng nhìn theo mục quang của Hồng Cơ, thấy phía nam núi đồi chập chùng bao la bát ngát, không biết đâu là cùng tận. Gia Luật Hồng Cơ trỏ roi ngựa về phía nam nói:" Hiền đệ! Ba mươi năm trước, phụ hoàng đã dẫn ta tới đây, chỉ cho biết đó là giang sơn gấm vóc của nhà Đại Tống.. "Tiêu Phong" Vâng! "Một tiếng. Hồng Cơ lại nói:" Ngươi sinh trưởng ở phương nam, từ thuở nhỏ đã am hiểu về nhân vật cùng sông núi Nam man. Phải chăng ở đó sung sướng hơn nhiều, không rét mướt khổ sở như chúng ta? "Tiêu Phong đáp:" Mỗi nơi có cái hay của nó. Trong tâm có thư thái thì người mới vui sướng được. Người nam không quen ở phương bắc, người bắc cũng không quen ở phương nam. Ông trời đã an bài như vậy, ai miễn cưỡng đứng núi này trông núi nọ thì chỉ rước lấy phiền não vào mình. "Hồng Cơ hỏi:" Thế thì người bắc xuống ở phương nam đã quen, rồi lại quay về sống ở miền bắc, thì có thấy phiền não không? "Tiêu Phong đáp:" Thần là người phiêu bạt giang hồ, bốn bể là nhà, khác với những người bình thường. Hiện nay thần đã được bệ hạ ban cho chỗ nương thân, lại được quan cao lộc hậu, trong lòng cảm tạ đại đức còn chưa hết, làm gì có chuyện phiền muộn nữa? " Hồng Cơ quay lại nhìn vào mặt Tiêu Phong. Tiêu Phong không muốn bốn mắt gặp nhau, liền mỉm cười rồi nhìn ra phía khác. Hồng Cơ chậm rãi nói:" Hiền đệ! Hai ta tuy phận là vua tôi nhưng tình là huynh đệ. Lâu ngày chưa được nói chuyện với nhau, sao ngươi cứ giữ lễ quân thần? "Tiêu Phong đáp:" Trước kia hạ thần chưa được biết bệ hạ, nên mạo phạm đã nhiều. Sau khi biết rồi, làm sao thần dám lấy nghĩa huynh đệ mà đối xử? "Hồng Cơ thở dài nói:" Làm hoàng đế thì không được giao kết thân thiết với người khác hay sao? Hiền đệ! Nếu ta được cùng ngươi bôn tẩu giang hồ, không bị điều gì câu thức, hóa ra lại sướng. " Tiêu Phong nói:" Bệ hạ thích giao kết bằng hữu thì cũng chẳng khó gì. Thần có hai vị nghĩa đệ ở Trung Nguyên, một là Hư Trúc Tử ở cung Linh Thứu, một là Đoàn Dự người nước Đại Lý, đều là anh hùng hảo hán, phơi gan trải mật đối xử cùng người. Nếu bệ hạ muốn gặp, thần xin mời họ qua chơi Liêu quốc. "Từ lúc Tiêu Phong về Nam Kinh, hàng ngày phải giao thiệp với quần thần cùng tướng sĩ nước Liêu, lời nói tính tình đều không hợp ý, nên ông vẫn nhớ Đoàn Dự và Hư Trúc, chỉ mong họ đến nước Liêu để gặp mặt vài ngày cho thỏa tình khao khát. Hồng Cơ cả mừng nói:" Hiền đệ mau mau sai người đưa thư mời hai vị nghĩa đệ đến nước Liêu. Nếu họ muốn làm quan, thì ta sẽ phong cho quan cao tước lớn. "Tiêu Phong mỉm cười đáp:" Mời họ qua chơi thì được, nhưng chắc họ không chịu làm quan đâu. " Hồng Cơ trầm ngâm một lúc rồi nói:" Hiền đệ! Ta xem nét mặt cùng lời nói của ngươi dường như có ý không vui. Ta có phúc được làm hoàng đế, giàu gồm bốn bể, mà không làm cho ngươi được như ý, còn làm ca ca thế nào được? " Tiêu Phong cảm động đáp:" Không dám giấu bệ hạ, việc năy là do thần lầm lỡ gây ra một mối hận chung thân, không còn cách nào vãn hồi được nữa. "Rồi chàng thuật sơ lại chuyện đã giết lầm A Châu cho Hồng Cơ nghe. Hồng Cơ vỗ đùi đánh đét một cái rồi nói:" Thảo nào hiền đệ gần bốn mươi tuổi vẫn chưa lấy vợ, thì ra không quên được người cũ. Hiền đệ! Chuyện lầm lỡ của ngươi là phát xuất từ bọn người Hán tàn bạo mà ra, nhất là bọn Cái Bang lại càng vong ân bội nghĩa. Ngươi đừng phiền não nữa, ta lập tức hưng binh chinh phạt Nam man, giết cho kỳ hết bọn Cái Bang cùng võ lâm Trung Nguyên, để trả mối thù chúng hạ sát mẫu thân đệ, cùng cái hận vây khốn ngươi ở Tụ Hiền Trang. Ngươi thích con gái Nam man xinh đẹp thì ta sẽ bắt về cho một ngàn đứa, hai ngàn đứa để hầu hạ ngươi, có gì là khó đâu? " Tiêu Phong nở một nụ cười đau khổ, nghĩ thầm:" Mình đã giết lầm A Châu, kiếp này chẳng thể gặp nàng được nữa. A Châu là A Châu, tính hết mọi nước trên thế gian cũng chỉ có một A Châu, thiên thu vạn tải cũng chỉ có một A Châu mà thôi. Một ngàn cô, một vạn cô mỹ nữ người Hán thì làm sao thay thế cho nàng được? Hoàng thượng quen có trong hậu cung hàng trăm hàng ngàn cung phi nô tì, làm sao hiểu được chữ Tình? "Chàng liền nói:" Đa tạ bệ hạ khai ân, nhưng thù oán giữa thần và võ lâm Trung Nguyên coi như đã một nét sổ toẹt, vì chính tay thần đã giết không ít người học võ ở Trung Nguyên. Oan oan tương báo thì vô cùng vô tận, nếu gây cuộc chiến chinh thì binh họa liên miên, nhất định không phải chuyện nhỏ. " Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả, nói:" Người Tống trọng văn khinh võ, nói khoác thì hay lắm, nhưng động đến binh đao thì chưa chắc đã chịu nổi một trận. Hiền đệ anh hùng vô địch, lãnh binh Nam chinh thì chỉ trong một ngày bình định Nam man, còn lo gì họa hoạn? Hiền đệ! Lần này ca ca đến đây, ngươi có biết vì lẽ gì không? "Tiêu Phong đáp:" Thần đang đợi bệ hạ cho biết. " Hồng Cơ cười nói:" Việc thứ nhất, ta muốn hỏi hiền đệ địa thế Tây Hạ hiểm trở thế nào, quân mã mạnh yếu ra sao. Ngươi mới qua Tây Hạ chắc đã biết rõ tình hình, nói thử cho ta nghe liệu có lấy nước Tây Hạ được chăng? " Tiêu Phong giật mình kinh hãi nghĩ thầm:" Hoàng thượng mưu đồ không nhỏ, đã muốn chiếm Nam Tống, lại toan lấy Tây Hạ ". Chàng đáp:" Vừa rồi thần qua Tây Hạ chỉ là đi chơi, xem cuộc cầu thân của công chúa nước này, không nghĩ gì đến địa thế chiến trận cả. Xin bệ hạ minh xét, thần tuy từng trải giang hồ, nhưng chỉ là những cuộc tỉ đấu tầm thường với người võ lâm, còn việc hành binh bố trận thì thật tình không hiểu gì hết. "Gia Luật Hồng cơ cười nói:" Hiền đệ bất tất phải quá khiêm nhường. Phen này quốc vương Tây Hạ yết bảng chiêu phò mã là một chuyện đầu voi đuôi chuột, chẳng có kết quả gì, thật đáng tức cười. Nếu hôm đó hiền đệ mang mười vạn binh đến, cưới công chúa Tây Hạ mang về Nam Kinh thì lại là chuyện khác, tốt đẹp hơn nhiều. "Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ thầm:" Hoàng thượng cứ nghĩ là có trọng binh trong tay thì muốn sao cũng được. " Gia Luật Hồng Cơ lại nói:" Hôm nay ca ca đến đây, còn có việc thứ hai nữa là thăng quan tấn tước cho hiền đệ. Hiền đệ hãy nghe ca ca gia phong. "Tiêu Phong đáp:" Hạ thần chịu ân đức của bệ hạ đã nhiều, không dám lại.. "Gia Luật Hồng Cơ dõng dạc ngắt lời:" Nam Viện đại vương Tiêu Phong hãy nghe trẫm gia phong! "Tiêu Phong đành phải vội vàng nhảy xuống ngựa, lạy phục dưới đất. Hồng Cơ tuyên bố:" Nam Viện đại vương Tiêu Phong hết dạ trung thành với quốc gia, là thủ túc của trẫm, nay phong tước Tống Vương, nhận chức Bình Nam Đại Nguyên Soái thống lĩnh ba quân. Khâm thử! " Tiêu Phong trong lòng nghi hoặc mà không biết làm sao, chỉ nói:" Hạ thần chưa làm nên công trạng gì, không dám nhận lãnh đại ân của bệ hạ! "Hồng Cơ nghiêm giọng hỏi:" Sao? Ngươi kháng lệnh của trẫm ư? "Tiêu Phong thấy hoàng đế nghiêm giọng, biết rằng không thể chối từ, đành khấu đầu đáp:" Thần là Tiêu Phong tạ ơn bệ hạ! "Hồng Cơ cười ha hả, rồi nói:" Có thế mới là hiền đệ của ta! "Lão đưa hai tay ra đỡ Tiêu Phong dậy, nói:" Hiền đệ! Lần này ta xuôi nam không phải chỉ tới Nam Kinh mà thôi, còn muốn ngự giá vào thành Biện Lương nữa! " Tiêu Phong lại một phen kinh hãi, quì tâu:" Bệ hạ muốn đến Biện Lương.. Thế thì sao.. "Liêu chúa cả cười ngắt lời:" Hiền đệ đã là Bình Nam Đại Nguyên Soái thống lĩnh ba quân, hãy lên đường trước đi, chúng ta tới thẳng Biện Lương! Sau này bình xong Đại Tống, sẽ đặt phủ Tống Vương của hiền đệ ở ngay hoàng cung của thằng lỏi Triệu Hú trong thành Biện Lương ". Tiêu Phong hỏi:" Bệ hạ nói là chúng ta khai chiến với Nam triều ư? " Hồng Cơ đáp:" Không phải là ta khai chiến với Nam triều, mà là bọn Nam man muốn tỉ thí với ta! Ngày trước Nam triều còn thái hoàng thái hậu cầm quyền chính, mọi việc đều có khuôn phép, nên tuy ta vẫn muốn khởi binh Nam chinh, nhưng không nắm chắc phần thắng. Bây giờ mụ già đó chết rồi, thằng lỏi Triệu Hú chưa ráo máu đầu bỗng dưng phái người chỉnh đốn việc Bắc phòng, huấn luyện ba quân, tích lương chứa thảo, mộ binh nuôi ngựa. Thế là thằng lỏi đó cố ý gây hấn với ta, chứ còn gì nữa? " Tiêu Phong nói:" Việc Nam triều huấn luyện sĩ tốt, chúng ta bất tất phải can thiệp đến. Mấy năm nay Tống, Liêu không giao binh, người dân hai nước từ trong triều ngoài nội đều an hưởng thái bình. Giả tỉ Triệu Hú xâm phạm bờ cõi thì chúng ta đánh cho tàn tạ. Còn nếu y sợ oai võ của bệ hạ mà không dám vọng động, thì ta chẳng cần gây sự với y làm gì. " Hồng Cơ nói:" Hiền đệ không hiểu, Nam triều đất rộng người nhiều, sản vật phong phú. Nếu họ có minh quân trị nước mà muốn thôn tính Đại Liêu, chúng ta khó lòng địch nổi. May mà thằng lỏi Triệu Hú mới lên cầm quyền đã làm điều bất nghĩa, đuổi hết những vị đại thần có kiến thức, ngay cả Tô Đông Pha cũng bị biếm ra chốn biên cương. Lúc này vua tôi họ chẳng đồng lòng, thật là cơ hội ngàn năm một thuở. Nếu mình không cử sự thì còn đợi đến bao giờ? " Tiêu Phong nhìn về phía nam, tưởng tượng ra cảnh hàng ngàn hàng vạn quân Liêu rong ruổi, nhà cửa bị tàn phá, lửa cháy ngút trời, già trẻ trai gái ở Trung Nguyên đều bị vó ngựa dày xéo rên xiết; tên bắn như mưa, quân Tống cùng quân Liêu chiến đấu cực kỳ khốc liệt. Những cảnh máu đổ thành sông, xương chất thành núi, như hiện ra trước mắt chàng. Gia Luật Hồng Cơ lại lớn tiếng nói:" Tổ tông người Khất Đan ta lúc nào cũng nghĩ đến chuyện thu phục Nam triều, nhưng mấy phen hành động đều bị thất bại. Ngày nay chúng ta có được thiên thời, có thể lập nên công lớn. Hiền đệ! Sau này tên tuổi hai ta được lưu vào sử xanh, há chẳng hay lắm ru? " Tiêu Phong quì hai gối xuống đất, liên tiếp dập đầu rồi nói:" Bệ hạ! Thần có một việc khẩn cầu. "Gia Luật Hồng Cơ cực kỳ kinh ngạc, đáp:" Hiền đệ có điều chi? Nếu sức ca ca làm được thì bất luận điều gì cũng ưng thuận! "Tiêu Phong nói:" Xin bệ hạ rủ lòng thương đến ức triệu sinh linh của hai nước Tống, Liêu mà thu ý chỉ nam chinh lại. Người Khất Đan chúng ta sinh sống bằng nghề săn bắn chăn nuôi, dù có lấy được đất đai Nam triều cũng bằng vô dụng. Huống chi việc đao binh hung hiểm khó mà nói trước được. Giả tỉ mình bị bất lợi thì không khỏi thương tổn đến oai danh của bệ hạ. " Gia Luật Hồng Cơ nghe thấy Tiêu Phong không muốn cử binh nam chinh thì hết sức ngạc nhiên. Người Khất Đan từ vương công cho đến tướng soái đại thần, ai mà nghe thấy hai chữ" nam chinh "cùng nhảy nhót reo hò, không hiểu sao Tiêu Phong lại khuyên can ngăn trở. Gia Luật Hồng Cơ lại liếc nhìn Tiêu Phong, thấy chàng rủ cặp lông mày ra vẻ lo buồn, thì nghĩ thầm:" Ta phong cho y làm Tống Vương kiêm Bình Nam Đại Nguyên Soái, thế là y chỉ ở dưới một mình ta, mà trên cả muôn người, sao y lại không hớn hở mừng vui? Phải rồi! Tuy y là người Liêu, nhưng từ thuở nhỏ đã được bọn Nam man nuôi dạy, có thể nói phân nửa là người Nam man. Nước Đại Tống đối với y đã thành quê hương cố thổ, nên y nghe ta định phát binh đánh Nam man mới cực lực can gián. Thế thì dù ta có ép được y dẫn binh nam chinh, e rằng y cũng không chiu tận tâm tận lực. "Liêu chúa lại nói:" Ý ta đã quyết nam chinh, hiền đệ chẳng nên nói nhiều nữa. " Tiêu Phong nói:" Chinh chiến là việc lớn của quốc gia, xin bệ hạ nghĩ kỹ. Nếu bệ hạ quyết ý nam chinh, xin hãy ủy thác cho bậc hiền tài nào khác. Hạ thần mà thống lĩnh ba quân, e rằng làm lỡ việc lớn của bệ hạ. " Chuyến này Gia Luật Hồng Cơ phấn khởi xuôi nam, phong cho Tiêu Phong quan tước lớn, hạ lệnh cho chàng đem quân nam chinh, nghĩ tới tình nghĩa huynh đệ mà ban ân điển, đinh ninh rằng chàng phải hoan hỉ tạ ơn. Thế mà lão lại bị Tiêu Phong dội một gáo nước lạnh lên đầu, không chịu nhận chức Bình Nam Đại Nguyên Soái, trong lòng thật sự không vui. Liêu chúa lạnh lùng hỏi:" Trong mắt ngươi thì Nam triều trọng hơn Liêu quốc, có phải không? Ngươi trung với Nam triều mà không trung với Đại Liêu ta, có phải không? " Tiêu Phong lạy mọp xuống đất rồi đáp:" Bệ hạ minh xét, Tiêu Phong là người nước Liêu dĩ nhiên là phải tận trung với Đại Liêu. Nếu Đại Liêu gặp nguy nan, Tiêu Phong dù phải nhảy vào lửa cũng tận trung báo quốc, chết vạn lần không lùi bước. " Hồng Cơ nói:" Thằng lỏi Triệu Hú đã nảy ra ý muốn dòm ngó Đại Liêu. Người ta thường nói: Tiên hạ thủ vi cường, hậu hạ thủ tao ương. Chúng ta mà không kiềm chế họ trước thì cái họa vong quốc có thể xảy ra. Ngươi nói là tận trung báo quốc, chết vạn lần không lùi bước, ta muốn ngươi vì nước mà cầm quân, sao ngươi lại không chịu? " Tiêu Phong đáp:" Thần bình sinh giết người đã lắm, thực tình không muốn nhúng tay vào máu nữa. Cầu xin bệ hạ cho thần được từ quan, vào chốn sơn lâm ẩn cư. " Gia Luật Hồng Cơ nghe Tiêu Phong xin từ quan thì trong lòng căm giận, chỉ muốn giết ngay lập tức. Lão nắm lấy chuôi đao, toan rút ra chém vào cổ Tiêu Phong, nhưng lại nghĩ:" Người này võ công lợi hại, nếu mình chém y một đao mà không chết thì tất bị y sát hại. Huống chi ngày trước y đã có đại công cứu mạng, lại cùng mình kết nghĩa anh em. Thế mà ngày nay chỉ vì một câu nói không hợp đã giết kẻ công thần, sao khỏi mang tiếng vong ân phụ nghĩa? "Lão bèn thở dài một tiếng, buông đao ra nói:" Ý kiến của chúng ta không hợp nhau, nhất thời khó mà cưỡng ép được. Ngươi hãy về nghĩ lại. Mong rằng ngươi sẽ hồi tâm chuyển ý mà phụng mạng nam chinh. " Tiêu Phong tuy phủ phục dưới đất, nhưng người đứng bên chỉ chau mày hay nhúc nhích ngón tay chàng cũng biết ngay, huống chi Gia Luật Hồng Cơ tay nắm chuôi đao nảy ý giết người? Chàng biết rằng nếu mình còn đối đáp với Hồng Cơ thì càng nói càng căng thẳng, khó tránh khỏi chuyện trở mặt nhau, liền đáp ngay:" Tuân chỉ! "Rồi chàng lập tức đứng dậy, dắt ngựa lại cho Hồng Cơ. Hồng Cơ không nói nửa lời, nhảy phắt lên lưng ngựa, phóng đi ngay. Vua tôi lúc trước cưỡi ngựa song song đi xuống phía nam, bây giờ quay về phía bắc thì chúa trước tôi sau, cách nhau đến nửa dặm dường. Tiêu Phong biết rằng Gia Luật Hồng Cơ đã sinh lòng nghi kỵ, nếu chàng đi gần quá thì sợ nhà vua không yên lòng, mà đối với chuyện nam chinh cũng không biết nói gì thêm, nên chàng đi sau một quãng xa. Hai người về đến thành Nam Kinh, Tiêu Phong mời Liêu chúa nghỉ lại trong phủ Nam Viện Đại Vương. Hồng Cơ cười nói:" Ta không ở lại Vương phủ để khỏi phiền hiền đệ, chỉ muốn hiền đệ được yên tĩnh mà suy tính cho kỹ những chuyện họa phúc lợi hại. Ta về ngự doanh mà nghỉ! "Tiêu Phong liền đưa Hồng Cơ đến ngự doanh. Hồng Cơ có đem từ Thượng Kinh đến rất nhiều bảo đao bảo kiếm cùng ngựa hay gái đẹp, ban thưởng cho Tiêu Phong hết. Tiêu Phong tạ ơn, nhận lấy đưa về Vương phủ. Tiêu Phong rất ít khi đích thân lo chính sự, lại không ưa sách vở chữ nghĩa, nên trong vương phủ chẳng có thư phòng chi hết. Ngày thường chàng cùng chư tướng ngồi bệt trong đại sảnh chuyển bì rượu mà uống, xẻo thịt ra mà ăn, vẫn giữ tập quán thô hào như ở Cái Bang năm trước. Khi các tướng Khất Đan ở trong lều trướng nơi sa mạc thì cũng vậy mà thôi, họ thấy đại vương thân cận hòa đồng với mọi người, được đại vương đích thân tiếp đãi như thế thì lấy làm hoan hỉ. Tiêu Phong ở ngự doanh trở về thì trời vừa tối. Lúc chàng bước vào đại sảnh, thấy dưới ánh lửa lập lòe có một thiếu nữ áo tía nằm phục trên tấm da hổ, chính là A Tử. Nàng nghe tiếng bước chân Tiêu Phong đi vào, liền nhỏm đậy, chạy ra ôm lấy cổ, rồi nhìn thẳng vào mắt chàng hỏi:" Muội đến đây, huynh có vui mừng không? Sao vẻ mặt huynh lại buồn bã như thế? "Tiêu Phong lắc đầu đáp:" Ta còn có việc khác. A Tử! Muội đến đây, ta mừng lắm. Trên đời này ta chỉ còn nghĩ đến một mình muội, lúc nào ta cũng lo Tử muội gặp chuyện không may. Nay Tử muội lại quay về cạnh ta, đôi mắt cũng khỏi rồi, thì ta không còn lo lắng gì nữa. " A Tử cười nói:" Tỉ phu! Chẳng những tiểu muội chữa khỏi mắt, mà còn được hoàng thượng phong làm công chúa. Huynh có thích không? "Tiêu Phong đáp:" Có phong làm công chúa hay không, thì Tiểu A Tử vẫn là Tiểu A Tử. Hoàng thượng lại thăng quan cho ta, ôi thôi! "Chàng thở dài một tiếng, xách một túi rượu lên, mở nắp ra uống ừng ực hai ngụm lớn. Bốn vách đại sảnh xếp toàn bì rượu, lúc nào Tiêu Phong hứng lên lại uống, không cần có người phục thị. A Tử cười nói:" Cung hỉ tỉ phu lại được thăng quan! " Tiêu Phong lại thở dài, đáp:" Hoàng thượng phong cho ta làm Tống Vương, Bình Nam Đại Nguyên Soái, thống lĩnh ba quân đi chinh phạt Nam triều. Muội nghĩ mà xem, nếu xảy ra chiến tranh thì phải mất mạng bao nhiêu quan binh cùng bách tính? Vì ta không chịu lãnh mệnh, nên hoàng thượng đem lòng tức giận. " A Tử nói:" Tỉ phu! Huynh thật là cổ quái! Muội nghe người ta kể, khi ở Tụ Hiền Trang, huynh đã sát hại vô số hào kiệt võ lâm Trung Nguyên mà không thở dài một tiếng. Bọn dã