- Xu
- 5
737
1
- Kiếm tiền
- nguyen xuan hoat đã kiếm được 7370 đ
Thiên hạ đại tỉnh
Global Awakening
Global Awakening
Lời mở đầu:
Chúng ta không được sinh ra để giết nhau
Không một đứa trẻ nào đáng phải chết vì một lá cờ, vì biên giới, vì một khẩu súng.
Trong suốt hàng chục ngàn năm, con người đã đổ máu vì những đường kẻ vô hình trên bản đồ gọi là quốc gia.
Chúng ta dựng lên tường rào, chia cắt ngôn ngữ, màu da, tín ngưỡng, rồi gọi những kẻ ở bên kia là "kẻ thù"
Chúng ta xây hàng nghìn nhà máy vũ khí, tốn hàng nghìn tỷ đô la chỉ để chuẩn bị cho một ngày giết nhau "hợp pháp".
Và.. Có một nghịch lý là chúng ta tự nhận mình là loài văn minh nhất tinh cầu này. Trong khi đó hàng triệu con người vẫn chết đói mỗi năm. Trẻ em nằm co ro giữa chiến trường. Người già gục xuống bên nền gạch lạnh vì không còn mái nhà.
Loài người đã trải qua hàng ngàn cuộc chiến tranh tổng lực, vậy mà chúng ta vẫn chưa thống nhất được. - Rõ ràng bạo lực không phải là cách.
Tính từ khi nhân loại xuất hiện trên trái đất, chúng ta đã trải qua năm giai đoạn phát triển: Bầy người nguyên thủy => Thị tộc => Bộ lạc => Liên minh bộ lạc => Nhà nước ra đời. Bước tiếp theo tùy thuộc vào hành động của chính chúng ta. Huy hoàng nhất là viễn cảnh loài người biết yêu thương nhau, dùng tình yêu làm chất kết nối phù hợp với bánh xe tiến hóa của một giống loài thông minh, trở thành nhà nước dân chủ toàn cầu. Biến trái đất thành nơi không biên giới, không chiến tranh, không thù hận. Mọi dân tộc là anh em một nhà, chuyển đổi nguồn tiền khổng lồ đang nuôi hàng trăm cỗ máy chiến tranh sang thực hiện vô số việc nhân đạo, bảo vệ môi trường và đưa nhân loại trở thành nền văn minh liên hành tinh. Hoặc là chúng ta sẽ trở thành một trong những vết xe đổ sau đây:
1. Atlantis: Một nền văn minh phát triển vượt trội nhưng bị nuốt chửng chỉ trong một ngày đêm sau khi tự hủy diệt vì tham vọng và chiến tranh.
2. Lemuria: Một lục địa huyền bí bị nhấn chìm sau khi đạt đến đỉnh cao quyền năng và công nghệ.
3. Văn minh Rama Ấn Độ cổ: Tương truyền từng có thứ vũ khí mạnh tới mức thiêu rụi cả bầu trời, gợi nhớ đáng sợ tới vũ khí hạt nhân ngày nay.
4. Người Nazca và Pukara Nam Mỹ: Từng xây dựng các công trình khổng lồ có thể nhìn từ trên trời nhưng giờ biến mất một cách bí ẩn. Để lại một câu hỏi muôn đời: Họ đã đi đâu?
Điểm chung giữa mọi nền văn minh bị tiêu diệt đều là do chia rẽ nội bộ, đấu đá quyền lực, chiến tranh triền miên, không kịp thay đổi khi thời đại chuyển mình.
Và điểm đáng sợ nhất rất giống chúng ta đó là: Tất cả họ đều nghĩ mình sẽ không bao giờ sụp đổ.
Cho đến khi quá trễ.
Đã đến lúc phải thay đổi
Không phải bằng vũ lực.
Không phải bằng chính trị
Mà bằng lý tưởng
Bằng trí tuệ
Bằng tình yêu
Bằng sự thức tỉnh của hàng tỷ tâm hồn.
Đây là câu chuyện không bắt đầu bằng một vị vua hay một đạo quân.
Mà bắt đầu từ một con người, mang trong tim một ước mơ thật giản dị nhưng táo bạo.
Xây dựng một thế giới chỉ có một quốc gia- không còn chiến tranh, không còn đói nghèo, không còn hộ chiếu, không còn vũ khí hạt nhân- mà chỉ còn lại con người và hy vọng.
Anh ta không mang kiếm.
Không có vương miện.
Chỉ mang theo lời nói và một câu chuyện đủ mạnh để lay động cả nhân loại.
Nếu bạn đang đọc những dòng này, bạn chính là một phần trong hành trình đó.
Một hạt giống.
Một chứng nhân.
Và có thể là một người thức tỉnh kế tiếp.
Tôi không biết từ khi nào trong tôi lại có cảm giác ấy – một sự thôi thúc âm ỉ nhưng ngày càng mãnh liệt. Nó không đến từ lý trí, cũng chẳng đến từ khát vọng danh vọng hay nổi tiếng, mà là sự đồng cảm với nỗi đau hóa thành ánh sáng.
Bao năm qua, nhất là từ khi có hai đứa con nhỏ. Nhìn chúng quấn quýt nô đùa, miệng thơm mùi sữa làm khát vọng trong tôi ngày càng lớn lao hơn. Tôi muốn sự bình an vĩnh cửu cho loài người. Mong muốn ấy càng cháy bỏng thì tôi càng cảm thông, thấu hiểu được những dòng người chạy trốn khỏi bom đạn, những đứa trẻ khóc đến khàn giọng trong đêm không còn cha mẹ, những người lính ngã xuống mà không biết mình chiến đấu cho điều gì. Nhìn lại dòng lịch sử, quả thật thế giới này đã già đi trong máu và nước mắt.
Có lẽ, khi nỗi đau và sự đồng cảm tích tụ đến cực hạn, nó không còn là nước mắt nữa - mà là hạt giống. Hạt giống ấy nếu không nảy mầm, nó sẽ mục rữa cùng nhân loại.
Nhưng nếu nảy mầm.. Nó sẽ thành cây, và cây ấy đến ngày, nó sẽ nở hoa. Tôi cảm thấy rõ điều đó trong từng hơi thở, như thể có một trí tuệ linh thiêng đang mách bảo: "Đã đến lúc rồi". Đã đến lúc phải viết ra, đến lúc phải nói thay những linh hồn đã ngã xuống vì chiến tranh, vì biên giới, vì lòng tham.
Tôi chỉ là kẻ cầm bút, nhưng tôi biết, đằng sau trang sách này là hàng triệu trái tim đang cùng nhịp đập. Thế nên tôi viết.
Tôi viết bằng đôi tay run rẩy, bằng một trái tim đồng cảm, bằng nỗi đau, bằng tình thương.
Tôi viết như cây ra hoa, không phải để khoe sắc, mà vì đã đến mùa. Vì nhân loại đã đi qua quá nhiều đêm tối, và bình minh – bình minh của thiên hạ đại tỉnh – phải được ai đó thắp lên.
Hưng Yên ngày 30 – 10 – 2025 Tác giả: Nguyễn Xuân Hoạt.
Đây là bản gốc đã đăng ký bản quyền, cấm sao chép, re-up hoặc
Chỉnh sửa khi chưa có sự đồng ý. Mọi hành vi vi phạm sẽ bị xử
Lý pháp lý và yêu cầu bồi thường
Trước giờ thứ 25.
Thế giới năm 2030.
Trái đất nóng lên. Băng tan. Dịch bệnh quay lại.
Nhưng điều khiến loài người lo sợ hơn tất cả - là con người.
Lần đầu tiên trong lịch sử 7 quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân đều đưa quân vào trạng thái Cảnh báo đỏ.
Các vệ tinh tình báo quét thấy đầu đạn di chuyển về vị trí phóng.
Bộ trưởng quốc phòng các nước lớn lần lượt đặt tay lên mã phóng- chỉ chờ 1 cái gật đầu.
Trong bầu không khí đặc quoánh như sắp rơi xuống, một câu nói cũ được truyền nhau trong các phòng họp kín, mạng xã hội và cả tầng hầm trú ẩn
"Tôi không biết Thế chiến thứ ba sẽ diễn ra như thế nào, nhưng tôi biết chắc Thế chiến thứ tư sẽ dùng gậy gộc và đá"
Albert Einstein -
Câu nói ấy- không phải là một lời tiên tri-mà là một lời cảnh báo.
Một lời cảnh báo đã bị phớt lờ suốt gần một thế kỷ.
Chương 1: Hành trình vào cõi trắng
Giữa bờ vực tận diệt.
Khi khói thuốc súng đã ngấm vào từng lớp tầng khí quyển, khi những vị tướng ngồi trước bản đồ hủy diệt, và khi người cuối cùng còn tin vào hòa bình đã lặng lẽ đứng dậy- Một quốc gia nhỏ bé ở Châu Á đã đưa ra quyết định lớn nhất trong lịch sử của mình:
"Chúng ta không thể ngăn chiến tranh, nhưng chúng ta không để nền văn minh của mình bị chôn vùi trong tro bụi."
Không sở hữu bom nguyên tử.
Không có ảnh hưởng toàn cầu.
Nhưng họ có thứ mà các siêu cường đã đánh mất từ lâu:
Lý trí. Hy vọng. Và niềm tin vào sự sống.
Trong vòng 7 ngày, họ tuyển chọn:
Mười nghìn lính tinh nhuệ, huấn luyện sinh tồn vùng cực, chiến đấu, cứu nạn, chiến tranh sinh học.
Bốn mươi trực thăng vận tải hạng nặng, cùng nhiều xe chuyên dụng đủ để chở hết con người, hàng hóa và vật tư khác.
2000 kỹ sư, bác sĩ, nhà khoa học, giáo viên, triết gia, nghệ sĩ, nông học và kỹ thuật viên công nghệ- những người ưu tú nhất của cả quốc gia cũng được biên chế khẩn cấp vào quân đội để thực hiện nhiệm vụ tối quan trọng.
Hàng ngàn loại hạt giống cây trồng, từ lúa gạo tới dược liệu quý hiếm.
Chó nghiệp vụ và thiết bị hỗ trợ sinh tồn, drone trinh sát, thiết bị lọc nước, bộ dữ liệu văn hóa- lưu trữ toàn bộ lịch sử, nghệ thuật và tư tưởng nhân loại.
Trước quảng trường trung tâm thủ đô, phía đối diện là phủ thủ tướng, dưới nền trời màu xám bạc, gió bấc rít qua từng hàng cờ nặng trĩu tuyết,
12000 người con ưu tú nhất của quốc gia- bác sĩ, kỹ sư, nhà khoa học, quân nhân, nhà văn hóa, tôn giáo-đứng thẳng hàng trong quân phục xám bạc, ngực đeo phù hiệu 'hy vọng dân tộc'
Trước mặt họ, lãnh đạo cao nhất của đất nước – một người già nua nhưng đầy uy nghiêm, tay chống gậy ngọc, áo choàng đen theo truyền thống cổ xưa- bước lên bệ đá đọc bài tiễn biệt cuối cùng:
"Hỡi những người con ưu tú của tổ quốc, từ thời khói lửa lập quốc đến nay, dân tộc ta đã trải qua hàng ngàn kiếp nạn. Nhưng chưa có lúc nào như lúc này, - khi cái chết sắp đổ lên đầu toàn nhân loại, chúng ta không chọn đầu hàng, cũng không chọn tuyệt vọng"
Chúng ta chọn gửi các con, những giọt tinh huyết cuối cùng- lên phương bắc lạnh giá, tới thánh địa trắng, để giữ lại mầm sống cho giống nòi
Hôm nay, ta không trao cho con vũ khí, mà trao cho con lời thề: "Nếu đất nước này có diệt vong, thì lịch sử vẫn nhớ tên những người đã gánh trên vai vận mệnh loài người".
Nghi lễ cổ xưa, lời thề sống thay muôn người
Hàng trăm vị thầy tế già tiến lên, tay cầm bát trầm hương, rắc tro trắng lên vai từng người.
"Từ nay các người không còn là cá nhân nữa. Mỗi bước đi, mỗi hơi thở, là sống thay cho hàng triệu người đang không còn được thở, các ngươi là ký ức, là hạt giống, là di sản của cả một nền văn minh"
Hơn một vạn con người đồng loạt quỳ gối, tay đặt lên ngực, miệng đồng thanh đọc lời thề trong tuyết rơi:
"Chúng tôi thề sống- để một ngày nào đó, nhân loại có thể lại được mỉm cười. Nếu phải chết- xin chết như ngọn lửa soi rọi bóng tối ngàn năm"
Tiếng kèn đồng vang lên- dàn kèn tiễn biệt cuối cùng.
Tiếng kèn ngân dài, vang vọng như tiếng gọi của tổ tiên
Người dân đứng bên dưới, hàng ngàn người không cầm nổi nước mắt
- "Người mẹ ôm con nhỏ, nước mắt tràn mi, miệng thì thầm: Khi con lớn, nếu mẹ con ta còn sống, mẹ sẽ kể cho con về những người đã rời đi hôm nay".
Trên bậc thềm của phủ thủ tướng, bốn vị lãnh đạo cấp cao của quốc gia đứng im, đầu cúi nhẹ, không phát biểu, không kêu gọi. Các vị chỉ đặt tay lên tim mình- một lời chào vĩnh biệt- và ánh mắt thì như muốn truyền đi chút sức lực cho đoàn người ra đi.
Đây không phải là một cuộc tiễn đưa đơn thuần, đây là lời nguyện ước sâu thẳm gửi về tương lai.
"Nếu thế giới này có thể tái sinh sau chiến tranh, xin các con hãy là mầm xanh đầu tiên đâm chồi giữa đống tro tàn".
Đoàn xe lăn bánh chầm chậm rời khỏi thủ đô, tiến về hướng bắc, vùng lạnh lẽo, hoang vu nhất của trái đất. Họ gánh trên vai một sứ mệnh thiêng liêng: Giữ lại ngọn lửa cuối cùng của nền văn minh nhân loại.
Bánh xe nghiến trên mặt đường lạnh buốt, tiếng động cơ gầm khẽ như lời từ biệt nghẹn ngào. Hai bên đường, người dân đứng lặng trong mưa tuyết. Không ai lên tiếng, không ai cười, không ai vẫy tay. Chỉ có những ánh mắt đỏ hoe, những bàn tay nắm chặt lấy nhau mà run rẩy, và vô số giọt nước mắt rơi xuống như mưa.
Bên cửa kính xe, những người lính, kỹ sư, bác sĩ – những con người ưu tú được chọn mặt gửi vàng – đưa ánh mắt trở lại nhìn quê hương lần cuối. Một vài người ôm chặt chiếc khăn tay thấm đẫm mùi của mẹ, vài người ghi âm lời dặn dò vội vàng cho đứa con mới chập chững biết đi. Có người áp sát vào cửa kính khẽ thì thầm hai chữ "tạm biệt"
Đoàn xe ẩn dần vào màn sương tuyết trắng, và không ai dám ngoái đầu lại – vì ngoái đầu lại sợ nước mắt tuôn trào.
Trên nóc tháp tòa điều phối, Quốc kỳ dần hạ xuống một nửa.
Hành trình băng giá – tiến về cực bắc
Vài tuần sau ngày chia ly- đoàn người bắt đầu tiến vào vùng hoang lạnh của địa cực.
Gió bấc thổi gào như tiếng khóc của linh hồn lang thang. Trước mắt họ, chỉ có băng trắng kéo dài vô tận, mặt trời mùa đông không lên quá ba giờ mỗi ngày, và màn đêm dày đặc như muốn nuốt chửng từng con người một.
Nhiệt độ: Âm 27 độ C
Độ ẩm ; gần như bằng 0
Kẻ thù; không phải quân thù, mà là thiên nhiên vô cảm và tàn khốc
Đoàn người – những hạt giống của văn minh
Mười ngàn binh sĩ tinh nhuệ chia thành từng đơn vị cơ động.
Hai ngàn chuyên gia, kỹ sư, bác sĩ, nhà khoa học, mỗi người một nhiệm vụ sống còn
Từng chiếc xe bánh xích, xe chở nhiên liệu, xe cứu trợ, phòng thí nghiệm di động, nhà kính.. Được sắp xếp như một pháo đài di động. Mỗi đêm, đoàn quân chúng tôi cắm trại thành vòng tròn như thời cổ đại, ở giữa là trạm phát điện xung quanh là lính gác với súng trường bán tự động và chó nghiệp vụ canh chừng đàn sói trắng và gấu trắng.
- Ngày thứ 14 cơn bão tuyết dữ dội bất ngờ ập đến gió xoáy đến mức tưởng như sắp sửa cào nát bề mặt các xe bọc thép, một trạm hậu cần bị chôn vùi trong 3 mét tuyết, 6 người mất tích.
Đêm đó trong màn trắng lạnh buốt cả đoàn người đứng im bên lửa. Không ai nói gì. Tư lệnh trưởng- một người đàn ông có mái tóc hoa râm, rút tấm bản đồ ra, vẽ một đường về hướng bắc: "Chúng ta không dừng lại. Nếu dừng ta sẽ chết lạnh ở đây. Phía trước có thể là địa ngục nhưng phía sau là sự tuyệt diệt của cả dân tộc".
- Ngày thứ 23 băng nứt dưới chân xe đặc chủng, một chiếc xe chứa hạt giống lương thực bị sụp hố băng khiến cho những thùng hàng ở phía trên cùng của chiếc xe bị trôi theo chiều nghiêng, rơi xuống dòng nước lạnh giá.
Ngay lập tức, Tôi – Trung úy quân y Gia Bảo và tám người lính cùng đứng gần hiện trường, không một chút do dự nhảy xuống, dùng dây và thiết bị thang dây cứu vớt khoang hàng, bất chấp nước lạnh có thể đông cứng chỉ sau 6 phút. Hai kỹ sư suýt chết cóng, được đưa về khoang y tế khẩn cấp.
Thế nhưng, vẫn còn một thùng hạt giống ngô cao sản loại cho năng suất cực cao vẫn chưa ai vớt lên được, tôi ngoi lên lấy hơi rồi lặn xuống, trong tay vẫn cầm chắc sợi dây dù quân dụng – loại nhỏ nhưng mà cực kì bền chắc, để mặc bên tai tiếng gọi và tiếng la hét của mọi người:
"Lên ngay, chết cóng bây giờ"
"Không ai chịu nổi nước lạnh này quá sáu phút đâu – Gia Bảo!"
Dưới lớp băng, tôi cố nín thở và chịu đựng cái lạnh, buộc được sợi dây dù vào phần tay cầm của thùng hạt giống. Thùng hạt giống của chúng tôi được thiết kế đặc biệt, có hai tay cầm hai bên, gắn vào bản lề hơi sâu vào phía trong lòng thùng để khi vận chuyển thì hai người đàn ông trưởng thành xách hai bên là vừa sức. Nhưng khi thả tay ra. Dưới sự tác động của trọng lực, tay cầm tự động gấp xuống, tạo thành một hình hộp chữ nhật vuông vắn, rất tiện cho việc xếp vào kho lưu trữ hoặc xếp lên thùng xe.
Tôi đang định ngoi lên đưa một đầu sợi dây dù đó cho đồng đội, còn mình vào khoang ấm trong xe thay quần áo khẩn cấp thì..
Bỗng.. Ầm.. Có lẽ vì mọi người ở phía trên lo lắng sốt ruột đi lại quá nhiều, hay đơn giản chỉ là do tôi đen đủi mà một tảng băng to gần bằng cái nồi quân dụng nấu cho bốn mươi người ăn phía trên rơi trúng đầu tôi, từ khoảng cách tầm hai mét. Máu tuôn xối xả, tôi từ từ lịm đi Mọi thứ tối sầm, ánh sáng biến mất, cơ thể không thể cử động được. Nhưng, thật kỳ lạ, thay vào cảm giác rét buốt đến tận xương tủy, trong làn nước lạnh giá, tôi lại cảm giác thấy ấm áp và bình yên đến lạ. Cái cảm giác này quen thuộc lắm. Thật, rất thật, rất tuyệt, y như ngày bé nằm trong vòng tay của mẹ tôi vậy.
Khi tỉnh lại trong giường bệnh – được đặt trong xe cứu thương quân đội, nghe mọi người kể lại, tôi đã chìm sâu dưới làn nước lạnh gần mười phút mà vẫn sống, thật là một kỳ tích. Quá hai phút, rất nhiều đồng đội nữ của chúng tôi đã khóc. Sang đến phút thứ tám, lại có vài người đàn ông mạnh mẽ của sư đoàn chúng tôi mắt rưng rưng.
Đồng đội kể, khi nhìn thấy tôi trong làn nước lạnh dưới lớp băng, một đầu dây dù được quấn vào tay tôi đến năm vòng, mọi người cùng nhau đưa tôi lên trước, sau đó từ trên mặt băng chắc chắn, họ mới kéo được thùng hạt giống mà tôi đã buộc trước đó lên. Đang khi bị mấy nữ quân y trách mắng thì một giọng nói quen thuộc vang lên:
"Chúng tôi không cứu một thùng hạt giống, chúng tôi đang cứu tương lai hàng triệu con người" – Một đồng đội khác trong tổng số chín người cùng nhảy xuống cứu những thùng hạt giống cùng tôi nói đỡ cho, trong khi tôi vẫn còn đang áy náy vì để mọi người lo lắng cho mình. Tên cậu ấy là Dương Hoàng Minh nhưng vì tạng người to lớn nên mọi người hay gọi thân mật là Voi Còi.
Ngày thứ 40, chúng tôi đến được biên giới Bắc cực- khu thung lũng gần như biệt lập với thế giới nơi mặt trời chỉ mọc vài lần trong năm.
Ở đây, các kỹ sư dựng lên từng khối nhà địa nhiệt dưới lòng đất, được bảo vệ bởi bê tông cách nhiệt và lớp vỏ băng nhân tạo. Chúng tôi gọi nơi này là tử huyệt sống.