man võ lâm Trung Nguyên khinh mạn huynh quá sức tệ hại. Hôm nay chẳng phải dễ dàng mà huynh được hoàng thượng cho một cơ hội nở mày nở mặt, thống lĩnh đại quân giết sạch chúng mà rửa hận. Thế mà nét mặt huynh lại không vui là nghĩa làm sao? " Tiêu Phong lại nâng bì rượu lên uống một ngụm lớn, rồi thở dài đáp:" Ngày ấy ta cùng tỉ tỉ của muội bị vây đánh, nếu mình không quyết chiến thì phải bị loạn đao phân thây, đó là trường hợp bất đắc dĩ. Hôm ấy ta phải giết không ít hảo bằng hữu, mỗi khi nghĩ đến lại hối hận trong lòng. " A Tử nói:" À! Tiểu muội hiểu rồi, ngày ấy huynh vì A Châu nên mới giết người. Vậy bây giờ huynh hãy vì muội mà giết bọn Nam man, như vậy có được không? " Tiêu Phong trợn mắt lên nhìn nàng, nghiêm giọng đáp:" Mạng người là chuyện lớn, vậy mà muội nói cứ như giết dê, giết bò. Gia gia Tử muội tuy là người Đại Lý, song má má Tử muội cũng là người Tống. " A Tử bĩu môi, xoay lưng lại rồi nói:" Muội đã sớm biết rồi. Trong lòng huynh thì một ngàn muội cũng không bằng một tỉ tỉ, một vạn A Tử còn sống cũng chưa bằng một A Châu đã chết rồi. Tiểu muội chắc là phải chết may ra mới được tỉ phu nghĩ tới một chút. Nếu tiểu muội biết thế này.. thì chẳng tội gì mà lặn lội đường xa diệu vợi đến đây để.. thăm tỉ phu.. Tỉ phu có bao giờ quan tâm đến tiểu muội đâu? " Tiêu Phong nghe lời nói của nàng đầy vẻ oán hận, bất giác tim chàng đập loạn lên, ngờ rằng cô bé này ngấm ngầm có tình ý với mình. Chàng liền đáp:" A Tử! Muội còn nhỏ tuổi, bướng bỉnh mà tức tối, không hiểu được chuyện của người lớn.. "A Tử cướp lời:" Cái gì mà nhỏ tuổi với cả người lớn? Muội không còn nhỏ nữa đâu. Huynh đã nhận lời với tỉ tỉ mà lo lắng cho muội.. huynh chỉ lo lắng cho cơm ăn áo mặc.. huynh có lo lắng đến tâm sự của muội không? Huynh chưa bao giờ nghĩ tới trong lòng muội đang nghĩ đến chuyện gì. "Tiêu Phong càng nghe lại càng kinh hãi, không dám đáp lời. A Tử quay người lại, nói tiếp:" Hôm trước muội bị mù lòa, tự biết huynh chẳng ưa gì mình, nên muội cũng chẳng đến thân cận làm chi. Bây giờ đôi mắt muội lành rồi, huynh cũng chẳng thèm nghĩ đến. Muội.. muội kém A Châu tỉ tỉ ở chỗ nào? Muội không dễ nhìn bằng tỉ tì ư? Muội kém thông minh hơn tỉ tỉ ư? Chỉ vì tỉ tỉ chết rồi, nên lúc nào tỉ phu cũng nhớ. Muội.. muội chỉ hận không được huynh đánh cho một chưởng chết ngay, như thế thì huynh mới bớt nghĩ đến A Châu mà nghĩ đến muội.. " A Tử nói đến chỗ thương tâm, đột nhiên nhảy xổ vào lòng Tiêu Phong rồi khóc òa lên. Tiêu Phong nhất thời chân tay luống cuống, không biết phải làm gì. A Tử nghẹn ngào một lúc, rồi lại nói:" Muội có còn là đứa trẻ con nữa đâu? Vào đêm mưa gió ở bên cây cầu nhỏ, muội thấy huynh đánh chết tỉ tỉ, rồi khóc lóc cực kỳ thảm thiết. Muội thấy thế mà thương huynh vô cùng, vô cùng. Trong lòng muội đã nghĩ, huynh đừng đau lòng như thế, đã mất A Châu thì muội sẽ thay thế A Châu mà chăm sóc cho huynh hết tình hết ý. Muội đã định bụng đi theo huynh suốt đời, nhưng lại không lọt vào mắt của huynh. Vì huynh nhất định không cho muội đi theo, nên muội mới rủa thầm: Được rồi! Ngươi đã không chịu, thì ta quyết làm cho ngươi thành tàn phế để ta muốn làm gì làm, bắt ngươi phải đi theo ta suốt đời. " Tiêu Phong lắc lắc đầu rồi nói:" Đừng nhắc đến những chuyện đã qua nữa. "A Tử la lên:" Cái gì mà gọi là chuyện đã qua? Vĩnh viễn trong lòng muội, những chuyện đó như mới phát sinh. Đâu phải muội chưa từng nói với huynh, nhưng trước nay huynh có coi muội ra gì đâu? " Tiêu Phong nhẹ nhàng vuốt tóc A Tử, khẽ nói:" A Tử! Ta lớn tuổi hơn muội nhiều. Ta chỉ có thể lo lắng cho muội như một vị thúc thúc hoặc ca ca mà thôi. Suốt đời ta chỉ yêu có một người, đó là tỉ tỉ của muội. Vĩnh viễn không có nữ nhân thứ hai nào thay thế cho A Châu được. Ta nhất định không thể yêu một cô gái nào nữa. Hoàng thượng đã ban cho ta hơn một trăm mỹ nữ, mà ta chưa để mắt nhìn đến bao giờ. Ta quan tâm đến muội, hoàn toàn chỉ vì A Châu. " A Tử vừa giận vừa buồn, vung tay lên tát mạnh vào mặt Tiêu Phong đánh bốp một cái. Giả tỉ Tiêu Phong muốn né tránh thì làm sao phát chưởng này đánh trúng mặt chàng được? Nhưng chàng thấy A Tử căm hận đến xám mặt, toàn thân run lẩy bẩy, mục quang lộ vẻ cực kỳ đau khổ, nên không nỡ tránh phát chưởng này. A Tử tát xong lại hối hận, la lên:" Tỉ phu! Là muội không tốt, huynh.. huynh đánh muội đi, đánh muội đi! "Tiêu Phong nói:" Thế còn chưa phải là tính tình trẻ nít ư? A Tử! Trên thế gian này chẳng có việc gì là quá lớn không giải quyết được, muội bất tất phải thương tâm làm chi. Sao mục quang của muội lai buồn thảm đến thế? Tỉ phu chỉ là một hán tử thô lỗ, ở cạnh muội mà chỉ biết khuyên muội đừng đau buồn nữa. " A Tử hỏi:" Mục quang của muội trông buồn thảm lắm ư? Ôi, đó là của gã Xú Bát Quái đã cho muội. "Tiêu Phong hỏi:" Gã Xú Bát Quái nào đã cho muội? "A Tử nói:" Đôi tròng mắt này là của gã Xú Bát Quái đầu sắt đã cho tiểu muội. "Tiêu Phong nhất thời vẫn chưa hiểu được, liền hỏi:" Gã Xú Bát Quái đầu sắt là ai? "A Tử đáp:" Gã là Bang chủ Cái Bang tên gọi Trang Tụ Hiền. Huynh có biết gã là ai không? Nói tới lại không khỏi cười vỡ bụng, gã chính là Du Thản Chi mà muội đã chụp cái lồng sắt vào đầu. Gã là con của Du Câu nhị trang chủ Tụ Hiền Trang, đã từng ném vôi bột vào mắt huynh. Không hiểu gã học được võ công cổ quái ở đâu, rồi cứ lẽo đẽo theo muội mãi, dám liều mạng để mong được muội thương yêu. Lúc muội mù lòa đã bị gã lừa gạt cực kỳ đau khổ, cứ gọi tới gọi lui gã là Trang công tử. Bây giờ, mỗi khi nghĩ đến muội lại xấu hổ vô cùng! " Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi:" Té ra Trang Bang chủ Cái Bang chính là gã Thiết Sửu đồ chơi của muội, hèn gì mặt gã đầy những sẹo, chắc là khi tháo cái đầu sắt đã bị tổn hại đến da mặt. Gã Thiết Sửu này lại là Du Thản Chi ư? Hừ, thật ra thì muội đã chơi ác quá rồi, hại người ta đến như thế. Người này không nghĩ đến oán cũ, lại hết lòng với muội, thật là hiếm có. " A Tử cười nhạt nói:" Hừ! Cái gì mà hiếm có? Có phải gã thật sự hảo tâm đâu? Gã chỉ muốn nịnh nọt để lấy cho được tiểu muội. " Tiêu Phong nhớ lại hôm trước ở trên núi Thiếu Thất, Du Thản Chi đã đăm đăm nhìn A Tử bằng cặp mắt thâm tình, nhưng lúc đó chàng không để tâm lắm. Tiêu Phong lại hỏi:" Muội hiểu ra chân tướng gã, rồi nổi nóng lên giết phắt gã đi phải không? Rồi muội móc lấy cặp mắt phải không? "A Tử lắc đầu đáp:" Không phải, muội không giết gã. Cặp mắt này là gã tự nguyện cho muội. "Tiêu Phong lại càng không hiểu, liền hỏi:" Sao gã lại móc mắt ra cho muội? " A Tử đáp:" Gã là một tên si ngốc. Muội lên cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu tìm Hư Trúc Tử để xin chữa mắt. Y lục sách thuốc ra đọc mất nửa ngày, rồi nói là phải có mắt người sống thay vào mới được. Toàn bộ bọn nữ nhân trong cung Linh Thứu đều là thuộc hạ Hư Trúc Tử. Muội đến xin y chữa mắt, dĩ nhiên không tiện móc mắt bọn nữ nhân đó, bèn sai Du Thản Chi xuống núi tìm một người, thì gã khóc ròng, nói là khi muội khỏi mắt rồi, nhìn thấy chân tướng gã chắc chắn sẽ không quan tâm gì đến gã nữa. Muội đã bảo là vẫn coi gã như cũ, nhưng gã không tin. Ngờ đâu gã lấy một lưỡi dao nhọn đưa cho Hư Trúc Tử, bảo lấy mắt gã mà thay. Gã đã tự nguyện như thế, mà Hư Trúc Tử vẫn không chịu. Gã đầu sắt liền cầm dao rạch vào người mấy nhát, rạch lên mặt mấy nhát, rồi nói, nếu Hư Trúc Tử không chịu thì gã tự sát ngay lập tức. Hư Trúc Tử không biết làm sao, đành lấy mắt gã để thay vào cho muội. " A Tử kể lại câu chuyện một cách thản nhiên như chuyện đương nhiên phải thế, nhưng Tiêu Phong nghe thì lại cho là chuyện rùng rợn bình sinh chưa thấy, còn kinh tâm động phách hơn cả ác đấu giết người. Hai tay chàng run lên, đánh rơi bi rượu xuống đất nghe" bịch "một tiếng rồi hỏi:" A Tử! Du Thản Chi cam tâm tình nguyện đem cặp mắt tặng cho ngươi ư? "A Tử đáp:" Đúng thế! "Tiêu Phong nói:" Ngươi.. ngươi đúng là lòng dạ sắt đá, người ta tặng mắt cho ngươi mà ngươi cũng nhận ư? " A Tử nghe chàng xẵng giọng, hai hàng nước mắt lại chảy ra, rồi khóc òa lên nói:" Tỉ phu! Nếu huynh bị mù mắt thì muội cũng cam tâm tình nguyện tặng cặp mắt cho huynh! " Tiêu Phong nghe giọng nàng cực kỳ thiết tha, tuyệt không chút giả trá nên không khỏi động lòng, dịu dàng nói:" A Tử! Tình cảm của vị Du quân dành cho muội là cực kỳ thâm trọng. Muội có phúc mà không chịu hưởng, trên thế gian này, ngoài y ra thì còn tìm đâu được một vị lang quân thứ hai hữu tình như thế? Hiện giờ y ở đâu? " A Tử đáp:" Chắc là gã còn ở cung Linh Thứu. Gã đã mù lòa thì làm sao mà xuống được núi Phiêu Diểu? " Tiêu Phong nói:" Ôi chao! Không chừng nhị đệ sẽ tìm được một tên tử tù để thay mắt cho gã. "A Tử nói:" Không được đâu! Tiểu hòa thượng.. không phải, Hư Trúc Tử đã nói, mắt của muội chỉ bị Đinh Xuân Thu dùng chất độc làm mù, kinh mạch chưa đứt, bên trong vẫn tốt, nên có thể thay cặp tròng mắt được. Còn Du Thản Chi bị móc mắt ra thì kinh mạch bị đứt hết, không thay lại được nữa. "Tiêu Phong nói:" Muội mau mau đi tìm y, rồi vĩnh viễn không rời xa gã nữa. "A Tử lắc đầu đáp:" Muội không đi, muội chỉ kề cận tỉ phu mà thôi. Con người xấu như quỷ sứ kia, muội chỉ trông thấy là đã muốn nôn, làm sao đi với gã được? "Tiêu Phong tức giận nói:" Tuy mặt y xấu xí, nhưng lòng dạ y đẹp gấp trăm lần ngươi. Ta không muốn ở cạnh ngươi, ta không muốn nhìn thấy ngươi nữa. "A Tử khóc rống lên:" Muội.. muội.. " Bỗng nghe có tiếng chân người bước tới cửa, rồi hai gã vệ sĩ đồng thanh nói:" Thánh chỉ tới! "Cánh cửa mở ra, Tiêu Phong cùng A Tử quay người lại, thấy sứ giả của hoàng đế tiến vào sảnh đường. Nghi lễ ở triều đình nước Liêu không phiền phức như ở Đại Tống, thần tử thấy sứ giả của hoàng đế mang chiếu chỉ tới thì chỉ đứng nghiêm trang để nghe đọc, không phải mặc triều phục, bày hương án, quì xuống tiếp chỉ. Sứ giả lớn tiếng nói:" Hoàng thượng triệu Bình Nam Công Chúa vào triều kiến. "A Tử đáp:" Vâng! "Rồi lau nước mắt, đi theo sứ giả. Tiêu Phong nhìn sau lưng A Tử, nghĩ thầm:" Du Thản Chi đối với nàng hết dạ chung tình, thật là cổ kim hiếm có. Chỉ vì mối tình đầu của nàng đã đặt vào ta, mà lúc nàng bị trọng thương, ta lại không tị hiềm nam nữ, đến nỗi nàng mang một mối tình si từ lúc còn nhỏ tuổi. Ta phải bảo nàng quay về với Du quân. Người ta đối với nàng như vậy, nếu nàng ruồng bỏ con người đui mù đáng thương đó, thì hoàng thiên tất chẳng dung tha "Tiếng bước chân của sứ giả và A Tử đi mỗi lúc một xa, rồi dần dần không nghe thấy nữa. Tiêu Phong lại nghĩ tới chuyện Gia Luật Hồng Cơ quyết ý sai chàng đi đánh Tống. Chàng nghĩ thầm:" Không hiểu hoàng thượng triệu kiến A Tử có việc gì? Chắc chỉ để bảo nàng khuyên mình vâng mệnh đánh Tông. Nếu mình cương quyết không tuân chiếu chỉ thì còn đâu là phép nước? Vừa rồi ở phía nam thành đã xảy ra tranh chấp, hoàng thượng nắm lấy chuôi đao, đã nổi sát khí, nhưng chắc ngài nghĩ lại tình chúa tôi, nghĩa huynh đệ rồi cố nén lòng. Nếu mình phụng mệnh phạt Tống, tàn sát ngàn ngàn vạn vạn người Tống, thì quá nhẫn tâm. Huống chi phụ thân lại đã xuất gia ở chùa Thiếu Lâm, nếu người nghe mình dẫn quân nam chinh thì nhất định phải đau lòng. Hỡi ôi! Mình chống lại lệnh vua là kẻ bất trung, không vẹn tình kim lan là bất nghĩa. Mình đem quân nam chinh tàn sát bá tính lại là bất nhân, trái với ý nguyên của phụ thân lại là bất hiếu. Trung hiếu khó vẹn, nhân nghĩa khó toàn, mình biết làm sao cho phải? Thôi, thôi! Chức Nam Viện Đại Vương này không làm nữa, mình không chờ từ biệt, cứ treo ấn mà bỏ đi, nhưng đi đâu bây giờ? Trời đất mênh mông mà không có chỗ cho Tiêu Phong này dung thân! Chàng nâng bì rượu lên, nốc hai ngụm lớn, rồi tự nhủ: "Ta chờ A Tử quay về, rồi dẫn nàng lên núi Phiêu Diểu. Một là đưa nàng lại cho Du quân, hai là ở chơi với nhị đệ ít ngày, rồi sau sẽ liệu." * * * A Tử đi theo sứ giả đến ngự doanh, nàng vừa nhìn thấy Gia Luật Hồng Cơ đã nói: "Hoàng thượng! Cái chức Bình Nam Công Chúa này xin trả lại cho ngài, muội không làm nữa!" Lý do Hồng Cơ triệu kiến A Tử quả không ngoài dự liệu của Tiêu Phong, chỉ muốn nàng về khuyên Tiêu Phong phụng chỉ mà nam chinh. Vừa nghe A Tử nói, hoàng thượng đã chau mày, giận dữ quát: "Việc triều đình phong thưởng là đại sự quốc gia, đâu phải chuyện trẻ con mà muốn làm là làm, không làm thì thôi?" Hồng Cơ sủng ái Tiêu Phong, yêu hoa thích cả lá nên vẫn thường nuông chiều A Tử, lão đột nhiên mắng câu này kể ra cũng nặng. A Tử nấc một tiếng, rồi òa lên khóc. Hồng Cơ giậm chân rồi nói: "Nói năng loạn xạ, thật chẳng ra gì!" Bỗng phía sau trướng có thanh âm nữ nhân trong trẻo vang lên: "Hoàng thượng giận dữ chuyện gì vậy? Sao lại làm tiểu cô nương phải khóc lóc thế kia?" Rồi có tiếng ngọc khua đinh đang, một thiếu phụ sang trọng bước ra. Thiếu phụ này mắt long lanh như sóng, miệng tươi tắn như hoa. A Tử biết đây là Mục quý phi, vốn rất được Hồng Cơ sủng ái. Nàng vừa khóc vừa nói: "Mục quý phi! Quý phi phân xử công bằng giúp, tiểu nữ chỉ nói là không làm Bình Nam Công Chúa nữa, mà hoàng thượng đã quát mắng ngay." Mục quý phi thấy nàng khóc lóc trông rất đáng thương. Lâu ngày gặp lại, bà thấy A Tử đã cao lớn hơn, dung nhan cũng diễm lệ hơn, bèn quay lại liếc Hồng Cơ một cái, bĩu môi mỉm cười nói: "Hoàng thượng! Nàng không chịu làm Bình Nam Công Chúa, thì hoàng thượng phong làm Bình Nam Quý Phi đi!" Hồng Cơ vỗ đùi rồi nói: "Nói nhảm, nói nhảm! Ta phong cho cô bé này cùng Tiêu Phong hiền đệ, một người làm Bình Nam Đại Nguyên Soái, một người làm Bình Nam Công Chúa, lại muốn chúng kết hôn với nhau một cách vẻ vang. Không ngờ hiền đệ đã không chịu làm Bình Nam Đại Nguyên Soái, bây giớ cô bé cũng không chịu làm Bình Nam Công Chúa nốt. Phải rồi! Ngươi là người Nam man, không thích chuyện ta bình nam, có phải vậy chăng?" A Tử đáp: "Muội có nghĩ gì đến chuyện ngài bình nam hay chẳng bình nam đâu? Ngài muốn bình đông cũng được, mà bình tây cũng xong, muội hoàn toàn không quan tâm. Nhưng tỉ phu của muội.. tỉ phu bắt muội phải lấy tên Xú Bát Quái đui mắt." Hồng Cơ cùng Mục quý phi đều ngạc nhiên hỏi: "Sao lại thế?" A Tử không muốn nói rõ nguyên do, chỉ đáp: "Tỉ phu không thích muội, bắt muội đi lấy người khác." Giữa lúc ấy bên ngoài trướng có tiếng người kêu khẽ: "Hoàng thượng!" Hồng Cơ chạy ra, thấy một tên vệ sĩ thân tín được cử sang hầu cận Tiêu Phong. Gã hạ giọng nói: "Khải tấu hoàng thượng! Tiêu đại vương đóng cửa công khố, dùng vải gói kim ấn lại rồi treo lên xà nhà, dường như.. đại vương.. muốn không từ biệt mà bỏ đi." Hồng Cơ nghe mà tức giận vô cùng, quát lên: "Phản rồi! Phản rồi! Hắn có còn coi ta là hoàng đế nữa không?" Lão ngầm nghĩ một chút, rồi gọi: "Truyền Ngự Doanh chỉ huy sứ vào đây!" Ngự Doanh chỉ huy sứ vừa lật đật chạy vào, Hồng Cơ đã ra lệnh: "Ngươi lập tức đem binh mã đến vây chặt Nam Viện Vương phủ." Lão lại xuống chỉ: "Đóng chặt cổng thành, bất luận là ai cũng không được ra vào." Hồng Cơ sợ Tiêu Phong thống lĩnh bộ thuộc làm phản, liền truyền lệnh gọi hết các bộ tướng dưới trướng Nam Viện Đại Vương đến ngự doanh. Mục quý phi đang ngồi trong trướng, nghe bên ngoài có tiếng tù và inh ỏi, tiếng vó ngựa dồn dập, không biết đã xảy ra biến cố gì. Người Khất Đan vốn không phân biệt nam nữ nghiêm khắc lắm, bà chạy ra ngoài trướng, khẽ hỏi Hồng Cơ: "Bệ hạ! Đã xảy ra chuyện gì? Sao bệ hạ phải nổi giận xung thiên như vậy?" Hồng Cơ tức giận nói: "Thằng cha Tiêu Phong thật không biết tốt xấu, dám phản ta mà bỏ đi. Lòng hắn vẫn hướng về Nam triều, chắc là hắn tính đi báo tin cho bọn Nam man. Hắn đã biết rất nhiều bí mật quân cơ của Đại Liêu, nếu bỏ qua Tông triều thì thật là nỗi lo trong gan ruột của ta." Mục quý phi trầm ngâm nói: "Thiếp thường nghe bệ hạ nói là võ công hắn rất cao. Nếu không bắt được mà để hắn ra khỏi trùng vi, quả là một mầm họa lớn." Hồng Cơ nói: "Đúng thế!" Rồi lão hạ lệnh cho bọn vệ sĩ: "Lệnh cho các trại Phi Long, Phi Hổ, Phi Báo phải hỏa tốc dẫn quân đến ngoài phủ Nam Viện Đại Vương để tiếp viện." Bọn vệ sĩ ngự doanh vâng lệnh, truyền lệnh xuống cho các trại. Mục quý phi nói: "Bệ hạ! Thiếp có một kế!" Rồi bà ghé tai Hồng Cơ thì thầm một lúc. Gia Luật Hồng Cơ gật đầu nói: "Hay lắm! Việc này mà thành, ta nhất định sẽ trọng thưởng!" Mục quý phi mỉm cười nói: "Được thấy bệ hạ vui lòng đã là trọng thưởng rồi. Bệ hạ đối xử với thiếp như vậy, thiếp còn mong gì hơn nữa?" Bên ngoài điều động binh mã rầm rộ. A Tử ở trong trướng vẫn thản nhiên như không. Trong những cuộc đi săn, người Khất Đan vẫn hò hét quát tháo gọi nhau mà chạy tới chạy lui, nàng đã được thấy hàng ngày, không ngờ Hồng Cơ đang điều động binh mã để đi bắt Tiêu Phong. Nàng ngồi thẫn thờ, ruột rối như mớ bòng bong, cứ thầm nghĩ: "Hôm nay ta thổ lộ tâm tình với tỉ phu, nhưng y.. y chẳng để ý gì đến ta, lại toan bắt ta đi theo gã Xú Bát Quái kia. Ta.. ta thà chết chứ không đi, không đi, không đi, nhất quyết không đi!" Trong lòng nghĩ như thế, hai chân nàng không ngớt giẫm lên đầu con cọp thêu trên tấm thảm. Thốt nhiên, một bàn tay khẽ đạt lên vai A Tử. Nàng giật mình ngoảnh đầu nhìn lại, thì chạm phải mục quang ấm áp dịu hiền của Mục quý phi. Bà cười hỏi: "Tiểu muội muội! Sao muội lại xuất thần như thế? Muội đang nghĩ tới tỉ phu, có phải thế không?" A Tử nghe bà nhắc đến tâm sự của mình, bất giác hai má đỏ lên, cúi đầu không nói gì. Mục quý phi ngồi xuống cạnh A Tử, khẽ cầm tay nàng vuốt ve, dịu dàng nói: "Tiểu muội muội! Tính khí bọn nam nhân thường thô lỗ nóng nảy. Nhất là Hoàng thượng cùng Nam Viện Đại Vương đều là anh hùng hảo hán đương thời, muốn thu phục tấm lòng của họ thật là không phải dễ." A Tử gật gật đầu, nghĩ ràng bà nói câu này có lý. Mục quý phi lại nói: "Trong hậu cung chúng ta có tới hàng trăm hàng ngàn nữ nhân, thật không biết bao nhiêu người mỹ lệ hơn ta, khéo chiều chuộng hoàng thượng hơn ta. Thế mà hoàng thượng chỉ sủng ái một mình ta, một phần là vì duyên phận, một phần là nhờ ta quen với một vị lão hòa thượng ở Thánh Đức Tự tại Thượng Kinh. Tiểu muội tử! Tỉ phu cũa muội không đặt trái tim vào muội, nhưng muội cũng chẳng nên buồn phiền. Khi nào ta cùng hoàng thượng về Thượng Kinh, muội hãy cùng đi một chuyến, đến gặp vị cao tăng tại Thánh Đức Tự, xin người tìm phép giúp muội." A Tử ngạc nhiên hỏi: "Vị lão hòa thượng ấy có phép gì?" Mục quý phi đáp: "Việc này ta chỉ nói với muội, muội ngàn vạn lần không được kể với ai. Bây giờ muội phải thề với ta là quyết không tiết lộ bí mật!" A Tử liền nói: "Nếu muội mà tiết lộ bí mật của Mục quý phi thì sẽ bị loạn đao phân thây, chết không toàn thi thể." Mục quý phi trầm ngâm một lát rồi nói: "Không phải là ta không tin muội, nhưng vì.. vì sự việc này liên quan trọng đại. Muội phải thề nặng hơn mới được." A Tử đáp: "Được! Nếu muội mà tiết lộ bí mật của Mục Quý phi thì sẽ bị chính tỉ phu của muội phóng chưởng đánh chết." Nàng nói đến đây, trong lòng cảm thấy chua xót, nhưng cũng có chút ít hương vị ngọt ngào. Mục Quý phi gật đầu, nói: "Bị người mình yêu phóng chưởng đánh chết, thì thật là bi thảm gấp trăm lần loạn đao phân thây. Bây giờ ta tin muội rồi. Tiểu muội tử! Vị cao tăng này Phật pháp vô biên, thần thông quảng đại. Sau khi ta quỳ xuống cầu khẩn, hòa thượng cho ta hai lọ nhỏ nước thánh, dặn ta ngấm ngầm khấn vái rồi lén cho người mình yêu uống vào. Người nào đã uống nước thánh đó thì đến chết cũng không thay lòng đổi dạ. Ta đã cho hoàng thượng uống một lọ rồi, hãy còn một lọ đây." Bà nói xong, móc trong bọc ra một chiếc lọ sứ nhỏ xíu màu đỏ tươi, nắm thật chặt tựa như chỉ sợ rơi xuống mà bể mất. Thật ra dưới nền có trải thảm dày, dù có rơi xuống cũng chẳng sao. A Tử vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, mở miệng năn nỉ: "Hảo tỉ tỉ, cho muội xem một chút!" Mục quý phi nói: "Xem thì được, nhưng đừng dốc lên." Hai tay bà trịnh trọng đưa lọ thuốc cho A Tử. A Tử đón lấy, mở nút ra ngửi thì thấy một mùi hương thoang thoảng. Mục quý phi lập tức đưa tay ra lấy lọ thuốc về, đút nút gỗ lại, dùng sức ấn chặt như chỉ sợ thuốc bay hơi mất, rồi nói: "Kể ra thì ta cũng muốn cho muội. Nhưng e rằng vạn nhất hoàng thượng thay lòng đổi dạ, thì ta không còn nước thánh mà dùng nữa." A Tử nói: "Tỉ tỉ vừa nói hoàng thượng uống vào thì vĩnh viễn không thay lòng đổi dạ nữa kia mà?" Mục quý phi mỉm cười đáp: "Nói thì nói thế, nhưng không biết hiệu quả của nước thánh này có được bền không. Nếu bền vĩnh viễn thì sao vị lão hòa thượng đó phải cho ta đến hai lọ? Ta chỉ lo bọn phi tần khác mà có, thì chúng cũng lén cho hoàng thượng uống, dĩ nhiên hoàng thượng sẽ thay lòng đổi dạ với ta, chia sẻ tình yêu.." Ngay lúc đó, bỗng nghe tiếng Gia Luật Hồng Cơ ở ngoài ngự doanh la gọi: "A Mục! Ngươi ra đây, ta có chuyện muốn hỏi." Mục Quý phi cười đáp: "Ra ngay!" Rồi bà thoăn thoắt chạy ra. Bỗng một tiếng động nhỏ vang lên, cái lọ nhỏ từ trong bọc Mục quý phi rơi ra, nhưng bà không biết. A Tử vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ, chờ bà ra khỏi phòng rồi chạy lại nhặt lấy chiếc lọ cất vào bọc, nghĩ thầm: "Ta phải đem nước thánh này về cho tỉ phu uống, rồi rót nước lã vào trả lại quý phi. Bà đã được hoàng thượng vĩnh viễn sủng ái, thì cũng chẳng dùng nước thánh này làm gì nữa." Nàng rón rén mở cửa sau, nhẹ nhàng lến ra khỏi ngự doanh, rồi chạy nhanh về phía Vương phủ Nam Viện Đại Vương. * * * A Tử thấy ngoài Vương phủ đang có rất nhiều binh lính, dường như Nam Viện Đại Vương đang phát động binh mã. Nàng tiến vào đại sảnh thì thấy Tiêu Phong đang chắp tay sau lưng, đi lùi đi tới ra chiều nóng ruột. Chàng vừa thấy A Tử thì cả mừng nói: "A Tử! Muội về thật là đúng lúc, ta chỉ sợ muội bị hoàng thượng bắt giữ rồi. Chúng ta phải đi ngay, chậm thì không kịp nữa!" A Tử ngạc nhiên hỏi: "Đi đâu? Tại sao chậm thì không kịp? Vì lẽ gì mà hoàng thượng muốn bắt giữ muội?" Tiêu Phong nói: "Muội nghe mà xem!" Hai người im lặng chú ý nghe, thì ở bốn mặt Vương phủ đều có tiếng vó ngựa dồn dập không ngớt, xen lẫn với tiếng thiết giáp và binh khí khua loảng xoảng, cả bốn phía đông tây nam bắc đều như nhau. A Tử hỏi: "Chuyện gì vậy? Huynh định dẫn quân đi chinh phạt ư?" Tiêu Phong cười khổ, nói: "Những binh lính này không ở trong tay ta nữa. Hoàng thượng sinh lòng ngờ vực, đang muốn bắt ta." A Tử nói: "Hay lắm! Đã lâu chúng ta không được đánh nhau. Huynh với muội cứ xung sát phá vây mà ra." Tiêu Phong lắc đầu nói: "Ân đức của hoàng thượng đối với ta không ít, đã phong ta làm Nam Viện Đại Vương lại còn thăng quan tấn tước. Vì ta nhất quyết chẳng chịu xuất chinh nên ngài bắt buộc phải sinh lòng nghi kỵ. Nếu ta tàn hại thuộc hạ của hoàng thượng là không trọng nghĩa huynh đệ, sẽ bị anh hùng thiên hạ chê cười. Nếu Tiêu Phong này vong ân bội nghĩa thì còn mặt mũi nào mà trông thấy ai? A Tử! Chúng ta chạy đi cho êm thấm, đừng để họ bắt là xong." A Tử nói: "Hừ, chạy thì chạy. Tỉ phu! Bây giờ chúng ta chạy đi đâu?" Tiêu Phong đáp: "Chạy lên cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu." A Tử sa sầm nét mặt đáp: "Muội không muốn gặp gã Xú Bát Quái nữa đâu." Tiêu Phong nói: "Việc khẩn cấp lắm rồi, phải chạy lên núi Phiêu Diểu mà thoát hiểm trước đã, rồi sẽ tính sau." A Tử nghĩ thầm: "Thế là tỉ phu muốn bắt mình lên núi Phiêu Diểu rồi bỏ mình ở đó. Bây giờ phải cho y uống nước thánh để y đem lòng yêu mình, rồi nghe theo lời mình nói. Nếu còn chần chừ, e rằng Mục quý phi đến nơi lấy lại mất. Nàng liền đáp:" Được rồi! Để tiểu muội lấy mấy bộ y phục đã. " Nàng lật đật chạy vào hậu đường, rót nước thánh vào một cái bát lớn, rồi vừa pha rượu cho đầy vừa lâm râm khấn:" Đức Bồ Tát có linh thiêng, xui khiến cho Tiêu Phong uống nước thánh xong sẽ đem hết lòng dạ yêu thương A Tử, rồi kết làm phu phụ, vĩnh viễn không nghĩ tới A Châu tỉ tỉ nữa. "Nàng trở ra sảnh đường nói:" Tỉ phu! Huynh hãy uống cạn bát rượu này cho phân khởi tinh thần. Phen này chúng ta ra đi, chắc là vĩnh viễn không trở lại đây nữa. " Tiêu Phong đỡ lấy bát rượu. Dưới ánh đèn lửa, chàng thấy hai tay A Tử run rẩy, vẻ mặt cũng khác lạ, vừa ra chiều phấn khởi vừa rõ nét ôn nhu, bất giác động lòng nhớ lại chuyện xưa, lúc nào A Châu vui sướng trong lòng thì nét mặt cũng như thế này. Hỡi ôi! Xem chừng A Tử đã quá si tình với mình rồi. Chàng dốc bát rượu vào miệng nuốt ừng ực, rồi hỏi:" Muội đã lấy y phục chưa? "A Tử thấy Tiêu Phong uống cạn nước thánh thì cả mừng, đáp luôn:" Không cần lấy y phục nữa, chúng ta đi thôi! " Tiêu Phong đeo một cái bọc lên vai, trong bọc chỉ đựng ít quần áo và tiền bạc. Chàng khẽ nói:" Bọn chúng đề phòng ta chạy về phía nam, nên ta phải đi về phía bắc. "Chàng dắt tay A Tử lẹ làng đến gần cổng, nhìn thấy hai tên vệ sĩ đang sóng vai đi tới. Tiêu Phong nấp ở sau cổng, hắng giọng một tiếng. Hai tên vệ sĩ vừa chạy lại xem, chàng liền phóng ngón tay ra điểm huyệt nhanh như chớp, rồi kéo chúng vào bụi rậm, khẽ bảo:" Mau đổi mũ áo của hai người này. "A Tử vui vẻ đáp:" Tuyệt diệu! "Hai người lột mũ áo vệ sĩ mặc vào mình, tay cầm trường mâu sóng vai mà đi! A Tử đội mũ sụp xuống tận mí mắt, liếc qua Tiêu Phong thấy chàng rùn người cho thấp xuống mà đi, không khỏi cười thầm. Hai người đi được hơn hai chục bước, bỗng gặp một tên thập phu trưởng dẫn mười tên thân binh đi tuần qua đó. Tiêu Phong cùng A Tử liền tránh vào vệ đường, giơ trường mâu lên chào. Tên thập phu trưởng gật đầu rồi bước qua, nhưng dưới ánh đuốc bỗng thấy A Tử mặc áo giáp vừa dài vừa rộng, không hợp mắt chút nào, bất giác nhìn cái nữa, thì thấy vỏ đao sau lưng nàng cũng kéo lê dưới đất. Hắn tức giận, vung quyền đập xuống vai A Tử, quát hỏi:" Ngươi ăn mặc kiểu gì thế? "A Tử cho là mình bị bại lộ hành tung, liền xoay tay lại nắm lấy cổ tay gã, lại phóng chân đá vào lưng gã. Tên thập phu trưởng kêu lên một tiếng" Úi chao! ", rồi té nhào xuống. Tiêu Phong nói:" Chạy mau! ", rồi kéo A Tử chạy về phía trước. Mười tên thân binh lớn tiếng la:" Có thích khách! Có gian tế! "Chúng chưa biết hai người này là Tiêu Phong và A Tử. Hai người chạy được một quãng nữa thì gặp mười mấy tên khinh kỵ từ phía trước chạy lại. Tiêu Phong giơ trường mâu lên gạt ngang một cái, bọn chúng ngã hết từ trên ngựa xuống đất. Chàng xách A Tử để lên lưng ngựa, rồi chính mình nhảy lên một con khác, kéo ngựa quay đầu lại, chạy thẳng về hướng cửa Bắc. Lúc này binh tướng vây quanh bốn mặt. Vương phủ Nam Viện Đại Vương đều đã biết tin, bốn phương tám hướng đều kéo đến đuổi theo. Tiêu Phong phóng ngựa chạy thật nhanh, quả nhiên chàng dự đoán rất đúng, mười phần quân Liêu thì đến tám phòng thủ phía nam, còn phía bắc thì chỉ lác đác mấy tên. Bọn này cũng đã được báo động, vừa thấy hai người đi đến đã hoảng vía. Chúng cũng tuân theo quân lệnh mà tiến lại ngăn cản, nhưng mới nghe Tiêu Phong quát một tiếng là đã dạt ra tránh chỗ, rồi mới chạy theo sau vừa rượt đuổi vừa la hét. Khi Ngự Doanh chỉ huy sứ điều động nhân mã đuổi tới nơi thì Tiêu Phong cùng A Tử đã chạy xa rồi. Tiêu Phong giục ngựa ra đến cửa Bắc thì cổng thành đã đóng chặt, lại có hơn trăm người canh giữ, cùng đưa trường mâu ra cản đường. Giả tỉ Tiêu Phong xông vào đánh giết thì bọn Liêu binh này không ngăn trở nổi, nhưng chàng chỉ cần chạy thoát thân, không muốn giết hại người cùng một nước. Tiêu Phong vươn tay phải ra xách A Tử từ lưng con ngựa kia qua ôm vào lòng, chân trái nhún vào bàn đạp một cái, hai chân đứng trên lưng ngựa, hít một hơi chân khí rồi phi thân nhảy lên tường thành. Kể ra thì tường thành quá cao, khó nhảy tới được, nhưng chàng đã tính sẵn. Lúc thân hình hết đà, bắt đầu rơi xuống, tay trái chàng đâm mạnh cây trường mâu vào tường thành để mượn sức nhảy lên cái nữa, quả nhiên lên tới mặt thành. Tiêu Phong nhìn ra ngoài thành, chỉ thấy tối đen không có đèn lửa chi hết, chứng tỏ không ai dự đoán là chàng chạy về phía bắc, nên ngoài thành không có một tên quân nào canh giữ. Tiêu Phong hú một tiếng dài, rồi hướng vào trong thành lớn tiếng nói:" Các ngươi về báo với hoàng thượng, Tiêu Phong có tội với hoàng thượng, không dám gặp mặt. Đại ân đại dức của hoàng thượng, Tiêu Phong nhất định không quên. " Chàng ôm lấy lưng A Tử quay người ra ngoài, chỉ cần nhảy xuống khỏi tường thành là như cá lội dưới biển, chim bay trên trời, không còn bị ai câu thúc nữa. Trong lòng chàng đang hoan hỉ, vừa sắp tung mình nhảy xuống thì đột nhiên trong bụng nổi đau kịch liệt, hai tay tê dại. Tay trái đang ôm lưng A Tử bất giác buông lơi, nàng rơi xuống mặt thành. Rồi hai chân chàng cũng nhũn ra, ngã lăn ra bên cạnh A Tử. Bụng chàng tưởng chừng như bị trăm ngàn mũi dao đâm vào, đau đớn vô cùng, không nhịn nổi phải" Ôi chao "một tiếng. A Tử cả kinh la hỏi:" Tỉ phu! Huynh làm sao vậy? "Toàn thân Tiêu Phong co rúm lại, răng khua lách cách mà đáp:" Ta.. ta trúng.. kịch độc.. Đợi.. đợi ta vận khí.. trục ra.. "Chàng vận chân khí vào Đan điền để thúc đẩy chất độc ra ngoài, nhưng không vận khí còn đỡ hơn, vận khí thì toàn thân lại càng đau đớn, nội tức trong Đan điền chỉ đưa lên được vài tấc, rồi trầm xuống lại. Tiêu Phong nghe tiếng vó ngựa dồn dập, có đến nghìn quân khinh kỵ từ phía nam chạy tới. Chàng cố vận khí lần nữa thì tứ chi hoàn toàn tê dại, liền biết ngay là mình trúng phải chất độc lợi hại vô cùng, không thể dùng nội lực thúc đẩy ra được. Tiêu Phong liền bảo:" A Tử! Muội mau mau chạy đi. Ta.. ta không thể đi theo muội được! " A Tử đột nhiên tỉnh ngộ, biết mình đã mắc gian kế của Mục quý phi, chính mình đã đem thuốc độc cho Tiêu Phong uống mà cứ tưởng là nước thánh. Nàng vừa kinh hãi vừa hối hận, ôm lấy cổ Tiêu Phong vừa khóc vừa nói:" Tỉ phu!.. Muội hại huynh rồi, thuốc độc này là muội đã cho huynh uống. "Tiêu Phong đang run lên, chẳng hiểu ra sao, hỏi lại:" Sao muội lại hại chết ta? "A Tử vừa khóc vừa đáp:" Không, không! Mục quý phi cho muội một lọ nước, nói dối muội là huynh uống vào sẽ vĩnh viễn thương yêu, lấy muội làm.. làm vợ. Muội ngu xuẩn nên bị mắc lừa. Tỉ phu! Muội nguyện chết cùng huynh, chúng ta vĩnh viễn không rời nhau nữa. "Nói xong, nàng rút đoản đao ra, toan tự đâm vào cổ. Tiêu Phong nói:" Khoan.. khoan đã! "Toàn thân chàng nóng như lửa thiêu, đau như dao cắt, không thể suy nghĩ được, một lúc sau mới hiểu A Tử nói gì, liền đáp:" Ta không chết đâu, muội bất tất phải tự vẫn. " Bỗng nghe hai cánh cổng thành nặng nề rít lên ken két, rồi mở ra. Mấy trăm kỵ binh xông ra cửa Bắc, lập thành trận thế. Tiêu Phong ngồi trên mặt thành nhìn ra phía bắc, thấy ánh lửa lập lòe trong một phạm vi hàng mấy dặm, tựa như những con rồng lửa uốn khúc quây lấy cửa Bắc. Chàng quay lại nhìn về phía nam cũng thấy đèn đuốc sáng rực gần nửa thành trì, nghĩ thầm:" Hoàng thượng điều động hết binh mã ở ngự doanh ra đây, chỉ để bắt một mình ta! Trong thành ngoài thành đều có tiếng reo hò rầm rộ: "Phản tặc Tiêu Phong! Mau mau đầu hàng đi!" Tiêu Phong lại nổi cơn đau bụng kịch liệt, hạ giọng bảo: "A Tử! Muội mau mau trốn đi!" A Tử đáp: "Chính tay muội hạ độc hại chết huynh, sao có thể chạy trốn một mình? Muội.. muội.. nguyện cùng chết với huynh một chỗ!" Tiêu Phong cười khổ, nói: "Đây không phải là loại độc dược giết người, ta chỉ nhất thời đau đớn, không động thủ được mà thôi." A Tử mừng rỡ hỏi lại: "Thật ư?" Nàng xoay người lại, gắng sức cõng Tiêu Phong lên vai. Nhưng thân hình nàng nhỏ nhắn quá, mà Tiêu Phong lại khôi vĩ, A Tử cõng chàng đứng lên rồi, mà hai chân chàng vẫn chấm đất. Lúc ấy, hơn chục tên võ sĩ Khất Đan trèo lên mặt thành, tay cầm đoản đao, tay cầm đuốc. Bọn chúng đều khiếp oai Tiêu Phong, không dám đến gần. Tiêu Phong nói: "Chống cự cũng vô ích, để chúng lại bắt đi thôi!" A Tử vừa khóc vừa nói: "Không! Ai dám đụng đến một sợi tóc của huynh, muội phải giết ngay lập tức!" Tiêu Phong nói: "Đừng vì ta mà giết người. Nếu ta chịu giết người, thì đã phụng chỉ lãnh binh đi chinh phạt Nam triều rồi, hà tất phải để xảy ra những chuyện rắc rối?" Rồi chàng lớn tiếng nói: "Các người rụt rè như vậy thì đâu phải là nam tử Khất Đan? Hãy đưa ta đến yết kiến hoàng thượng!" Bọn vô sĩ đều sửng sốt, khom lưng cung kính nói: "Vâng! Bọn tiểu nhân vì tuân thánh chỉ mà vô lễ với đại vương, xin đại vương tha tội!" Tiêu Phong mới làm Nam Viện Đại Vương chưa được bao lâu, nhưng oai danh chàng vang lừng đất Bắc, tướng sĩ Khất Đan mười phần kính phục. Trong đám đông thì quân lính vẫn la ó rầm trời: "Phản tặc Tiêu Phong", nhưng vừa đối diện chàng lại tự nhiên sinh ra kính sợ, không dám vô lễ chút nào. Tiêu Phong vịn vai A Tử gắng gượng đứng lên, lục phủ ngũ tạng quặn đau như bị bứt ra từng khúc. Bọn quân sĩ lùi xa một trượng, tra đao vào vỏ, theo chàng đi từng bước một, lần bậc đá mà xuống khỏi mặt thành. Các tướng sĩ thấy Tiêu Phong xuống tới nơi, bất giác không tự chủ được, nhảy cả xuống ngựa. Trong thành ngoài thành, hàng vạn tướng sĩ đứng im phăng phắc. Dưới ánh lửa, Tiêu Phong thấy tướng sĩ đều ra vẻ cung kính, thì trong lòng cũng nảy ra một ý nghĩ ấm áp: "Mình mà Nam chinh, thì e rằng hàng vạn tướng sĩ này sống sót mà trở về Bắc quốc chưa được một nửa. Nếu mình thật sự cứu sống được rất nhiều sinh linh, thì có bị hoàng thượng đem ra xử tử cũng không oán hận. Nhưng chỉ sợ hoàng thượng giết mình xong, lại phái người khác dẫn binh Nam chinh.." Nghĩ tới đây, bụng chàng lại nổi cơn đau, người lảo đảo muốn té. Một tên bộ tướng dắt ngựa lại rồi đỡ chàng lên lưng ngựa, A Tử cũng cưỡi ngựa đi theo sau. Đoàn người tiền hô hậu ủng, lại nhắm hướng nam đưa Tiêu Phong về Vương phủ. Các tướng sĩ tuy đã bắt được Tiêu Phong, lập được đại công, nhưng chẳng thấy vui mừng chút nào. Chỉ nghe thấy tiếng thiết giáp loảng xoảng, tiếng mấy vạn móng sắt ngựa gõ lộp cộp trên đường lát đá, nghe rất ồn ào, nhưng tuyệt không có một tiếng hoan hô. Đoàn người đi vào cửa Bắc đang mở rộng, gần đến cầu Bạch Mã, Tiêu Phong giục ngựa lên cầu. A Tử đột nhiên vọt người lên, hai chân đứng trên yên ngựa, rồi nhảy vèo xuống sông. Tiêu Phong bị bất ngờ, không khỏi giật mình, rồi lại mừng thầm. Chàng nhớ lại ngày mới gặp cô bé ương ngạnh này, nàng đã nhảy xuống Tiểu Kính Hồ giả chết để lừa gạt song thân, nghề bơi lặn thật là hiếm thấy. Bây giờ nàng đã lặn xuống nước trốn đi, thật là chuyện tốt, nhưng chàng e rằng từ đây không còn ngày tái hội, cũng cảm thấy bâng khuâng. Tiêu Phong lớn tiếng gọi: "A Tử! Sao muội lại tự trầm? Hoàng thượng có làm khó muội đâu, hà tất phải nhảy xuống sông tự tận?" Các tướng sĩ nghe Tiêu Phong nói vậy, lại thấy A Tử chìm xuống đáy sông rồi không nổi lên nữa, cũng cho là nàng tự trầm mà chết. Hoàng đế chỉ hạ lệnh bắt một mình Tiêu Phong, A Tử chết thì cũng thế mà trốn thoát cũng được thôi, mọi người chẳng bận tâm làm chi. Họ dừng lại đầu cầu một chút, nhìn xuống sông không thấy động tĩnh gì, rồi lại đi theo Tiêu Phong. Comments 0 comments Trước Tiếp