Trong lòng băng giá chúng tôi bắt đầu xây dựng 1 thành phố nhỏ. Không ai biết chiến tranh hạt nhân sẽ xảy ra lúc nào. Không ai biết ngày nào được trở lại. Nhưng chúng tôi tin rằng mình không đến bắc cực để trốn chạy. Chúng tôi đến để trở thành ngọn lửa cuối cùng, thắp sáng lại nhân loại sau tận thế.
Ngày thứ 50 tại trạm thử nghiệm hệ thống thời gian của căn cứ bắc cực;
Gió bắc cực rít gào bên ngoài lớp vỏ composite của hầm trú ẩn cấp chiến lược. Bên trong, đoàn người gồm mười hai ngàn người đang ổn định vị trí cho cuộc diễn tập khẩn cấp kéo dài 24 giờ, mô phỏng một vụ tấn công hạt nhân toàn cầu. Hệ thống máy điều hướng không gian và thời gian, phát triển từ lý thuyết "sự dao động ngẫu nhiên của hạt Tachyon trong môi trường hấp dẫn nhân tạo" đang lần đầu được thử nghiệm ở quy mô thực tế.
"Kích hoạt lớp chắn lượng tử cấp 3. Bắt đầu giai đoạn nén không- thời gian trong 30 phút"
Trong khoảnh khắc ai cũng nghĩ đó chỉ là một buổi kiểm tra kỹ thuật như mọi lần, thì có một hiện tượng chưa từng có xảy ra:
Mặt đất rung nhẹ, không phải do địa chấn- mà như thể trường hấp dẫn ngừng hoạt động trong 0, 3 giây.
Mọi thiết bị điện tử- điện thoại, đồng hồ điện tử, cảm biến từ - tắt đồng loạt, mặc dù nguồn vẫn hoạt động.
Không có tiếng nổ, không có ánh sáng chói, chỉ là mọi thứ im bặt, như thể cả thế giới ngùng thở.
Và rồi chúng tôi cảm giác như bị rơi, một cảm giác rơi kỳ lạ, không theo phương thẳng đứng, không trọng lực, chỉ là cảm giác bị hút về một hướng nào đó mà không thể diễn tả thành lời.
Nhiều người ngất xỉu, một số cố bám víu vào tay vịn. Giáo sư thắng- đội trưởng đội khoa học vật lý hét lên: "Đây.. Không phải là sụp đổ vật lý.. Đây là.. Giãn thời gian"
Chương 2 thức dậy ở một nơi không tồn tại
Chúng tôi tỉnh dậy. Không phải trong lòng đất, mà trên một thảm cỏ mượt mà kéo dài đến tận chân trời. Mặt trời rực rỡ nhưng dịu, không phải kiểu ánh sáng bị lọc qua tầng ozone mỏng của bắc cực
Không có tuyết, không có trạm kiểm soát, không có vệ tinh, chúng tôi khẳng định điều đó vì tất cả thiệt bị dò sóng vô tuyến không bắt được tín hiệu nào từ vệ tinh. Không một tín hiệu GPS
Flycam khẩn cấp được phóng lên- phát hiện dòng sông lạ cách doanh trại tạm khoảng 3km, với một cây cầu treo bằng dây thừng và gỗ- kiểu kiến trúc hoàn toàn không có trong bất kỳ báo cáo hiện đại nào.
Ngay lập tức chỉ huy trưởng Dương Hùng cử 4 đội trinh sát mỗi đội gồm 5 người cùng 2 chú chó nghiệp vụ, mỗi đội một hướng, mang theo Flycam, thiết bị bay do thám và thiết bị đo phóng xạ đi khám phá khu vực xung quanh xem xét tình hình.
Ba ngày sau, tất cả trở về mang theo gương mặt trắng bệch, lo lắng.. Không có chất phóng xạ, không có sóng viễn thông, không có dấu vết nào của bắc cực hiện đại, Nhưng.. Bên phía tiểu đội của thượng úy Trần Lâm mang về một tấm da thuộc- với chữ hán cổ!
"Chúng tôi tìm thấy nó trong lều của dân du mục.. Họ nói mình là người Khiết Đan, sống ở phía đông dãy núi Đại Hưng An.."
"Khiết Đan? –Đại tá Vũ Thiên chết lặng." Không thể nào.. "
Một học giả trong nhóm run rẩy mở bản đồ lịch sử:
" Nếu đúng là Khiết Đan, mà lại cư trú nơi này thì.. Chúng ta đang ở vào khoảng cuối thế kỷ thứ 9 hoặc đầu thế kỷ thứ 10.. "
" Khoảng năm.. 850 đến 950 sau công nguyên. "
Một cơn lạnh buốt sương xuyên thấu tim gan tất cả mọi người. Không ai tin được, nhưng những bằng chứng cổ xưa, những ngôi làng không có công nghệ hiện đại, những đền miếu thờ thần gió và thần mặt trời.. Mọi thứ đều chỉ về một sự thật không thể chối cãi:
Chúng tôi đã xuyên không
Không ai biết bằng cách nào, có người nói do hệ thống máy điều hướng không gian và thời gian của chúng tôi trục trặc, có người nói do vụ nổ hạt nhân của thế chiến 3 mạnh đến mức làm lệch dòng thời gian, có người cho rằng là do vũ khí bí mật của các cường quốc, có người cho rằng bên dưới bắc cực là cánh cổng thời gian cổ xưa- được người xưa gọi là" Thiên Môn Băng ".
Dẫu lý do là gì, thì chúng tôi đã trở thành những kẻ lưu đày khỏi thời đại của mình.
Từ một doanh trại sinh tồn, chúng tôi bị buộc phải trở thành một cộng đồng- sống sót trong thế giới của ngựa, cung tên và những bộ tộc man di chưa thống nhất. Trong cái rủi cũng có cái may, hầu hết những thứ mà đoàn chúng tôi mang theo hầu như còn nguyên vẹn.
Các kỹ sư xây lò sưởi bằng pin năng lượng mặt trời, Bác sĩ mở trạm y tế chữa bệnh cho dân du mục. Các sĩ quan huấn luyện dân làng khỏi bọn cướp vùng biên..
Đêm xuống dãy tuyết sơn hoang dã, ánh lửa từ hơn một ngàn trại nhỏ rực lên như một thành phố lấp lánh giữa băng nguyên. Trong một hang đá lớn được gia cố thành hội trường, năm trăm đại diện của hơn một vạn hai nghìn con người – những nhà khoa học, quân nhân, kỹ sư, bác sĩ, thợ mộc, nông dân, đang ngồi ngay ngắn, tay áo dày cộm, ánh mắt nghiêm nghị.
Đứng trên bục phát biểu là Đại tá Dương Hùng- vị chỉ huy tối cao của đội xuyên không, gương mặt lạnh lùng, nhưng ánh mắt cháy bỏng:
" Chúng ta đã không thể trở về được nữa, không có vệ tinh, không có tín hiệu thời đại. Không có tổ quốc nào đón ta về. Nhưng chúng ta vẫn còn điều quý giá nhất: "Tri thức của nhân loại sau hàng nghìn năm tiến hóa".
Chúng ta là 12000 người đến từ tương lai- hãy trở thành 12000 hạt giống của một nền văn minh nhân đạo và công bằng hơn, bắt đầu từ hôm nay, ngay tại nơi này! "
Tiếng vỗ tay vang dội. Cuộc họp chính thức được ghi danh trong sử sách nội bộ là HỘI NGHỊ THIÊN MÔN.
Kế hoạch 100 ngày đầu tiên
Cuộc họp kéo dài 3 ngày 3 đêm. Từng nhóm chuyên gia được chia việc rõ ràng, đặt mục tiêu cụ thể:
1-Nhóm hậu cần sinh tồn;
- Thiết lập hệ thống nhà ấm bằng kính kết hợp pin năng lượng mặt trời
- Đào hầm cách nhiệt, dùng đá muối để giữ nhiệt cho trại đông.
- Dự trữ thực phẩm bằng công nghệ đóng gói hút chân không- ưu tiên cung cấp thực phẩm cho trẻ nhỏ và người già.
2- nhóm nông nghiệp và thực phẩm:
- Tìm khu đất gần các nguồn sông, suối, mà chưa có người khai phá để trồng thử các loại lúa mì, khoai lang và các loại hạt giống mang theo.
- Phân loại động vật bản địa, và tiến hành thuần hóa gia súc, hoặc trao đổi với dân các vùng phụ cận để lấy sữa, kéo xe..
Lập hệ thống thủy canh đơn giàn cho ruộng đồng mới được khai phá.
3- nhóm kỹ thuật- năng lượng.
- Dò mỏ dầu bằng kỹ thuật hiện đại
- Lập nhà máy lọc dầu đơn giản chạy bằng nhiệt điện, sản xuất xăng dầu phục vụ xe tải, máy phát điện và các phuơng tiện còn hoạt động được.
- dựng 3 tháp thu phát sóng bằng pin mặt trời- khuếch đại tín hiệu bộ đàm trong bán kính 50 km.
4- Nhóm y tế và khoa học;
- Các bác sĩ thiết lập 4 trung tâm y tế hiện đại nhỏ, ưu tiên các trường hợp cấp cứu.
- Nhóm dược sĩ đi tìm cây ngân hoàng và cỏ thanh diệp có thể tạm thời thay thế kháng sinh.
- Lập ngân hàng máu, ngân hàng hạt giống, thư viện dữ liệu số mục đích để bảo tồn tri thức loài người.
5- Nhóm địa chất-bản đồ:
Dùng Flycam vẽ bản đồ 500 km bán kính xung quanh.
- Trợ giúp thêm nhóm kỹ thuật năng lượng trong việc tìm mỏ dầu.
- Khảo sát vị trí các bộ tộc du mục xung quanh đề phòng bị tấn công bất ngờ, việc này có sự trợ giúp thêm từ các tinh anh quân đội.
- Sau 30 ngày ổn định, các nhóm y tế và kỹ sư bắt đầu tiếp cận các bộ tộc lân cận, mang theo thuốc men, thức ăn và dụng cụ sửa chữa. Ban đầu bị nghi ngờ là thần linh, họ dần dần được gọi bằng cái tên:
" Người Của Trời Tuyết "-những người có thể chữa lành, làm ra lửa từ ánh sáng, đi lại trên xe sắt biết chạy.
Các tộc trưởng ngỡ ngàng khi thấy:
Trẻ em của họ được chữa bệnh không cần tế lễ
Cánh tay bị gãy được nẹp lại mà không bị chặt bỏ
Hố nước bẩn được lọc sạch mà không cần đá trắng.
Lòng người lay động, một truyền thuyết mới bắt đầu được lan truyền..
Chương 3: Ánh sáng từ phương bắc
Gió bấc rít lên trên những dãy núi băng giá. Trên con đường hiểm trở xuyên qua rừng rậm tuyết phủ, một đoàn người áo choàng dày cộm, cắm cờ triều đình lặng lẽ tiến bước. Gương mặt ai cũng hằn rõ nỗi mệt mỏi và tuyệt vọng.
Phía trước là vị lão tể tướng-người đã từng bị phế truất vì những lời điên rồ về người đến từ tương lai, nay được nhà vua gọi lại như tia hy vọng cuối cùng.
" Thưa tể tướng.. Chuyện đó.. Liệu có thật không? "–Một vị quan trẻ lặng lẽ hỏi.
" Ta từng thấy họ.. Chữa khỏi cả một làng nhiễm bệnh chỉ trong hai ngày. Họ có những chiếc xe chạy không cần ngựa, có thiết bị truyền âm xuyên núi rừng. Họ không giống thần tiên, nhưng còn đáng kinh ngạc hơn thần tiên ".
Đoàn người cứ thế đi suốt mười ngày mười đêm. Cuối cùng, họ tới một vùng núi kỳ lạ- nơi mà từ xa đã thấy những ăng-ten phát sóng, những cột khói mờ bay lên và những con người đang di chuyển. Những chiếc xe bọc thép được phủ lớp ngụy trang trườn ra từ sườn núi như mãnh thú canh gác.
Chuông báo động vang lên trong khu định cư tương lai..
Gặp gỡ giữa hai nền văn minh
Đại diện đội an ninh là đội trưởng Long- một lính đặc nhiệm, dẫn đầu nhóm lính tinh nhuệ bước ra.
" Họ là ai? Trang phục cổ đại, vũ khí lạc hậu, nhưng ánh mắt.. Họ đang cầu cứu ".
Sau khi xác minh không có dấu hiệu đe dọa, đoàn khách được đưa vào khu tiếp đón. Lúc này, lãnh đạo nhóm- nữ tiến sĩ Tuyết Mai, chuyên gia xã hội học, kiêm cố vấn chiến lược bước ra tiếp.
TỂ TƯỚNG:" Chúng tôi đến từ vương quốc Vạn Xuân. Quân thù đang tàn phá quê hương tôi. Triều đình đã sắp tận diệt. Nhưng thần nhớ đến các vị.. Những người có trí tuệ và sức mạnh vượt thời đại.. "
TIẾN SĨ TUYẾT MAI:" Chúng tôi không đến để làm vua, nhưng nếu nhân dân cầu cứu, chúng tôi sẽ làm những gì cần thiết ".
Cuộc họp chiến lược diễn ra ngay sau đó, bên trong một căn lều chỉ huy- nơi các kỹ sư, chuyên gia quân sự, bác sĩ, nhà nghiên cứu tụ họp
Thiếu tá tuấn – phó chỉ huy tiểu đội trực thăng:" nếu giúp họ, ta phải can thiệp quân sự, đó là phá luật "không xâm lược" nhưng nếu không giúp họ, hàng triệu người sẽ bị tàn sát ".
Tiến sĩ Tuyết Mai:" Nếu chúng ta là niềm hy vọng cuối cùng, thì im lặng chính là tội ác ".
Sau rất nhiều ý kiến được đưa ra, mọi người tiến hành bỏ phiếu, quyết định cuối cùng: GIÚP ĐỠ.
Vì thời gian cấp bách, mà tể tướng thì lại không thể quyết định được những vấn đề đàm phán mà chúng tôi đưa ra, nên ngay lập tức hai chiếc trực thăng vận tải được chỉ huy trưởng Dương Hùng điều tới chở đoàn đàm phán của chúng tôi và đoàn tùy tùng của tể tướng tới kinh thành hội kiến với nhà vua đất nước Vạn Xuân.
Tể Tướng (nhìn qua cửa kính) :
(thì thầm) Chư thần.. Chẳng lẽ thật sự là thiên binh giáng thế?
Sau khoảng bốn giờ bay, chúng tôi đến được kinh thành, dưới mặt đất, người dân kinh thành đang tất bật dọn dẹp những mũi tên, những viên đạn của máy bắn đá thời cổ của quân giặc, một vài tháp canh bị đốt cháy.. Bỗng tiếng cánh quạt vang lên như sấm động, gió từ trời xô ngả cả rừng cờ và nhà tranh mái lá.
Người dân hốt hoảng la lớn:" -Thần tiên, thần tiên giáng trần rồi,
- "Chư thiên cứu quốc"
- "Quỳ xuống, mau quỳ xuống".
Toàn bộ quảng trường trước hoàng cung như ngừng thở. Hàng ngàn người dân, lính gác, và bá quan văn võ đều quỳ rạp dưới ánh sáng chói lòa của hai chiếc trực thăng đang hạ cánh xuống nền đá hoa cương trước của cung điện.
Tể tướng bước xuống trước, sau đó chúng tôi được mời vào trong hoàng cung diện kiến vua của nước Vạn Xuân:
Vua nước ấy- một người đàn ông trung niên, nét mặt u sầu, long bào xộc xệch vì chiến tranh triền miên đứng bật dậy khi cửa điện mở ra.
Tể tướng bước vào, theo sau là hai sĩ quan mặc giáp kháng đạn, và hai chuyên gia đàm phán Tuyết Hoa và Trần Bình, tôi đi sau cùng và mang theo
Bản điện tử (bên trong lưu trữ tất cả bản đồ mà chúng tôi đã vẽ được trong suốt thời gian qua)
Tể tướng (quỳ gối)
Bệ hạ, thần đã đến được nơi đó.. Và trở về với những điều không thể tin được. Thiên binh không ở trên trời, họ là những người thế hệ sau, đến từ thời đại khác. Họ có thể cứu lấy giang sơn.
Dương Hùng- chỉ huy trưởng của chúng tôi bình thản đáp ;
"Thưa bệ hạ, nếu ngài đồng ý cải cách triệt để - trao quyền lại cho dân, tổ chức bầu cử minh bạch, và đảm bảo sự bình đẳng tuyệt đối trong trị quốc – thì chúng tôi sẽ cứu đất nước ngài thoát khỏi diệt vong"
Nhà vua suy tư, vì chưa từng nghe đến từ bầu cử, với trao quyền cho dân bao giờ..
Đúng lúc đó, hai chuyên gia đàm phán cũng lên tiếng:
"Thưa bệ hạ, người hãy nghĩ kỹ đi, nếu giặc tràn vào thành tính mạng ngài e rằng khó giữ, tất cả phi tần của ngài, bao gồm cả cũng nữ, thậm chí hoàng thân quốc thích đều có nguy cơ bị làm nhục, nếu ngài đồng ý nhượng quyền lại cho dân- và tiến hành bầu cử, cứ một triệu người dân bầu lên một người lãnh đạo, tất cả những người được dân tin yêu đó sẽ cùng nhau họp bàn và lãnh đạo đất nước, chúng tôi đảm bao ngài và tất cả người thân của ngài được an toàn, nếu ngài không đồng ý, thậm chí nơi yên nghỉ của tổ tiên ngài cũng bị quân địch giày xéo.."
Nhà vua (nét mặt nghiêm nghị, sau một hồi trầm mặc) :
"Nếu quả thật là ý trời, thì trẫm thuận theo thiên ý. Trẫm nguyện ký vào bản chiếu nhường ngôi cho dân, chỉ mong dân được sống, núi sông không tan".
Không khí trong điện lặng như tờ, có vài quan đại thần quỳ xuống can gián, có tiếng khóc lặng lẽ của một vị lão thần từng hô vang "trung thân ái quốc suốt đời"
Nhà vua :(sau một hồi nhắm mắt trầm tư rất lâu) :
"Trẫm không thể thắng thời cuộc, nếu đây là cách duy nhất cứu lê dân bách tính.. Thì trẫm nguyện buông kiếm báu. Soạn giao ước đi."
Bên trong căn phòng phía sau điện, các học sĩ bắt đầu mài mực, trải giấy da. Họ ngồi đối diện với những người hiện đại chúng tôi- mở lap top, hiển thị văn bản mẫu, dùng thuật ngữ chính trị như "hiến chương lâm thời, ủy ban chuyển tiếp, bầu cử toàn dân" khiến các học sĩ toát mồ hôi mà vẫn cố bắt kịp.
Một buổi đêm dài diễn ra trong im lặng và tập trung. Các học giả cũ và mới tranh luận gay gắt, một bên dùng sách cổ, một bên viện dẫn nhân quyền. Cuối cùng, vào lúc canh ba, bản giao ước được hoàn tất, trải dài ba tờ da trâu, đóng dấu son của hoàng triều, và chữ ký điện tử của đại diện tương lai.
Tại lễ ký kết:
Đức vua ngồi ngay ngắn, trước mặt là bản giao ước. Ông lấy cây bút lông được mài đặc biệt, chấm mực son và ký tên bằng thủ bút của mình- một nét chữ rồng bay phượng múa. Sĩ quan tương lai đặt tay lên màn hình cảm ứng, xác nhận chữ ký sinh trắc học.
Nhà vua (lặng lẽ) – "trẫm giao lại giang sơn cho dân. Nguyện họ dùng nó tốt hơn trẫm từng có thể.
Tiếng chuông đồng ngân vang từ phía xa, báo hiệu bước chuyển mình của thời đại,
Ngoài sân, những người dân đang chờ đợi dưới ánh đèn đuốc. Bên trên là những lá hoàng kỳ hạ xuống, và một lá cờ trắng có 12 ngôi sao đang dâng lên (vì theo như thông tin phía nhà vua, trước chiến tranh, đất nước này có khoảng 12 triệu dân, nên đoàn chúng tôi thống nhất để 12 ngôi sao tượng trưng cho 12 triệu dân).
Trời còn chưa sáng hẳn, những làn sương mỏng vẫn còn vương trên mái ngói hoàng cung. Tiếng gió buốt luồn qua từng khe đá, trong lòng chúng tôi đều bùng lên chung một nhiệt huyết:" CỨU DÂN ", cũng không hiểu sao mọi người lại bùng lên cảm giác này, cảm giác sốt sắng và khẩn trương, cảm giác vui mừng vì được bảo vệ những người yếu thế trong cuộc sống. Đó là bản năng của người lính? Hay là vì chúng tôi không được bảo vệ quê hương, nhưng giờ đây chúng tôi bảo vệ những người yếu thế nên nỗi đau trong lòng nguôi đi? Dù sao thì chúng tôi cũng không biết. Nhưng tôi dám chắc rằng tất cả những người lính như chúng tôi sẵn sàng đổ máu để bảo vệ em bé mới tập đi, bảo vệ cụ già lưng đã còng, tóc đã bạc thậm chí cho dù có hy sinh thì chúng tôi vẫn sẽ mỉm cười.
Từ sân rồng, hai chiếc trực thăng quân sự hiện đại gầm rú khởi động. Các cánh quạt quay nhanh, cuốn tung cả lớp bụi đất và y phục của bá quan đứng thành hàng hai bên. Dân chúng chen nhau đứng ngoài cổng hoàng cung, ngửa mặt lên nhìn thứ" thần vật "bay lên từ nóc điện vàng son, ánh mắt vừa hoang mang vừa tràn ngập niềm tin.
Chiếc thứ nhất: Bay thẳng về căn cứ của chúng tôi cách khoảng bốn giờ bay, nơi hơn mười ngàn con người sẵn sàng chờ lệnh,
Chiếc thứ 2: Bay vòng quanh kinh thành xem có chỗ tường thành nào bị hư hỏng không thì báo cho chính quyền nhà vua đến sửa nhanh, cộng thêm nhiệm vụ cứu trợ, cứu nạn nếu gặp trường hợp cần thiết.