Hồi 50: Trung nghĩa khó toàn đành tự vẫn, thân tàn chưa tỉnh mộng quân vương Bấm để xem Về đến Vương phủ, Gia Luật Hồng Cơ không gặp Tiêu Phong nữa, chỉ hạ lệnh cho Ngự Doanh chỉ huy sứ giam chàng lại. Chỉ huy sứ nghĩ rằng Tiêu đại vương thần lực trời sinh, nhà lao thông thường giữ làm sao nổi? Hắn liền nghĩ ra một kế, sai người lấy xích sắt vừa to vừa nặng khóa chân tay Tiêu Phong lại, rồi nhốt chàng vào một cái cũi sắt khổng lồ. Đây là cái cũi sắt trước kia A Tử nhốt sư tử, song sắt lớn bằng cánh tay trẻ con. Bên ngoài cũi sắt lại còn hơn trăm quân ngự lâm cầm trường mâu đứng canh bốn mặt, hễ thấy Tiêu Phong có hành động gì khả nghi là đâm vào trong cũi. Dù sức lực chàng mạnh tới đâu cũng không thể phá kịp cũi sắt này mà tẩu thoát. Ngoài Vương phủ lại còn một đội binh tuần tiễu nghiêm mật. Gia Luật Hồng Cơ cẩn thận điều động hết tướng sĩ bộ thuộc của Tiêu Phong ở Nam Kinh ra ngoài thành, để đề phòng chúng nổi loạn cứu chủ. Tiêu Phong ngồi dựa vào lan can cũi sắt, nghiến răng chịu đau, chẳng còn lòng dạ suy nghĩ gì nữa. Đến tối hôm sau, qua mười hai giờ, độc tính từ từ giảm đi, Tiêu Phong mới thấy bớt đau. Tuy khí lực chàng đã hồi phục, nhưng tình hình bên ngoài như vậy thì làm sao trốn thoát được? Tiêu Phong tự nghĩ: "Mình có phiền não cũng vô ích. Tiêu Phong này một đời oanh liệt, trải qua vô số nguy nan đều vô sự, lẽ nào bây giờ lại chết trong cũi sắt này ư?" May mà bọn thân binh kính trọng chàng là bậc anh hùng, tuy canh giữ nghiêm mật nhưng rất lễ độ, đưa cơm rượu đầy đủ. Tiêu Phong thản nhiên ăn uống, mới có mấy ngày mà vỏ bì rượu đã chất đống. Hồng Cơ trước sau vẫn không tới gặp Tiêu Phong, chỉ phái mấy tên thuyết khách hàng ngày đến khuyến dụ. Đại khái chúng nói hoàng thượng khoan hồng đại độ, nhớ lại tình nghĩa năm xưa mà không nỡ gia hình, chỉ mong Tiêu Phong hối lỗi xin tha. Tiêu Phong chẳng thèm để mắt nhìn tới chúng, cứ tự mình rót rượu uống tì tì. Cứ thế gần một tháng, bọn thuyết khách vẫn không nản chí, ngày nào cũng đến, nói đi nói lại chỉ có mấy câu, nào là: "Hoàng thượng đối với Tiêu đại vương ân đức nặng như non, đại vương nghe lời hoàng thượng là có con đường sống", nào là: "Hoàng thượng là bậc thần minh trông xa vạn dặm, đã quyết định điều gì là chẳng sai lầm. Đại vương nên theo con đường hoàng thượng đã vạch cho.." vân vân. Chúng cũng biết những lời khuyến dụ đó chẳng lay chuyển được Tiêu Phong, mà cứ nói tới nói lui không ngán. Một hôm Tiêu Phong bỗng sinh lòng ngờ vực, tự hỏi: "Hoàng thượng không phải hồ đồ, chắc biết khuyên mình cũng vô ích, mà sao cứ cho bọn này đến lải nhải hoài? Nhất định phải có kế hoạch bên trong." Chàng cúi đầu ngẫm nghĩ, đột nhiên la thầm: "Phải rồi! Hoàng thượng đã đem binh đi đánh Nam triều, ngài sai bọn vô dụng này hàng ngày đến khuyên nhủ, chẳng qua là để mình yên lòng ngồi trong cũi. Nhưng rõ ràng là mình đã hết đường phản kháng, sao người không hạ lệnh giết đi, lại còn uổng công làm như vậy?" Tiêu Phong nghĩ một lúc nữa liền hiểu rõ nguyên nhân: "Hoàng thượng tự cho là anh hùng, muốn tự mình dẫn binh Nam chinh để lấy giang sơn nhà Đại Tống, bắt mình phải khâm phục. Ngài muốn khi trở về sẽ gặp ta mà diễu võ giương oai, nhưng sợ tính khí ta cương cường có thể tuyệt thực tự tận, bèn phái người đến nói hươu nói vượn." Sự sống chết an nguy thì từ lâu chàng đã không để dạ. Tiêu Phong nằm trong cũi không còn kế thoát thân, chẳng buồn suy nghĩ gì nữa. Chàng vì lo âu cho thiên hạ mà không muốn dẫn quân Nam chinh, nhưng nghĩ Gia Luật Hồng Cơ đã động binh rồi, không thể vãn hồi được nữa. Ngoài những tiếng thở dài, chàng chỉ biết uống thật nhiều rượu để đỡ phải suy nghĩ. Bốn tên thuyết khách vẫn tiếp tục lảm nhảm không dứt. Đột nhiên Tiêu Phong hỏi: "Quân ta đã qua sông Hoàng Hà chưa?". Bọn thuyết khách ngạc nhiên nhìn nhau, chẳng biết trả lời ra sao. Rồi một tên đáp: "Tiêu đại vương nói rất đúng, đại quân ta sắp khởi hành, chuyện vượt sông Hoàng Hà là lẽ tất nhiên." Tiêu Phong gật đầu nói: "Thì ra đại quân chưa khởi hành, không hiểu ngày nào là ngày hoàng đạo để xuất quân?" Bốn tên thuyết khách liếc mắt ra hiệu cho nhau, một tên đáp: "Bọn tại hạ chỉ là tiểu tốt, không được nghe đại sự." Một tên khác nói: "Chỉ cần Tiêu đại vương hồi tâm nghĩ lại là hoàng thượng tới đây ngay để thương nghị đại sự." Tiêu Phong hắng giọng một tiếng, không hỏi gì nữa, nghĩ thầm: "Nếu hoàng thượng thắng như chẻ tre, lấy xong Đại Tống chắc sẽ giải mình về Biện Lương tương kiến. Nhưng nếu ngài thua trận trở về thì xấu hổ không gặp mình nữa, người bị giết trước tiên chính là mình. Nhưng mình mong ngài lấy được Đại Tống, hay mong ngài bại trận? Ha ha! Tiêu Phong ơi là Tiêu Phong, e rằng ngươi khó trả lời!" Hoàng hôn ngày hôm sau, bốn tên thuyết khách lại khệnh khạng đến. Bọn thân binh canh giữ Tiêu Phong đã nghe chúng nói đến phát ngán, nên vừa thấy thì bất giác chau mày, tránh ra mấy bước. Đã hơn một tháng rồi chàng không có ý định trốn đi, lúc này binh sĩ đã không còn canh gác chặt chẽ như trước. Một tên thuyết khách hắng giọng, rồi lên tiếng: "Tiêu đại vương! Hoàng thượng có chiếu chỉ. Đại vương mà không tuân chỉ thì phạm tội đại ác!" Tiêu Phong nghe câu này không biết đã mấy trăm lần, nhưng lần này thanh âm có điều khác lạ, tựa như người nói bị viêm họng. Bất giác chàng đưa mắt nhìn ra, lại càng thấy ngạc nhiên. Gã thuyết khách chau mày nheo mắt, nhăn mặt làm bộ điệu rất lạ. Tiêu Phong định thần nhìn kỹ thì thấy tướng mạo người này khác trước nhiều. Chàng lại chú ý quan sát thì không khỏi vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ. Mấy sợi râu lưa thưa của gã chỉ là râu giả dán vào, mặt gã cũng bôi bằng mực loãng đen nhẻm thật khó coi, nhưng lại lộ ra mắt hạnh miệng đào, trông thật là xinh đẹp, chính là A Tử. Nàng hạ giọng, giả giọng ồm ồm nói: "Hoàng thượng đã nói là quyết không sai, đại vương cứ tuân theo thánh chỉ mà làm là được! Hừ, đây là thánh dụ của hoàng đế Đại Liêu chúng ta. Đại vương phải kính cẩn đọc mấy lời dụ này." Nàng nói xong, lấy trong tay áo ra một tờ giấy cho Tiêu Phong đọc. Lúc này trời sắp tối, nhưng mấy tên quan binh đã thắp đèn lồng sáng cả bốn phía. Tiêu Phong đọc thấy trên giấy vỏn vẹn có tám chữ: "Đại viện đã đến, đêm nay thoát hiểm". Tiêu Phong hắng giọng một tiếng, rồi lắc đầu. A Tử lại nói: "Chuyến này chúng ta ra quân, binh cường mã tráng, lực lượng hùng hậu, chắc chắn kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công. Đại vương bất tất phải lo phiền nghi ngại." Tiêu Phong nói: "Ta chỉ vì sợ tổn hại sinh linh mà không muốn Nam chinh, nên mới bị hoàng thượng cầm tù." A Tử nói: "Thắng trận hay không là nhờ ở mưu cao, cần gì phải giết người cho lắm." Tiêu Phong nhìn ba tên thuyết khách kia thì thấy kẻ phe phẩy cây quạt, người giơ tay áo lên, dường như không muốn ai nhìn rõ mặt, dĩ nhiên đều đồng mưu với A Tử. Tiêu Phong thở dài nói: "Bằng hữu có hảo ý, ta rất cảm kích. Nhưng bên địch phòng thủ cực kỳ nghiêm mật, thì việc đánh thành chiếm đất e rằng không chắc thắng được đâu.." Chàng chưa dứt lời, đột nhiên nghe mấy tên quan binh la hoảng: "Rắn độc! Rắn độc! Ở đâu mà nhiều rắn độc thế này?" Quả nhiên, ngoài cửa lớn, ngoài cửa sổ, vô số rắn độc đang uốn éo bò tới, đầu lắc lư, lưỡi thè ra. Trong sảnh đường nhốn nháo cả lên. Tiêu Phong động tâm nghĩ thầm: "Đàn rắn độc này tựa hồ do huynh đệ Cái Bang điều khiển." Bọn thân binh giơ trường mâu đâm túi bụi. Tên đội trưởng thân binh quát lên: "Quân hầu cận Tiêu đại vương không được xê dịch nửa bước, kẻ nào trái lệnh thì phải chém đầu." Tên đội trưởng này rất minh mẫn, hắn thấy rắn bò đến một cách kỳ lạ, chỉ sợ mọi người hoảng loạn để Tiêu Phong thừa cơ trốn thoát. Quả nhiên bọn thân binh đứng gác cũi sắt không dám nhúc nhích, tên nào cũng cầm trường mâu chĩa vào Tiêu Phong trong cũi. Chúng không dám xê dịch, nhưng mắt vẫn liếc chừng bầy rắn độc, khi rắn đến gần, chúng mới vung đao lên chém. Đang lúc náo loạn, phía sau Vương phủ lại có tiếng la ó: "Lấy nước chữa lửa! Chữa lửa!". Tên đội trưởng lại quát lên:" "Khải Hổ Nhi, ngươi đi báo với Chỉ huy sứ đại nhân, hỏi xem có đưa Tiêu đại vương đi chỗ khác không?" Khải Hổ Nhi là tên trưởng toán bọn lính canh, quay lưng toan chạy đi. Bỗng nghe ngoài sảnh đường có tiếng người quát: "Không được trúng kế điệu hổ ly sơn của quân gian tế. Nếu có người cướp ngục thì đâm chết Tiêu Phong đi!" Người ra lệnh đó chính là Chỉ huy sứ, tay cầm trường đao, đứng chắn ngay cửa, oai phong lẫm liệt. Đột nhiên có bóng lấp loáng, một con rắn nhỏ sắc xanh nhảy tới đớp vào mặt Chỉ huy sứ, hắn vội vung đao lên chém. Bỗng nghe tiếng ám khí veo véo từ ngoài bắn vào, đèn đuốc trong đại sảnh đều tắt ngấm, trong nhà tối om. Chỉ huy sứ la lên một tiếng: "Úi chao!", đã trúng ám khí ngã ngửa ra sau. A Tử rút bảo đao trong tay áo ra chém vào xích sắt trói Tiêu Phong. Mấy tiếng "chát, chát" vang lên, xích sắt đứt liền. Tiêu Phong nghĩ bụng: "Mấy cây song sắt này lớn quá, e rằng đao chặt không đứt. Biết làm thế nào mà ra được?" Đột nhiên chàng thấy đất dưới chân lõm xuống. A Tử bên ngoài cũi sắt nói nhỏ: "Theo đường hầm mà trốn!" Rồi Tiêu Phong thấy hai bàn tay từ dưới đất thò lên, nắm chân mình kéo xuống. Thì ra đây là Hoa Hách Cấn từ Đại Lý đến viện trợ. Y chuyên nghề đào mồ trộm, mà cũng phải mất mười ngày mới đào xong địa đạo từ ngoài vào đến chỗ Tiêu Phong. Hoa Hách Cấn kéo Tiêu Phong xuống, rồi theo đường địa đạo bò ra, mau lẹ chẳng kém gì người đi trên mặt đất. Chỉ trong khoảnh khắc y đã bò được hơn trăm trượng, rồi đỡ Tiêu Phong đứng dậy. Tiểu Phong vừa ở trong đường hầm chui ra đã thấy ba người đứng ở cửa hầm, vẻ mặt rất hoan hỉ, chính là Đoàn Dự, Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch. Đoàn Dự lên tiếng gọi: "Đại ca!" rồi nhảy xổ lại ôm Tiêu Phong. Tiêu Phong cười ha hả, nói: "Thần kỹ của Hoa tư đồ thật là hiếm thấy. Hôm nay tại hạ mới biết, lấy làm bái phục!" Hoa Hách Cấn nói: "Được kim khẩu Tiêu đại vương khen ngợi, thật là chuyện vinh dự nhất trong đời tiểu nhân!" Chỗ này cách Vương phủ Nam Viện Đại Vương chưa xa mấy, tiếng Liêu binh la ó reo hò vẫn còn nghe rõ. Bỗng thấy có người cưỡi ngựa chạy qua, vừa thổi tù và vừa lớn tiếng gọi: "Địch nhân đánh vào cửa Đông! Quan binh canh gác ngự doanh phải giữ nguyên vị trí, không được tự tiện chạy đi!" Phạm Hoa nói: "Tiêu đại vương, vậy chúng ta theo cửa Tây mà đánh ra!" Tiêu Phong gật đầu nói: "Được lắm! Không hiểu mấy người bọn A Tử đã thoát ra chưa?" Phạm Hoa chưa kịp đáp thì giọng A Tử từ cửa hầm vọng ra: "Tỉ phu! Thì ra huynh còn nhớ đến muội." Thanh âm của nàng đầy vẻ vui mừng. Nàng từ trong đường hầm chui ra, dưới cằm vẫn dán mấy sợi râu lơ thơ, mặt lem luốc trông rất dơ dáy, nhưng trong mắt Tiêu Phong thì từ ngày biết nàng đến giờ, có lẽ lúc này chàng thấy nàng đẹp nhất. A Tử rút bảo đao ra toan chặt khóa cho Tiêu Phong. Nhưng cái khóa này sát vào da thịt, nếu chém trệch đi một chút là đứt tay ngay. Nàng liền đưa bảo đao cho Đoàn Dự nói: "Ca ca! Huynh cắt đi." Đoàn Dự đón lấy bảo đao rồi vận nội lực vào, cắt khóa sắt ngọt như gọt gỗ. Lúc ấy trong hầm lại có ba người nữa chui lên. Một là Chung Linh, hai là Mộc Uyển Thanh, còn người thứ ba là một đệ tử Cái Bang tám túi. Y là tay thiện nghệ về nuôi rắn độc, vừa rồi đã huy động đàn rắn xông vào đại sảnh làm náo động đối phương. Tên đệ tử này thấy Tiêu Phong vô sự thì mừng chảy nước mắt, gọi: "Bang chủ! Lão nhân gia.." Tiêu Phong lại được nghe đệ tử Cái Bang gọi mình bằng Bang chủ với giọng trung thành, trong lòng không khỏi cảm động, ngắt lời: "Làm khó cho ngươi rồi!" Câu nói của chàng làm y cảm động đến rơi lệ. Phạm Hoa nói: "Binh mã nước Đại Lý đang đánh nhau với Liêu binh ở cửa Đông, chúng ta nên nhân lúc lộn xộn mà chạy đi thôi. Tiêu đại vương đừng ra tay, để họ khỏi nhận ra." Tiêu Phong đáp: "Đúng thế!" Chín người từ trong cửa lớn xông ra. Tiêu Phong quay đầu nhìn lại, thì đây vốn là một tòa nhà lợp ngói, nhưng đã bị tàn phá, nhìn không còn ra hình thù gì nữa. A Tử la lên bằng tiếng Khất Đan: "Cứu hỏa! Cứu hỏa!" Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn cũng bắt chước la theo. Ba Thiên Thạch khinh công tuyệt diệu, thấy ngoài đường không có quân lính liền chạy đi trước, chạy đến đâu phóng hỏa đến đấy. Chỉ một lát đã có bảy tám chỗ lửa bốc ngùn ngụt. Chín người chạy về phía tây. Bọn Đoàn Dự hóa trang làm người khất Đan, lúc này trong thành cực kỳ hỗn loạn nên không ai để ý. Thỉnh thoảng nghe tiếng vó ngựa kỵ binh Khất Đan chạy đến, thì chín người lại dạt ra ẩn nấp. Đoàn người chạy qua đến chín mười đường phố, bỗng nghe tù và thổi inh ỏi, tiếng người la ó: "Không xong rồi! Quân địch phá cửa Bắc, bắt hoàng thượng đem đi rồi!" Tiêu Phong kinh hãi dừng lại, hỏi Đoàn Dự: "Liêu đế bị bắt rồi ư? Tam đệ! Liêu đế đã là nghĩa huynh của ta, tuy người bất nhân với ta, song ta không thể bất nghĩa với người. Vạn vạn lần không thể.." A Tử cười đáp: "Tỉ phu cứ yên tâm! Đó là bọn ba mươi sáu Động chúa, bảy mươi hai Đảo chúa thuộc hạ cung Linh Thứu đã phao ngôn để náo loạn lòng người. Trong thành Nam Kinh có trọng binh đóng giữ, hoàng đế lại có hơn một vạn thân binh bảo vệ, làm sao mà bắt được?" Tiêu Phong vừa lo vừa mừng, hỏi lại: "Thuộc hạ của nhị đệ cũng đến đây ư?" A Tử đáp: "Chẳng những thuộc hạ của tiểu hòa thượng, mà chính tiểu hòa thượng cùng vợ y cũng đến." Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi: "Tiểu hòa thượng có vợ rồi ư?" A Tử cười đáp: "Tỉ phu chưa biết đâu, vợ của Hư Trúc Tử chính là công chúa nước Tây Hạ. Nhưng nàng lúc nào cũng lấy khăn che mặt, ngoài tiểu hòa thượng ra không một ai được nhìn thấy dung nhan. Muội đã hỏi tiểu hòa thượng xem vợ y có đẹp không, nhưng y chỉ cười mà không đáp." Tiêu Phong đang chạy trốn rất nguy hiểm, nhưng được nghe chuyện lạ này cũng bất giác thấy mừng cho Hư Trúc, quay lại nhìn Đoàn Dự một cái. Đoàn Dự cười nói: "Đại ca bất tất phải nghĩ ngợi. Tiểu đệ chẳng để tâm gì đâu, mà nhị ca cũng không thất tín. Chuyện này kể ra dài lắm, chúng ta từ từ rồi hãy nói." Mọi người chạy thêm một đoạn đường nữa, bỗng thấy trong quảng trường phía trước có một cái đài cao, lửa cháy rất dữ. Trước đài có dựng hai cột cờ lớn, hai lá cờ cũng đang cháy ngùn ngụt. Tiêu Phong biết đây là võ trường trong thành Nam Kinh, là nơi để quân Liêu tập dượt. Nhưng chàng không biết cái đài này dựng lên từ bao giờ. Ba Thiên Thạch nói với Đoàn Dự: "Bệ hạ! Tướng đài của Liêu chúa bị cháy, cờ soái cũng ra tro, đó là điềm bất tường. Chuyến này Gia Luật Hồng Cơ đem quân đánh Tống, e rằng bất lợi." Đoàn Dự gật đầu nói: "Đúng thế." Tiêu Phong nghe Ba Thiên Thạch gọi "Bệ hạ" mà Đoàn Dự lại gật đầu, thì lấy làm lạ hỏi: "Tam đệ! Ngươi.. ngươi làm hoàng đế rồi ư?" Đoàn Dự buồn rầu đáp: "Tiên phụ bất hạnh lâm chung giữa đường, hoàng bá phụ lánh ngôi đầu Phật, lên Thiên Long Tự xuất gia, bắt tiểu đệ phải tiếp ngôi. Tiểu đệ vô tài vô đức mà phải ở ngôi cao, thật là xấu hổ." Tiêu Phong giật mình nói: "Trời ơi, bá phụ mất rồi ư? Tam đệ! Ngươi đã là vua một nước, sao còn vì ta mà dấn thân vào nơi nguy hiểm? Lỡ mà ngươi chỉ tổn thương chút xíu, ta.. ta phải đối xử với quân dân cả nước Đại Lý ra sao?" Đoàn Dự cười hì hì đáp: "Đại Lý chỉ là một nước nhỏ ở trời nam hẻo lánh, hài chữ Hoàng Đế cũng là tiếm hiệu. Tiểu đệ không đáng vị quân vương, có chỗ nào xứng làm hoàng đế đâu? Mỗi khi tiểu đệ nghe người ta kêu bằng bệ hạ, lại thấy hổ thẹn trong lòng. Hai ta tình như cốt nhục, có lẽ đâu đại ca gặp nạn mà tiểu đệ lại không đến chia xẻ với đại ca?" Phạm Hoa nói: "Tiêu đại vương hết lòng can gián Liêu đế, không chịu đánh Tống, tệ quốc từ trên xuống dưới chẳng ai là không cảm đại đức. Liêu đế lấy được Đại Tống xong, tất nhiên tràn xuống lấy nốt Đại Lý. Tệ quốc tướng sĩ kém cỏi, địch làm sao được với tinh binh Khất Đan? Tiêu đại vương cứu Đại Tống tức là cứu luôn cả Đại Lý. Vậy Đại Lý có phải đem hết sức mà bảo vệ đại vương cũng là hợp lý." Tiêu Phong nói: "Ta là một tên dũng phu, chỉ không nỡ nhìn hai nước giao tranh sinh linh chết chóc, làm gì có công lao?" Lúc ấy thành Nam Kinh đang cháy ngút trời, trăm họ dắt díu nhau chạy loạn, lẫn lộn trong quân mã. Có tiếng la: "Hòa thượng chùa Thiếu Lâm ở Nam triều cùng vô số hảo hán đến đánh phá cửa Nam." Có người gầm lên: "Nam Viện đại vương Tiêu Phong làm phản, đầu hàng Tống triều, giết chết Liêu chúa rồi!" Mấy tên quân Khất Đan nghiến răng nói: "Tên Tiêu Phong phản quốc hàng giặc, chỉ hận mình không xé xác hắn ra được." Lại có người hỏi: "Vạn tuế gia bị phản tặc Tiêu Phong gia hại rồi ư?" Một người khác đáp: "Còn chi mà không thật? Chính mắt ta trông thấy thằng khốn Tiêu Phong cưỡi ngựa trắng xông lại trước mặt hoàng thường, Cầm thương đâm thủng ngực ngài!" Một lão già hỏi: "Thằng chó Tiêu Phong sao lại bất lương đến thế? Hắn là người Khất Đan hay là người Hán?" Một đại hán đáp: "Nghe nói hắn là Nam man, ăn mặc giả làm người Khất Đan. Hắn tàn ác hơn cả loài cầm thú." A Tử thấy bọn người Khất Đan này vừa chạy vừa thóa mạ Tiêu Phong thì tức giận đến cực điểm, vung roi ngựa lên toan đánh. Tiêu Phong vội giơ tay ngăn cản, lắc đầu khẽ nói: "Để mặc họ nói sao thì nói." Chàng lại hỏi: "Các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm đến đây thật ư?" Tên đệ tử tám túi đáp: "Tại hạ xin trình với Bang chủ: Đoàn cô nương ra khỏi Nam Kinh thì gặp Ngô trưởng lão bản bang, nói là Bang chủ vì giang sơn nhà Đại Tống cùng trăm họ người Hán mà hết sức ngăn cản Liêu chúa khởi binh đánh Tống, đến nỗi bị người Liêu cầm tù. Ngô trưởng lão không tin, cho rằng Bang chủ vốn người Khất Đan, khi nào còn nghĩ đến Đại Tống? Trưởng lão đích thân trà trộn vào trong thành Nam Kinh, tự mình thám thính mới tin lời Đoàn cô nương là đúng. Ngô trưởng lão bèn lấy Thanh Trúc Lệnh, bảo bọn đệ tử bố cáo cho các vị anh hùng Trung Nguyên biết Bang chủ là bậc đại nhân đại nghĩa. Hết thảy võ lâm Trung Nguyên đều cảm động về tấm lòng hào hiệp của Bang chủ, rồi nhờ các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm dẫn đầu, kéo đến cứu viện Bang chủ." Tiêu Phong nhớ lại ngày ở Tụ Hiền Trang, mình đã cùng võ lâm Trung Nguyên thành cừu địch, lại giết bao nhiêu anh hùng hao hán, thế mà nay quần hùng lại đến cứu mình. Trong lòng chàng vừa cảm kích vừa hối hận. A Tử nói: "Bọn ăn mày Cái Bang mà truyền tin đi bốn phía thì còn gì mau lẹ bằng? Trời ơi! Chết rồi! Đáng tiếc, đáng tiếc!" Đoàn Dự hỏi: "Cái gì mà đáng tiếc?" A Tử đáp: "Lúc này muội đem cái Thần Mộc Vương Đỉnh đốt hương trong nhà đại sảnh để dẫn dụ rắn đến, vội quá mà để quên mất rồi." Đoàn Dự cười nói: "Cái vật bàng môn tả đạo đó quên mất thì thôi, đem theo bên mình để làm gì?" A Tử nói: "Hừ! Bàng môn tả đạo cái gì? Không có nó thì lấy gì mà dụ đàn rắn độc tới nhanh như thế, tỉ phu muội đâu có thoát thân một cách dễ dàng?" Nàng chưa dứt lời, đã nghe tiếng binh khí vang lên choang choảng. Dưới ánh lửa, ai nấy trông rõ bọn quân Liêu đang đánh lẫn nhau. Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi: "Lạ chưa? Sao bọn chúng lại.." Đoàn Dự ngắt lời: "Đại ca! Những người cổ buộc vải trắng là phe ta." A Tử lấy ra một miếng vải trắng đưa cho Tiêu Phong rồi nói: "Tỉ phu buộc vào!" Tiêu Phong nhìn rất rõ ràng, quân Liêu không phân biệt được địch ta nên đâm chém loạn xạ, tự tàn sát rất nhiều. Còn quân Liêu giả, cổ buộc vải trắng, cứ nhằm quân Liêu thật mà đâm chém. Tiêu Phong thấy người Liêu máu bắn tứ tung, thây nằm chật đất, bất giác la lớn: "Ta là người Khất Đan, không phải người Hán! Ta là người Khất Đan, không phải người Hán!" Tay chàng cầm miếng vải trắng mà không sao buộc vào cổ được. Lúc ấy có tiếng ken két vang lên, hai cánh cổng nặng nề của cửa Tây thành mở ra. Đoàn Dự và Phạm Hoa đẩy bừa Tiêu Phong ra ngoài. Ngoài thành đèn đuốc sáng trưng, không biết bao nhiêu bang chúng Cái Bang đã cưỡi ngựa đến. Họ vừa thấy Tiêu Phong đã hoan hô như sấm dậy: "Kiều Bang chủ! Kiều Bang chủ!" Lửa sáng rực trời, tiếng hô dậy đất. Hai dãy đèn đuốc chuyển động tựa như hai con rồng lửa. Một lão già ở giữa cưỡi ngựa tiến lại, hai tay nâng cây Đả Cẩu Bổng tín vật của Bang chủ Cái Bang lên tận đỉnh đầu, chính là Ngô trưởng lão. Lão tới trước mặt Tiêu Phong liền xuống ngựa, quỳ xuống đất nói: "Ngô Trường Phong này được huynh đệ ủy thác đem cây Đả Cẩu Bổng trả lại Bang chủ. Bọn thuộc hạ hồ đồ đáng chết, đã vu oan cho người tốt, để Bang chủ phải chịu bao nhiêu nỗi cơ cực. Bọn thuộc hạ thật không bằng giống chó lợn, mong rằng Bang chủ đại nhân dại nghĩa mà quên tội lỗi của bọn tiểu nhân, nghĩ tới bang chúng không người dẫn dắt, trở lại làm Bang chủ. Bọn tiểu nhân vì mắc lừa gian tặc mà bảo Bang chủ là giống chó Khất Đan, thực tội đáng ngàn đao phân thây, xin Bang chủ trừng phạt". Lão nói xong, cầm cây Đả Cẩu Bổng trao cho Tiêu Phong. Tiêu Phong không khỏi đau lòng, đáp: "Ngô trưởng lão! Tại hạ đúng là người Khất Đan. Các vị trọng nghĩa mà viện trợ, tại hạ cảm kích vô cùng! Nhưng ngôi bang chủ Cái Bang thì tại hạ vạn vạn lần không thể nhận được nữa." Chàng vừa nói vừa đưa tay ra nâng Ngô Trường Phong dậy. Ngô Trường Phong vò đầu bứt tai, hỏi: "Bang chủ.. Bang chủ là người Khất Đan ư? Bang chủ.. Bang chủ nhất định không làm bang chủ nữa ư? Kiều Bang chủ! Bang chủ là người đại lượng, đừng oán hận nữa!" Bỗng nghe trong thành trống thúc liên hồi, đại đội Liêu binh kéo ra. Đoàn Dự nói: "Ngô trưởng lão! Chúng ta chạy mau đi! Quân Liêu thế lớn, để họ bày thành trận thế là không địch nổi." Tiêu Phong cũng biết Cái Bang cùng quần hùng Trung Nguyên chiếm được thượng phong là nhờ đánh bất ngờ. Nếu thực sự chiến đấu thì mấy trăm mấy ngàn hảo hán giang hồ địch làm sao lại mấy vạn quân tinh nhuệ nước Liêu? Mà nếu đánh nhau thì hai bên sẽ tử thương rất nhiều, trái với ý nguyện của mình. Chàng liền nói: "Ngô trưởng lão! Việc cử Bang chủ rồi sẽ tính sau. Trưởng lão truyền lệnh, kêu anh em theo cửa Tây rút lui ngay!" Ngô trưởng lão "Vâng! Một tiếng, gấp rút truyền lệnh cho bang chúng Cái Bang đổi hậu đội làm tiền đội, xông về phía tây mà chạy. Chẳng mấy chốc, Hư Trúc Tử dẫn quần nữ dưới trướng cung Linh Thứu cùng bọn ba mươi sáu động bảy mươi hai đảo cũng theo kịp. Đoàn người chạy được vài dặm thì lại gặp bọn Chu Đan Thần dẫn một đoàn võ sĩ nước Đại Lý cũng đuổi tới nơi. Chỉ còn thiếu quần tăng chùa Thiếu Lâm và quần hào Trung Nguyên mãi chưa thấy đến. Trong thành Nam Kinh vẫn nghe tiếng xung sát ác liệt văng vẳng đến. Tiêu Phong nói:" Quần tăng chùa Thiếu Lâm và hào kiệt Trung Nguyên còn bị kẹt ở trong thành, chúng ta hãy chờ một chút. "Một lúc sau, tiếng reo hò lẫn tiếng binh khí đánh nhau trong thành lại càng vang dội. Đoàn Dự nói:" Đại ca đợi ở đây, để tiểu đệ vào giúp họ ra. "Chàng nói xong, dẫn bọn võ sĩ nước Đại Lý quay vào thành. Lúc này trời đã mờ mờ sáng. Tiêu Phong hồi hộp trong lòng, chỉ sợ rằng quần hào khó lòng thoát hiểm. Tiếng reo hò trong thành lại càng dữ dội khủng khiếp. Bọn võ sĩ Đại Lý xông vào Liêu trận đã lâu, mà mãi vẫn chưa thấy cứu quần hào ra. Một tên đệ tử Cái Bang phi ngựa đến báo:" Mấy ngàn quân thiết giáp bên Liêu đã giữ chặt cửa thành phía tây rồi. Số đông võ sĩ Đại Lý chưa xông vào được, còn quần hùng Trung Nguyên bị hãm trong thành không ra thoát. "Hư Trúc Tử vẫy tay gọi:" Bọn cung Linh Thứu chúng ta phải đi tiếp ứng! "Y liền dẫn hơn hai ngàn hảo hán khắp tam sơn ngũ nhạc và quần nữ chín bộ cung Linh Thứu xông vào trận. Tiêu Phong ngồi trên lưng ngựa, nhìn về phía đông thì thấy rải rác trong thành Nam Kinh có lửa bốc lên, phía tây một ngọn lửa, phía đông một ngọn lửa, không hiểu vì lẽ gì. Chàng chờ một lúc, lại có thám tử về báo:" Đoàn hoàng gia nước Đại Lý cùng Hư Trúc Tử tiên sinh cung Linh Thứu đã mở một đường máu, xông được vào trong thành. " Trước nay hễ có đánh nhau là Tiêu Phong đi đầu, mà lần này chàng phải đứng chờ một chỗ. Lòng nóng như lửa đốt, chàng nói:" Ta phải đi xem sao! "Ba cô A Tử, Mộc Uyển Thanh và Chung Linh đều khuyên can:" Người Liêu chỉ muốn bắt được huynh mới cam tâm, ngàn vạn lần chớ nên mạo hiểm! Tiêu Phong nói: "Không sao!" Rồi chàng phóng ngựa đi trước, bang chúng Cái Bang cũng kéo hết theo sau. Đoàn người đi đến ngoài cửa Tây thành Nam Kinh thì thấy rải rác dưới chân tường và trên mặt thành có đến mấy trăm xác chết nằm la liệt, phần lớn là Liêu binh, cũng có một số là võ sĩ của Đoàn Dự và thuộc hạ của Hư Trúc. Cửa thành hé mở, hai vị Đảo chúa cầm đại đao đứng giữ, hễ quân Liêu xông ra là chém, không để cho chúng đóng cửa thành lại. Bỗng nghe phía nam và phía bắc có tiếng vó ngựa dồn dập. Tiêu Phong kinh hãi nói: "Nguy rồi! Nếu đại đội Liêu binh chia hai ngả nam bắc quay lại đánh, thì chúng ta bị bao vây mất." Chàng tung mình nhảy lên, nửa chừng thì điểm chân vào tường để mượn đà nhảy lên cái nữa, đến được mặt thành. Tiêu Phong nhìn vào thành thì thấy bên trong cửa Tây, mỗi chỗ một tốp người đang giao tranh. Quần hào Trung Nguyên bị vô số quân Liêu chia ra vây đánh. Bọn hào kiệt tuy võ công cao cường, nhưng một phải địch hơn mười, đánh nhau đã lâu thành ra mỏi mệt, ít người không địch nổi số đông. Tiêu Phong đứng trên mặt thành, hết nhìn vào trong lại nhìn ra ngoài, chưa biết quyết định thế nào. Quần hào bị vây hãm kia đều vì giúp chàng mà bị nguy khốn, dĩ nhiên chàng không thể mở mắt mà nhìn bọn họ chết dưới lưỡi đao của quân Liêu. Nhưng chàng lại nghĩ, nếu mình nhảy xuống cứu viện thì công nhiên coi quân Liêu là thù địch, sẽ biến thành một tên Liêu gian phản quốc giúp giặc, chẳng những thẹn với tổ tông mà còn bị đồng bào thóa mạ. Bốn chữ "Tiêu Phong bất trung" sẽ lưu xú vạn niên. Tiêu Phong vốn làm gì cũng mau lẹ quyết đoán, mà lúc này tiến thoái lưỡng nan. Chàng thấy bên bức tường thành có bảy tám tên võ sĩ Khất Đan đang vây đánh hai vị lão tăng chùa Thiếu Lâm. Một vị tay múa giới đao chống cự, miệng phun máu tươi ra không ngớt, rõ ràng đã bị trọng thương, Tiêu Phong chú ý nhìn kỹ thì chính là Huyền Minh đại sư. Còn một vị nữa vung thiền trượng liều mạng chống dở, chính là Huyên Thạch đại sư. Hai tên võ sĩ Khất Đan vung trường đao lên chém xuống Huyền Minh. Huyền Minh định vung giới đao lên gạt, không ngờ mới đưa lên đến ngang ngực đã kiệt lực. Huyền Thạch hất ngược cây thiền trượng, gạt vào sống đao đánh choang một tiếng. Thần lực ghê hồn, hai thanh trường đao bật ngược lại, dập vào trán hai tên võ sĩ Khất Đan làm cho đầu chúng vỡ tan. Huyền Thạch chưa kịp mừng thì lại nghe tiếng Huyền Minh rú lên, máu tươi vọt ra tung tóe, vai trái đã trúng một đao. Huyền Thạch phóng trượng đập liền, một tên Liêu binh gãy nát xương mà chết. Nhưng lúc ấy Huyền Thạch sơ hở trước ngực, bị một tên võ sĩ Khất Đan cầm trường mâu đâm trúng bụng, mũi mâu xuyên qua sau lưng cắm chặt vào bức tường thành. Huyền Thạch rú lên một tiếng, dùng hết tàn lực vung trượng đập một cái cuối cùng, tên võ sĩ Khất Đan này vỡ đầu chết ngay. Huyền Minh thấy Huyền Thạch bị trúng mâu, múa loạn thanh giới đao không thành chiêu số gì hết, hai mắt đẫm lệ, la gọi: "Sư đệ!" Nhiệt huyết Tiêu Phong sôi lên sùng sục, chàng không nhẫn nại được nữa, lớn tiếng quát: "Tiêu Phong ở đây! Các ngươi muốn giết thì lại mà giết ta, đừng giết người vô tội nữa!" Chàng từ mặt thành nhảy xuống, người chưa chấm đất đã đá bốn tên võ sĩ Khất Đan văng đi. Chân trái vừa đặt xuống đất, lập tức kéo Huyền Minh lại, tay phải cầm lấy cây thiền trượng của Huyền Thạch. Tiêu Phong nói: "Tại hạ đến cứu viện chậm trễ, tội nghiệt thực là thâm trọng." Chàng gạt cây thiền trượng một cái, lại hai tên võ sĩ Khất Đan bị bắn ra xa đến mười mấy thước. Huyền Thạch cười khổ, nói: "Bọn lão nạp vu oan cư sĩ là người Khất Đan, tội nghiệt lại càng thâm trọng. Thiện tai! Thiện tai! Đến nay nước chảy đá.." Chữ "bày" chưa thốt được, Huyền Thạch đã ngoẹo đầu ra, tuyệt khí chết rồi. Tiêu Phong cứu được Huyền Minh, lại quay sang bên trái, xông vào chỗ bọn võ sĩ Đại Lý đang bị vây đánh. Tướng sĩ nước Liêu thấy Nam Viện Đại Vương đột nhiên xuất hiện thần oai lẫm liệt, đều hoảng vía kinh hồn. Tiêu Phong múa tít cây thiền trượng đánh ra tới tấp, tuy chàng không muốn giết người, nhưng ai đụng phải cũng bị thương liền. Bọn Liêu binh vừa la hét vừa dạt ra hai bên, chỉ trong khoảnh khắc, Tiêu Phong đã gom hơn hai trăm người tụ vào một chỗ. Chàng lớn tiếng nói: "Các vị chớ có rời nhau ra." Dứt lời chàng dẫn hai trăm người này đi quanh một lượt, hễ thấy ai bị bao vây là lại xông vào đón ra. Tiêu Phong mỗi lúc một mở rộng hàng ngũ, đến lúc quy tụ lại được chừng một ngàn người thì quân Liêu không ngăn trở được nữa. Chàng cùng Hư Trúc, Đoàn Dự và Huyền Độ đại sư chùa Thiếu Lâm dẫn quần hào Trung Nguyên xông ra cửa thành. Tiêu Phong hoành ngang thiền trượng, đứng bên cổng thành bảo vệ cho ba cánh nhân mã là nước Đại Lý, cung Linh Thứu và quần hào Trung Nguyên ra khỏi. Binh tướng nước Liêu chỉ đuổi theo xa xa mà la ó om sòm, không một tên nào dám tiến lên xung sát. Tiêu Phòng chờ mọi người ra hết rồi mới đi sau cùng. Chàng ngoảnh đầu nhìn lại thì thấy tử thi chất đống, không biết đã chết mất bao nhiêu sinh mạng. Chợt nhìn thấy hai nữ nhân thuộc hạ cung Linh Thứu đang lăn lộn rên la trên vũng máu, không ngồi dậy được, Tiêu Phong lại quay vào thành, nắm lấy lưng xách hai người này ra. Đột nhiên trống thúc liên hồi, hai đội quân từ hai phía nam bắc đã kéo đến. Tiêu Phong cũng hơi sờn lòng, vì hai đội quân này mỗi đội có hơn vạn người, bên mình lại chiến đấu lâu rồi, ai chưa bị thương thì cũng đã mệt nhoài, không thể đối địch được nữa. Chàng liền lớn tiếng gọi: "Huynh đệ Cái Bang xuống ngựa chặn hậu, nhường các bằng hữu bị thương cưỡi ngựa rút lui trước." Bang chúng Cái Bang vâng dạ, vội vàng xuống ngựa. Tiêu Phong lại hô: "Lập thành Đả Cẩu Đại Trận!" Bang chúng vừa hát bài Liên Hoa Lạc vừa dàn thành trận thế. Tiêu Phong la lên: "Huyền Độ đại sư, nhị đệ, tam đệ! Mau dẫn bằng hữu bản bộ chạy về phía Tây, để Cái Bang đoạn hậu." Dưới ánh dương quang, đao thương của binh tướng nước Liêu lấp loáng sáng lòa. Mấy vạn vó ngựa thiết kỵ nện xuống đất ầm ầm, tựa hồ núi non cũng phải rung chuyển. Hư Trúc cùng Đoàn Dự thấy uy thế Liêu binh ghê gớm, biết là Đả Cẩu Đại Trận của Cái Bang dù tuyệt diệu đến đâu cũng khó ngăn cản nổi. Hai người liền đến bên Tiêu Phong đồng thanh nói: "Đại ca! Chúng ta kết nghĩa anh em, có họa cùng chịu, sống chết có nhau!" Tiêu Phong nói: "Vậy hai ngươi hãy bảo nhân mã bản bộ rút lui trước đã." Hư Trúc, Đoàn Dự vội vàng hạ lệnh cho thuộc hạ rút lui. Ngờ đâu bộ thuộc cung Linh Thứu không chịu bỏ chủ nhân, nhất là tướng sĩ Đại Lý khi nào chịu để hoàng đế ở lại nơi hiểm địa mà tự mình bỏ chạy? Quân Liêu đến mỗi lúc một gần, vũ tiễn bắn tới chỉ còn cách bọn Tiêu Phong mười mấy trượng. Lẽ ra thì Huyền Độ đã thống lĩnh quần hào Trung Nguyên rời khỏi đây, nhưng lúc này quần hào thấy tình thế nguy hiểm, đã có mấy chục người chạy lại trợ chiến. Tiêu Phong lòng hoảng sợ, nghĩ thầm: "Những người này tuy võ công cao cường nhưng không hiểu binh pháp, chỉ xúm xít lại với nhau thì làm sao chống cự với Liêu binh được? Mình chết chẳng kể làm chi, nhưng bấy nhiêu người đều bị quân Liêu giết hết ở ngoài thành Nam Kinh, thì ra.. thì ra.." Đột nhiên trong Liêu trận nổi hiệu thanh la để lui quân, quân Liêu quay đầu ngựa lại, đổi hậu đội thành tiền đội, rút lui về hai phía nam bắc. Tiêu Phong ngạc nhiên không hiểu ra sao, rồi thấy sau trận quân Liêu có tiếng reo dậy đất, cát bụi mịt mù, thì