Tại căn cứ chính của chúng tôi:
Nơi chiếc trực thăng thứ nhất vừa đáp xuống, vì có liên lạc qua bộ đàm từ trước (bộ đàm của chúng tôi có thể liên lạc quanh bán kính 50km tính từ căn cứ trung tâm) hai nghìn người lính tinh nhuệ đã xếp hàng đợi lệnh.
Không chậm trễ giây phút nào, chỉ huy Dương Hùng ra lệnh, đội súng máy và đội bắn tỉa lập tức lên trực thăng, mang theo hai mươi khẩu súng máy sáu nòng xoay, số còn lại trong hai ngàn người lập tức lên xe đặc chủng, xe chở quân và xe cơ giới đường bộ đã được chuẩn bị từ trước đến kinh thành yểm trợ.
Ngay lập tức, tiếng động cơ gầm lên, xe quân sự nối đuôi nhau như một đàn rồng thép bắt đầu di chuyển, đèn pha xé toạc màn đêm.
Mười chiếc trực thăng bay phía trên vội vã tiến về phía kinh thành đất nước Vạn xuân, như sợ rằng quân địch sẽ tiến như thác lũ xóa sổ kinh thành bất cứ lúc nào.
Tại kinh thành đất nước vạn xuân
Bầu trời phía xa đã đỏ rực, khỏi và lửa đang nuốt chửng từng rặng cây. Quân thù áp sát kinh thành. Cờ máu bay ngập trời. Tiếng trống trận vang như sấm, kéo dài vô tận.
Và rồi..
Âm thanh gầm rú từ rời cao, mười bóng trực thăng từ phía chân trời bay đến, quân địch không hiểu chuyện gì, ngơ ngác nhìn nhau, họ chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì bay trên trời mà lại to lớn đến thế, chỉ huy địch- một tên tướng râu hùm và dày dạn kinh nghiệm trận mạc, ngay lập tức ra lệnh cho đội quân tiên phong dừng tấn công, để thăm dò tình thế chiến trận – và bảo toàn lực lượng, tránh rơi vào phục kích khiến cho tổn thương vô ích.
Lợi dụng chút thời gian quý hơn vàng mà quân địch cẩn thận thăm dò, chỉ huy của chúng tôi: Đại tá Dương Hùng ngay lập tức giơ tay ra hiệu, phát lệnh dứt khoát
Triển khai trận địa phòng thủ cấp tốc, đặt súng máy lên nóc thành, đội bắn tỉa và đội súng máy khẩn trương vào vị trí.
Mệnh lệnh nhanh chóng được thực thi, hai mươi khẩu súng máy sáu nòng xoay đa hướng bố trí tại những điểm cao quanh tòa thành, đề phòng quân địch tấn công, đồng thời mười tám xạ thủ bắn tỉa tinh nhuệ cũng đã vào vị trí, tất cả đã thống nhất: Sẽ nhắm vào mời bảy tên tướng lĩnh tối cao của quân địch.
Từ trên cao, nòng súng thép đen như mắt rồng, mỗi khẩu có thể phun ra hàng nghìn viên đạn chỉ trong vài phút, những khẩu súng bắn tỉa thì như nhưng con ong đang phục kích, sẵn sàng châm đốt vào những điểm yếu nhất của quân giặc.
Ở phía quân thù, sau khi tất cả các đội do thám được cử đi đều báo về là xung quanh kinh thành không có đội quân đáng kể nào cả, chỉ còn chưa đến hai vạn tàn quân già yếu, bệnh tật co cụm lại phòng thủ ở kinh đô vạn xuân thôi, tên tướng giặc cười ha hả:
-" Với hai vạn quân già yếu của hắn (ý nói đức vua nước vạn xuân) chúng ta chỉ cần dẫm đạp thôi là cũng đủ để chiến thắng chúng rồi. Tất cả nghe lệnh, tổng tấn công toàn lực cho ta, giết sạch không chừa một mống ";
- Ba mươi vạn kỵ binh của giặc giăng hàng dài như sóng biển với binh lính mặc giáp dày, giáo mác tua tủa như rừng gươm lạnh ùn ùn kéo đến. Phía xa xa là hàng loạt xe công thành, tháp công thành cao ngất ngưởng như những con quái vật cũng đang lầm lũi hướng về phía kinh thành.
- Trên tường thành, bầu trời u ám như chì, linh cảm điềm gở. Dưới chân thành đại quân địch giăng kín đất trời, ngựa hí vang trời, giáp trụ lang loáng như bão sắt.
- Trên chòi cao, mười tám tay súng bắn tỉa hiện đại đã sẵn sàng, mỗi người đều đã được chỉ định một mục tiêu: Tên thống soái của địch thì được hai người" chăm sóc ", mười sáu người còn lại thì" chăm sóc "mười sáu tên tướng lĩnh có vẻ như là trụ cột hàng đầu của quân giặc.
- Sĩ quan chỉ huy ra lệnh ngắn gọn qua bộ đàm ;" 3.. 2.. 1.. Khai hỏa "
Âm thanh khai hỏa đồng loạt vang lên, hòa lẫn với tiếng vó ngựa dồn dập bên dưới, ngay lập tức mười lăm tên tướng giặc gục xuống, đầu bị bắn nát, ngực thủng, mắt vẫn còn chưa kịp chớp
Bên phía quân địch:
Không ai biết chuyện gì xảy ra. Tướng ngã xuống, máu loang yên lặng trên lung ngựa
Quân lính chỉ thấy tướng của mình đột ngột gục đầu rồi rơi xuống đất..
Cờ lệnh rơi, mệnh lệnh rối loạn, toàn quân hoang mang cực độ.
Không ai trong số ba mươi vạn đại quân ngờ được những vị tướng thông minh nhất, mạnh mẽ nhất của bọn họ lại chết dễ dàng như thế- điều khiến bọn chúng ngạc nhiên hơn là không thấy một mũi tên, không thấy một thanh gươm hay một ngọn giáo. Cả đoàn thiết kỵ từng là niềm kiêu hãnh bách chiến bách thắng, nay đứng tê liệt như bị đóng băng giữa đất trời.
Phía sau, vài tên chỉ huy còn sót lại- run rẩy tái mặt- cố gắng trấn tĩnh. Một tên la lớn trong hoảng loạn:
" Tạm thời lui quân, quay về doanh trại bảo toàn lực lượng "
Tên khác thì giật dây cương quay ngựa, mắt vẫn không rời khỏi đỉnh tường thành – nơi những kẻ vô hình vừa kết thúc toàn bộ tầng chỉ huy cấp cao trong một hơi thở.
" Là quỷ ám! Là sát thủ của trời đất! Lui mau! "
Tiếng chiêng vang lên, từng toán thiết kỵ quay đầu trong hỗn loạn – một cuộc rút lui chưa từng có trong quân đoàn bách chiến bách thắng của họ.
Thế nhưng.. Giữa lúc đại quân giặc bắt đầu rút lui, một toán kỵ binh tiên phong khoảng hơn một ngàn tên mặt đỏ gay, mắt vằn máu, dường như chúng quá say chiến, quá khát máu – hay chúng không nghe thấy lệnh lui binh vẫn cắm đầu lao thẳng tới lằn ranh đỏ - nơi mà các chiến sĩ vệ thành đã bàn bạc từ trước, nếu để giặc vượt qua lằn ranh này, kinh thành sẽ gặp nguy hiểm.
Lằn ranh ấy – cách chân tường thành đúng tám trăm mét, được đánh dấu bí mật bằng thiết bị đo khoảng cách và cảm biến – là giới hạn tử thần. Vượt qua, đồng nghĩa với việc bước vào trận địa bắn tuyệt đối.
Ngay lập tức, hai mươi khẩu súng máy sáu nòng xoay gắn trên bệ cố định đồng loạt khởi động. Tiếng mô tơ điện rít lên từng đợt, ánh kim loại xoay tròn như lưỡi dao tử thần. Rồi tiếng rít dần trở thành tiếng gầm.. Một cơn bão đạn như mưa búa sấm sét trút xuống trong vòng chưa đầy 3 giây, mỗi khẩu đã nhả hàng trăm viên đạn cỡ lớn xuống quân giặc.
Ngựa chiến bị xé toạc thân thể, người văng khỏi yên như rơm rác, tiếng la hét, tiếng kim loại vỡ vụn, tiếng máu văng tung tóe vang dội cả một vùng trời.
Cả đội tiên phong hơn ngàn người, trong vòng mười lăm giây, dường như không còn lấy một ai sống sót.
Phía sau, phần còn lại của quân giặc chết lặng. Không ai dám quay đầu lại nhìn, cả đội hậu cần, hậu quân, truyền tin, cấm vê – tất cả đều run rẩy như lá trong gió bão
Tên chỉ huy còn sống rít lên, mắt trợn trắng:
" Đó không phải là tường thành, đó là quỷ môn quan "
Phía sau bức tường thành, tiếng động cơ ầm ầm vang lên như sấm nổ. Mười chiếc trực thăng vận tải hiện đại, hai bên được gắn vũ khí phụ trợ - lần lượt cất cánh, lượn vòng cao rồi áp sát từ phía sau tường thành, ra thẳng chiến địa.
Mặt trời vừa ló khỏi mây. Ánh sáng chiếu lên lớp giáp thép bóng loáng của trực thăng, khiến chúng hiện ra như những con quái vật cơ khí trên trời.
Cánh quạt xoay tít, cuốn tung bụi đất, gió thổi rát mặt, âm thanh đăc trưng của trực thăng xé gió gào thét, như lời cảnh báo từ một nền văn minh vượt xa thời đại. Bên dưới, tàn quân giặc đã rệu rã, vừa chạy vừa ngoái nhìn, mặt cắt không còn giọt máu.
Rồi loa phóng thanh bật lên. Âm thanh được khuếch đại vang dội giữa trời đất như tiếng của thần linh:
" Các ngươi đã bước chân vào đất thiêng Vạn xuân, và phải trả giá. Bọn cướp giết dân đã bị trừng phạt. Đây là cơ hội cuối cùng để sống sót: Vứt vũ khí, bỏ ngựa, cởi giáp, rút lui về nước – nếu không, tử thần sẽ đến từ bầu trời và mặt đất! "
Âm thanh như long trời lở đất, vọng xa đến cả chục dặm. Nhiều tên lính giặc quăng cả giáo, quỳ sụp xuống đất, bịt tai run rẩy như bị ma ám.
Tên tướng giặc còn sống, đang cưỡi ngựa giữa đám lính tháo chạy, hét lớn trong tuyệt vọng:
" Rút! Rút lui mau! Chúng ta không phải đánh với người – Chúng ta đang đánh với quỷ thần! "
Bỗng có một chiếc trực thăng hạ độ cao, bay lướt sát qua đầu họ, gió quật bật cờ xí, bụi đất che mờ tầm mắt, một vài tên lính quá hoảng loạn tự giẫm đạp lên nhau mà chết. Quân địch vỡ trận hoàn toàn, không còn hàng ngũ, không còn chỉ huy, không còn sĩ khí – chúng bỏ chạy như kiến vỡ tổ.
Trên bầu trời, đội trực thăng tiếp tục lượn vòng răn đe, vừa phô diễn sức mạnh, vừa thu tín hiệu trinh sát.
Phía kinh thành: Từ tường thành cho tới từng ngõ ngách, từng mái nhà, quân dân vạn xuân như vỡ òa, người dân đổ xô ra đường, ôm chặt người thân, vỗ tay reo hò, nước mắt rơi vì hạnh phúc:
" Chúng ta thắng rồi, chúng ta đã sống! Trời ơi.. Chúng ta vẫn còn sống! "
Giữa biển người hân hoan ấy, chỉ huy trưởng Dương Hùng – trong bộ quân phục dính bụi khói, nét mặt vẫn nghiêm nghị, ánh mắt như đang nhìn xa hơn về đường chân trời. Anh không nói gì, chỉ đưa tay chào những chiến sĩ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, rồi lặng lẽ lên trực thăng đã khởi động sẵn, tiến thẳng vào hoàng thành.
Điện Thiên Uyên, hoàng cung Vạn Xuân:
Đức vua trong long bào được thêu bằng chỉ vàng đang chờ sẵn, ánh mắt nặng trĩu sau những đêm dài không ngủ. Khi thấy Dương Hùng bước vào, ngài bước xuống bệ rồng, cầm tay vị tướng đến từ tương lai.
" Thành đã giữ được, người dân đã sống, cám ơn tướng quân "
Dương Hùng khẽ cúi đầu, không vội nhận lời khen, rồi anh nói bằng giọng rắn rỏi nhưng vừa đủ nghe:
" Bệ hạ.. Đây mới là bước đầu. Quân địch đang tháo chạy trong hoảng loạn. Nếu ta chần chừ, chúng sẽ kịp củng cố hậu cứ, tập hợp viện binh. Nhưng nếu hành động ngay.. Thì toàn bộ đất nước Vạn Xuân sẽ được giải phóng trong vòng một tháng ".
Đức vua nhìn anh, trầm ngâm:
" Ngươi muốn đánh tiếp? "
Dương Hùng gật đầu:
" Không chỉ đánh, mà còn là tiếp nhận, quản lý, bảo vệ. Mảnh đất nào được giải phóng, dân chúng phải được chăm lo, cứu trợ lương thực và y tế. Và điều quan trọng nhất như đức vua đã hứa và ký vào bản cam kết: "Tất cả vùng lãnh thổ nào được giải phóng từ tay giặc, sẽ do nhân dân nơi đó làm chủ!". Để làm được điều đó, tôi cần một vạn quan binh của triều đình – những người hiểu luật pháp, biết tổ chức và đủ uy tín ".
Nhà vua trầm tư một lúc, rồi hỏi:
" còn quân đội của ngươi? "
" Chúng tôi sẽ dẫn đường, đánh mở lối, tiêu diệt quân địch phản kháng, nhưng phía sau chúng tôi, không thể là khoảng trống. Phải có người bảo vệ quyền lợi của nhân dân, phải bảo vệ trật tự trị an tạm thời. Lá cờ của nhân dân phải được treo lên. "
Không khí trong điện đột ngột tĩnh lặng.
Ánh sáng rọi qua song cửa, chiếu lên gương mặt rắn như thép của Dương Hùng và ánh mắt đăm chiêu của vị quân vương.
Cuối cùng, nhà vua nắm chặt vai Dương Hùng, ông trịnh trọng gật đầu:
" Vậy trẫm giao cho ngươi một vạn quan binh, chọn lọc từ những người công chính, liêm khiết nhất. Cờ nhân dân sẽ phấp phới trên mỗi vùng đất được giải phóng. Hội đồng nhân dân sẽ được thành lập. Một vạn quan binh, không mang danh phụng sự triều đình, mà là phụng sự nhân dân, sẽ đi theo tướng quân để tiếp nhận các địa phương. "
Dương Hùng cúi đầu thật sâu, cám ơn đức vua:
" Tạ ơn bệ hạ.. Người không giữ ngai vàng, mà giữ lời thề với nhân dân. Vạn Xuân mãi mãi không chỉ là tên đất, mà là tinh thần sống của muôn người. "
Trở lại phía ngoài tòa thành – nơi chiến sự vừa diễn ra:
Ngay sau chiến thắng, cánh cổng kinh thành mở toang. Ba mươi van ky binh giặc tháo chạy, bỏ lại rất nhiều xe chở lương, vũ khí, xác ngựa.. Hàng ngàn người dân và binh sĩ được huy động mang lương thực về cứu đói khẩn cấp cho nhân dân, vì tòa thành đã bị vây nhiều ngày, mọi người đã lâu không được ăn no. Những bao gạo, bánh khô, thịt khô.. Được chia đều cho từng đoàn người xếp hàng. Những người đói đến mức không còn khả năng xếp hàng nữa – thì được cấp phát cháo, mang đến tận nơi.
Phía xa xa, chiến mã của giặc – có đến vài ngàn con đang hoảng loạn bỏ chạy, chúng được các tổ kỵ binh chuyên nghiệp thuần hóa lại, cột theo đàn, đưa về chuồng tập kết phía nam.
Đao thương, giáp sắt, khiên đồng đều được gom lại, đổ đống thành từng bãi, được lệnh giao lại cho các lò rèn để rèn lại thành cuốc xẻng, lưỡi cày và các vật dụng thiết yếu cho nhân dân.
Rạng sáng hôm sau. Bầu trời phía đông vừa ửng đỏ, tiếng động cơ gầm rú từ xa đã vọng đến, làm mặt đất như rung chuyển. Người dân trong thành đổ ra các cổng, nhìn về phía chân trời bụi đỏ mù mịt. Đội viện binh đã đến.
Hơn một ngàn chín trăm người, được lệnh di chuyển từ hai ngày trước, hành quân xuyên đêm, cuối cùng đã tới kinh thành.
Dưới chân thành. Chỉ huy trưởng Dương Hùng đã chờ sẵn, bên cạnh là một vạn quan binh mà đức vua đã cử đến. Một cuộc hợp binh vĩ đại giữa quân đội hiện đại và quan quân cổ xưa.
Không có thời gian nghỉ ngơi. Chỉ huy trưởng Dương Hùng ra lệnh qua bộ đàm:
" Tất cả đoàn quân cứu viện lập tức tiến về hướng nam, giải phóng thành trì lớn thứ hai của đất nước Vạn Xuân, kết hợp với một vạn quan quân mà nhà vua đã trao, dưới sự yểm hộ của tám chiếc trực thăng vận tải có gắn vũ khí hai bên "
Ngay lập tức, sau hiệu lệnh của chỉ huy Dương Hùng, đoàn quân cứu viện gần hai nghìn con người và mười ngàn quan quân Vạn Xuân xuất phát thẳng tiến về phía nam. Nơi quân giặc vẫn đang chiếm giữ.
Tại kinh thành Vạn Xuân, giữa lúc các cánh quân đang tiến đánh khắp nơi, công việc tổ chức hậu phương cũng tất bật không kém gì tiền tuyến. Những đoàn người dân đói khổ, bệnh tật, trẻ nhỏ mất cha, già nua lánh nạn.. Đang được đưa vào các khu lều trại dựng tạm phía bên ngoài thành.
Bệnh xá dã chiến được dựng lên sát chân tường phía đông. Trên nền đất phẳng được dọn sạch, những lều bạt lớn căng dọc hai bên trục chính như hình chữ H – chia bệnh xá thành hai phân khu rõ rệt:
Phía bên trái: Quân y hiện đại:
Các y bác sĩ quân y chủ yếu khâu vết thương, cầm máu, lấy dị vật, xử lý gãy xương hở, chống nhiễm trùng. Đây là thế mạnh của quân y hiện đại.
Dưới ánh sáng của đèn pin năng lượng mặt trời, các chiến sĩ quân y sát trùng bằng cồn y tế, tiêm kháng sinh khâu vết rách nhanh như máy..
Trong lúc bệnh xá dã chiến đang hoạt động hết công suất, tiếng người gọi nhau í ới, tiếng thiết bị y tế va chạm gấp gáp, bỗng một tiếng rên đau đớn và gấp gáp vang lên ngoài cổng.
Một chiếc cáng được khiêng vội vào, nằm trên cáng là một sản phụ sắp sinh, gương mặt tím tái vì đau đớn. Một nữ chiến sĩ khiêng phần đầu cáng, đằng sau là chồng của sản phụ, trên gương mặt hai người đều là mồ hôi nhễ nhại chảy xuống.
-" Sắp sinh rồi, nước ối đã vỡ "– một y tá hét lên.
Ngay lập tức rèm che được kéo thêm lên trong bệnh xá dã chiến, những nữ quân y tạm gác các công việc khác hoặc giao lại cho các đồng nghiệp nam làm, họ mang găng tay, nồi nước ấm, kéo tiệt trùng và các dụng cụ y tế khác đến trợ sinh.
Chẳng cần ai phải ra lệnh, tất cả đều hành động nhịp nhàng như một cơ thể sống – phản xạ theo bản năng nhân đạo.
Bên ngoài, người chồng đang lo lắng quỳ sụp xuống dưới đất cầu nguyện cho mẹ tròn con vuông!
Phía bên phải: - phân khu đông y, điều chỉnh cơ thể, chữa trị bằng phương pháp tự nhiên như nắn khớp, trật tay, bong gân, đau cơ, chấn thương kín.. Tại đây các thầy thuốc dùng các bài thuốc xoa bóp, nắn chỉnh xương, châm cứu, hơ ngải cứu, kết hợp với các loại thảo dược giúp giảm đau, bổ khí huyết, an thần.
Chiếu tre trải dài thành từng dãy, mùi thảo dược bốc lên nghi ngút từ các nồi thuốc được đun bằng bếp củi bên ngoài lán. Những bài thuốc cầm máu, tiêu viêm, chữa rạn xương, nắn khớp, cứu người trúng phong hàn được áp dụng nhanh chóng cho các bệnh nhân đã được phân loại từ trước và chỉ định sang phía đông y này!
Phía đông y không có máy móc, không kim tiêm hay đèn mổ, nhưng lại có kinh nghiệm từ hàng ngàn năm, có đôi bàn tay và tấm lòng.
Ở giữa lằn ranh hai khu, một bệnh nhân bị gãy chân nặng được quân y hiện đại mổ bóc tách dị vật, khâu vết thương, rồi chuyển ngay sang phía đông y để bó thuốc, dưỡng gân cốt bằng bài thuốc gia truyền.
Hai bên làm việc như hai nửa não bộ của một cơ thể, không tranh công, không kiêu ngạo, chỉ có một mục tiêu duy nhất:" CỨU NGƯỜI "
Chương 4 cuộc chiến giành lại đất nước
Thật kỳ lạ, dù chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần là cuộc chiến giải phóng toàn bộ đất nước Vạn Xuân sẽ còn nhiều khó khăn, vất vả. Nhưng khi trận tổng phản công bắt đầu, mọi chuyện còn dễ hơn cả dự đoán.
Không phải vì địch yếu hẳn, mà vì chúng hoảng loạn trước những thứ chưa từng có trong lịch sử.