ra đã có một cánh quân đến tập hậu. Tiêu Phong tự hỏi: "Phía sau Liêu trận lại có nhân mã đến đánh, chẳng lẽ bên Liêu có quân nổi loạn? Nếu hoàng thượng mà hoảng hốt thì tình hình thật là nguy hiểm." Chàng thấy quân Liêu khốn đốn, bất giác không tự chủ được, nghĩ ngay đến Gia Luật Hồng Cơ. Tiêu Phong nhảy lên đứng trên yên ngựa, nhìn về phía hậu trận quân Liêu thì thấy một lá cờ trắng tung bay trước gió, tên bắn tới như mưa rào, quân Liêu tới tấp ngã ngựa. Tiêu Phong chợt hiểu, la to: "Trời ơi, đây là bộ lạc Nữ Chân đem quân đến cứu ta. Không hiểu sao họ đã biết tin?" Người Nữ Chân toàn là tay thiện xạ, lúc lâm trận dũng mãnh phi thường, cứ một trăm kỵ mã hợp thành một đội, reo hò xông vào Liêu trận làm cho rối loạn. Một là quân Liêu bị đánh bất thình lình, hai là quân Nữ Chân rất thiện chiến, thống soái quân Liêu thấy địch không nổi, lại sợ Tiêu Phong dẫn đồng bọn phản công thành ra hai mặt thụ địch, liền vội vã rút quân chạy vào thành. Phạm Hoa là quan Tư mã nước Đại Lý vốn tinh thông binh pháp, lên tiếng nhắc Tiêu Phong: "Tiêu đại vương, chúng ta nên thừa cơ xung sát. Đây là cơ hội tốt nhất để diệt địch, sao đại vương còn chưa hạ lệnh?" Tiêu Phong lắc đầu không đáp. Phạm Hoa lại nói: "Nhạn Môn Quan còn xa lắm, nếu mình không thừa cơ phá vỡ Liêu binh, sau sẽ bị nguy. Địch nhiều mà ta ít, khó mà toàn quân trở về." Tiêu Phong lại lắc đầu. Phạm Hoa không hiểu tại sao, chỉ thầm nghĩ: "Tiêu đại vương không chịu tiêu diệt Liêu binh, phải chăng y còn chừa đường để sau này nói chuyện với Liêu chúa?" Lúc đó đoàn người Nữ Chân để trần nửa thân trên, mặc quần da thú, cưỡi ngựa gầy nhom xông vào. Tên bắn ra veo véo, hậu đội quân Liêu còn hơn một nghìn tên chưa kịp vào thành, đều bị người Nữ Chân bắn ngã lăn ra. Bọn Nữ Chân bắn chết người rồi cắt lấy thủ cấp đeo vào sau lưng, có người đeo một chùm đến mười mấy cái đầu. Quần hào qua lại giang hồ đều thấy giết người như cơm bữa, nhưng chưa gặp chuyện man rợ thế này, nên ai cũng kinh hãi. Một người cao lớn cưỡi ngựa rẽ mọi người tiến ra, lớn tiếng gọi: "Tiêu đại ca! Tiêu đại ca! Hoàn Nhan A Cốt Đả đến giúp huynh đây!" Tiêu Phong giục ngựa chạy ra đón, hai người nắm chặt tay nhau ra chiều thân thiết. A Cốt Đả nói: "Tiêu đại ca! Ngày ấy huynh không từ biệt mà đi, đệ cứ nhớ hoài. Sau có thám tử về báo tin huynh đã làm quan nước Liêu. Đệ nghĩ rằng người Liêu giảo quyệt, chắc huynh chẳng ở được lâu, quả nhiên hôm trước thám tử lại báo tin huynh bị tên Liêu chúa chó má bắt giam, nên đệ vội đem quân đến cứu. May mà huynh không chết cũng không bị thương, đệ hoan hỉ vô cùng". Tiêu Phong nói: "Đa tạ hiền đệ đã cứu viện." Chưa dứt lời, tên từ trên mặt thành bắn xuống như mưa, nhưng hai người đứng xa chân thành, tên bắn không tới. A Cốt Đả tức giận nói: "Khất Đan cẩu tặc! Ta đang nói chuyện với ca ca, mà chúng dám quấy nhiễu." Đoạn gã giương trường cung lên, bắn ra ba phát tên nghe veo véo. Trên mặt thành nghe tiếng rú, ba tên quân Liêu trúng tên rớt xuống. Quân Liêu bắn gã không trúng, nhưng cung của gã vừa dài vừa cứng nên bắn đi rất xa, ba phát trúng cả ba. Quân Liêu đứng trên mặt thành la ó om sòm, vội giơ mộc lên che đờ. Bỗng nhiên trong thành thúc trống ầm ầm, quân Liêu lại điểm binh tướng. A Cốt Đả lớn tiếng la lên: "Bọn chó má Khất Đan có giỏi thì cứ ra đây, để ta giết một trận cho sướng tay." Bên quân Nữ Chân cũng thúc trống vang lừng. Tiêu Phong nghĩ, nếu lại giao tranh thì hai bên tất phải chết nhiều. Chàng vội nói: "Hiền đệ! Ngươi đến cứu ta, thì bây giờ ta đã thoát hiểm rồi, hà tất phải đánh nhau với họ làm chi nữa. Huynh đệ ta lâu ngày không gặp nhau, tìm chỗ để uống một bữa say đã!" Hoàn Nhan A Cốt Đả nói: "Huynh nói đúng lắm, chúng ta đi thôi!" Lại thấy cửa thành mở rộng, một đội quân thiết kỵ xông ra. A Cốt Đả quát: "Giết hết bọn Khất Đan chó má kia!" Gã giương cung bắn ra một phát, trúng ngay giữa mặt một người đi trước ngã lăn xuống ngựa. Bọn thuộc hạ Nữ Chân cũng giương cung nhắm vào mặt bọn Liêu binh mà bắn tới tấp. Đầu mũi tên đều tắm thuốc độc, kẻ trúng tên không kịp rú lên đã chết. Chỉ trong khoảnh khắc, ngoài cửa thành đã có mấy trăm xác chết cả người lẫn ngựa, xếp thành những đống lù lù lấp mất cả lối đi. Bọn Liêu binh thấy vậy hồn vía lên mây, đóng chặt cửa thành lại không dám ra nữa. Hoàn Nhan A Cốt Đả ở dưới chân thành diễu võ giương oai, lớn tiếng thóa mạ. Tiêu Phong gọi: "Hiền đệ, ta đi thôi!" A Cốt Đả "Vâng!" một tiếng, nhưng còn ráng trỏ tay lên mặt thành lớn tiếng mắng: "Bọn cẩu tặc Khất Đan kia! May mà đại ca ta chưa rụng một sợi lông, không thì ta đạp Nam Kinh thành bình địa, giết sạch bọn Liêu cẩu chúng bay." A Cốt Đả cùng Tiêu Phong cưỡi ngựa đi về hướng tây chừng hơn mười dặm thì đến một chỗ gò cao. A Cốt Đả nhảy xuống ngựa, lấy một bì rượu đeo bên hông ngựa, đưa cho Tiêu Phong rồi nói: "Ca ca! Uống đi!" Tiêu Phong đón lấy bì rượu, uống một hơi ừng ực cạn hết nửa bì, rồi đưa lại cho A Cốt Đả. Gã uống hết nửa bì rựợu còn lại rồi nói: "Ca ca! Huynh đệ mình lại lên núi Trường Bạch, vừa săn bắn vừa uống rượu để tiêu dao vui thú, có lẽ hay hơn." Tiêu Phong biết Gia Luật Hồng Cơ là người cao ngạo, hôm nay thua trận dưới chân thành Nam Kinh, lại bị A Cốt Đả mắng nhiếc một phen thật là mất mặt, tất lão chẳng chịu bỏ qua, nhất định sẽ đem binh đuổi đánh. Bọn Nữ Chân tuy kiêu dũng nhưng lại ít người, khó mà đoán được ai thắng ai bại? Chàng chỉ có một chủ ý là tránh gây họa chiến tranh, bèn quyết định nương thân nơi bộ lạc Nữ Chân, chẳng chen chân vào chốn danh lợi làm gì cho thêm phiền muộn. Tiêu Phong liền nói: "Hiền đệ! Các vị anh hùng hào kiệt đây đều đến để cứu ta. Ta phải tiễn chân các vị đến Nhạn Môn Quan, rồi sẽ quay về chỗ hiền đệ." A Cốt Đả cả mừng nói: "Bọn lắm mồm ở Trung Nguyên đa số là người không tốt. Đệ không muốn gặp họ nữa." Gã nói xong, lập tức dẫn bọn thuộc hạ đi về phía bắc. Quần hào Trung Nguyên thấy bọn man rợ này đi lại như gió, kiêu dũng phi thường, đều nghĩ: "Bọn này còn tàn ác ghê gớm hơn người nước Liêu. May mà chúng là bằng hữu của Kiều Bang chủ, không thì chắc bọn mình cũng bị khốn khổ với họ." * * * Các lộ nhân mã dần dần tụ lại một nơi, bàn luận sôi nổi về trận ác chiến dưới chân thành Nam Kinh vừa rồi. Tiêu Phong khom lưng kính cẩn nói: "Đa tạ các vị đại nhân đại nghĩa, bỏ qua chuyện ác cũ của Tiêu mỗ, chẳng ngại xa xôi ngàn dặm mà đến cứu viện cho. Ân đức này, Tiêu mỗ vĩnh viễn không báo đáp được." Huyền Độ đại sư nói: "Sao Kiều Bang chủ lại nói như vậy? Những việc trước kia đều do hiểu lầm mà ra. Đã là đồng đạo võ lâm, dĩ nhiên phải cứu giúp nhau trong cơn hoạn nạn, huống chi Kiều Bang chủ đã vì trăm vạn sinh linh ở Trung Nguyên mà không nghĩ đến chuyện sinh tử, từ bỏ vinh hoa phú quý, nhân đức bao trùm thiên hạ. Mọi người phải cảm tạ Kiều Bang chủ mới đúng." Phạm Hoa dõng dạc lên tiếng: "Các vị anh hùng! Tại hạ xem chừng quân Liêu không chịu thất bại đâu. Khi chúng còn chưa truy kích, các vị có cao kiến gì không?" Quần hùng lớn tiếng đáp: "Chúng ta phải quyết một trận tử chiến với Liêu binh, chẳng lẽ lại sợ chúng ư?" Phạm Hoa nói: "Địch nhiều mà ta ít, giao chiến ở nơi bằng phẳng thì bất lợi cho mình. Theo ngu ý của tại hạ thì chúng ta nên rút lui về phía tây, một là gần được quân Tống để có tiếp viện, hai là quân địch đuổi càng xa thì số người càng ít đi, chúng ta sẽ có thể thừa cơ phản kích." Quần hào đều cho là đúng, Hư Trúc bèn dẫn thuộc hạ cung Linh Thứu làm lộ thứ nhất, Đoàn Dự dẫn binh mã nước Đại Lý làm lộ thứ hai, Huyền Độ dẫn quần hào Trung Nguyên làm lộ thứ ba, Tiêu Phong dẫn bang chúng Cái Bang đi đoạn hậu. Bốn lộ nhân mã đi cách nhau chừng mấy dặm, mỗi lộ đều có thám tử cưỡi khoái mã để truyền tin, nếu có địch thì ứng cứu nhau. Mọi người đi được một ngày, đến tối nghỉ lại trong một vùng sơn đã, vẫn chưa thấy quân Liêu đuổi theo, ai nấy cũng hơi yên tâm. Mờ sáng hôm sau lại đi tiếp, Tiêu Phong hỏi A Tử: "Lúc này Du quân còn ở cung Linh Thứu không?" A Tử bĩu môi đáp: "Ai mà biết được? Chắc là còn ở đó, gã mù cả hai mắt rồi thì xuống núi thế nào được?" Giọng nói của nàng không có một chút tình cảm quan tâm. Hôm đó mọi người đi đến thôn Bạch Lạc dưới chân núi Ngũ Đài Sơn, nghỉ lại nấu cơm. Phạm Hoa tinh thông binh pháp, bố trí quần hào thành từng tốp để mai phục nơi hiểm yếu, lại cho chặt cầu ngăn đường để Liêu binh truy đuổi phải mất nhiều thì giờ hơn. Đến ngày thứ ba, bỗng thấy ở phía đông có khói đen cuồn cuộn, bốc đến tận trời, chính là tín hiệu báo quân Liêu đẫ đuổi gần tới nơi. Quần hào thấy vậy đều phập phồng kinh hãi, có người vũ dũng muốn lập tức quay lại để giúp những tiểu đội phục kích ở phía sau, nhưng họ đều bị Huyền Độ và Phạm Hoa ngăn cản. Đêm hôm ấy quần hùng nghỉ lại bên sườn núi. Đến nửa đêm, bỗng có tiếng người la gọi, quần hào giật mình tỉnh dậy, thấy phía bắc lửa cháy ngất trời. Tiêu Phong cùng Phạm Hoa đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều thầm cảm thấy chuyện chẳng lành. Phạm Hoa khẽ nói: "Tiêu đại vương! Có phải là quân Liêu đi vòng để chặn đầu giáp công không?" Tiêu Phong chỉ gật gật đầu. Phạm Hoa lại nói: "Không biết trận cháy lớn này đã đốt mất bao nhiêu nhà cửa của dân lành. Hỡi ôi!.." Tiêu Phong không muốn nói Gia Luật Hồng Cơ tàn bạo, nhưng chàng hiểu y thua về tay người Nữ Chân nên trong lòng phẫn uất, trút giận vào đầu bá tánh. Y dẫn quân từ phía tây đến, cứ thấy người là giết, thấy nhà là đốt. Đến lúc trời sáng mà đám cháy vẫn chưa tắt. Chiều hôm sau lại thấy lửa cháy ở phía nam. Trời còn nắng nên không nhìn rõ ngọn lửa, chỉ thấy khói bốc lên đen nghịt cả một góc trời. Huyền Độ vốn dẫn người đi trước, thấy phía nam có lửa cháy liền dừng ngựa đứng bên đường chờ bọn Tiêu Phong đến, rồi hỏi: "Kiều Bang chủ! Quân Liêu ba mặt giáp công, Bang chủ liệu Nhạn Môn Quan có giữ được chăng? Lão nạp đã phái người đi trước báo tin, nhưng thống soái ải này nhu nhược, e rằng không chống nổi bọn thiết kỵ Khất Đan." Tiêu Phong không biết đáp sao. Huyền Độ lại nói: "Xem chừng người Nữ Chân có thể đối phó được Liêu binh. Sau này Đại Tống phải liên thủ với người Nữ Chân, chia hai mặt nam bắc giáp công thì có thể ngăn ngừa được thiết kỵ Khất Đan, không cho chúng đánh xuống phía nam." Tiêu Phong hiểu đại sư muốn bảo mình tìm cách liên lạc với thủ lĩnh Nữ Chân là Hoàn Nhan A Cốt Đả, nhưng chàng là người Khất Đan thì có lý nào lại cấu kết ngoại địch mà tấn công tổ quốc? Đột nhiên Tiêu Phong hỏi lại: "Huyền Độ đại sư! Gia gia tại hạ ở quý tự có mạnh khỏe không?" Huyền Độ giật mình, đáp: "Lệnh tôn đã quy y tam bảo, thanh tu trong hậu viện chùa Thiếu Lâm. Lúc lão nạp đi Nam Kinh đã cố ý không đến chào lệnh tôn, để người khỏi bận lòng trần tục." Tiêu Phong nói: "Tại hạ muốn gặp gia gia để hỏi một câu." Huyền Độ hắng giọng một tiếng. Tiêu Phong nói tiếp: "Tại hạ muốn hỏi lão nhân gia: Giả tỉ Liêu binh đến đánh Thiếu Lâm Tự thì người xử trí ra sao?" Huyền Độ đáp ngay: "Dĩ nhiên là giết địch để bảo vệ Phật pháp, không phải thế sao?" Tiêu Phong nói: "Nhưng gia phụ là người Khất Đan, chẳng lẽ lại vì người Hán mà giết người Khất Đan ư?" Huyền Độ trầm ngâm một chút rồi đáp: "Bang chủ vốn là người Khất Đan, mà bỏ chỗ tối để theo chỗ sáng, thật là đáng phục." Tiêu Phong nói: "Đại sư là người Hán thì nghĩ người Hán sáng mà người Khất Đan tối. Tại hạ là người Khất Đan thì nghĩ Đại Liêu sáng, còn Đại Tống tối. Tổ tiên tại hạ là người Khất Đan, đã bị người Yết tàn sát, lại bị người Tiên Ti truy đuổi bức hiếp cực kỳ khốn khổ, chạy hết chỗ này đến chỗ khác. Đời nhà Đường, người Hán võ công cực thịnh đã giết không biết bao nhiêu là dũng sĩ, cướp không biết bao nhiêu là phụ nữ Khất Đan. Bây giờ đời Tống, võ công người Hán bên đại sư kém trước, nên lại bị người Khất Đan bên tại hạ tàn sát. Giết qua giết lại như thế, biết đến bao giờ mới dứt?" Huyền Độ lẳng lặng một lúc, rồi cất tiếng niệm: "A di đà Phật, A di đà Phật!" Đoàn Dự phóng ngựa lại gần, nghe được nửa sau cuộc đối thoại của hai người, cũng thở dài nói xen vào: "Chiến tranh mang chết chóc; Ngựa hí thảm trời xanh; Quạ mổ ruột người chết; Thi thể rải đầy đồng; Quân lính như giặc cướp; Tướng quân vẫn ung dung; Việc binh là chuyện dữ, Thánh nhân chẳng muốn dùng." Tiêu Phong nói: "Việc binh là chuyện dữ; Thánh nhân chẳng muốn dùng. Hiền đệ làm thơ hay quá." Đoàn Dự đáp: "Không phải của đệ đâu, đó là một bài thơ của đại thi nhân Lý Bạch đời Đường." Tiêu Phong nói: "Lúc ta còn ở đây, thường nghe dân địa phương hát một bài như thế này: Giết ta ở núi Kỳ Liên, chăn nuôi không còn phồn thịnh. Giết ta ở núi Hiền Chi, phụ nữ không còn nhan sắc." Chàng trung khí đầy dẫy, tiếng hát vang đi rất xa, nhưng giọng ca đầy vẻ ai oán thê lương. Đoàn Dự gật đầu nói: "Đây là một bài hát của người Hung Nô. Năm xưa Hán Võ Đế đánh Hung Nô đã chiếm được một vùng đất lớn, người Hung Nô sầu thảm mà đặt ra bài hát này, không ngờ còn truyền tụng đến ngày nay." Tiêu Phong nói: "Tổ tiên ta là người Khất Đan, cùng với dân Hung Nô khi ấy cũng khổ sở như nhau." Huyền Độ thở dài rồi nói: "Chỉ khi nào tất cả đế vương cùng tướng quân khắp thiên hạ đều tin vào Phật pháp mà lấy từ bi làm gốc, thì lúc đó mới không còn thảm họa chiến tranh." Tiêu Phong cũng buồn rầu nói: "Chẳng biết đến năm nào, tháng nào mới có cảnh thế giới thái bình như thế." Đoàn người tiếp tục đi về phía tây, thấy ba phía đông, nam, bắc đều có lửa cháy suốt ngày đêm không tắt, quân Liêu đi tới đâu đốt nhà giết người tới đó. Quần hùng trong lòng đều căm phẫn, không ngớt hò hét thóa mạ, chỉ muốn cùng quân Liêu quyết một trận tử chiến. Phạm Hoa nói: "Quân Liêu đuổi mỗi lúc một gần, chúng ta sẽ không còn đường mà rút lui. Tại hạ nghĩ rằng chúng ta nên phân tán khắp nơi để quân Liêu không biết đường nào mà đuổi thì hơn." Ngô Trường Phong lớn tiếng hỏi: "Như vậy là chịu thua hay sao? Phạm Tư mã! Nói vậy là làm tăng chí khí của quân địch, làm giảm oai phong của chúng ta. Thắng cũng được, thua cũng được, chúng ta phải quyết một trận tử chiến với bọn Liêu cẩu." Đúng lúc này bỗng nghe "véo" một tiếng, một mũi vũ tiễn từ hướng đông nam bắn tới, rồi một dội Liêu binh từ sau núi xông ra, quát tháo om sòm. Thì ra toán quân Liêu này có hơn năm trăm người, đi suốt ngày đêm theo đường tắt, vượt qua mặt quần hào để chặn đường công kích. Ngô trưởng lão thét lên: "Giết!", rồi lão xông ra trước. Mọi người căm hận đã lâu, cũng đều hăm hở chạy ra. Quần hào đã đông hơn toán quân này, mà võ nghệ lại cao cường gấp mấy, nên chỉ chừng nửa giờ đã giết sạch năm trăm tên quân Liêu. Mười mấy tên vỏ sĩ Khất Đan toan vượt núi chạy trốn cũng bị những tay khinh công tuyệt diệu trong quần hào Trung Nguyên đuổi theo giết chết. Quần hùng thắng được trận này, hoan hô ầm ĩ, lòng người phấn khởi. Chỉ có Phạm Hoa là bình thản nhìn Hư Trúc và Đoàn Dự mà nói: "Chúng ta vừa giết được một toán nhỏ quân Liêu, chắc đại quân của chúng cũng sắp đến đây. Chúng ta phải mau mau lui về phía tây." Nói chưa dứt lời thì từ phía đông bỗng vọng tới tiếng reo hò long trời lở đất, quần hào quay lại nhìn thì thấy cát bụi mịt trời. Mọi người mặt mày ngơ ngác, không ai nói câu nào. Tiếng ầm ầm như sấm gầm từ đằng xa vọng lại, rõ ràng đại đội quân Liêu sắp đến, cứ nghe âm thanh thế này thì phải có đến mấy vạn quân mã. Quần hào đã từng thấy rất nhiều những trận ác đấu trên chốn giang hồ, nhưng chưa được thấy thế lớn đại quân bao giờ. Tuy mọi người đã đánh nhau với Liêu binh ở chân thành Nam Kinh, nhưng đạo quân hôm nay so với lần trước còn lớn hơn nhiều. Tuy rằng ai cũng gan dạ, hào khí đầy mình, nhưng đột nhiên thấy thanh thế trời long đất lở như vậy cũng không khỏi biến sắc, sợ hãi toát mồ hôi lạnh. Phạm Hoa hô lớn: "Các vị huynh đệ! Địch nhân thế lớn hơn mình, chết uổng vô ích, còn mạng sống thì không sợ hết cơ hội. Hôm nay chúng ta hãy tạm tránh di, rồi sẽ có lúc phản kích." Quần hào tới tấp lên ngựa chạy về phía tây, âm thanh long trời lở đất từ phía sau vẫn không ngừng vọng tới. Đêm hôm ấy, mọi người đều không nghỉ ngơi vì thấy gần đến Nhạn Môn Quan rồi. Quần hùng giục ngựa đi suốt đêm, chỉ cần vào được Nhạn Môn Quan là đỡ nguy hiểm, quân địch có đông cũng khó mà phá được quan ải. Dọc đường ngựa bị chết nhiều, ai giỏi khinh công thì chạy bộ, có con ngựa phải chở hai người. Đoàn người đi đến trời sáng thì chỉ còn cách Nhạn Môn Quan chừng mười dặm. Ai nấy đã hơi yên lòng, xuống đất dắt ngựa đi thong thả để chúng hồi phục sức lực, vẫn nghe tiếng rầm rộ của hàng vạn vó ngựa nện xuống đất mỗi lúc một vang dội, dường như sắp đuổi tới nơi. * * * Tiêu Phong từ trên sườn núi đang đi xuống, bỗng nhìn thấy một khối đá lớn thì trong lòng run lên, nghĩ thầm: "Ngày trước Huyền Từ phương trượng cùng Uông Bang chủ dẫn quần hào Trung Nguyên phục kích gia gia mình ở chỗ này, sát hại mẫu thân và không biết bao nhiêu võ sĩ Khất Đan. Chàng quay đầu nhìn sang thì thấy vách núi hãy còn vết búa đẽo trông rất rõ, chính là chỗ Huyền Từ đã xóa tự tích của Tiêu Vịễn Sơn khắc lên. Tiêu Phong từ từ quay đầu lại, thấy bên vách đá có một gốc cây hoa thì bên tai lại vẳng lên thanh âm của A Châu. Ngày trước nàng nấp ở sau chính gốc cây này, đã nói:" Kiều đại gia ơi! Đại gia đập nữa đi! Không chừng ngọn núi này đổ xuống mất thôi. " Tiêu Phong ngẩn người ra, mấy lời nói tiếp theo của A Châu lại càng rõ như in trong óc:" Kiều đại gia! Tiểu nữ.. tiểu nữ chờ ở đây đã năm ngày năm đêm, lúc nào cũng phập phồng không biết đại gia có đến không, quả nhiên bây giờ lại được gặp nhau. Cảm ơn Trời Phật phù hộ, đại gia vẫn bình yên vô sự. " Bất giác Tiêu Phong nước mắt vòng quanh, chàng tiến đến bên gốc cây hoa, vươn tay ra vịn lấy một cành, thấy gốc cây này so với ngày chàng gặp A Châu đã cao hơn không ít. Nhất thời chàng thương tâm quá đỗi, quên hết mọi sự việc bên ngoài. Bỗng có tiếng người thét lên:" Tỉ phu! Chạy mau, chạy mau! "A Tử chạy đến bên cạnh, nắm áo chàng kéo đi. Tiêu Phong ngẩng đầu nhìn lên thì thấy ba phía đông, tây, bắc, trường mâu của quân Liêu đang giơ lên trùng trùng diệp diệp như một rừng cây di động, tiến lại bao vây mình. Tiêu Phong gật đầu nói:" Được rồi! Chúng ta lui vào Nhạn Môn Quan rồi sẽ tính. " Lúc này quần hào đã đến trước ải, nhưng Tiêu Phong cùng A Tử cưỡi ngựa tới thì thấy cửa quan đóng chặt, quần hào đều lộ vẻ bất bình. Trong ải có một tên võ quan nhà Tống đang đứng trên mặt thành, dõng dạc nói:" Trương tướng quân Chỉ huy sứ trấn thủ Nhạn Môn Quan có lệnh: Các ngươi là bách tính Trung Nguyên, đáng lẽ được vào ải, nhưng chỉ sợ có người cấu kết làm gian tế cho Liêu quốc. Vậy các ngươi phải hạ khí giới để quân ta khám xét một lượt. Người nào trong mình không ngầm giấu binh khí thì sẽ được Trương tướng quân gia ơn cho vào quan ải. " Gã vừa dứt lời thì quần hùng la ó om sòm. Có người nói:" Bọn ta rong ruổi ngàn dặm, đánh nhau với quân Liêu, sao lại nghi bọn ta là gian tế? "Có người nói:" Chúng ta có cầm binh khí thì mới có thể giúp tướng quân chống Liêu binh, nếu vứt khí giới đi thì lấy gì đánh nhau với quân Liêu? "Lại có người nóng nảy lớn tiếng thóa mạ:" Con mẹ nó! Không cho chúng ông vào thì chúng ông cũng phá thành mà vào. " Huyền Độ vội ngăn lại rồi nói với tên võ quan kia:" Xin hãy bẩm với Trương tướng quân, bọn ta đều là dân nhà Đại Tống một lòng trung nghĩa. Địch quân chốc lát sẽ đến nơi, nếu khám xét làm chậm trễ rồi mới mở cửa quan thì nguy hiểm lắm. " Tên võ quan này vừa bị thóa mạ, lại thấy nhiều người ăn mặc kỳ quái không giống người Trung Thổ, liền hỏi:" Lão hòa thượng! Ngươi nói các ngươi đều là dân nhà Đại Tống, mà sao số đông không phải là người Tống? Được rồi! Ta mở hé một bên cổng, ai là lương dân Đại Tống thì vào, còn ai không phải người Đại Tống thì phải ở ngoài quan. " Quần hào ngơ ngác nhìn nhau, không thể không tức giận. Đoàn Dự cùng bộ hạ là người Đại Lý, còn bộ hạ của Hư Trúc lại càng phức tạp, đủ cả người các nước Tây Vực, Tây Hạ, Thổ Phồn, Cao Ly. Nếu chỉ có người Đại Tống đựợc vào, thì phần lớn người trong hai lộ nhân mã nước Đại Lý và cung Linh Thứu không được vào trong ải. Huyền Độ lại nói:" Tướng quân minh xét, bọn tại hạ đều là bạn hữu, có người Đại Lý, có người Tây Hạ, nhưng đang hợp lực với Đại Tống chúng ta để đánh lại quân Liêu. Họ đã là đồng minh thì sao còn phân biệt người Tống hay không phải là người Tống? " Lần này Đoàn Dự dẫn thuộc hạ lên phía Bắc, đã phải giữ bí mật không tiết lộ mình là chủ nhân một nước, vì sợ quan quân Tống triều sinh ra ý gia hại hoặc bắt làm con tin. Hơn nữa, Đại Lý và Đại Liêu cách nhau rất xa, chàng cũng không muốn công nhiên coi là thù địch. Vì thế mà Huyền Độ hoàn toàn không đề cập đến chuyện có một nhân vật cực kỳ quan trọng của nước Đại Lý đang ở ngoài quan ải. Tên quan kia đáp ngay:" Nhạn Môn Quan là cửa ải then chốt phía bắc của nhà Đại Tống, quan trọng biết đến chừng nào? Đại quân nước Liêu đã đến nơi, nếu ta khinh suất mở cửa quan để quân Liêu tiến vào, gây nên họa tày trời thì ai phải chịu trách nhiệm? " Ngô Trường Phong không nhẫn nại được nữa, lớn tiếng quát:" Nếu ngươi đừng rắc rối mà mở cửa ải ra ngay, thì có phải bây giờ xong chuyện rồi không? "Tên võ quan kia cũng tức giận quát mắng:" Lão ăn mày kia! Trước mắt bản quan mà ngươi dám chõ miệng nói xen vào ư? "Hắn giơ tay lên một cái, hơn nghìn tên cung thủ phục sẵn trên mặt thành lập tức xuất hiện, giương cung lắp tên nhắm vào đoàn người dưới chân thành. Tên võ quan thét lên:" Mau mau lui ra! Nếu còn đứng đó nói càn làm rối loạn lòng quân, ta nhất định phải hạ lệnh bắn tên. "Huyền Độ thở dài thườn thượt, không biết làm thế nào. Hai bên cửa ải là hai dãy núi cao ngất trời, địa thế cực kỳ hiểm trở. Cửa ải này có tên là Nhạn Môn Quan, ý nói giống chim nhạn bay xuống phía nam phải bay qua ải, giữa hai dãy núi này. Trong quần hào cũng có không ít những tay khinh công cao cường có thể trèo núi chạy trốn, nhưng số đông thì không thể vượt qua hiểm địa, tất sẽ bị quân Liêu giết chết duới chân thành. Quân Liêu cũng bị hai dãy núi ngăn cản, nên hai cánh đông, tây thu hẹp dần lại, theo mặt chính mà vào. Tiếng trống thúc quân nghe đã chói tai. Tuy nhiên chỉ có tiếng trống trận, tiếng vó ngựa dồn dập, tiếng áo giáp loảng xoảng, tiếng cờ bay phần phật trong gió, còn tuyệt nhiên không thấy tiếng người huyên náo, chứng tỏ kỷ luật quân Liêu rất nghiêm chỉnh. Quân Liêu chia thành từng đội kéo dần vào, còn cách chừng một tầm tên thì dừng cả lại. Chỉ trong chốc lát, cờ bay rợp trời ở cả ba hướng đông, tây, bắc, thực không lường nổi có bao nhiêu nhân mã. Tiêu Phong dõng dạc nói:" Các vị cứ đứng nguyên đó, chớ có di chuyển, để tại hạ nói chuyện với Liêu đế. "Mặc cho Đoàn Dự, A Tử khuyên can, chàng cứ giục ngựa tiến ra, hai tay giơ cao đến đỉnh đầu để chứng tỏ là không mang khí giới cung tên. Tiêu Phong lớn tiếng hô:" Hoàng đế bệ hạ nước Đại Liêu! Tiêu Phong có mấy lời muốn nói, xin mời bệ hạ ra đây! " Chàng vận nội lực đến tột độ để nói mấy câu này, thanh âm truyền đi rất xa. Mười mấy vạn tướng sĩ nước Liêu, chẳng ai là không nghe rõ, bất giác mọi người đều biến sắc. * * * Chỉ một lúc sau, trong Liêu trận nghe trống thúc vang lừng, hàng vạn người ngựa rẽ ra hai bên. Tám tên kỵ sĩ tiến ra, cầm tám lá cờ lớn sắc vàng tung bay trước gió. Sau tám lá cờ, mấy đội quân nào là trường mâu thủ, đao phủ thủ, cung tiễn thủ, thuẫn bài thủ sắp hàng thứ tự chia hai bên tiến lên. Cuối cùng là mười viên đại tướng trong mặc áo giáp, ngoài khoác cẩm bào, đưa Gia Luật Hồng Cơ ra trước trận. Quân Liêu lớn tiếng tung hô:" Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế! "Tiếng hoan hô chấn động cả hang núi. Trên quan ải, quân tướng nhà Tống thấy oai thế bên địch như vậy, bất giác đều run rẩy. Tay phải Gia Luật Hồng Cơ giơ cây bảo đao lên một cái, quân Liêu lập tức im phăng phắc, yên lặng như tờ. Gia Luật Hồng Cơ lại hạ đao xuống, cười rộ rồi nói:" Tiêu đại vương! Hiền đệ đã hứa là dẫn quân Liêu vào quan ải, mà sao cửa quan vẫn đóng chặt, chưa thấy mở ra? " Lão vừa nói xong, trên mặt thành đã có người dịch ra tiếng Hán cho Chỉ huy sứ Trương tướng quân nghe. Quân Tống lập tức la ó om sòm, trỏ vào mặt Tiêu Phong mà vung tay múa chân, lớn tiếng thóa mạ. Tiêu Phong biết Gia Luật Hồng Cơ nói câu này là dùng kế phản gián, lão không muốn quân Tống mở cửa ải để bên mình chạy vào. Chàng liền nhảy xuống ngựa, tiến lên mấy bước rồi nói:" Bệ hạ! Vì Tiêu Phong phụ ân sủng mà bệ hạ phải ngự giá đến đây, thật là tội đáng chết! " Chàng mới nói mấy câu, đột nhiên hai bên có hai bóng người vọt tới nhanh như điện xẹt, xông thẳng đến trước mặt Gia Luật Hồng Cơ, chính là Hư Trúc và Đoàn Dự. Hai người này thấy tình hình khó đối phó, biết là hôm nay chỉ còn cách, bắt được Liêu đế để uy hiếp, thì mới có thể giữ cho mọi người được an toàn. Hai người ra hiệu cho nhau, rồi chia ra hai bên trái phải xông lên. Lúc Gia Luật Hồng Cơ xuất trận, sớm đã đề phòng chuyện giống như Tiêu Phong bắt cha con Sở vương ngày trước. Một tiếng hô vang, ba trăm tên thuẫn bài thủ cùng đưa mộc lên, như một bức tường thành chắn dày trước mặt Gia Luật Hồng Cơ. Bọn trường mâu thủ, đao phủ thủ cũng xông ra đứng dày khít trước đội cầm mộc. Nhưng Hư Trúc đã được Thiên Sơn Đồng Mỗ chân truyền, lại học được những môn võ công bí ảo trong thạch thất cung Linh Thứu, võ công y đã cao đến mức tùy tâm thu phát, muốn sao được vậy. Còn Đoàn Dự từ sau khi hút hết nội lực của Cưu Ma Trí, công lực chàng đã mạnh đến mức từ cổ chí kim không ai bằng được, lại còn có phép Lăng Ba Vi Bộ cực kỳ xảo diệu. Binh tướng nước Liêu làm sao ngăn cản được? Đoàn Dự né đông tránh tây cứ như cá lội dưới nước, những chỗ mũi mâu cùng lưỡi đao cách nhau chưa đầy một thước mà chàng vẫn lách qua, lọt vào giữa được. Bọn quân Liêu vung binh khí đâm chém túi bụi, nhưng chẳng những không đả thương được chàng, mà vì chúng đứng sát nhau quá nên phần lớn đao thương đều đâm chém vào người bên mình. Hư Trúc thì liên tiếp vung tay ra nắm lấy trước ngực hay sau lưng quân Liêu mà ném vào trong trận, vừa ném người vừa tiến tới gần Gia Luật Hồng Cơ. Hai viên, đại tướng vọt ngựa xông ra, cùng lúc vung thương lên đâm vào bụng Hư Trúc. Y nhảy vọt lên, hai chân đạp lên hai cây thương của tướng Liêu. Hai tướng quát lên một tiếng, vung mạnh thương toan hất cho Hư Trúc té xuống, nhưng y lại mượn đà hất thương mà phi thân nhảy vọt lên không, rồi hạ xuống đỉnh đầu Gia Luật Hồng Cơ. Một như cá lội dưới nước, một như chim bay trên trời, hai người song song tấn công đến. Gia Luật Hồng Cơ cả sợ, vung bảo đao lên, toan chém vào Hư Trúc còn đang ở trên không. Hư Trúc xoay tay trái một cái, vươn ra nắm lấy sống đao, rồi thừa thế vuốt xuống, lật bàn tay ra nắm chặt cổ tay phải của lão. Giữa lúc ấy Đoàn Dự cũng luồn qua đám đông vào tới, nắm được vai trái Gia Luật Hồng Cơ. Hai người cùng quát lên:" Đi ngay! "Rồi lôi tấm thân cao lớn của Gia Luật Hồng Cơ tuột xuống khỏi ngựa, kéo chạy về phía trước. Quân tướng Liêu quốc cả bốn phía đều thấy hoàng đế đá bị kiềm chế đều kinh hãi la rầm lên, nhưng nhất thời không biết phải làm gì. Mấy chục tên thân binh liều mạng xông vào cứu chúa, nhưng đều bị Hư Trúc cùng Đoàn Dự phóng cước đá văng đi. Hai người đã bắt được Liêu đế, trong lòng đang mừng rở thì bỗng thấy Tiêu phong nhảy xổ tới, hai người giật mình la gọi:" Đại ca! "Tiêu Phong bỗng phóng song chưởng nghe hai tiếng vù vù, chia ra đánh hai nghĩa đệ. Hai người cực kỳ kinh ngạc, nhưng thấy chưởng lực bài sơn đảo hải của Tiêu Phong xô tới nơi, chỉ còn cách giơ tay lên đỡ. Nghe" bình bình "hai tiếng, bốn chưởng chạm nhau, chưởng phong rít lên tứ phía. Tiêu Phong xông lại, thừa thế cướp lấy Gia Luật Hồng Cơ, kéo sang một bên. Lúc này quân Liêu cùng với quần hào Trung Nguyên đang rầm rộ xông tới từ hai phía bắc nam, một bên định cứu hoàng đế về, một bên định tiếp ứng cho ba người Tiêu Phong, Hư Trúc và Đoàn Dự. Tiêu Phong lớn tiếng nói:" Ai nấy hãy đứng im! Ta có chuyện muốn nói với hoàng đế Đại Liêu! "Quân Liêu cùng quần hào lập tức dừng bước. Hai bên đều sợ làm hại phe mình, nên chỉ đứng xa xa reo hò chứ không dám tiến lên xung sát, mà cũng không dám bắn tên. Hư Trúc cùng Đoàn Dự cũng lùi lại ba bước, chia ra đứng sau lưng Gia Luật Hồng Cơ, vừa đề phòng lão trốn về bản trận, vừa ngăn ngừa bọn cao thủ Khất Đan xông ra cứu viện. Lúc này trên mặt Gia Luật Hồng Cơ không còn nửa giọt máu, nghĩ thầm:" Gã Tiêu Phong này tính khí cương cường. Mình đã làm nhục mà nhốt hắn vào cũi sư tử, bây giờ hắn bắt được mình thì nhất định phải báo thù, quyết không tha mạng. "Nhưng lão lại nghe Tiêu Phong nói:" Bệ hạ! Hai vị này là nghĩa đệ của thần. Họ không sát hại bệ hạ đâu, xin bệ hạ yên tâm. "Gia Luật Hồng Cơ hắng giọng một tiếng, quay đầu lại nhìn Hư Trúc một cái, lại quay đầu sang bên kia nhìn Đoàn Dự một cái. Tiêu Phong lại nói:" Nhị đệ của thần là Hư Trúc Tử, là chủ nhân cung Linh Thứu, còn tam đệ là Đoàn công tử nước Đại Lý. Thần đã từng kể với bệ hạ rồi. "Gia Luật Hồng Cơ gật gật đầu rồi nói:" Quả nhiên rất giỏi. " Tiêu Phong nói:" Bọn thần sẽ lập tức để bệ hạ về bản trận, chỉ xin bệ hạ ban thưởng. "Gia Luật Hồng Cơ không tin vào tai mình, tự hỏi:" Thiên hạ sao lại có chuyện dễ dàng như thế? Hừ, phải rồi! Chắc Tiêu Phong hồi tâm nghĩ lại, xin ta phong cho ba người làm quan. "Mặt lão trở lại tươi tỉnh, cười đáp:" Các ngươi muốn xin gì, ta cũng ưng thuận hết. " Tiêu Phong nói:" Bệ hạ đã bị hai vị nghĩa đệ của thần bắt được, theo qui củ của người Khất Đan thì bệ hạ phải đem bảo vật mà chuộc mạng. "Gia Luật Hồng Cơ nhíu mày lại hỏi:" Ngươi muốn gì? "Tiêu Phong đáp:" Thần thay mặt cho hai vị nghĩa đệ, chỉ cả gan xin kim khẩu bệ hạ chấp thuận một lời. "Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả rồi đáp:" Trên thế gian này, những thứ mà ta không thể đem ra trao đổi được cũng không nhiều. Người cứ việc thẳng thắn nói ra. " Tiêu Phong nói:" Chỉ xin bệ hạ nhận lời lập tức lui binh, và suốt đời không cho một tên quân Liêu nào vượt khỏi ranh giới Tống, Liêu. " Đoàn Dự nghe vậy thì cả mừng nghĩ thầm:" Quân Liêu mà không vượt khỏi ranh giới Tống, Liêu, thì chỉ còn cách chắp cánh mà bay mới tấn công Đại Lý được. "Chàng liền nói:" Đúng thế! Nếu Liêu đế ưng thuận như vậy, thì bọn thần lập tức để bệ hạ về ngay. "Nhưng chàng lại tự hỏi:" Lúc bắt Liêu đế, nhị ca đã phải ra sức nhiều hơn ta. Chẳng hiểu nhị ca có muốn gì không? "Chàng liền hỏi Hư Trúc:" Nhị ca! Huynh có muốn hoàng đế Khất Đan lấy gì để chuộc mạng không? "Hư Trúc lắc lắc đầu rồi đáp:" Ta cũng chỉ muốn một lời như vậy mà thôi. " Gia Luật Hồng Cơ sầm mặt xuống hỏi:" Bọn ngươi cả gan dám bức bách ta ư? Nếu ta không ưng thuận thì sao? "Tiêu Phong dõng dạc đáp:" Thế thì đồng qui ư tận, ngọc đá ra tro. Năm xưa hai ta kết nghĩa, đã có lời thề mong được chết cùng năm cùng tháng cùng ngày. " Gia Luật Hồng Cơ rùng mình một cái, thầm nghĩ:" Gã Tiêu Phong này là một tên liều mạng chẳng biết sợ trời sợ đất là gì, trước nay hắn nói một là một, nói hai là hai. Nếu mình không ưng thuận thì chắc hắn sẽ ra tay mạo phạm. Mình chết về tay một tên mãng phu thì thật là không đáng chút nào. "Lão liền cười ha hả rồi dõng dạc nói:" Thế thì cái mạng của Gia Luật Hồng Cơ này có thể đổi được mấy chục năm bình yên cho hai nước Tống, Liêu. Hảo huynh đệ! Ngươi coi trọng cái mạng của ta quá rồi. " Tiêu Phong đáp:" Bệ hạ là chúa tể Đại Liêu. Dưới bầu trời này, còn gì đáng coi trọng hơn nữa? "Gia Luật Hồng Cơ lại cười rộ lên rồi nói:" Như vậy thì năm xưa người Nữ Chân đã đòi ta nộp ba mươi xe hoàng kim, ba trăm xe bạch ngân, ba ngàn con tuấn mã, là quá ít phải không? "Tiêu Phong chỉ khom lưng, không đáp. Gia Luật Hồng Cơ quay đầu nhìn lại, thấy quân tướng của mình đều đứng xa ngoài trăm thước, không có cách gì cứu mình thoát hiểm được. Tính toán nặng nhẹ thì trên đời không còn gì quý hơn tính mạng, lão bèn rút ra một mũi lang nha tiễn, cầm hai tay bẻ làm đôi quăng xuống đất, rồi nói:" Cứ theo lời ngươi! " Tiêu Phong khom lưng, nói:" Đa tạ bệ hạ. " Gia Luật Hồng Cơ quay người lại toan bỏ đi, nhưng thấy bốn con mắt của Hư Trúc cùng Đoàn Dự đang gườm gườm nhìn mình, rõ ràng không có ý nhường lối. Lão quay lại nhìn Tiêu Phong, thì chàng lặng lẽ chẳng nói gì. Lão hiểu ngay là ba người này sợ mình nuốt lời, bèn rút bảo đao ra giơ lên quá đỉnh đầu, lớn tiếng hô:" Ba quân Đại Liêu nghe lệnh! " Quân Liêu nổi lên một hồi trống, rồi lập tức yên lặng. Gia Luật Hồng Cơ nói:" Đại quân quay về bắc, không nam chinh nữa. "Lão ngừng một chút rồi lại nói tiếp:" Trong suốt đời trẫm, không một tên quân Liêu nào được xâm phạm ranh giới Đại Tống. "Lão nói xong, bảo đao hạ xuống, quân Liêu lại nổi lên một hồi trống nữa. Tiêu Phong khom lưng nói:" Xin kính cẩn tiễn bệ hạ về bản trận. "Hư Trúc cùng Đoàn Dự rẽ ra hai bên để nhường lối, rồi bước lại đứng ở phía sau Tiêu Phong. Gia Luật Hồng Cơ vừa kinh hãi, vừa hoan hỉ, lại vừa xấu hổ, chỉ muốn mau mau rời khỏi hiểm địa. Nhưng chẳng lẽ lão lại tỏ ra khiếp nhược trước mặt Tiêu Phong cùng quân Liêu, nên phải tự trấn tĩnh, từ từ bước về bản trận. Bên