" Chúng là thần binh! Chúng có thể bay được trên trời, lửa từ trên cao giáng xuống, đánh đâu thắng đó! "
" Bọn họ có thể sai khiến những con vật được bọc thép còn to hơn cả voi – làm sao chúng ta có thể thắng họ cơ chứ! "– một tên lính địch nói
Thực tế đã cho thấy, khi tinh thần quân địch tan rã, họ còn yếu hơn cả dân binh, nhiều nơi chưa đánh đã mở cổng đầu hàng. Có thành trì còn treo cờ trắng trước khi đoàn quân kịp tới, dân chúng giành quyền mở cửa, bắt trói tướng lĩnh, xin gia nhập lực lượng chính nghĩa.
Một số nơi còn sót vài tên cứng đầu cố thủ, nhưng lính bắn tỉa từ trên trực thăng đã xả đạn xuống, buộc những tên còn lại phải mở thành đầu hàng.
Nhìn lại, cuộc phản công không phải là đổ máu giành đất, mà là cuộc hành trình giành lại trái tim của người dân.
Ở nhiều vùng quê vừa được giải phóng, người dân đã kiệt quệ, không còn nhà cửa sau bao năm chiến loạn, không còn lương thực sau những năm tháng bị áp bức, vơ vét, không có thuốc men để chống chọi với dịch bệnh đang hoành hành.
Có những đứa trẻ chỉ còn da bọc xương, run rẩy trong gió rét.
Có những bà mẹ ôm con đã chết vì tiêu chảy, không biết phải khóc hay phải mừng vì mình còn sống sót để đau đớn.
Có những cụ già cố hái từng cọng rau dại mọc ven ruộng, nấu lên thứ cháo loãng như nước rửa tay, chỉ để sống sót qua ngày
Trước tình cảnh đó, nhiều người không cầm nổi nước mắt. Chúng tôi hiểu: Đây mới là cuộc chiến thực sự.
Không còn địch thủ bằng gươm giáo, chiến mã, nhưng kẻ thù lần này là nạn đói, bệnh dịch, mất mát tinh thần
" Nếu chúng ta không chữa lành vết thương cho nhân dân, thì mọi chiến thắng quân sự đều là vô nghĩa "– Chỉ huy trưởng Dương Hùng phát biểu tại cuộc họp khẩn.
Quyết định nhanh chóng được ban hành:
Hai ngàn người được lệnh ở lại căn cứ chính của đoàn quân xuyên không, gồm:
Đội phòng thủ tinh nhuệ, bảo vệ hệ thống điện mặt trời, nhà máy lọc nước, kho lương thực và trung tâm nghiên cứu.
Các chuyên gia nông nghiệp, trông coi những cánh đồng thí nghiệm – nơi đang trồng lúa và các loại hoa màu từ những hạt giống mang từ tương lai về.
Một trạm y tế trung tâm vẫn duy trì hoạt động, sẵm sàng xử lý tình huống khẩn cấp trong khu vực.
Ngoài ra, đội đang tiến hành xây dựng nhà máy lọc dầu vẫn giữ nguyên nhân sự, vì xăng dầu từ thời hiện đại mà chúng ta mang theo không còn nhiều, không có xăng dầu thì trực thăng và xe chuyên dụng coi như không có tác dụng gì.
Tám ngàn người còn lại – mang theo"
Hàng trăm tấn lương thực, gạo, ngũ cốc, lương khô..
Thiết bị y tế hiện đại (máy đo huyết áp, máy thở cơ bản) thuốc men, vaccine sơ cấp
Hạt giống đặc biệt, có khả năng sinh trưởng nhanh trong điều kiện đất kém.
Và đặc biệt là tinh thần vì nhân dân phục vụ.
Thế nhưng, nước xa không cứu được lửa gần, tuy đoàn quân cứu trợ vội vã lên đường, mang theo rất nhiều lương thực, thuốc men, nhưng họ vẫn cần ít nhất vài ngày đường mới tới được nơi. Trong khi đó, nạn đói đã gõ cửa từng mái nhà, từng lán tạm bợ, từng khu dân cư vừa thoát khỏi ách đô hộ. Người dân không thể đợi thêm được nữa.
Có người đã ngất xỉu vì kiệt sức khi cố đứng xếp hàng xin chút cháo loãng từ trạm quân y
Có em bé khóc đến khàn giọng rồi thiếp đi, không còn nước mắt để rơi vì thiếu sữa và dinh dưỡng.
Có cụ già ôm cái bụng rỗng ba ngày, chỉ thều thào một câu trước khi gục xuống:
"Chúng ta giải phóng rồi.. Nhưng liệu có sống nổi không?"
Trước tình hình hết sức cấp bách đó, chỉ huy trưởng Dương Hùng triệu tập cuộc họp khẩn cấp trong trại chỉ huy. Sau chưa đầy năm phút bàn bạc, mệnh lệnh được ban ra:
"Kích hoạt kế hoạch săn cứu đói, toàn bộ phi đội trực thăng vận tải cỡ lớn, xuất phát ngay lập tức. Mục tiêu: Thú lớn trong tự nhiên"
Thế giới một nghìn hai trăm năm trước là một địa ngục rừng rậm đúng nghĩa đối với con người. Cây cối um tùm, dây leo giăng như mạng nhện, rắn độc, muỗi mòng, vắt, đỉa đầy rẫy.
Dân cư thưa thớt, sống co cụm bên các vùng ruộng ven sông, hiếm ai dám bước sâu vào rừng. Những thú dữ như Hổ, Gấu, Trăn khổng lồ là nỗi kinh hoàng thường trực.
Thú lớn như Voi, Trâu rừng, Cá Sấu, Tê giác sống tự do, không ai đủ sức săn được nếu không có tổn thất nặng. Ở thời đại này, không phải con người săn thú, mà là thú săn người.
Và rồi, đội quân xuyên không đến, mang theo thứ mà thế giới này chưa bao giờ thấy: Trực thăng vận tải hạng nặng – những con chim sắt khổng lồ gầm rú trên bầu trời, lượn qua núi rừng như thần linh giáng trần. Trong khi người cổ đại chỉ có cung tên và vũ khí lạnh, thì đội săn cứu đói khẩn cấp có: Súng bắn tỉa hạng nặng, kính hồng ngoại quét nhiệt từ xa, dụng cụ treo xác thú trọng lượng vài tấn lên trực thăng trở về.
Những chiếc trực thăng quân sự hạng nặng gầm rú giữa bầu trời cổ đại, chia thành từng nhóm, quần thảo khắp các cánh rừng nguyên sinh rộng lớn. Từ trên cao, binh sĩ dùng súng bắn tỉa để hạ những con thú khổng lồ, Trâu rừng, voi rừng, nai sừng tấm, thậm chí cá sấu và Gấu Xám. Các thiết bị định vị nhiệt, máy cảm biến chuyển động giúp chúng tôi dễ dàng truy dấu những đàn thú đang lang thang trong rừng sâu (đối với những đàn thú lớn ở đồng cỏ thì chỉ cần nhìn bằng mắt thường là được). Mỗi khi hạ được con mồi lớn, máy bay hạ độ cao – và những người lính nhanh nhẹn xuống cột thật chặt xác con vật vào dây treo và móc khóa để nâng lên, treo lủng lẳng vào xác máy bay, đem về điểm tập kết.
Tại các vùng mới giải phóng, các trại nấu ăn dã chiến mọc lên, đội đầu bếp và dân quân đã chờ sẵn với đầu bếp và hàng trăm nồi lớn nhỏ khác nhau. Những con thú nặng hàng trăm ký, thậm chí cả tấn được mổ xẻ, chế biến, chia thành khẩu phần cho dân. Có nơi, một nồi súp khoai tây nấu với thịt voi rừng, đã giúp cứu sống hàng ngàn người dân đang đói lả.
- "Tôi không còn nhớ mình đã nhai rễ cây cầm hơi bao nhiêu ngày. Mấy đứa trẻ trong làng khóc đến khản giọng, rồi chỉ còn nằm im, mắt lờ đờ nhìn lên mái nhà rách nát. Lúa má bị giặc đốt sạch, cơn đói tràn đến như dòng nước lũ không thể ngăn chặn. Người người lả đi nằm co quắp dưới gốc cây, chờ chết.. Thế nhưng, đúng lúc tưởng như không thể qua khỏi thì tiếng gầm của những con chim sắt xé toang bầu trời. Mọi người ngẩng đầu lên, trong sự hoảng sợ lẫn hy vọng. Chúng tôi từng nghe nói về những" thiên binh "– những người biết cưỡi chim sắt, sai khiến quỷ thần, đánh tan quân xâm lược. Nhưng nay họ không mang theo gươm giáo, mà mang về.. Thịt. Thịt thật sự!" – một người dân tên A Tang xúc động kể lại.
Ở một nơi khác, ngay tại cánh đồng trống ven làng, những chiếc bếp dã chiến dã được dựng lên. Khói bốc lên thơm ngào ngạt. Đội ngũ đầu bếp trong quân phục lạ màu tay nhanh thoăn thoắt, dao mổ sắc lẹm nhanh như chớp, những người dân trong làng nhìn nhau, vừa cảm động vừa vui mừng vì gia đình, làng xóm sắp được cứu.
Nồi canh xương voi nấu cùng khoai rừng, nồi thịt nai hầm lá quế, heo rừng quay tẩm gia vị.. Từng phần ăn nóng hổi được chia ra, đưa tận tay người dân.
Tối hôm đó, trong ánh lửa trại, có người lần đầu tiên cười lại sau mấy tháng trời. Trẻ con chạy nhảy quanh lều, trên tay còn cầm khúc xương gặm dở. Một chiến sĩ "thiên binh" ngồi kể chuyện cho lũ trẻ, giọng vừa lạ vừa thân thương.
Dưới đây là lời kể của trưởng làng Lương – cụ già bảy mươi ba tuổi:
Mấy chục năm làm trưởng làng, tôi đã từng chứng kiến chiến tranh, cướp bóc, cháy nhà, mất mùa, người chết đói nằm co quắp bên bờ ruộng. Nhưng chưa bao giờ dân làng tôi rơi vào cảnh như tháng này.
Mấy hôm trước, có người trong làng chết đói. Chết đói thực sự, không còn ai đủ sức đào mộ. Tôi già rồi, nhưng vẫn phải lết ra sau đồi cuốc đất chôn họ. Đau, không phải vì cái chết, mà vì cái chết ấy giữa thanh thiên bạch nhật mà không ai làm gì được
Thế rồi, giữa lúc trời đất tưởng như quên chúng tôi, âm thanh ù ù vang lên từ phía trời nam, ngẩng đầu lên nhìn, tôi không tin vào mắt mình, có con chim sắt khổng lồ đang sà xuống bãi đất trống, dưới bụng nó đang treo lủng lẳng một con trâu rừng, máu còn nhỏ giọt.
Chẳng máy chốc, thịt được phân ra, xẻ từng khúc, phát đều cho các gia đình. Người già, trẻ nhỏ, sản phụ được ưu tiên. Những người lính mặc đồ kỳ lạ, lưng đeo vũ khí sáng loáng nhưng ánh mắt hiền lành, họ không nói nhiều, chỉ làm, và làm. Có người còn ôm cụ già như tôi mà nói:
"Cụ nghỉ đi, bây giờ là phần của bọn cháu"
Tôi lặng người. Bàn tay thô giáp của tôi run run nắm lấy tay của cậu lính trẻ. Không ai trên đời nợ nhau gì cả. Nhưng hôm nay, họ đã cho cả làng tôi một món nợ ân tình.
Tối hôm đó, đứng trên gò cao nhìn xuống, thấy khói bếp bốc lên từ hàng chục nóc nhà đã gần như sụp đổ. Mùi thịt nướng lan trong gió. Tôi tin cuối cùng, có lẽ dân tộc mình đã tìm thấy ánh sáng.
Chương 5 – bình minh tái sinh – khi hạt giống được trao tay, và quyền lực được về tay dân chúng
Sau nhiều ngày đói rét, sau những lần bốc thịt thú rừng như vàng ròng trong tay, người dân giờ đã có cơm ăn, áo mặc tạm thời. Nhưng không ai trong đoàn quân xuyên không cho phép mình ngơi nghỉ. Cơm thịt không thể cứu đói mãi, muốn dân no, thì phải tự trồng được lúa, tự gieo được hạt và tự cai quản lấy nhau.
Vì vậy hàng trăm kỹ sư nông nghiệp từ thời hiện đại lần lượt được cử đến các vùng nông thôn, mang theo túi hạt giống quý, thứ mà một nghìn hai trăm năm trước chưa ai biết tới:
Lúa lai kháng bệnh
Bắp ngô siêu năng suất
Cà chua chịu hạn
Cà rốt, rau củ, đậu đỗ đủ loại..
Mỗi kỹ sư được phiên dịch lại bằng người địa phương, chia nhóm đến tận từng làng, hướng dẫn cặn kẽ từng bước, từ làm đất, lên luống, ủ phân, cách tưới nhỏ giọt tiết kiệm nước, đến cả việc dùng các loại thảo dược thay thế thuốc trừ sâu..
Người dân kinh ngạc. Thứ họ từng nghĩ là phép tiên – thì ra là tri thức. Một cụ già thì thầm "xưa nay gieo một được ba đã là trời thương.. Giờ gieo một được hai mươi, ba mươi.. Có lẽ trời không bỏ dân mình thật."
Bên phía hoàng cung:
Giữa sân điện rêu phong, nhà vua – người vừa được cứu khỏi cảnh diệt vong – chính thức bước ra, mặc thường phục và tuyên bố:
Ta từng nghĩ giữ ngai vàng là để bảo vệ quốc gia. Nhưng nay ta hiểu, chỉ khi dân là chủ thì đất nước mới không còn bị xâm lược, không còn bị đói nghèo.
Nay, ta tuyên bố:
"Chuyển toàn bộ quyền điều hành đất nước về tay nhân dân. Mỗi làng, mỗi huyện, mỗi vùng, hãy chọn ra người tài đức nhất để lãnh đạo chính mình. Từ nay, không còn vua, chỉ còn dân."
Cả quảng trường như nổ tung, có người khóc, có người quỳ xuống cảm tạ, có người hét lên giữa tiếng trống rền vang: "Muôn dân là vua, dân là gốc nước"
Kể từ ngày hôm đó, đất nước bước vào một thời kỳ chưa từng có: Nhân dân tự chọn lãnh đạo, dân chủ từ làng đến tỉnh, toàn dân cùng học cách tự cường.
Ngày bầu cử đầu tiên diễn ra như một lễ hội lớn. Trống chiêng vang lên từ sáng sớm. Từng đoàn người dân quấn khăn, đội nón, bế con, dắt mẹ, kéo nhau đến các điểm bỏ phiếu dụng tạm bằng tre và vải dù của quân đội.
Mỗi người được phát một lá phiếu làm giấy bồi, tren có ghi tên người trong làng được đề cử. Nhưng đến khi kiểm phiếu xong, cả hội đồng bầu cử như hóa đá.
- Người trúng cử trưởng làng: Thiếu úy Nguyễn văn Sơn
- Trưởng huyện: Trung tá Trần Quốc Hùng
- Trưởng tỉnh: Đại úy Mai Thị Ngọc
* * *
Thống lĩnh toàn vùng: Tổng chỉ huy Dương Hùng! "
Không một ai trong danh sách dân sự được chọn. Lá phiếu nào cũng chi chít những cái tên xuyên không. Có người dân còn viết thêm:" Cháu bầu cho anh lính có râu râu, cứu bà nội cháu hôm bị cảm lạnh ạ ".
Một cụ già ngơ ngác nói:
" Chứ không phải ai cứu mình thì mình bầu người đó làm quan à? Mấy anh lính ấy giỏi, đàng hoàng, lại biết chữ, biết thuốc, biết cưỡi chim sắt.. Không bầu họ thì bầu ai? "
Chúng tôi cười như mếu. Cả hội đồng bầu cử phải đứng ra giải thích mấy lần, toát mồ hôi:
" Thưa các bác, các cô chú.. Quân đội chúng cháu chỉ có nhiệm vụ bảo vệ nhân dân, không được phép điều hành đất nước. Các vị phải chọn người trong làng mình, người các vị tin tưởng và hiểu rõ nhất, để họ đại diện cho dân ".
Có người dân chép miệng tiếc nuối:
" Biết vậy hôm trước đừng để mấy ông ấy cứu mình nữa.. Cứu rồi mà không cho làm quan thì áy náy lắm ".
Cuối cùng, bằng sự kiên nhẫn và tinh thần dân chủ, từng làng, từng xã cũng đã chọn ra người của chính mình. Tuy còn lạ lẫm, vụng về, nhưng đó là bước đầu tiên của một kỷ nguyên mới: Dân làm chủ, đất nước không còn vua chúa, mà là của tất cả mọi người.
Chương 6 – chính quyền dân chủ đầu tiên của vạn xuân ra đời
Đã hơn hai năm kể từ ngày đoàn quân xuyên không về quá khứ. Cuộc chiến kết thúc, lúa gạo đã thay đói rét, hạt giống đã thay tro tàn, và niềm tin đã thay sợ hãi. Nhân dân Vạn Xuân – từ những người lam lũ, gầy guộc – giờ đây đã trở thành chủ nhân thực sự của mảnh đất mình sinh ra.
Chính quyền dân chủ đầu tiên trong lịch sử chính thức hoạt động.
Từ mười hai vùng lớn nhất trong cả nước, mười hai người dân thường, không ai là quý tộc, không ai là tướng lĩnh – được nhân dân bầu chọn thông qua bỏ phiếu công khai. Họ là nông dân, là thợ rèn, là ngư dân, là người từng thất học, từng đói rét.. Giờ đây họ cùng ngồi chung một bàn tròn lớn, gọi là hội đồng tối cao nhân dân Vạn Xuân – đại diện cho hơn mười hai triệu người dân cả nước.
Không ai gọi họ là quan
Họ tự xưng là" người được dân ủy thác "Mỗi quyết định được thảo luận công khai. Mỗi người dân đều có quyền góp ý
Ngày thành lập hội đồng, một buổi lễ long trọng được tổ chức tại quảng trường trung tâm, nơi tùng là trung tâm quyền lực phong kiến năm nào, giờ cắm một lá cờ mới: Nền trắng tinh khôi, có thêu hình mười hai ngôi sao, đại diện cho mười hai người trong hội đồng tối cao – thay mặt cho mười hai triệu dân trong nước điều hành đất nước. Dưới hình mười hai ngôi sao, là bông lúa vàng vươn lên từ vết nứt đất, biểu tượng cho sự sống nảy mầm từ đau thương.
Mười hai người trong hội đồng tối cao, đứng thành một hàng ngang, cùng tuyên thệ trước toàn dân:
" Chúng tôi – những người được nhân dân giao trọng trách – xin thề:
Không tham quyền cố vị
Không nói dối dân, không phản dân.
Mỗi quyết sách là vì con cháu mai sau
Không vì lợi ích cá nhân.
Nếu trái lời thề, xin nhân dân phế truất. "
Toàn dân cùng vỗ tay nhiệt liệt. Những người lính xuyên không đứng nghiêm, ánh mắt không giấu nổi nét vui mừng, vẻ đẹp rạng ngời hiện lên trên từng khuôn mặt của mọi người. Họ biết.. Hành trình của mình đến đây đã có kết quả. Họ không còn phải là người quyết định thay dân nữa – vì nhân dân đã tự đứng dậy được.
Thời gian lặng lẽ trôi qua như dòng sông không quay đầu. Người dân Vạn Xuân dần no ấm, trẻ em lại tung tăng chơi đùa, mùa màng trổ bông trên những cánh đồng được tưới bằng mồ hôi và hy vọng. Nhưng trong lòng những người lính xuyên không – những chiến sĩ đến từ tương lai – lại bắt đầu một nỗi buồn âm ỉ, không ai nói ra.. Nhưng ai cũng hiểu:
" Nếu như.. Chúng tôi không bị cuốn vào vòng xoáy xuyên không ấy.. Thì giờ này.. Có lẽ đã được trở về quê nhà, tiếp tục phục vụ tổ quốc, cứu giúp quê hương "
Có những đêm, khi doanh trại đã chìm vào yên lặng, tiếng thở đều của đồng đội hòa cùng tiếng gió rì rào, những người lính lại chìm sâu vào giấc ngủ - một giấc ngủ chẳng hề yên bình.
Trong mơ, họ thấy mình được bước qua cánh cổng đơn vị ngày xưa, thấy mẹ già đang ngồi hong tóc ngoài hiên, tay cầm gói xôi gấc nóng hổi.
Thấy đứa em nhỏ chạy đến hét to:
" Anh về rồi! Anh về rồi mẹ ơi! "
Thấy người yêu cũ gật đầu trong đám cưới chưa bao giờ có thật.
Có người mơ thấy cha mình ngồi lặng thinh trên chiếc đá công viên, đợi mãi một đứa con đã mất tích.
Có người mơ thấy bạn bè đồng đội năm xưa giơ tay chào trong một cuộc duyệt binh mà anh ta không bao giờ được tham gia nữa.
Tệ hơn nữa..
Có những đêm tối mịt mù, giữa doanh trại vắng tiếng cười, vài người lính giật mình tỉnh giữa cơn mộng. Trán vã mồ hôi, tim đập dồn dập như vừa thoát khỏi một cơn ác mộng.
" Cứu chúng tôi với! Anh hai ơi! Con ơi! Chú ơi! "
Những tiếng kêu gào, tiếng bom rơi, tiếng trẻ con khóc, tiếng mẹ già gọi tên..
Quê nhà bốc cháy trong mơ. Những mái nhà tan tành. Những khuôn mặt yêu thương chìm trong khói lửa, giơ tay ra, nhìn họ như cầu cứu.
Nhưng họ thì đứng đó, bị xiềng chặt bởi thời gian. Không thể quay về. Không thể làm gì được.
Khi tỉnh lại, người lính ấy chỉ biết ngồi bần thần thật lâu, đôi mắt đỏ hoe nhìn vào khoảng không đen đặc của màn đêm.
Có người khóc không thành tiếng
Có người đấm mạnh vào vách gỗ doanh trại đến rướm máu.
Có người lặng lẽ viết nhật ký, rồi gạch đi, rồi lại viết – hàng chữ méo mó, chồng chéo như chính cảm xúc bị bóp nghẹt trong lòng họ.
" Mình đáng lẽ phải chết nơi quê nhà cùng mọi người. Sao mình lại sống ở đây? Sao mình được yên ổn sống trong quá khứ, trong khi quê hương đang hấp hối ở tương lai?'
Dù người dân Vạn Xuân tôn kính gọi họ là "thiên binh", dù họ được ghi công là những vị anh hùng cứu quốc.. Nhưng trong chính tâm khảm của những người lính ấy, họ luôn cảm thấy mình là những đứa con bất hiếu với quê hương.
Mỗi khi đi ngang qua cổng doanh trại, nơi treo tấm biểu ngữ đỏ đậm với dòng chữ thiêng liêng: "MÁU QUÂN ĐỘI PHẢI ĐỔ TRƯỚC MÁU DÂN" họ lại lặng người đứng lại vài giây, không ai bảo ai, nhưng ai ai cũng cảm thấy như bị kim châm vào tim.
Đó là lời thề máu thịt, là lý tưởng họ sống chết để bảo vệ nơi quê nhà – nơi họ lớn lên, nơi cha mẹ họ vẫn còn đang chờ, nơi những đồng đội cũ có thể đang ngã xuống từng ngày trong cuộc chiến mà họ không được phép quay về.
Tôi không xứng đáng.. Nhiều người lính – những con người từng được rèn luyện để cứng như sắt thép – lại không thể cầm nổi nước mắt mỗi khi đi ngang qua tấm biểu ngữ nơi cổng doanh trại "
" máu quân đội phải đổ trước máu dân "
Ban đầu, họ còn cố nuốt vào trong. Nhưng theo thời gian, càng đọc dòng chữ ấy, họ càng cảm thấy như bị đâm sâu vào tim. Nỗi áy náy chồng lên nỗi nhớ. Cảm giác tội lỗi vì không được đổ máu cho quê hương của mình, cứ lớn dần lên theo từng ngày tháng sống ở quá khứ.
" Tôi không xứng đáng với dòng chữ đó.. "Một người lính quỳ xuống trước cổng trại, nắm chặt đất cát dưới chân như muốn chôn vùi cảm xúc.
" Đáng lẽ máu của tôi phải đổ thay cho dân tôi, ở quê hương của tôi.. "
Người này quỳ xuống, rồi một người khác cũng lặng lẽ quỳ theo. Rồi hai, ba, năm người.. Đến lúc có cả hàng chục chiến sĩ trong im lặng, cúi đầu, vai run run vì kìm nén cảm xúc. Không tiếng khóc thành lời, nhưng nước mắt cứ rơi, rơi âm thầm trên nền đất doanh trại.
Chiến tranh không còn ở trên màn ảnh
Trước đây, họ từng xem hàng trăm bộ phim chiến tranh. Những cảnh chia ly đầy nước mắt nơi sân ga, những lá thư từ tiền tuyến, những người lính gục xuống trong tiếng nhạc bi hùng. Có người từng khóc. Có người tự nhủ:" nếu là mình, chắc sẽ vượt qua ".
Nhưng giờ đây, họ mới biết – mọi thứ trên màn ảnh chỉ là một phần mờ nhạt của hiện thực. Bởi trong phim, chiến tranh kết thúc trong hai giờ. Người thân hoặc hy sinh, hoặc sống sót. Còn trong cuộc chiến mà họ đang trải qua, không có kết thúc, không có tin tức, không có ai để hỏi, chỉ có chờ đợi, đau đớn và nỗi sợ không tên.
Lính trẻ Hưng, hai mươi mốt tuổi, trước đây học sinh chuyên toán từng nói:
" Nếu lỡ có chiến tranh, em sẽ cười mà đi ".
Giờ đây, cậu ngồi một mình trong kho hậu cần, ôm điện thoại cũ nứt màn hình, mở đi mở lại một video cũ chỉ mười hai giây – mẹ cậu cười tươi đứng bên nồi canh nghi ngút khói.
Cô gái tên Trân, lính hậu cần, từng nói đùa:
" Không người yêu thì có sao, em yêu tổ quốc! "
Giờ đây, khi vừa từ tiền đồn trở về, cô không về trại ngay mà ngồi bệt trên bãi cỏ khô, mặt vùi vào tay. Trong mơ, cô thấy cha – Người luôn phản đối cô nhập ngũ – đẩy chiếc xe lăn qua lớp bụi mờ phóng xạ, miệng khản đặc gọi tên con.
-" Trân ơi.. Về đi con.. Đừng ở ngoài đó nữa.. "
Giấc mơ lặp đi lặp lại như một lưỡi dao cùn, cứa dần qua tim cô.
Càng ngày càng nhiều người lính trẻ bắt đầu rơi vào trạng thái hoảng loạn âm thầm. Có người khóc khi nhìn thấy một chiếc muỗng gỗ giống loại mẹ hay dùng. Có người bỗng dưng quỳ xuống đất, run rẩy khi nghe tiếng còi hú của trạm điện. Có người mất ngủ cả tuần, rồi đột ngột gào lên trong đêm:
" Đừng đi! Mẹ ơi đừng đi! Con xin mẹ! "
Tổng chỉ huy Dương Hùng nhận được báo cáo từ quân y:
" Tình trạng chấn thương tâm lý lan rộng. 73% quân nhân dưới 25 tuổi có biểu hiện stress cấp tính. Một số người rơi vào trạng thái hoài nghi, vô thức tự làm đau bản thân. Tổ tâm lý không đủ nhân lực để xử lý.
Anh không nói gì, chỉ đứng dậy ra khỏi bàn, ra lệnh khẩn:
! "Tập hợp toàn doanh trại. Triệu tập đến quảng trường trung tâm. Chuẩn bị mở màn hình lớn. Không được vắng mặt bất kỳ ai. Ngay tối nay".
Tối hôm đó, giữa quảng trường trung tâm. Mười hai ngàn người, đủ mọi độ tuổi, mọi đơn vị, mọi tâm trạng- đứng trước một màn hình chiếu bóng khổng lồ.
Không ai biết sẽ chiếu gì. Không ai nói với nhau câu nào. Gió thổi nhẹ, nhưng lạnh như len qua từng nỗi mất mát chưa kịp lành.
Tổng chỉ huy Dương Hùng bước lên. Giọng không cao, nhưng từng lòi như đinh đóng:
- "Các đồng đội trẻ..
Trước đây, các bạn nghĩ chiến tranh là vinh quang. Nhưng thực sự.. Nó chỉ là một vết rách dài – mà mỗi người chúng ta đều rơi vào trong đó, một mình. Các bạn đang sống không phải trong chiến tranh.. Mà trong nỗi chia ly không có hồi kết.
Và tôi, cũng như các bạn, không biết người thân mình còn sống hay không.."
- "Nhưng nếu chúng ta gục ngã tại đây, thì cái chết của họ.. Cái mất mát của ho.. Trở nên vô nghĩa.
Nếu chúng ta còn sống, thì hãy sống sao cho xứng đáng. Không phải vì chúng ta mạnh. Mà vì.. Chúng ta không còn lựa chọn nào khác.
Rồi màn hình bật sáng. Không phải phim tài liệu. Không phải khẩu hiệu. Mà là một đoạn video cũ, ghi hình trong một căn phòng nhỏ, đơn sơ đến mức tưởng như là phòng của một người thợ già đã về hưu.
Trên màn hình hiện lên gương mặt ông lão – gầy gò, mặc áo len sẫm màu, mái tóc bạc trắng, đôi mắt sâu và mỏi, nhưng sáng như tro tàn còn âm ỉ lửa.
Là Bác – lãnh đạo tối cao quốc gia:
" Chào các con ".
Giọng bác khàn khàn nhưng ấm áp, vang lên giữa quảng trường rộng như một lời thì thầm rất gần.
" Ta biết giờ phút các con xem đoạn video này.. Là khi các con đang rất đau khổ. Có thể là sau một trận chiến, hay sau một đêm mất ngủ. Có thể là khi các con đang không biết người thân mình còn sống hay đã mất. Có thể là khi các con bắt đầu nghi ngờ chính con đường mình đang đi ".
" Các con ạ.. Ta cũng đã từng là lính. Cũng từng xách ba lô qua biên giới trong mùa đông rét mướt. Từng ăn cơm sạn. Từng chôn bạn thân bằng tay không.. Ta biết tâm trạng của một người lính chân chính là gì. "
" Nó không phải sợ chết. Mà là nỗi đau.. Khi quê hương lâm nạn, mà bản thân không thể ở đó, không thể cùng đồng cam cộng khổ. Nỗi đau đó, đôi khi còn nặng hơn cái chết ".
Ta biết, trong tim các con giờ đây là hình ảnh của cha mẹ, của con cái, của người yêu.. Đang ở lại phía sau, trong thế giới đã tan hoang. Và ta không dám hứa rằng họ còn sống. Nhưng ta dám hứa rằng.. Nếu các con gục ngã tại đây, thì cái chết của họ sẽ trở nên vô nghĩa".
Giọng Bác trầm xuống, đôi mắt hơi đỏ lên – dù đây chỉ là một đoạn ghi hình cũ nhiều tháng trước.
"Những đứa con của ta ơi.. Các con là hạt giống cuối cùng của một nền văn minh sắp diệt vong. Các con không chỉ mang trên vai trách nhiệm với tổ quốc, mà còn là ký ức sống của những người đã ra đi. Nếu các con còn sống.. Thì họ vẫn sống. Trong ký ức. Trong hành động. Trong lựa chọn của các con từng ngày".
"Nỗi đau hiện tại sẽ không bao giờ biến mất. Nhưng ta mong.. Nó sẽ trở thành động lực, chứ không phải xiềng xích. Vì chỉ có những ai từng đau đớn, từng yếu đuối.. Mới thực sự hiểu thế nào là lòng nhân hậu, là sự can đảm đích thực".
"Ta không ra lệnh gì cho các con. Ta chỉ mong các con sẽ sống tiếp.. Làm người. Và đừng để thế giới mới này thành một bản sao của thế giới cũ. Hãy xây dựng nó bằng tình thương, trí tuệ và sự tỉnh táo.. Từ chính những giọt nước mắt hôm nay.
Màn hình vẫn chưa tắt. Ánh sáng lại bừng lên. Gương mặt vị lãnh đạo già – mà chúng tôi gọi thân thương là Bác hiện rõ hơn, giọng người chậm lại, khàn đặc:
" Khi các con xem được đoạn video này.. Có lẽ ta đã không còn trên đời nữa ".
Tiếng gió ngoài quảng trường dường như cũng ngưng lại. Nhiều người nuốt khan. Có người bắt đầu run rẩy.
" Ta từng nghĩ: Nếu dân tộc ta bị diệt vong dưới thời ta lãnh đạo.. Thì ta.. Còn mặt mũi nào đi gặp các bậc tiền nhân đã dựng xây đất nước.. Các anh hùng giải phóng dân tộc và biết bao liệt sĩ vô danh đã chết trong im lặng để bảo vệ đất nước?
"Nhưng rồi ta hiểu.. Không phải giữ mạng mình là quan trọng nhất. Cái quan trọng.. Là giữ linh hồn dân tộc. Và nó.. Đã được trao cho các con".
Bác cúi đầu, đôi mắt ngấn nước – lần đầu tiên trong đoạn video.
"Ta chọn cái chết cùng nhân dân mình. Còn các con, nhiệm vụ các con.. Khó hơn cả cái chết.
Các con phải sống mà không biết người thân sống hay chết.
Phải xây dựng lại một thế giới.. Khi mọi ký ức xưa chỉ còn tro bụi.
Phải yêu thương.. Khi có thể chẳng còn ai để chờ đợi'.
" Nên nếu hôm nay các con đau đớn, tuyệt vọng, gào khóc.. Ta hiểu, Ta yêu thương, Ta ôm lấy từng đứa!
"Nhưng rồi.. Hãy lau nước mắt, đứng dậy. Không vì mệnh lệnh – mà vì máu của dân tộc mình đang chảy trong người các con!"
Video chấm dứt. Màn hình tắt hẳn. Nhưng không gian vẫn còn vang vọng lời của Bác.
Giữa quảng trường, một nhóm lính trẻ đã không thể đứng vững.
Một cô gái bật khóc nức nở, rồi quỳ xuống, hai tay bưng mặt:
"Bác ơi.. Sao bác lại giao cho chúng cháu nhiệm vụ khó khăn như thế này.."
Một chàng trai đứng gần đó, mắt đỏ hoe, hét lên giữa quảng trường
"Bác ơi cho cháu chết cùng dân tộc! Cháu không muốn sống sót một mình thế này!"
- "Giá như.. Bác còn sống.. Chúng cháu đã không thấy mình mồ côi thế này.."
Tổng chỉ huy Dương Hùng không ngăn cản. Anh không ra lệnh ai trật tự, không gọi y tế, không can thiệp. Anh chỉ đứng đó, đặt tay lên trái tim mình.
Một sĩ quan khác bước tới, khẽ nói với anh
"Họ đau lắm, thưa anh"
Tổng chỉ huy gật đầu, giọng như tan trong gió:
- "và vì họ đau.. Họ sẽ sống. Vì chỉ những người mang được nỗi đau như thế.. Mới xây dựng được một thế giới đáng sống".
Trên quảng trường, màn hình lớn đã tắt. Chỉ còn ánh trăng bàng bạc phủ lên những gương mặt còn ướt đẫm nước mắt. Không ai bảo ai, hàng ngàn người vẫn đứng nguyên tại chỗ.
Không một ai quay lưng đi.
Không ai bỏ về trại.
Không một tiếng giày vang lên.
Họ cứ đứng đó – im lặng như những pho tượng gánh trời.
* * * Rồi bất chợt, một người lính trẻ - gầy, mắt còn sưng vì khóc – bước lên giữa quảng trường. Anh ta ngẩng đầu lên, giọng khàn nhưng nghe rõ:
"Bác đã chọn chết vì nhân dân. Còn chúng ta.. Phải chọn sống thay nhân dân"
"Mỗi một giọt máu của chúng ta.. Từ hôm nay.. Không còn là của chính mình. Nó là máu của dân tộc".
Từng người, từng người một lặng lẽ gật đầu. Một người mẹ trẻ nắm tay đồng đội:
"Tôi không được ở bên con mình khi cháu qua đời, nhưng tôi sẽ chăm sóc những đứa trẻ khác như con tôi".
Một bác sĩ trung niên dày dạn kinh nghiệm nhìn đồng đội, mắt sáng lên như sắt nung:
"Không ai trong chúng ta biết người thân còn sống hay đã chết. Nhưng chúng ta biết chắc rằng, dân tộc còn hy vọng".
Một anh kỹ sư khoảng ba mươi tuổi – run rẩy cởi áo khoác, để lộ dòng chữ xăm sau lưng: "Tổ quốc – hoặc không gì cả".
Tổng chỉ huy Dương Hùng bước lên phía trước, mắt anh nhìn mọi người một lượt, không cần nâng giọng:
"Hôm nay, chúng ta đã khóc cùng nhau. Ngày mai, chúng ta sẽ đứng cùng nhau – để dựng lại thế giới này, không phải bằng công nghệ hiện đại, mà bằng tình yêu không khuấtt phục".
"Chúng ta là những người cuối cùng nhớ được về quê hương.. Và là những người đầu tiên phải biến ký ức đó thành tương lai: .
Sáng hôm sau
Khi trời còn chưa sáng hẳn, khắp doanh trại bắt đầu vang lên tiếng bước chân đều đặn. Không ai ra lệnh, không còi báo thức.
Nhưng tất cả đã sẵn sàng.
Người ta thấy những cô gái trẻ từng khóc gục đêm qua, giờ đây khoác ba lo, xiết chặt khẩu súng, ánh mắt kiên cường. Những người cha nhớ con, người con nhớ mẹ.. Tất cả đều lặng lẽ chào nhau, rồi chia ra thành từng đội ai vào việc nấy.
Dưới sự giúp đỡ của đoàn quân xuyên không, đời sống của người dân Vạn Xuân dần chuyển mình như chưa từng có trong lịch sử.
Những ngôi làng nghèo xơ xác ngày nào giờ đã trở thành những cộng đồng ấm no, yên bình. Trẻ em không còn khóc vì đói. Người lớn không còn run rẩy trong giá rét hay lo sợ trước mỗi mùa giáp hạt.
Khắp các đồng bằng, những đồng lúa chín vàng rực, trải dài đến tận chân trời. Chuồng trại được xây dựng theo mô hình mới, sạch sẽ và hiệu quả, hệ thống tưới tiêu, cấp thoát nước được các kỹ sư nông nghiệp và nhân dân cùng cải tạo đã phát huy hiệu quả rất tích cực.
" Ngày xưa, muốn có bữa ăn phải vay gạo, ăn cháo cầm hơi "một lão nông rưng rưng kể lại." Giờ thì thóc lúa đầy nhà, thịt cá không thiếu, trẻ con lớn nhanh như thổi ".
Người dân ai nấy đều được hứng dẫn cách trồng trọt, chăn nuôi, bảo quản thực phẩm, chống lụt bão. Những lớp học mở ra khắp nơi – Cả trẻ em và người lớn được học chữ, học kỹ năng, học về dân chủ và quyền làm chủ đất nước.
Không còn cảnh cường hào bóc lột, Không còn những tên quan phủ ăn trên ngồi trốc. Quyền lực nằm trong tay nhân dân. Mỗi thôn, mỗi làng đều tự chọn ra người đại diện – người có đức, có tài để tham gia vào bộ máy chính quyền dân sự đầu tiên trong lịch sử.
" Ta từng sống qua ba triều vua, chưa bao giờ thấy thời nào mà dân được ấm no, được học hành và được làm chủ như bây giờ cả "– một cụ già nói
Chương 7 – lòng tốt – khởi nguồn của kỷ nguyên mới
Vì dân Vạn Xuân đã được sống trong ấm no, công bằng và bác ái – không còn cảnh người bóc lột người, không còn tầng lớp sang hèn nên lời đồn bắt đầu lan xa. Ở đó, người ta nói," chỉ có con người, không có giai cấp, không ai sinh ra để bị chà đạp ".
Tin đồn đó vượt núi, vượt sông, theo chân những đoàn thương lái, những người lính bỏ ngũ, những nô lệ trốn chạy, đến tận các quốc gia xung quanh. Và rồi từng nhóm, từng đoàn, từng làn sóng người từ khắp nơi đổ về.
Họ là ai?
Là những nô lệ đói rách bị xích cổ ở đất nước khác, nay tìm đường trốn thoát.
Là nông dân nghèo đói ở một đất nước xa xôi, nghe lời đồn mà mạo hiểm tính mạng vượt rừng tìm đến.
Là binh sĩ đào ngũ, thương binh, góa phụ, trẻ mồ côi không nơi nương tựa. Thậm chí có cả cô gái sắp bị bán vào lầu xanh để trả nợ cho khoản lãi vay cắt cổ mà cha mẹ cô đã vay bọn ác bá địa phương khi mất mùa, gia đình cô đã trả gấp đôi số tiền gốc vay rồi, mà bọn chúng cũng không buông tha, nay liều mình dắt ríu cả gia đình đến Vạn Xuân để không bị bán vào chốn dơ bẩn.
Trong đoàn người, có người chân trần, có người gãy tay, có người bế con đói lả đến tận cổng thành Vạn Xuân, khóc lóc:" Xin cho tôi được sống như một con người, hãy cứu chúng tôi qua cơn nguy khốn này! "
Khi những dòng người khốn khổ kéo đến biên giới, run rẩy xin được sống như con người, thì Hội Đồng Tối Cao của dân bầu lập tức họp khẩn.
Không có tranh luận dài dòng
Không cần thỏa hiệp hay thương lượng với bất kỳ ai. Họ thống nhất một quyết định:
" Họ là con người, và đó là đủ lý do để chúng ta giúp họ! "
Các kỹ sư lại bắt đầu dựng trại tị nạn. Bộ phận quân y tỏa đi khám sức khỏe từng người. Các lớp học dã chiến mở ra, dạy tiếng Vạn Xuân, dạy luật pháp căn bản, dạy quyền con người. Lương thực lại được chia đều, không phân biệt nguồn gốc xuất thân.
Đoàn quân xuyên không, dù đã quá quen với súng đạn và chiến đấu, nay lại tình nguyện đi bế trẻ, phát gạo, dựng lều..
Dòng người không dứt kéo về Vạn Xuân..
Từ những con đường mòn xuyên rừng. Từ những con suối cạn nắng cháy. Từ những hẻm núi khô cằn đá lở. Những đoàn người nối đuôi nhau như những vệt kiến đói, từng bước chậm chạm tiến về Vạn Xuân.
Họ không mang theo gì nhiều – chỉ là một túi vải rách, một đứa trẻ gầy trơ xương, một ánh mắt sợ hãi. Có cụ già cõng cháu thơ, có phụ nữ vừa sinh con xong cũng gắng gượng bám theo đoàn người. Và rất nhiều trong số họ là nô lệ bỏ trốn. Đáng buồn là nhiều người trong số họ đã mãi mãi nằm xuống trên con đường đi tìm đến ước mơ.
Họ nghe được lời đồn rằng:
" Ở Vạn Xuân không có ai bị gọi là nô lệ, ở đó người nghèo được ăn no, người khốn cùng được chữa bệnh, và cả đứa bé cũng được đi học chữ. Ở đó ai cũng được gọi là quý vị, không còn ai bị gọi là súc sinh hay đồ rác rưởi nữa.. "
Họ không biết lời đồn có đúng không. Chỉ biết rằng nơi họ đang sống không còn là nơi con người có thể sống được nữa.
Và rồi.. Họ đến được biên giới Vạn Xuân.
Những người lính gác cổng nhìn thấy đoàn người đầu tiên – kiệt sức, bẩn thỉu, đói khát, tay trắng. Không hỏi gì nhiều, lập tức mở cổng, gọi bộ đàm báo cáo:
" Lữ đoàn 7 xin hỗ trợ khẩn cấp. Dân tị nạn đến rất đông, đã quá sức tiếp nhận, xin điều viện trợ ".