quân Liêu có mấy chục tên thân binh vọt ngựa ra đón tiếp. Gia Luật Hồng Cơ lúc đầu còn đi thong thả, về sau càng bước càng nhanh, hai chân loạng choạng chỉ muốn ngã lăn, hai tay run lên, mồ hôi đầm đìa trên trán. Bọn thị vệ dẫn ngựa tới, đỡ lão lên yên. Toàn thân Gia Luật Hồng Cơ lúc này run đến mềm như bún, chân để vào bàn đạp rồi mà không trèo lên yên được. Hai tên thị vệ phải vịn vào mông lão, dùng sức đẩy lên lưng ngựa. Quân Liêu thấy hoàng đế vô sự trở về, bèn lớn tiếng tung hô:" Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế! "Lúc này, quân Tống đứng trên măt thành Nhạn Môn Quan cùng với quần hào ở trước cửa quan, thấy Liêu đế hạ lệnh thoái binh thì đều reo hò mừng rỡ. Ai nấy đều biết người Khất Đan tuy hung tàn hiếu sát, nhưng trước nay rất biết thủ tín, đã giao ước gì thì không nuốt lời bao giờ. Huống chi Liêu đế đã thân hành ban lệnh trước mặt ba quân, giả tỉ sau này lão muốn bội tín thì người Liêu cũng coi lão không ra gì, không chừng ngôi hoàng đế của lão cũng không được yên ổn. Vẻ mặt Gia Luật Hồng Cơ hết sức ảm đạm, nghĩ rằng mình bị Tiêu Phong uy hiếp, phải lập trọng thệ mới thoát được thân, thật là mất thể diện, lại còn thương tổn đến uy thế nước Đại Liêu. Nhưng lão nghe tướng sĩ nước Liêu tung hô vạn tuế ra vẻ chí thành, lại nhìn vào mắt tướng sĩ thì thấy đều sáng rỡ, ra chiều hoan hỉ. Tướng sĩ nước Liêu nghe lệnh rút quân, được trở về đoàn tụ cùng cha mẹ vợ con, vừa không phải chịu nỗi khổ chinh chiến xa vạn dặm, lại vừa không lo mất mạng, nên ai nấy mừng rỡ vô cùng. Mặc dù người Khất Đan vốn kiêu dũng thiện chiến, nhưng cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi, ai đi đánh nhau mà biết chắc mình không chết? Chỉ trừ một số ít mong có chiến tranh để được thăng quan phát tài, còn đại bộ phận được thoát khỏi cái họa chiến chinh đều mừng vui khôn xiết. Gia Luật Hồng Cơ nghĩ thầm:" Thì ra quân lính của ta cũng chẳng muốn công phạt Nam triều, nếu mình cứ nam chinh thì chưa chắc gì đã thủ thắng ". Rồi lão lại nghĩ:" Bọn man rợ Nữ Chân thật là khả ố, chúng cứ ở sau lưng người Khất Đan thì thật là một mối lo trong gan ruột. Ta về quét sạch bọn chúng rồi sẽ liệu tiếp. "Gia Luật Hồng Cơ giơ bảo đao lên, lớn tiếng nói:" Bắc Viện Đại Vương! Truyền lệnh cho hậu đội biến thành tiền đội, rút quân về Nam Kinh. " Trong quân nổi hiệu trống cùng tù và, truyền ngự chỉ xuống. Tiếng hoan hô lại nổi lên rầm rộ, truyền đi rất xa. Gia Luật Hồng Cơ quay đầu nhìn lại, thấy Tiêu Phong vẫn đứng cứng đờ một chỗ. Lão cười lạnh lẽo, dõng dạc nói:" Tiêu đại vương! Ngươi đã lập được công lớn cho Đại Tống, sắp được quan cao lộc hậu đến nơi rồi. " Tiêu Phong lớn tiếng đáp:" Bệ hạ! Tiêu Phong là người Khất Đan, hôm nay uy hiếp bệ hạ mà trở thành kẻ đại tội của Khất Đan, còn mặt mũi nào mà đứng trong trời đất nữa? "Chàng cúi xuống đất, hai tay nhặt hai đoạn tên gãy, vận nội công đâm mạnh nghe" sột "một tiếng, xuyên suốt lồng ngực. Gia Luật Hồng Cơ la lên một tiếng:" Ôi chao! ", giục ngựa chạy đến mấy bước, nhưng rồi buông cương dừng lại. Hư Trúc cùng Đoàn Dự hồn vía bay mất, chạy tới la gọi:" Đại ca! Đại ca! "Nhưng hai đoạn tên đã cắm vào tim, Tiêu Phong hai mắt nhắm nghiền, đã tắt hơi rồi. Hư Trúc vội xé áo trước ngực Tiêu Phong ra để cấp cứu, nhưng tên đã cắm vào tim, không thể vãn hồi được nữa. Chỉ thấy trước ngực chàng có hình đầu con chó sói xanh lè, há miệng nhe nanh coi rất khủng khiếp. Hư Trúc cùng Đoàn Dự khóc rống lên, phủ phục xuống đất. Bang chúng Cái Bang cũng chạy tới quì lạy. Ngô trưởng lão đấm ngực la lên:" Kiều Bang chủ! Bang chủ tuy là người Khất Đan, mà anh hùng gấp vạn lần bọn người Hán vô dụng chúng tôi. "Quần hào Trung Nguyên cũng quây cả lại, thì thầm hỏi nhau:" Kiều Bang chủ quả là người Khất Đan ư? Vậy mà sao ông lại giúp nhà Đại Tống? Thế thì người Khất Đan cũng có anh hùng hào kiệt. "Ông được người Hán nuôi dưỡng từ nhỏ cho đến trưởng thành, học được đại nhân đại nghĩa như người Hán." Hai nước đã bãi binh, ông sẽ thành một đại công thần, sao lại còn tự vẫn?" "Ông có công với Đại Tống, nhưng đối với Đại Liêu lại là một tên phản quốc, nên sợ tội mà tự sát." "Cái gì mà sợ với chẳng sợ? Kiều Bang chủ là một bậc đại anh hùng, trong thiên hạ còn có chuyện gì làm ông phải sợ nữa?" Gia Luật Hồng Cơ thấy Tiêu Phong tự tận, trong lòng cũng không khỏi hoang mang. Lão thầm nghĩ: "Y đối với nước Đại Liêu ta thì có công hay có tội? Y khổ sở khuyên ta đừng khởi binh đánh Tống, xét cho cùng thì vì người Tống hay vì người Khất Đan? Y cùng ta đã kết nghĩa huynh đệ, trước sau vẫn một dạ trung thành với ta. Hôm nay y tự tận trước Nhạn Môn Quan, chứng tỏ không tham công danh phú quý của Nam triều, thế thì.. thế thì y vì cái gì?" Lão lắc lắc đầu, nở một nụ cười đau khổ, rồi quay đầu ngựa lại, đi vào trận Liêu. Vó ngựa lộp cộp vang lên, hàng ngàn hàng vạn nhân mã nước Liêu lên đường về Bắc. Mọi tướng sĩ đều không khỏi quay đầu lại, nhìn thi thể Tiêu Phong đang nằm yên dưới đất. Bỗng nghe tiếng chim ríu rít, một đàn hồng nhạn bay qua đầu mọi người, vượt trên Nhạn Môn Quan mà bay mãi đi. Quân Liêu đi mỗi lúc một xa, tiếng vó ngựa như sấm động chỉ còn ì ầm khe khẽ ở phía sau núi. Cả ngàn người bọn Hư Trúc, Đoàn Dự đứng bên thi thể Tiêu Phong, người thì khóc rống lên, người thì âm thầm rơi lệ. Bỗng nghe giọng một thiếu nữ thét lên lạnh lảnh: "Tránh ra! Tránh ra! Mọi người tránh hết ra! Bọn ngươi đã hại chết tỉ phu ta, lại còn ngồi đây giả vờ khóc lóc thì được ích gì?" Nàng vừa nói vừa giơ tay đẩy mọi người ra, chính là A Tử. Dĩ nhiên bọn Hư Trúc không đôi co với nàng, thấy A Tử xô đẩy thì tránh sang hai bên để nhường lối đi. A Tử đăm đăm nhìn thi thể Tiêu Phong hồi lâu rồi dịu dàng nói: "Tỉ phu! Bọn này đều là hạng người bại hoại, huynh đừng thèm nhìn đến họ nữa. Chỉ có A Tử mới thật là người tốt với huynh." Nàng nói xong, cúi người xuống, ôm thi thể Tiêu Phong lên. Người Tiêu Phong cao lớn, nàng chỉ ôm được nửa người lên, còn hai chân chàng vẫn chấm đất. A Tử lại nói: "Tỉ phu! Bây giờ huynh ngoan ngoãn lắm rồi, muội ôm lấy huynh mà huynh vẫn không đẩy muội ra. Hay lắm, như thế mới là đúng chứ!" Hư Trúc cùng Đoàn Dự đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm: "Nàng thương tâm quá độ, thần trí thất thường mất rồi." Đoàn Dự dịu dàng nói: "Tiểu muội! Tiêu đại ca vì nghĩa xả thân, người đã chết không thể sống lại được nữa. Muội.. muội.." Chàng bước tới mấy bước, toan ôm lấy thi thể Tiêu Phong. A Tử nghiêm giọng nói: "Huynh đừng giành lấy tỉ phu của muội. Tỉ phu là của muội rồi, ai cũng không được đụng đến tỉ phu." Đoàn Dự quay đầu lại, đưa mắt ra hiệu cho Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh hiểu ý, tiến lại gần A Tử, nhẹ nhàng nói: "Tiểu muội tử! Tiêu đại ca tạ thế rồi, chúng ta phải lo việc an táng cho đại ca.." Đột nhiên A Tử quát lên một tiếng, Mộc Uyển Thanh giật mình lùi lại hai bước. A Tử la lên: "Đi đi! Đi đi! Ngươi lại bước tới một bước, thì ta đâm chết ngươi trước!" Mộc Uyển Thanh chau mày, nhìn Đoàn Dự lắc đầu. Đột nhiên trong dãy núi phía bên trái quan ải có tiếng la gọi rất lớn: "A Tử! A Tử! Tại hạ đã nghe thấy thanh âm cô nương rồi! Cô nương ở đâu? Cô nương ở đâu?" Thanh âm này cực kỳ thê thảm, nhiều người nhận ra đây là Bang chủ Cái Bang, lấy tên là Trang Tụ Hiền, nhưng chính là Du Thản Chi. Mọi người quay đầu nhìn về hướng có tiếng kêu réo, thì thấy Du Thản Chi hai tay cầm một đôi gậy trúc, gậy tay trái thì để dò đường, gậy tay phải thì gác lên vai một hán tử trung niên, đang từ góc núi tiến ra. Hán tử trung niên này lại chính là Ô Lão Đại ở cung Linh Thứu. Hắn hình dung tiều tụy, áo quần rách rưới, thần sắc đầy vẻ buồn rầu thê thảm. Bọn Hư Trúc lập tức hiểu ngay là Du Thản Chi bức bách hắn dẫn đi tìm A Tử, dọc đường chắc hành hạ đau khổ đã nhiều. A Tử tức giận nói: "Ngươi đến đây làm chi? Ta không muốn thấy ngươi nữa! Ta không muốn thấy ngươi nữa!" Du Thản Chi vui mừng reo lên: "Trời ơi! Quả nhiên cô nương ở đây. Tại hạ đã nghe thấy thanh âm cô nương, cuối cùng cũng tìm được cô nương rồi." Cây gậy bên phải gã đè mạnh xuống, Ô Lão Đại bất giác nhảy vọt tới trước. Hai người tiến tới rất nhanh, chỉ trong khoảnh khắc đã đến bên A Tử. Lúc này bọn Hư Trúc cùng Đoàn Dự hoàn toàn vô kế khả thi, thấy Du Thản Chi đến thì nghĩ rằng gã này đã cam tâm tặng đôi mắt cho A Tử, nhất định phải có mối quan hệ sâu xa, không chừng gã có thể khuyên giải cho nàng tỉnh táo lại. Ai nấy nghĩ vậy rồi lùi lại mấy bước, để khỏi làm phiền đến câu chuyện giữa hai người. Du Thản Chi nói: "A Tử cô nương! Cô nương vẫn khỏe chứ? Có ai dám khinh mạn cô nương không?" Khuôn mặt xấu xí của gã lộ vẻ vừa vui mừng vừa tha thiết với A Tử. A Tử nói: "Nếu có người khinh mạn ta thì ngươi làm gì?" Du Thản Chi đáp ngay: "Ai đã đắc tội với cô nương, cô nương cho tại hạ biết ngay, tại hạ quyết liều mạng với hắn." A Tử cười nhạt, trỏ vào mọi người xung quanh rồi đáp: "Hết thảy bọn này đều khinh mạn ta, ngươi cố mà giết sạch bọn chúng đi!" Du Thản Chi "Vâng!" một tiếng, rồi hỏi Ô Lão Đại: "Lão Ô! Những ai đã đắc tội với cô nương?" Ô Lão Đại đáp: "Nhiều người lắm! Các hạ không giết hết được đâu." Du Thản Chi nói: "Không giết được thì cũng phải giết, ai bảo chúng dám vô lễ với A Tử cô nương." A Tử tức giận nói: "Ta đã được cùng tỉ phu ở một nơi, từ nay vĩnh viễn không chia lìa nữa. Ngươi hãy đi thật xa đi! Ta không muốn nhìn thấy ngươi nữa." Du Thản Chi đau lòng tưởng chết đi được, nói: "Cô nương.. Cô nương không muốn nhìn thấy tại hạ nữa ư?" A Tử lớn tiếng nói: "Trời ơi! Phải rồi, cặp mắt này là của ngươi đã cho ta. Tỉ phu nói là ta còn thiếu ngươi món nợ ân tình, lại muốn ta đối đãi với ngươi cho tử tế. Nhưng ta không thể ưa ngươi được." Nàng đưa tay phải lên, đột nhiên móc cặp mắt ra, vừa dùng sức ném về phía Du Thản Chi vừa la lên: "Trả lại ngươi! Trả lại ngươi! Từ nay ta không còn thiếu nợ ngươi nữa. Như thế thì tỉ phu mới không bắt ta phải đi theo ngươi." Du Thản Chi không nhìn thấy gì, nhưng nghe mọi người xung quanh la hét, thanh âm vừa hoảng hốt vừa kinh hãi, thì biết thảm họa đã phát sinh rồi. Gã thét lên: "A Tử cô nương! A Tử cô nương!" A Tử lại ôm lấy thi thể Tiêu Phong, dịu dàng nói: "Tỉ phu! Chúng ta không còn nợ gì gã nữa. Trước kia muội đã dùng độc châm để bắn huynh, chỉ vì muốn huynh vĩnh viễn ở bên cạnh muội. Hôm nay muội đã thỏa mãn tâm nguyện rồi." Nàng vừa nói vừa ôm Tiêu Phong bước đi. Quần hào thấy máu từ hai hốc mắt nàng chảy đỏ cả khuôn mặt trắng như tuyết, ai cũng khiếp sợ. Nàng đi tới đâu, mọi người tránh ra tới đó. A Tử cứ đi bừa tới trước, đến gần vực thẳm sâu không thấy đáy. Mọi người vội la lên: "Dừng lại! Dừng lại! Trước mặt là vực thẳm!" Đoàn Dự vừa vọt tới vừa la: "Tiểu muội! Tiểu.." Nhưng A Tử vẫn tiến thẳng tới trước, đột nhiên chân nàng bước hụt vào khoảng không, nhào thẳng xuống hang sâu vạn trượng. Đoàn Dự vung tay ra chụp, nghe "roạc" một tiếng, chỉ chụp được một góc vạt áo của nàng. Đột nhiên sau lưng chàng có tiếng gió, có người xông đến. Đoàn Dự né vội sang trái, thấy Du Thản Chi cũng xông vào vực thẳm. Chàng la lên "Trời ơi!", rồi nhìn xuống đáy hang, chỉ thấy mây phủ mịt mờ, chẳng biết sâu đến mức nào. Quần hào đứng trên bờ vực thẳm, ai cũng ngậm ngùi thở dài. Những người kém võ công nhìn xuống sườn núi đầy đá tai mèo tựa như đao kiếm sắc bén, đều không khỏi khiếp sợ rùng mình. Những người cao tuổi như Huyền Độ đều biết chuyện ngoài Nhạn Môn Quan ngày trước, Huyền Từ cùng Uông Bang chủ dẫn người phục kích bọn võ sĩ Khất Đan tại đây. Khi ấy mẫu thân Tiêu Phong cũng đã vùi thây dưới vực thẳm này. * * * Bỗng nghe trên quan ải trống thúc liên hồi, tên võ quan khi nãy lớn tiếng hô: "Trương tướng quân Chỉ huy sứ trấn thủ Nhạn Môn Quan có lệnh: Bọn ngươi không phải là gian tế nước Liêu, vậy cho phép vào quan ải, nhưng phải biết an phận giữ mình, không được làm huyên náo, phải nhớ cho kỹ." Quần hào dưới chân thành đều lớn tiếng thóa mạ: "Chúng ta thà chết chứ không thèm vào cửa ải của bọn chó má các ngươi!". "Nếu bọn cẩu quan không ngăn trở, thì Tiêu đại hiệp không đến nỗi phải uổng mạng!". "Chúng ta phải xông vào thành mà giết tên cẩu quan đó!" Mọi người đều chỉ trỏ lên mặt thành, vung tay giậm chân mắng chửi om sòm. Bọn Hư Trúc, Đoàn Dự quì trước vực thẳm, lạy mấy lạy, rồi vượt núi mà đi. Trương tướng quân Chỉ huy sứ trấn thủ Nhạn Môn Quan thấy khí thế sôi sục của quần hào có vẻ bất ổn, vội sửa lại mệnh lệnh, không cho ai vào trong ải nữa. Đợi đến khi quần hào la hét chán rồi từ từ giải tán, leo lên núi đi vòng về Nam, hắn mới yên lòng viết biểu chương, cho khoái mã đem gấp về Biện Kinh. Trong biểu chương nói là hắn đã dẫn tướng sĩ bản bộ huyết chiến mấy ngày với mười mấy vạn quân Liêu, may nhờ hồng phúc của thánh hoàng, nhờ các đại thần trong triều sáng suốt chỉ điểm, tướng sĩ đã liều mạng giết được đại tướng nước Liêu là Nam Viện đại vương Tiêu Phong, còn Liêu chúa Gia Luật Hồng Cơ bại trận phải rút quân về. Tống đế tiếp được biểu chương thì cả mừng, truyền chỉ ra quan ải khao thưởng ba quân, từ Chỉ huy sứ trở xuống đều được thăng quan tiến chức. Triệu Hú tự cho rằng mình anh minh võ dũng, hơn hẳn Thái tổ, Thái tông, bèn thiết yến đãi tiệc triều thần, lại cùng hậu phi ăn mừng trong nội cung suốt mấy ngày liền. Lời ca tụng công đức tứ phía vang lên nghe điếc cả tai, biểu chúc mừng thắng lợi tám hướng gửi về rợp như bươm bướm. * * * Đoàn Dự chia tay cáo biệt cùng bọn Hư Trúc, Huyền Độ, Ngô Trường Phong, rồi cùng bọn Mộc Uyển Thanh, Chung Linh, Ba Thiên Thạch, Phạm Hoa trở về Đại Lý. Mọi người vừa vào lãnh thổ Đại Lý đã thấy Vương Ngữ Yên cùng bọn thị vệ, võ sĩ Đại Lý ra nghênh giá. Đoàn Dự kể lại câu chuyện của Tiêu Phong cùng A Tử, mọi người đều không nén nổi buồn rầu thảm đạm. Đoàn người đi thẳng về phía nam, Đoàn Dự không muốn kinh động bách tính, truyền cho mọi người không được thay đổi sắc phục bá quan, cứ ăn mặc như kiểu khách thương. Một hôm, sắp về đến kinh thành, Đoàn Dự muốn vào chùa Thiên Long bái kiến Khô Vinh thiền sư và hoàng bá phụ Đoàn Chính Minh. Nhưng chàng thấy trời đã tối mà chùa Thiên Long còn cách đến sáu mươi dặm, định tìm một chỗ nghỉ lại. Đột nhiên trong rừng cây có giọng trẻ nít la lên: "Bệ hạ! Bệ hạ! Thần đã lạy bệ hạ rồi, sao chưa cho thần ăn kẹo?" Mọi người đều rất ngạc nhiên, tự hỏi: "Sao lại có người nhận ra bệ hạ?" Ai nấy chạy vào rừng cây xem thử, thì lại nghe một người nói: "Các ngươi phải nói:" Nguyện ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế! "Thì mới được thưởng kẹo. Giọng nói này nghe rất quen tai, chính là của Mộ Dung Phục. Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên giật mình kinh hãi. Hai người dắt tay nhau nấp sau một gốc cây, nhìn về phía có tiếng nói, thì thấy Mộ Dung Phục ngồi trên một ngôi mộ, đầu đội mũ giấy, thần sắc oai nghiêm. Có bảy tám đứa con nít nhà quê đang quì trước ngôi mộ này. Bảy tám giọng cùng hô lên:" Nguyện ngô hoàng vạn tủế, vạn tuế, vạn vạn tuế! "Chúng vừa hô vừa lạy, có đứa chìa tay ra năn nỉ:" Cho thần kẹo đi! Cho thần bánh đi! " Mộ Dung Phục nói:" Các khanh hãy bình thân! Trẫm đã phục hưng được cơ nghiệp Đại Yên, lên ngôi đại bảo, tất cả triều thần đều được phong thưởng. " Có một thiếu nữ đứng cạnh hắn trên ngôi mộ đó, chính là A Bích. Nàng mặc bộ y phục màu xanh nhạt, trên mặt hiện rõ vẻ thê lương tiều tụy, lấy trong giỏ ra một nắm bánh kẹo chia cho bọn con nít. Nàng lại nói:" Các ngươi đều rất ngoan ngoãn. Bây giờ hãy về đi, ngày mai lại đến chơi, ta lại phân phát bánh kẹo cho ăn. "Thanh âm nàng đầy vẻ buồn rầu, nước mắt từng giọt từng giọt rớt vào cái giỏ tre. Đám con nít vỗ tay hoan hô, vừa chạy tản ra vừa nói:" Ngày mai lại đến! " Vương Ngữ Yên biết thần trí của biểu ca đã loạn, cái mộng phú quí của hắn ngày càng thâm trọng, không nén nổi đau lòng. Đoàn Dự nhìn thần sắc A Bích mà thương xót, chỉ mong được dẫn nàng cùng Mộ Dung Phục về Đại Lý để trông nom săn sóc. Nhưng chàng thấy ánh mắt nàng nhìn Mộ Dung Phục nhu tình vô hạn, mà Mộ Dung Phục lại đầy vẻ dương dương đắc chí, thì không khỏi nhói lòng nghĩ lại:" Mỗi người đều có duyên nghiệp của mình. Mộ Dung huynh cùng A Bích đã như thế, tuy ta thấy họ đáng thương, nhưng trong lòng họ có chắc là chưa thỏa mãn không? Ta cần gì phải đa sự xen vào?"Rồi chàng khẽ kéo tay áo Vương Ngữ Yên ra hiệu. Mọi người cùng im lặng lùi ra, vẫn thấy Mộ Dung Phục ngồi trên phần mộ, quay mặt về hướng nam, trong miệng vẫn đang nói lảm nhảm gì đó. Hết Comments 1 comments TrướcTiếp