Mười phút sau, những chiếc xe quân sự từ doanh trại lao ra, chở theo bánh mì, lương khô, nước sạch, thuốc men, chăn mền.
Ba mươi phút sau, các lán trại y tế dã chiến được dựng ngay cạnh biên giới, bác sĩ quân y túc trực 24/24, Không một ai bị bỏ rơi.
Các chiến sĩ trẻ mồ hôi nhễ nhại, vừa dìu cụ già vừa dỗ trẻ con. Họ nắm tay những người từng là nô lệ, ngồi xuống bên họ và nói:
" Chào mừng đến với Vạn Xuân. Từ hôm nay, các vị là con người – không ai được quyền khinh thường các vị nữa ".
Trong trại tiếp nhận, một bà lão gần đất xa trời run rẩy hỏi:" tôi có thể gọi các anh là.. Đại nhân không? "
Một người lính trẻ cười hiền nói:
" Không cần đâu cụ ơi, ở đây không có ai là đại nhân. Chúng cháu chỉ là lính. Còn cụ là dân. Dân là trên hết ".
Bà lão bật khóc, suốt hơn sáu mươi năm làm nô lệ đây là lần đầu bà thấy có người mặc quân phục đối xử như vậy với bà.. Một cách thành thật.
Không chỉ có quân đội, mà cả chính quyền dân sự và nhân dân Vạn Xuân cũng chung tay tiếp đón. Từng làng, từng xã đều cử người đến ủng hộ những nhu yếu phẩm cần thiết. Nhiều người tình nguyện được cử đi còn sẵn sàng ở lại hàng tháng trời để san sẻ công việc với quân đội và đội ngũ quân y.
Trời vừa sẩm tối, những cơn gió lạnh ùa về, mang theo hơi lạnh lẫn gió bụi miền biên viễn còn vương vất trong không khí. Tại trại tị nạn số 3, nơi vừa được dựng lên ven bìa rừng sát một nhánh sông nhỏ, dòng người tiếp tục đổ về - mệt mỏi, đói khát và bám đầy bùn đất.
Một nữ chiến sĩ Vạn Xuân vừa hoàn thành ca trực, đang đi tuần thì bất chợt sững lại.
Phía cuối hàng người tị nạn, một ông lão gầy gò đang lết từng bước chậm rãi, lưng còng, áo rách đến độ gần như chẳng còn gì để che thân. Dưới chân ông là vết máu loang ra từ một vết rách sâu do giày rơm cọ vào vết chai lâu ngày. Nhưng ông không kêu đau, Không than vãn. Ông lặng lẽ như một cái bóng cũ mèm của thế giới này.
Cô chiến sĩ nhìn ông, ánh mắt bất giác run lên: Khuôn mặt ấy.. Đôi mắt ấy.. Tuy già hơn, tàn tạ hơn, nhưng rất giống ông nội cô – Người từng đạp xe đón cô tan học trong thế giới cũ.
Không chần chừ, cô chạy lại:
" Cụ ơi! Cụ có sao không ạ? "– cô nắm lấy tay ông, nhẹ nhàng dìu ông vào lán y tế tạm thời. Và rồi.. Cô sững người.
Bàn tay phải của cụ ông bị cụt mất hai ngón. Vết cụt không đều, cũ kỹ, rõ ràng không phải tai nạn mới đây – mà từ rất lâu, vết thương nô lệ để lại. Lòng bàn tay sần sùi, chai cứng đến mức không còn cảm giác da người.
Ông lão khẽ cười:
" Bị chặt khi còn trẻ, vì làm rơi cái khay gỗ trong bữa tiệc của chủ nhân ".
Cô chiến sĩ bỗng nghẹn cổ họng. Không kìm được, cô quỳ xuống bên cạnh chiếc giường, nắm lấy tay ông, bật khóc như một đứa trẻ.
" Ông ơi.. Cháu xin lỗi.. Cháu đến muộn quá.. "
Giọng cô vang lên giữa màn đêm tối dần bao phủ cả khu lán trại. Những người lính khác vừa bước qua, đứng sững lại. Họ không nói gì. Một chiến sĩ nam lặng lẽ lấy chiếc chăn từ kho hậu cần. Một y tá đến nhẹ nhàng lau bàn chân rớm máu của ông.
Một kỹ sư nông nghiệp đặt xuống góc giường một túi lương khô, vài củ khoai mới luộc và thì thầm:
" Cụ ơi, từ giờ cụ ở đây với chúng cháu.. Cụ là công dân Vạn Xuân rồi! "
Sáng hôm sau, tại lán trại phía đông, nơi tập trung gần hai nghìn người dân tị nạn vừa tới – Không ai ngờ rằng một cô lính trẻ bật khóc vì một ông lão nô lệ cụt ngón lại khiến lòng người lay động đến vậy.
Ban đầu chỉ vài người đứng gần chứng kiến. Rồi họ kể cho nhau người bên cạnh. Người bên cạnh lại kể cho người ở lán kế bên.
Chẳng mấy chốc, câu chuyện về cô lính Vạn Xuân ôm ông cụ khóc như cháu ruột lan ra khắp trại.
" Cô ấy còn gọi ông là ông nội.. Khóc như thể ông cụ là người thân mình vậy'.
"Nghe nói bàn tay cụ bị cụt hai ngón vì bị chặt khi là nô lệ.. Vậy mà cô lính ấy quỳ xuống ôm tay cụ, không sợ dơ, không ghê sợ, chỉ khóc thôi".
Một người phụ nữ da ngăm, từng là nô lệ dệt vải ở nước láng giềng, ôm đứa con nhỏ vào lòng thì thầm:
"Chúng ta.. Đã thực sự thoát khỏi địa ngục rồi con ạ!"
Chiều tối hôm đó. Trên loa phát thanh của trại, giọng phát thanh viên vang lên – trầm ấm mà dứt khoát:
"Chúng tôi không chọn làm người lính để trở thành quyền lực. Chúng tôi chọn làm người lính – để bảo vệ những bàn tay cụt ngón, những đôi chân chai sạn, những người bị chà đạp không bao giờ phải quỳ lạy nữa.
Dân là gốc.
Mỗi một giọt nước mắt của dân là một lời cảnh tỉnh cho chúng tôi.
Nếu hôm nay có người lính nào dám cư xử như những kẻ áp bức, hãy cởi quân phục và đi khỏi đây. Vạn Xuân không cần những kẻ đó".
Từ hôm đó, sự tôn trọng và yêu mến mà người dân dành cho quân đội Vạn Xuân tăng lên gấp bội. Họ không thấy binh sĩ chỉ là người cầm vũ khí. Mà là:
Những người dám khóc cùng dân.
Những người sẵn sàng chết thay cho dân.
Và đôi khi.. Chỉ là những đứa cháu nhớ ông mình.
Sau khi cứu đói và chữa trị tạm thời, lượng dân tị nạn kéo về mỗi ngày một đông. Các trại dã chiến quanh biên giới bắt đầu quá tải, nhân lực mỏng dần, lương thực phải chia sẻ kỹ càng từng bao.
Thay vì để người dân chen chúc sống tạm bợ, chính quyền dân sự non trẻ đã có một quyết định táo bạo: Đưa tất cả những người dân tị nạn đi xây dụng vùng đất mới.
Sáng sớm hôm đó, tiếng trực thăng quần thảo bầu trời khiến ai cũng ngước nhìn. Những chiếc "chim sắt" lần lượt cất cánh bay qua những ngọn núi, những con sông, băng qua cánh đồng cằn cỗi, men theo những con sông lớn.
Bên trong trực thăng là các sĩ quan bản đồ, kỹ sư nông nghiêp, chuyên gia thủy lợi, và các chỉ huy công binh.
Họ tìm các vùng đất màu mỡ ven sông, gần rừng nhưng không quá xa đô thị, đất phải bằng phẳng và chưa có người ở. Các máy bay đánh dấu từng vị trí trên bản đồ, để sau sẽ đón những người di dân lên xây lều trại, cấp phát ruộng cho từng hộ dân, gia đình của họ.
Vì là thời cổ đại, đất rộng, người thưa, nên tìm những vùng đất vừa ý các kỹ sư nông nghiệp cũng không khó lắm, chỉ có điều là thời xưa, thú rừng còn nhiều, có cả các loài hung dữ như hổ, báo, gấu, chó sói, nên lúc mới khai hoang, các vùng mới định cư đều cần quân đội đi trước mở đường. Một số nơi quân đội còn phải điều cả xe bọc thép và chó nghiệp vụ đến bìa rừng ngăn không cho thú dữ phá hoa màu và bảo vệ giấc ngủ bình yên của nhân dân.
Mỗi khi tìm được vùng đất mới, thông tin báo về - từng đoàn xe quân sự nối đuôi nhau chở hàng ngàn người dân tị nạn tới vùng đất mới. Họ được chia ruộng theo hộ gia đình, phân lô ruộng đất theo nhân khẩu, có cán bộ dân sự ghi nhận và hướng dẫn cụ thể.
Những người từng bị đánh đuổi như súc vật, giờ được chính tay nhận sổ đất mang tên mình, nhận miễn phí nhiều loại hạt giống, dựng lều trại và cả những vật dụng cần thiết cho gia đình.. Họ rưng rưng xúc động.
Ngay sau khi máy bay trực thăng trinh sát xác định được các vùng đất ven sông màu mỡ, một đội ngũ kỹ sư nông nghiệp và chuyên gia thủy lợi lập tức được điều động đến hiện trường. Họ vừa mang theo vũ khí phòng thân, vừa mang theo thiết bị đo độ PH đất, máy kiểm tra độ ẩm, bản đồ khí tượng, mô hình canh tác hiện đại, và cả những quyển sổ dày đặc ghi chép kỹ thuật canh tác tiên tiến. Kỹ sư trưởng – Một người đàn ông gầy, trầm tính, đứng trước hàng trăm người dân mới đến và nói to:
"Chúng tôi không chỉ giúp các vị trồng trọt, mà sẽ cùng các vị tạo ra một nền nông nghiệp bền vững. Đây sẽ là quê hương mới của các vị. Và cũng là hy vọng mới của cả nhân loại.".
Ngay ngày đầu tiên, các kỹ sư bắt đầu cùng dân làng lấy mẫu đất, kiểm tra độ màu mỡ, hướng dẫn người dân đào rãnh theo đúng quy hoạch:
"Chỗ này đất giữ nước tốt, trồng lúa là hợp lý".
"Còn chỗ đất cao kia, nên để trông ngô và khoai"
"Bà con nhớ, không gieo sát nhau quá, mỗi hạt giống là một sinh mệnh.
Sau một tháng, lúa non đã nhú mầm
Sau ba tháng, hoa cải vàng rực trên sườn đồi. Những đứa trẻ tị nạn ngày nào giờ đã có lớp học, có cơm no, có ruộng của cha mẹ mình, có giấc mơ về tương lai.
Một ông cụ từng lang thang khắp các vương quốc lân bang, ôm chặt bó lúa đầu mùa và rưng rưng:
" Cả đời tôi là nô lệ. Nay già rồi mới biết làm người là thế này đây! "
Lễ cấp phát căn cước công dân – một ngày làm người đúng nghĩa:
Tại quảng trường trung tâm của vùng định cư mới, từng đoàn người tị nạn xếp hàng trật tự, tay cầm thẻ căn cước vừa được cấp phát, vẫn còn thơm mùi mới. Khuôn mặt nửa hồi hộp, nửa không tin nổi vào mắt mình.
Một giọng nói vang lên từ loa phát thanh của chính quyền dân sự:
" Kể từ hôm nay, tất cả những ai đang đứng ở đây – Không còn là dân lưu vong.
Không còn là nô lệ.
Không còn là người bị ruồng bỏ.
Các vị.. Đã là công dân của nước Vạn Xuân! "
Cả đám đông lặng đi vài giây. Rồi những tiếng vỗ tay vang lên. Sau đó là tiếng khóc, là những cái ôm siết chặt trong nước mắt. Một bà mẹ trẻ cúi đầu, vừa nhận được thẻ căn cước còn thơm mùi mới, thì thốt lên trong nghẹn ngào: : Thế là.. Con mình sinh ra cũng là người Vạn Xuân, không phải trốn chạy cả đời nữa.
Trên tấm thẻ căn cước được thiết kế đơn giản nhưng trang nghiêm, ngoài họ tên, quê quán, và mã số cá nhân còn in nổi ba dòng chữ màu đỏ trang nghiêm:
Quốc gia vạn xuân
Công dân bình đẳng – không có tầng lớp
Máu quân đội phải đổ trước máu dân.
Khi đọc đến dòng cuối cùng, nhiều người dân không dám tin
Một người đàn ông râu rậm, từng là thợ rèn bị quý tộc đánh gãy tay, run run hỏi cán bộ phụ trách:
" Cái dòng này là thật à? Ý là.. Nếu giặc tới.. Quân lính sẽ cứu tôi trước? Không đánh tôi à? "
Cán bộ trẻ mỉm cười:
" Phải. Ở Vạn Xuân, quân đội không phải để đàn áp nhân dân. Chức năng của họ là để bảo vệ các vị. Dù có phải hy sinh ".
Người đàn ông cảm động rớm nước mắt. Anh quỳ xuống đất tạ ơn trời, vì từ nay không những anh được bảo vệ, mà con cháu anh cũng được bảo vệ. Anh tin rằng một tương lai tươi sáng sẽ đến với con cháu anh.
Sau buổi lễ, những công dân mới được phổ biến về quyền công dân:
Họ được đi bầu cử, tham gia vào chính quyền địa phương, có quyền tranh cử trưởng thôn, hội đồng nông nghiêp, hội đồng nhân dân tối cao. Miễn là có đủ số phiếu bầu.
Họ có quyền khiếu nại nếu bị cán bộ đối xử bất công.
Trẻ em được học miễn phí đến năm mười tuổi.
Họ được cấp sổ ruộng, sổ lương thực, và được đăng ký học nghề.
Bầu cử toàn quốc được tiến hành năm năm một lần, và bất kỳ ai cũng chỉ được lãnh đạo người dân tối đa hai nhiệm kỳ - tức là không quá mười năm, để tránh tình trạng độc tài, chuyên quyền.
Không còn lễ đội ơn. Không còn nô bộc, không còn ranh giới chủ - tớ. Một cụ bà tóc bạc lẩm bẩm:" mình từng mơ, nhưng không dám mơ đến mức này.
Chuyện về Vạn Xuân – mảnh đất không có tầng lớp, không có nô lệ, nơi con người được gọi bằng tên chứ không gọi bằng địa vị, người di cư được cấp phát thức ăn, hạt giống, thậm chí ruộng đất miễn phí – nơi quân đội lấy máu mình bảo vệ dân lan đi như lửa cháy rừng.
Ban đầu chỉ là vài lời xì xào bên quán rượu. Sau đó, qua các đoàn thương lái, tin đồn dần dần biến thành khẳng định. Người ta kể nhau rằng:
"Ở đó, nô lệ cũng có ruộng riêng
Trẻ con được đi học chữ
Đàn bà không bị bán
Lính không đánh dân.."
Tin tức ấy khiến những người bị đày đọa trong các quốc gia phong kiến láng giềng bừng tỉnh, như nghe thấy tiếng gọi từ một thiên đường không tưởng.
Cứ như thế, dòng người kéo đến Vạn Xuân ngày một nhiều.
Không ai ngăn được nữa.
Không phải vì họ bị dụ dỗ - mà vì trái tim con người hướng về nơi có công lý.
Một nhà tri thức lặng lẽ viết vào nhật ký:
"Vạn Xuân – Không chỉ là một vùng đất. Đó là một lý tưởng – nơi con người trở về với giá trị thật của mình".
Chương 8: Khủng hoảng ngoại giao
Không lâu sau khi những đoàn dân tị nạn đầu tiên đến Vạn Xuân và được cấp căn cước, các nước lân bang bắt đầu nổi giận.
Từ những nước phong kiến xung quanh – nơi chế độ đẳng cấp vẫn ngự trị như chân lý – hàng loạt sứ giả cưỡi ngựa, có kẻ ngồi kiệu vàng, có kẻ mang theo binh sĩ uy hiếp, lần lượt kéo về kinh thành Vạn Xuân, mang theo thư trách móc, thư đe dọa, thư khiêu khích:
"Dân của nước ta, nếu chạy sang đất các người, tức là đã phản nghịch. Vạn xuân không có quyền che dấu phản nghịch".
"Các ngươi nuôi dưỡng kẻ nô lệ bỏ trốn, phá vỡ trật tự xã hội của các nước quanh vùng. Đây là hành động gây rối loạn thiên hạ".
Thậm chí, có bức thư còn viết rằng:
"Nghe nói ở Vạn Xuân, lính phải đổ máu trước dân? Các người điên rồi! Lính sinh ra là để dạy cho dân biết sợ, để bảo vệ nhà vua và hoàng quyền, chứ không phải bảo vệ cái đám ăn hại đó!"
Tại đại sảnh quốc vụ viện Vạn Xuân – trụ sở chính của Hội Đồng Nhân Dân Tối Cao:
Buổi họp khẩn cấp được triệu tập với đầy đủ những gương mặt trụ cột:
Đại diện hội đồng lập hiến
Đại diện bộ quốc phòng và quân đội xuyên không
Đại diện các bộ nông nghiệp, an sinh và nội vụ
Và đặc biệt có sự tham gia của các thủ lĩnh quân sự xuyên không, những người đã cùng nhau đặt viên gạch đầu tiên cho nền độc lập mới:
Tổng chỉ huy Dương Hùng
Thượng tá Nam phong – tư lệnh tác chiến cao cấp
Đại tá Trịnh Hoàng – chuyên gia tâm lý và dân vận
Trung tá Lan Chi, chỉ huy trưởng các đội hậu cần và trại tị nạn
Từng người phát biểu – sự đồng thuận tuyệt đối:
Thiếu tướng Nam Phong là người mở lời đầu tiên, giọng trầm như đá tạc:
"Chúng ta đến từ tương lai – nơi từng trải qua chiến tranh hủy diệt, và từng chứng kiến những người yếu thế nhất bị bỏ rơi đầu tiên.. Nếu giờ đây, chúng ta cũng bỏ rơi họ - thì mọi hy sinh khi đến đây, để làm lại thế giới, có còn ý nghĩa gì không?"
Đại tá Trịnh Hoàng đập tay lên bàn dứt khoát:
"Đừng nói đến chuyện trục xuất, họ không phải súc vật bị lùa về nơi xuất phát. Họ là con người. Đến với chúng ta vì tuyệt vọng. Và chúng ta chính là hy vọng cuối cùng của họ"
Trung tá Lan Chi – người vừa từ trại tị nạn về nước mắt còn vương trong khóe mắt, kể lại:
"Tôi vừa đưa một ông lão bị cụt ngón tay vào lán. Khi nghe ông nói" cô gái, nơi này là thiên đường thật sao? "Tôi không cầm được nước mắt. Trục xuất họ?
Không. Tôi thà từ chức khỏi quân đội, còn hơn ra lệnh trục xuất một cụ già như thế
Đại biểu Ngô Thành Minh – một trong mười hai người được nhân dân bầu vào hội đồng tối cao lên tiếng:
" Ngày ấy, tôi bế con chạy bộ ba ngày liền giữa rừng, trốn khỏi lũ lính hãm hiếp vợ tôi, đốt sạch làng tôi. Nếu lúc đó có một nơi gọi là "Vạn Xuân", có người cưu mang tôi như chúng ta đang làm hôm nay, thì tôi đã không mất đi một nửa gia đình. Giờ tôi không cho phép ai lặp lại thảm kịch ấy.
Các đại biểu khác đồng loạt dứng dậy, giơ tay cao:
"Không trục xuất!"
"Không khuất phục!"
"Không thương lượng với bạo chúa!"
Tất cả đồng thuận tuyệt đối!
Buổi sáng ngày hôm sau – khi tiếp đoàn sứ giả tại trung tâm hội đồng nhân dân tối cao Vạn Xuân:
Tại quảng trường trung tâm, trước cửa Hội Đồng Nhân Dân Tối Cao – một tổ hợp kiến trúc hiện đại và cổ điển giao hòa, được dựng từ một số công nghệ xuyên không và lấy cảm hứng từ tinh thần cộng hòa
Ánh sáng ban mai dịu nhẹ phủ lên mặt đất lát đá xám tro, phản chiếu những vệt sáng vàng mờ như ánh kim lặng lẽ.
Cờ của Vạn Xuân – Một lá cờ in hình mười hai ngôi sao, tượng trưng cho mười hai đại biểu được dân bầu, dưới hình mười hai ngôi sao, là biểu tượng bông lúa vươn lên từ vết nứt đất – biểu tượng cho sự sống nảy mầm từ đau thương – tung bay giữa khoảng trời không tiếng trống, không tiếng quân nhạc. Tất cả im lặng. Nhưng có một sự nghiêm trang vô hình bao phủ.
Hai hàng lính danh dự của Vạn Xuân mặc lễ phục xanh – trắng – đứng dàn hàng hai lối đi dài hàng trăm mét dẫn vào tòa nhà nghị viện. Không hô khẩu hiệu, không đánh trống, không cúi đầu, chỉ đứng bất động như đá tạc – ánh mắt dõi thẳng vào tương lai.
Tại chính giữa quảng trường, là một tượng đồng, khắc dòng chữ:
Tự do
Bình đẳng
Bác ái
Khi đoàn sứ giả vừa xuất hiện, bước xuống từ những cỗ xe ngựa bọc thép và xe tùy tùng hoàng gia, cả quảng trường vẫn không vang lên tiếng nào.
Họ nhìn thấy mọi thứ một cách lạ lẫm:
Không có ngai vàng
Không có triều phục
Không có lễ quỳ.
Chỉ có một tòa nhà giản dị, vuông vức bằng vật liệu kỳ lạ, cửa kính phản chiếu mặt trời – nơi những người bình thường từng bị chà đạp, đang cùng nhau viết lại lịch sử.
Một đứa bé da ngăm đen, từng là nô lệ trong một đế chế bạo tàn, hôm nay mặc áo sơ mi trắng sạch tinh, đứng phát cờ nhỏ cho các sứ giả, miệng nói:
"Chào mừng đến với Vạn Xuân. Ở đây không có ai là nô lệ, chỉ có công dân".
Một sứ giả giật mình, định gạt đứa bé ra, nhưng bị ánh mắt của toàn đội danh dự nhìn khiến hắn dừng tay.
Tiếng chuông từ đỉnh tháp nghị viện vang lên ba hồi ngắn, một hồi dài.
Cánh cửa thép mạ bạc của Hội Đồng Nhân Dân Mở từ từ ra.
Khi bước vào đại sảnh trung tâm, mười hai đại biểu được dân bầu đã chờ sẵn.
Nhưng có một điều khiến sứ giả càng bối rối hơn: Mười hai người ấy – ăn mặc giản dị, có người da cháy nắng, tay có vết chai cày cuốc – rõ ràng không giống các đại thần hay quý tộc mà họ thường tiếp xúc.
Họ là ngư dân, thợ rèn.. Từng bị bán làm nô lệ, từng đi bộ hàng trăm dặm để thoát khỏi sự cai trị của bạo chúa.
Một sứ giả nước Lương khẽ hỏi:
"Đây là.. Hội Đồng của dân ư?"
Lúc đó, có hai người bước ra, một nam, một nữ - mặc quân phục gọn gàng, ngực trái gắn huy hiệu nhỏ, bên ngực phải có in dòng chữ màu đỏ "Máu quân đội phải đổ trước máu dân".
Họ là hai chuyên gia đàm phán đến từ thế kỷ 21, những người từng làm việc ở Liên Hiệp Quốc và các tổ chức gìn giữ hòa bình toàn cầu, nay đã xuyên không cùng đoàn quân Vạn Xuân từ tương lai về.
Người nữ bước lên, cười nhẹ, nói bằng giọng bình thản nhưng sắc sảo:
"Thưa các vị sứ giả, chào mừng các vị đến với vùng đất nơi người dân tự mình chọn lãnh đạo. Ở đây không có vua, cũng không có ngai vàng, nhưng có công lý và lòng người".
Cô giới thiệu từng đại biểu một, nêu rõ họ là ai, đến từ vùng nào, từng bị áp bức ra sao, và vì sao chính họ được nhân dân giao quyền đại diện.
Người đàn ông đi cùng tiếp lời:
"Chúng tôi được phép hỗ trợ buổi đàm phán hôm nay với tư cách người trung gian, để ngôn ngữ không bị nhầm lẫn, và để sự tôn trọng được giữ trọn. Nhưng quyền ra quyết định vẫn thuộc về mười hai vị đại biểu này – những người thực sự hiểu nỗi đau và khát vọng của nhân dân mình".
Không khí trở nên nghiêm trang.
Vài sứ giả thông minh nhất bắt đầu nhận ra: Họ không đang nói chuyện với "thường dân" Mà đang đối diện với một nền văn minh mới – nơi quyền lực không nằm ở huyết thống, mà nằm ở trách nhiệm và đồng thuận.
Sau lời giới thiệu của hai chuyên gia đàm phán về mười hai vị đại biểu, các sứ giả - vốn là những người thông minh trong quốc gia của họ - đã nhận ra rằng khoảng cách tư tưởng giữa họ và Vạn Xuân là không thể lấp đầy bằng ngoại giao. Hay nói cách khác, họ biết cuộc đàm phán sẽ thất bại.
Không khí trở nên tĩnh lặng. Mười hai đại biểu đứng đó, trầm tĩnh và đĩnh đạc, ánh mắt không có gì thù địch, chỉ có sự thẳng thắn. Phía sau họ, là những di dân từng sống cảnh nô lệ, giờ đã ngồi như công dân, mặt đối mặt với các sứ giả đại diện cho những vương triều từng áp bức họ.
Các sứ giả quan sát, không ai lên tiếng vội. Trong khoảnh khắc đó, tất cả họ đều hiểu – sâu thẳm – một kỷ nguyên đã thay đổi.
Sứ giả nước Hắc Chu – một người lão luyện và nổi danh với tài ngoại giao, khẽ nghiêng đầu nói:
"Chúng ta.. Đang đứng giữa một thế giới không còn giống những gì chúng ta từng biết".
Một sứ giả khác, đại diện cho Xích Ngô, từng là học giả của hoàng đế, khẽ mỉm cười buồn:
"Bọn họ đã vượt xa chúng ta, không phải bằng vũ khí.. Mà bằng cách nhìn con người".
Sau vài trao đổi xã giao ngắn, cả hai bên vẫn cố gắng giữ gìn lễ nghĩa.
Không có lời đe dọa
Không có tiếng đập bàn.
Chỉ có một sự lặng lẽ rất sâu – như thể cả hai thế giới đều đã hiểu, sự khác biệt này sẽ không thể hàn gắn bằng hòa đàm.
Trước khi rời đi, một sứ giả trẻ tuổi nhìn về phía những người di dân đang ngồi ở hàng ghế sau – một người trong số họ chính là nô lệ cũ từng bị chính nước hắn đánh roi, nay đang phát biểu như một đại diện.
Ánh mắt của sứ giả trẻ tuổi không còn khinh miệt, chỉ còn lo sợ.
Đoàn sứ giả rời khỏi trung tâm Hội Đồng Nhân Dân Tối Cao trong im lặng.
Chuyên gia đàm phán hiện đại không giữ chân họ - vì họ cũng biết, những người này đã quá hiểu rõ:
Vạn Xuân không còn là một vùng đất nhỏ yếu kém. Mà là mầm mống của một thời đại mới, đe dọa đến sự tồn tại của cả hệ thống phong kiến.
Cuộc đàm phán kết thúc mà không có tiếng gươm, nhưng mùi của chiến tranh đã lan trong gió..
Trời vừa ngả sang chiều, ánh sáng cuối ngày đổ dài trên mái ngói vàng của hoàng cung các nước. Tại mỗi cung điện nguy nga, nơi quyền lực tối cao ngự trị, không khí nặng nề và căng thẳng bủa vây.
Tại quốc gia Thần Mộc, sứ giả quỳ dưới chân quốc vương Địch Kha, giọng lạnh và ngạo mạn như thường lệ:
"Bệ hạ.. Bọn họ không có vua. Mười hai người đứng đầu, đều xuất thân thấp kém – có người từng là ngư dân, thợ mộc, thậm chí có kẻ từng là nô lệ. Họ để hai người đàm phán thay, nói năng tử tế, nhưng.. Ánh mắt của họ kiên định lạ thường, không hề biết cúi đầu".
Quốc vương Địch Kha nhíu mày:
"Chúng nói gì về yêu sách đầu hàng?"
"Thưa.. Họ không đàm phán theo lối cũ. Không xin xỏ, cũng chẳng phản đối gay gắt. Chỉ bảo" Dân tị nạn sẽ được bảo vệ. Những ai muốn giày xéo lên họ, thì nên chuẩn bị cho hậu quả ".
Địch Kha đập mạnh tay lên ngai, mắt ánh lên giận dữ:
" Lũ man rợ ấy tưởng không có vua là có thể cứng đầu được sao? "
Tại quốc gia Hắc Huyết, vua Khải La ngồi bất động trong chiếc ngai đá đen, ánh mắt nheo lại sau khi nghe sứ giả thuật lại mọi chuyện:
" Chúng không cúi đầu, không hứa thần phục, cũng không sợ lời đe dọa 5 triệu quân liên minh của chúng ta? "
Sứ giả cúi đầu thấp:
" Dạ, thưa bệ hạ.. Thần nghĩ.. Bọn họ đã chuẩn bị cho một trận chiến không lối thoát. Nhưng không phải vì cuồng tín, mà là vì tin vào một thứ gì đó lớn hơn cả quyền lực..
Vua Khải La trầm ngâm:
"Nếu không thể khuất phục.. Thì phải nghiền nát.
Tại các quốc gia còn lại như Vân Thạch, Xích Lân, Hoàng Tuyết, Lôi Thịnh, Hùng Tượng.. Lời sứ giả đều mang cùng một thông điệp: Cuộc đàm phán đã thất bại. Không ai chịu khuất phục. Không có vua để mặc cả. Không có thần quyền để đe dọa, không có lòng tham để dụ dỗ.
Chẳng bao lâu sau, trong hoàng cung của nước Hùng Tượng – đất nước gần như là ở giữa, trung tâm của liên minh mười chín nước, và cũng là đất nước rất mạnh về kỵ binh Mười chín vị vua và bạo chúa đã tề tựu đủ ở đây. Các bạo chúa nhìn nhau trong cuộc họp lớn chưa từng có:
Một tướng quân già của nước Hồng Dực nói lớn
" Bọn chúng không triều cống, không nhận chiếu chỉ, không có vua để ép, không có tín ngưỡng để nhồi sọ. Đám người ấy là mối họa lớn hơn bất cứ vương triều nào trước đây. Nếu không diệt từ trong trứng, mai sau chúng sẽ đạp đổ hết ngai vàng của tất cả các đức vua đáng kính ở đây! "
Tiếng đồng thuận rộ lên.
Một chén rượu được nâng cao giữa các bạo chúa. Kẻ thì cười ngạo nghễ, kẻ thì trầm mặc, nhưng tất cả đều có chung một quyết định – mười mũi tấn công sẽ bắt đầu.
Một tên tướng trẻ cười:
" Cái đám gọi là quân xuyên không ấy.. Không có vua, không có trời, không có thần, không có sợ. Nhưng chúng quên mất một điều.. "
Hắn nhấc chén rượu lên:
".. Không ai có thể thắng nổi khi mười chín đức vua cùng uống máu và quyết tâm đi một đường "
Sau khi vị tướng trẻ vừa ngạo nghễ nâng chén rượu, khẳng định không ai có thể thắng nổi liên quân mười chín nước, với lực lượng hùng hậu đến không tưởng, hắn thậm chí cho rằng chỉ cần một phần tư trong số đó là đủ nghiền nát Vạn Xuân rồi.. Thì bỗng một tướng quân già râu xám, gương mặt đầy sẹo, tay cầm thanh trường đao đặt ngang bàn, khẽ đập chuôi đao xuống, trầm giọng cắt ngang không khí hả hê:
".. Hừm.. Các vị quên mất một điều.. Bọn chúng biết cưỡi chim sắt, biết bay như quỷ dữ giữa trời ".
Mọi người khựng lại, vài tên bạo chúa chau mày.
" Lính của ta cưỡi ngựa.. Còn chúng cưỡi chim sắt, phun ra lửa, gào thét như sấm sét. Mỗi con chở được cả đội quân nhỏ, lại còn mang theo vũ khí kỳ lạ.. Một khi chúng bay trên đầu, thì cung nỏ chỉ là que củi ".
Một vị vương béo núc phản bác:
" Tướng quân lo xa quá rồi! Nếu chúng ta liên minh, có thể đã huy động năm triệu quân từ các nước, cứ lấy thịt đè người, đánh sập hết cứ điểm của chúng là xong. Chim bay mãi thì cũng mỏi, đến khi chúng mỏi ta sai người tỏa ra, tìm diệt chúng là xong!'
Một tướng trẻ khác, vóc người cao gầy, mặt trắng như ngọc, lên tiếng phụ họa:
"Ta đã cho người bắt đầu rèn cung siêu dài. Mỗi cung cao bằng hai người trưởng thành, dây bằng gân cá lớn ngoài biển, tên làm từ sắt thép tốt nhất lấy từ vũ khí của các binh sĩ tử trận!"
"Tên dài hơn, nặng hơn, đầu bọc sắt rắn như sùng tê giác – đặc biệt đã tẩm độc hoa tam đoạn. Chỉ cần xước qua cánh, chim sắt sẽ rơi như đá!"
Một kẻ khác, mắt xếch đầy hung hiểm vỗ bàn:
"Lũ đó không biết trời cao đất rộng, cứ tưởng bay được là bất tử? Hãy để chúng thấy mũi tên của đại địa còn vươn xa hơn cả cánh chim.
Tên bạo chúa tóc đỏ của nước Xích Lân cười lạnh:
" Tốt. Tất cả các nước hãy nhanh chóng chế tạo cung cao hai trượng, có thể bắn trúng đám chim sắt ở độ cao nửa ngàn bước chân. "
Một tướng trẻ thì háo hức:
" Ta còn đề nghị dùng hỏa tiễn bắn theo đuôi chim sắt. Nếu chúng bay thấp, ta phóng lưới lớn bắt. Nếu đáp xuống, cho đội giáo độc đứng từ xa phóng vào.
Bạo chúa nước Hùng Tượng, râu dài như bộ rễ cây, chống cây quyền trượng khảm ngọc xuống đất, nói với vẻ mỉm cười thâm hiểm:
"Miền bắc – nơi núi cao, quặng sắt nhiều, gỗ tốt, thảo nguyên mênh mông – Ta xin lĩnh. Lính ta giỏi săn bắn, giỏi trị dân miền lạnh. Cứ để ta dạy bọn Vạn Xuân thế nào là kỷ luật sắt thép".
Tên bạo chúa béo lùn của nước Hỏa Dã – mặt đỏ như than hồng, nói lớn trong tiếng cười sặc rượu:
"Miền trung – có kinh đô, có sông lớn, có đền đài – ta nhận! Vàng bạc, thư tịch, gái đẹp, rượu ngon.. Đều sẽ quy về hỏa dã! Ta sẽ xây cung điện mới ngay trên nền cung điện cũ của bọn chúng! Gọi là hỏa thiên thành!"
Một nữ chúa – người nước Hoàng Tuyết, mặt lạnh như băng sương sớm, nhẹ giọng nhưng đầy quyết đoán:
"Miền đông – có biển, có thương cảng – để ta. Tàu thuyền của ta sẽ đậu ở đó. Cảng lớn sẽ đổi thành Hải Thần Cảng, mọi hàng hóa phải đóng thuế ba phần cho ta. Ai không đóng, treo xác lên cột buồm".
Bạo chúa Hắc Vũ tóc đỏ của nước Xích Lân, ngón tay mang nhẫn đầu lâu, đập mạnh lên vùng rừng núi tây nam trên bản đồ:
"Đây là nơi phiến quân, sơn tặc, rắn độc – ta sẽ dẹp sạch! Dân chúng không nghe thì diệt, rừng nào chống đối – đốt! Rồi ta xây căn cứ ngầm, luyện binh mã ở đó".
Một tên tướng trẻ tuổi háo thắng – tướng Vệ Dương của nước Bạch Khôi – chỉ tay vào vùng đồng bằng phía nam, cười lớn:
"Đất này màu mỡ, dân đông – là nơi thu thuế tốt nhất. Ta sẽ xây một đại đô thị, đặt tên là Dương Thành! Mỗi năm tuyển mười vạn trai tráng làm lính cho ta! Gái đẹp thì làm tỳ thiếp! Trẻ con sẽ học ngôn ngữ Bạch Khôi để quên gốc gác!"
Tiếng cười vang rền. Những ly rượu máu va vào nhau chan chát. Trên bản đồ, mỗi tên bạo chúa dùng dao khắc lên lãnh thổ của Vạn Xuân, chia chác như chia thịt một con thú đã bị săn hạ.
Sau khi lệnh bắt lính được các ông vua bà chúa được ban ra, là một bức tranh đầy u ám và đau thương trải dài khắp lục địa rộng lớn. Khắp nơi nơi, tiếng trống lệnh, tiếng kèn quân đội vang từ sáng sớm đến tối mịt, xé tan không khí yên bình vốn đã mong manh sau nhiều năm loạn lạc. Những tấm chiếu cũ được trải vội trên bãi đất trống, nơi từng gia đình nghèo túm tụm lại, nắm chặt tay nhau trong nước mắt tiễn người thân bị cưỡng ép ra chiến trường.
Người cha già bám tay con trai run rẩy, không nói lên lời. Người mẹ trẻ gào khóc ôm chặt đứa con trai mười lăm tuổi vừa mới bị lôi đi, nước mắt hòa với bụi đường loang lổ. Những người vợ mới cưới chưa kịp sinh con, những đứa bé chưa học nói đã phải tiễn cha mình ra mặt trận, không biết ngày trở lại. Nơi góc làng, một bé gái hoảng sợ nép sau lưng bà, nhìn chằm chằm vào đội lính đang lùa thanh niên làng lên chiếc xe bò như lùa súc vật – tâm lý non trẻ của em bị ảnh hưởng nặng.
Trên những con đường đất dẫn về các doanh trại huấn luyện tạm bợ, từng đoàn người bị bắt đi – phần lớn là nông dân, thợ mộc, ngư dân và cả những nô lệ vừa được mua đi bán lại với giá rẻ mạt – giờ lại trở thành công cụ cho tham vọng của những bạo chúa.
Tiếng bước chân dậm thình thịch, tiếng khóc nghẹn, tiếng la hét phản đối bị đánh đập, tất cả hòa thành một khúc bi ca đẫm máu và nước mắt..
Dọc theo các cánh rừng, thảo nguyên, đồi núi – nhiều gia đình tuyệt vọng đã tìm cách bỏ trốn, cõng con băng rừng vượt suối, mong thoát khỏi số phận bị đưa vào lò sát sinh. Nhưng quân đội lùng sục khắp nơi, thậm chí không ngần ngại đốt làng, xử tử những người chống đối để làm gương. Càng gần đến biên giới, cảnh tượng càng tang thương hơn: Người đi lính không biết mình đánh ai, chiến đấu vì cái gì, nhưng ai cũng biết – nếu từ chối, sẽ bị giết hoặc khiến gia đình bị trả thù.
Tại nước Xích Lân, nơi đất đai cằn cỗi và dân nghèo quanh năm thiếu ăn. Một buổi sáng u ám, tiếng trống lệnh vang dội khắp thôn làng. Hàng trăm lính áo giáp đỏ rực tràn vào vùng nông thôn như đàn sói.
Dân làng chưa kịp hiểu chuyện gì, thì một tên quan thét lớn:
"Chiếu chỉ của đức vua: Tất cả trai tráng từ mười bốn tuổi trở lên phải tòng quân! Ai không đi, cả nhà xử trảm!"
Tiếng khóc thét vang lên khắp xóm. Một bà lão run rẩy ôm cháu bé chưa tới tuổi trả lời:
"Nó mới mười ba.. Nó còn chưa biết cầm cuốc, sao bắt nó đi đánh trận?"
Tên đội trưởng cười lạnh:
"Không cần biết, một mũi tên vào tim ai cũng như ai cả"
Cùng lúc đó, đám binh lính khác xông vào kho thóc, gom sạch gạo, ném lên xe bò, mặc cho dân chúng kêu gào:
"Lương thực này để dành cho mùa đông!"
Tên lính quát:
"Mùa đông của chúng mày đáng giá hơn mùa máu của quốc gia à?"
Tại nước Hùng Tượng, quân đội vây kín các chợ lớn trong thành phố. Đám cấm vệ quân hung hãn lục soát từng tiệm tạp hóa, từng kho hàng nhỏ, lấy sạch lương khô, dầu ăn, quần áo, thuốc men.. Tất cả bị chất lên xe ngựa rồi kéo về doanh trại.
Chủ tiệm phản đối, bị đánh gãy tay.
"Vì đất nước, ngươi nên hiến dâng tất cả" tên quan chỉ huy hét lớn.
Một thiếu nữ van xin:
"Xin các ngài, cha tôi bị bệnh nặng, đừng lấy hết thuốc.."
"Đưa cho quân đội để không gục ngã trên chiến trường còn tốt hơn" – một tên lính khác tiếp lời.
Tại nước Vân Thạch: Lệnh tổng động viên được ban ra, lính kéo vào từng làng như thuồng luồng. Không chỉ bắt lính, họ còn bắt cả con gái đẹp để "phục vụ tướng si". Hàng chục cô gái bị lôi khỏi nhà trong tiếng khóc xé tim gan. Một viên quan vỗ ngực: "Vạn Xuân không khuất phục, thì phải học cách trả giá bằng xác người"
Tại các quốc gia như Hoàng Tuyết, Hồng Dực, Hỏa Dã, Lôi Thịnh.. Tình trạng cũng diễn ra tương tự. Các bạo chúa phát lệnh chiến tranh bằng cách đè nén dân mình trước.
Lệnh mới được ban ra:
Mỗi nhà phải nộp một người
Mỗi thôn phải nộp ba tạ lúa, hai con bò
Ai giấu người, giấu lương bị chém đầu, chu di cả họ.
Các vùng quê trống vắng dần, chỉ còn tiếng gió thổi qua ruộng đồng, xen lẫn tiếng khóc ai oán vang vọng từ xa.
Khắp lục địa, những đám mây đen của chiến tranh đã bắt đầu kéo đến..
Tại cuộc họp khẩn trong trụ sở Hội Đồng Nhân Dân Tối Cao:
Từng đại biểu căng thẳng theo dõi các dữ liệu thu thập được từ máy bay trinh sát không người lái. Không khí trong phòng căng thẳng đến nghẹt thở. Trên bản đồ được chiếu bằng máy chiếu lớn giữa phòng, các con đường dự đoán đường hành quân của hàng triệu quân xâm lược sẽ đi qua hiện lên như những dòng kiến đen đặc tràn qua biên giới. Các tướng lĩnh, cố vấn và kỹ sư lần lượt báo cáo:
Kỹ sư trưởng Lương Văn Đạt nêu ý kiến trước tiên:
"Đối phó với chiến thuật biền người, không thể thiếu súng máy được. Số lượng quân địch lên đến năm triệu, mà đạn của ta thì chỉ còn chưa đến một phần mười con số đó. Tôi đề nghị tăng tốc sản xuất đạn cho súng máy sáu nòng, ưu tiên tuyệt đối trên mọi dây chuyền. Nhưng xin nhấn mạnh với toàn thể hội đồng: Chúng ta không nên đánh đổi số lượng lấy chất lượng, bởi vì khi trước mặt hàng triệu quân địch, đạn mà hỏng, thì tính mạng của các chiến sĩ và hàng triệu người dân Vạn Xuân sẽ rơi vào lò mổ khổng lồ.
Không khí cả phòng như chững lại. Một sĩ quan tiếp vận gật đầu tán thành:
Tôi đề nghị điều chỉnh lại lịch sản xuất – tuyển thêm nhân lực gấp, tăng ca 24/ 24 tại các phân xưởng sản xuất đạn dược, tăng thêm các kỹ sư giám định tại chỗ, chia làm hai ca, mỗi ca làm việc mười hai tiếng một ngày. Tăng tiền lương làm thêm cho mọi người. Các đội bảo trì súng máy cũng sẽ được bổ sung thiết bị sửa chữa di động, bảo đảm mỗi khẩu súng máy đều đạt chuẩn chiến đấu tuyệt đối.
Dương Hùng – chỉ huy tối cao quân đội xuyên không, hiện cũng đã được mười hai vị đại biểu bầu làm tổng chỉ huy toàn bộ quân đội Vạn Xuân phòng thủ đất nước lập tức đồng ý.
Một nữ sĩ quan khác lên tiếng:
" Dù là quân địch, nhưng bọn họ cũng có cha mẹ ngày đêm thấp thỏm. Có vợ đang chờ bên ngưỡng cửa, có con thơ chưa biết gì về chiến tranh.. Và biết đâu.. Ở thời đại này có cả những cậu bé chưa trưởng thành cũng bị bắt đi lính! "
Cả phòng họp lặng đi, không khí như trĩu lại.
Sau vài giây im lặng. Nữ sĩ quan tiếp tục:
" Tôi đề nghị triển khai kế hoạch đặc biệt: Điều động phi đội trực thăng hạng nặng và đội đặc nhiệm tinh nhuệ, đột kích bí mật vào hoàng cung mười chín nước, bắt vua và hoàng hậu của chúng, sau đó mang ra tiền tuyến, ép họ phải lui quân "
Khi lời nói vừa thông minh, vừa giản dị mà sâu sắc ấy vừa dứt. Một giây sau, tiếng vỗ tay vang lên, không đồng loạt nhưng chân thành từ khắp các dãy ghế. Ban đầu là từ trong góc phòng, rồi đến những người từng cầm súng – đến những người từng mất người thân trong chiến tranh, rồi đến mười hai vị đại biểu được dân bầu. Có ai mà không từng trải qua cảm giác mất người thân cơ chứ? – Và họ cũng hiểu: Cuộc chiến này là do lòng tham của những kẻ tự xưng là" Thiên Tử "," Đại Hãn "," Quốc Vương "," Hoàng Đế "," Nữ Đế ".. Kia gây ra, chứ người dân bình thường chỉ muốn yên ổn bên gia đình với ngày ba bữa cơm no.
" Nhưng đột nhập hoàng cung, bắt sống vua giặc, là nhiệm vụ rất nguy hiểm, mấy ai tình nguyện đi cơ chứ "– Một trong số mười hai vị đại biểu được dân bầu nêu ý kiến.
" Mà chúng ta đột nhập hoàng cung của mười chín nước, ít nhất phải có tám, chín trăm người tình nguyện, lấy đâu ra đủ con số trong thời gian nhanh như thế "- Ông tiếp tục
Chỉ huy trưởng Dương Hùng khẽ bật cười khi nghe vị đại biểu nói về chuyện khó tìm tám trăm người tình nguyện như thế - Không phải nụ cười giễu cợt, mà là nụ cười buồn xen lẫn chua xót, của một người đã quá hiểu nỗi đau đằng sau sự gan dạ của lính mình. Họ đã phải nhận nhiệm vụ di chuyển lên bắc cực trước khi thế giới sụp đổ. Thân làm người lính, lúc nào cũng có trên ngực dòng chữ thiêng liêng" Máu quân đội phải đổ trước máu dân "vậy mà khi quê hương lâm nạn, họ không trở về giúp đỡ gì được, trong từng giấc mơ họ cũng thấy tiếng kêu cứ của người thân, để rồi choàng tỉnh, nước mắt đẫm gối. Đối với những con người này.. Giữ mạng cho họ, còn khó hơn là để cho họ chết. Anh thầm nghĩ, nếu không có video và lời dặn dò của bác lãnh tụ kính yêu trao cho anh trước khi đi, thì không biết giờ đoàn quân của anh sẽ thế nào. Bác ơi! Bác giỏi quá!" anh vừa thầm cám ơn, vừa kính phục Bác.
Khi nghe vị đại biểu nói đến hai từ tình nguyện, cả phòng họp nhao nhao, gần như tất cả những người xuyên không có mặt ở đó đều giơ tay. Dương Hùng cũng giơ tay. Nhưng bất ngờ có một cậu lính trẻ gầy gò nhưng ánh mắt sáng rực, bước ra khỏi hàng, nhìn thẳng vào chỉ huy Dương Hùng nghẹn ngào cất lời:
"Chỉ huy.. Sao anh chẳng nghĩ gì cho chúng em cả? Đến cơ hội liều mạng để chết một cách có ý nghĩa anh cũng tranh với chúng em sao?" – Cậu nói, giọng như trách móc, như van nài.
"Mỗi đêm về, chúng em sẽ không phải đau đáu nhìn dòng chữ này, rồi cậu lính trẻ chỉ ngón tay vào chính giữa dòng chữ màu đỏ in trên quân phục" Máu quân đội phải đổ trước máu dân "- Dòng chữ thiêng liêng in ngay cạnh tim người mặc"
"Anh quên lời lãnh tụ tối cao đã nói với anh rồi sao?"
Câu nói ấy như sét đánh ngang tai. Dương Hùng đứng sững lại.
Cậu lính trẻ vẫn đang nhìn anh bằng ánh mắt kiên cường và chân thành, nhưng lời cậu vừa thốt ra đã nhắc lại một điều mà chính Dương Hùng dã từng thề sẽ không bao giờ quên.
Không khí trong phòng họp như đông cứng lại. Mọi ánh mắt đều hướng về phía Dương Hùng. Một số người không hiểu rõ, nhưng những ai thân cận với anh đều nhận ra: Đó là câu nói nhắc đến lời căn dặn cuối cùng của lãnh tụ tối cao – Người luôn ở trong tim các chiến sĩ xuyên không. Trước khi họ bị cuốn vào chuyến đi không trở lại này.
Dương Hùng nuốt khan, hai mắt ánh lên nỗi xúc động. Trong đầu anh vang lên giọng nói trầm ấm của người đã từng là cha tinh thần cho cả đoàn:
"Trong đoàn mười hai nghìn người các con đưa đi, có rất nhiều người còn trẻ, chưa từng bước vào chiến trường thực sự. Dương Hùng.. Cháu phải dẫn dắt họ, bảo vệ họ, cháu là cái cột trụ, là bàn tay dẫn lối, là người sẽ phải đứng vững khi tất cả đổ sụp. Không ai khác ngoài cháu có thể gánh trách nhiệm đó!"
Hồi đó, Dương Hùng đã cúi đầu rất sâu, nghiến răng mà nói:
"Cháu thề sẽ không phụ lòng tin của Bác!"
Giờ đây.. Chính anh lại đang định bước vào nhiệm vụ nguy hiểm nhất, bỏ lại sau lưng những người cần anh nhất.
Anh cắn chặt răng. Bàn tay siết lên nắm đấm khẽ run lên, rồi buông ra từ từ. Anh ngẩng đầu, hít một hơi thật sâu, rồi bước về phía giữa hội trường.
"Tôi.. Suýt nữa đã phản bội lời hứa với Bác!" – Giọng anh nghẹn lại, nhưng kiên quyết.
"Cảm ơn cậu đã nhắc tôi. Không ai – kể cả tôi được quên lý do mình còn sống sót đến ngày hôm nay".
Anh quay lại, ánh mắt nhìn tất cả mọi người, rồi chậm rãi tuyên bố:
"Tôi sẽ không tham gia vào trận đột kích lần này".
"Tôi sẽ ở lại, dẫn dắt các cậu. Bảo vệ những người chưa từng nổ súng, chưa tùng thấy xác người, chưa từng nếm trải máu và nước mắt như tôi đã từng".
"Tôi sẽ ở lại, không phải vì tôi sợ chết.. Mà vì tôi đã nợ Bác ấy một lời hứa. Và tôi nợ các cậu một người dẫn đường:"
Cả hội trường chìm trong im lặng.
Một lát sau – là những cái gật đầu. Là những giọt nước mắt nóng hổi lăn trên má những người lính tưởng mình đã chai sạn. Và rồi là tiếng vỗ tay dậy lên như sấm, không phải vì một chiến công, mà vì một lời nhắc nhở về lý tưởng – lời nhắc của một cậu lính vô danh, nhưng đã khiến cả đạo quân bừng tỉnh khỏi cơn mê của chủ nghĩa anh hùng mù quáng.
Hai ngày sau, ban chỉ huy sững sờ khi nhìn vào danh sách đăng ký – không phải vài trăm, không phải một ngàn.. Mà là toàn bộ mười hai nghìn người xuyên không, trừ Dương Hùng, đều tự nguyện xung phong tham gia đội đột kích hoàng cung.
Mỗi người, dù là kỹ sư, bác sĩ, lính trinh sát, lái xe thiết giáp hay thậm chí đầu bếp dã chiến.. Đều điền vào đơn ngắn gọn:
"Tôi đã sẵn sàng, dù không trở về"
Trên dòng chữ, nhiều người còn ghi thêm câu:
"Tôi không đi để chết, tôi đi để những đứa trẻ sau này không phải cầm súng".
"Nếu lần này thành công, ta sẽ không phải mở hòm đựng xác lính nữa".
"Đừng chọn tôi vì tôi dũng cảm, hãy chọn tôi vì tôi phù hợp".
Trong phòng họp trung tâm, ban chỉ huy im lặng rất lâu. Gió từ quạt thông gió rít lên khe khẽ giữa bầu không khí nặng trĩu. Một tấm bảng điện tử hiện lên danh sách mười một ngàn chín trăm chín mươi chín người – toàn là màu đỏ: Tình nguyện
Một phó chỉ huy trẻ tuổi lẩm bẩm:
"Chưa từng có đội quân nào trên thế giới sẵn sàng đi vào chỗ chết như vậy.. Và cũng chưa từng có đội quân nào coi cái chết nhẹ như mây vậy".
Dương Hùng đứng dậy, giọng anh đanh lại nhưng lộ chút nghẹn ngào:
"Chúng ta không cần anh hùng chết trận, chúng ta cần người làm được việc, sống sót trở về để kể lại rằng: Chiến tranh đã dừng lại, vì nhân loại đã học được cách tha thứ".
Ban chỉ huy triệu tập các sĩ quan cấp cao, đại diện các đơn vị đặc nhiệm, y tế, hậu cần, không quân, công binh, và tình báo – bắt đầu quá trình sàng lọc gắt gao nhất trong lịch sử lực lượng xuyên không.
Tiêu chí đặt ra rất rõ ràng:
Thể chất và tinh thần cực tốt – có thể chịu đựng căng thẳng cao độ suốt 72 giờ không nghỉ
Kỹ năng đột kích tầm gần – có thể hành động trong bóng tối, cận chiến, vô hiệu hóa mục tiêu.
Kỹ năng quan sát và ngoại giao – trong trường hợp cần đàm phán và nhận diện con tin, nội gián
Ý thức nhân đạo và kiểm soát sát khí – không để nhiệm vụ biến thành một cuộc tàn sát
Khả năng sống sót và rút lui trong điều kiện tuyệt vọng.
Chỉ trong 72 giờ bộ phận sàng lọc của đội quân xuyên không đã chọn ra:
850 người giỏi nhất – chia làm mười chín nhóm tương ứng với mười chín mục tiêu là hoàng cung của mười chín nước.
Mỗi nhóm có:
Một chỉ huy đặc nhiệm
Bốn lính bắn tỉa
Hai y tá chiến trường
Một chuyên gia kỹ thuật điện tử
Hai phi công chính và hai phi công phụ
Và một đội đột nhập khẩn cấp, gồm khoảng ba mươi đến năm mươi người.
Biên giới phía Bắc của Vạn Xuân – vùng đồi thấp, cách hoàng cung địch khoảng 400km:
Một cánh rừng sát biên giới, không có dân cư, không khói bếp, không đèn lửa. Chỉ có sương mù, cây cối và bóng đêm tĩnh mịnh đến ngạt thở.
Bỗng.. "Vù vù vù" – Ba chiếc trực thăng CH- 53K King Stallion hạ thấp độ cao. Chúng bay cực thấp, không bật đèn tín hiệu, chỉ dùng thiết bị hồng ngoại liên lạc giữa các máy bay và mặt đất. Trong một khe núi hẹp, một đội công binh đặc biệt đang chờ sẵn, mặc quân phục ngụy trang lá rừng, không một ai lên tiếng.
"Điểm hạ cánh xác nhận. Mở bãi"
"Đội 3, triển khai màn ngụy trang ra đa"
"Đội 4, vào vị trí, dựng bệ đỡ bồn nhiên liệu".
Toàn bộ quá trình dựng trạm diễn ra không quá hai giờ, rất im lặng, chỉ có tiếng thở phì phò và những ánh mắt ra hiệu rất hiểu nhau, tiếng dây xích móc thùng nhiên liệu dược hạ xuống nền đất cứng, rồi lập tức được phủ lên bằng vải ngụ trang cách nhiệt.
Mỗi vị trí đều có cảm biến chống đột nhập, camera nhiệt. Và một đội nhỏ gồm 10 đặc nhiệm mang ống ngắm đêm, nằm rải rác theo hình cánh cung quanh khu trạm, làm lá chắn âm thầm.
Chỉ huy phó – đại úy Thiều An – thì thầm qua bộ đàm:
"Báo cáo sở chỉ huy: Trạm tiếp nhiên liệu tiền phương Mắt Hổ đã hoàn tất, có thể tiếp nhận trực thăng trong bán kính 5 km mà không bị phát hiện.
Trạm" mắt trăng "trên núi Tuyết Dương (cực tây) :
Được xây dựng trong một hang đá khổng lồ, ẩn dưới tầng tuyết dày quanh năm. Trạm trưởng là một nữ kỹ sư thiên tài chuyên về điện lạnh và năng lượng dự trữ.
Trạm mắt biển: Cực đông, gần cửa biển và dãy đá ngầm thương hải:
Là trạm duy nhất nằm sát biển, xây dựng trong lòng một rặng đá ngầm tự nhiên được cải tạo. Mỗi đêm, sóng biển vỗ vào bãi đá ầm ầm, nhưng không ai biết, bên dưới là nơi tập kết trực thăng bí mật.
Trạm ' Mắt Rồng" cực nam ;
Lắp đặt trong một ngôi làng bỏ hoang từ nhiều thế kỷ trước. Bao phủ bởi sương mù tự nhiên và vách đá dày đặc. Được bảo vệ bởi đội đặc nhiệm thủy – bộ, có chó nghiệp vụ và radar dò chuyển động cực nhạy.
Bốn trạm tạo thành mạng lưới hình chữ thập, bao phủ toàn bộ đất nước. Từ bất cứ nơi nào, trực thăng đều có thể tiếp cận trạm gần nhất để tiếp nhiên liệu, cấp cứu thương binh, rút lui chiến thuật, hoặc quay vòng đợt tấn công mới.
Từ khắp các vùng nông thôn, đồng bằng, cho đến miền núi xa xôi. Dân chúng Vạn Xuân ùn ùn kéo về các trụ sở chính quyền. Trên vai họ là ba lô đơn sơ, trên môi là nụ cười bình thản. Không ai bắt họ phải đến đây, nhưng họ tự đến, bởi vì trái tim mách bảo rằng: Đã đến lúc đứng lên vì tổ quốc.
Trước cổng các trạm đăng ký, hàng trăm người xếp hàng nghiêm chỉnh, chờ đến lượt khám tuyển. Người dân chấp hành nghiêm quy định:
Ai là con trai một thì tự giác quay về chăm sóc cha mẹ già
Ai vợ mang thai liền nhường cơ hội cho người khác
Chỉ tuyển nam thanh niên từ đủ mười tám đến hai mươi lăm tuổi, đủ sức khỏe, ý chí và tinh thần kỷ luật. Không có tiếng quát tháo, không có roi da, không có cảnh ép buộc. Chỉ có những đôi mắt kiên định, những bàn tay siết chặt vào nhau và những cái ôm tiễn biệt đầy hy vọng.
Một bà mẹ đưa con trai đến điểm đăng ký, mắt đỏ hoe nhưng không ngăn cản. Bà chỉ dặn một câu" "Đi đi con, nhưng nhớ, là lính của nhân dân thì đừng để máu của dân chảy trước máu mình"
Ở một nơi khác..
Giữa sân của trạm tuyển quân, một cụ già chống gậy ra trước đám đông, ánh mắt sáng rực như chưa từng bị tuổi già đánh bại. Cụ nói to, như nói thay lòng dân:
"Ta đã sống qua cái thời phải quỳ dưới gót giày bạo chúa, thấy con cháu bị bắt đi lính, thấy người làng bị giết vì không chịu nộp thóc. Giờ đây có một đất nước cho ta được tự do chọn lựa, thì dẫu chết ta cũng chọn chết cho con cháu đời sau được sống trong tự do"
Không ít người dân Vạn Xuân bày tỏ lo lắng, sợ rằng nếu quân đội hy sinh hết trong cuộc chiến sắp tới thì ai bảo vệ họ? Họ không muốn rơi vào vòng nô lệ một lần nữa. Nhưng chính vì nỗi sợ đó, họ mới muốn được nhập ngũ, được làm người chiến đấu, để tạo ra thế hệ tiếp theo không cần cầm súng nữa.
Tại các trụ sở quân sự của Vạn Xuân, dòng người xếp hàng mỗi lúc một nhiều. Không khí tuy nhốn nháo nhưng ai nấy đều giữ trật tự như đang chờ một nghi lễ linh thiêng. Người đến đăng ký nhập ngũ không phải vì được trả lương, cũng không phải vì danh vọng. Họ đến vì một điều giản dị nhưng cao cả: Được gánh vác trách nhiệm bảo vệ quê hương.
Khi danh sách những người trúng tuyển được dán lên bảng thông báo. Đám đông lặng đi trong vài giây, rồi tiếng vỗ tay bùng nổ. Những người trúng tuyển ôm nhau rưng rưng, không phải vì sợ.. Mà vì tự hào.
Một cậu bé mười chín tuổi vừa được chọn, mắt đỏ hoe, tay run run chạm vào tấm thẻ quân nhân mới: "Cha cháu từng bảo, chỉ cần một lần trong đời được mặc quân phục, là đủ để ngẩng đầu trước tổ tiên.."
Nhưng ở một nơi khác – khoảng sân rộng lớn nhất của trụ sở quân sự Vạn Xuân;
Những người không trúng tuyển – họ đứng thành hàng dài, có người già yếu nhưng vẫn cố đi đăng ký, có những cậu thanh niên gầy gò quá mức, có những người bị loại vì vấn đề sức khỏe, có cả những phụ nữ kiên quyết muốn cầm súng bảo vệ tổ quốc nhưng dành lùi lại phía sau. Mỗi người lần lượt bước lên bục nhỏ giữa sân. Một cán bộ trong quân phục trang nghiêm cúi nhẹ đầu, trao tận tay họ một tấm thẻ in nổi chữ vàng:
"Vạn xuân ghi nhận lòng dũng cảm của bạn.
Hôm nay đất nước cần bạn ở hậu phương.
Hãy tự hào vì bạn cũng là một chiến sĩ!"
Một số người cầm tấm thẻ ấy mà rơm rớm nước mắt. Một cụ già cúi đầu thật sâu rồi ôm chặt tấm thẻ vào ngực như báu vật.
Một thanh niên trẻ nhìn tấm thẻ, môi mím chặt, ánh mắt thất vọng nhưng kiêu hãnh, rồi quay về, thầm hứa sẽ là người đầu tiên đến kho lương, trạm y tế, hay lớp học hậu phương – bất cứ đâu tổ quốc cần.
Phía xa, một người mẹ già nắm tay con gái, cùng rời khỏi doanh trại. Trên tay cô gái là tấm thẻ tri ân, còn trong mắt bà mẹ là sự tự hào không giấu được.
Bài hát "Dòng Máu Vạn Xuân" vang lên từ những chiếc loa nhỏ quanh doanh trại. Lời ca không rực lửa, chỉ nhẹ nhàng như lời ru quê hương:
"Không cần ra trận mới là anh hùng, vì giữ đất quê nhà cũng là giữ lấy non sông"
Hôm ấy, những người không trúng tuyển rời đi trong im lặng – nhưng không một ai đánh mất ý chí..
Họ đi về phía chợ, về cánh đồng, về xưởng máy, về trường học, về kho dự trữ.. Và tất cả họ - từ nay – mang trong mình một lời thề không cần nói ra ; "nếu tiền tuyến ngã xuống, hậu phương sẽ đứng lên".
Chương 9: Cuộc chiến nghẹt thở
Trời vừa hửng sáng, sương mù còn chưa tan hết trên những đỉnh đồi biên giới phía bắc, thì tại trụ sở Hội Dồng Nhân Dân Tối Cao, một cuộc họp khẩn đã được triệu tập.
Cửa phòng họp bật mở, một trinh sát liên lạc trong bộ quân phục rằn ri lấm bụi chạy thẳng vào, mồ hôi túa ra trên trán, giọng khàn đặc:
- "Báo cáo. Mật tin từ hệ thống trinh sát tiền phương cấp báo: Năm triệu quân địch đã rục rịch khởi động. Chúng chia làm mười mũi tấn công, đồng loạt áp sát biên giới!"
Không khí trong phòng họp như bị nén lại, tấm bản đồ khổng lồ hiện lên trên màn hình giữa phòng, mười mũi tấn công được đánh dấu bằng màu đỏ đậm. Các đường di chuyển chớp nháy như đang sống – như những nhánh máu độc lan dần về tim
Một đại tá trinh sát đứng dậy, giọng trầm thấp:
- "Chúng chia quân thành mười mũi, áp sát từ mọi hướng. Mỗi mũi như chiếc vòi bạch tuộc khổng lồ - đang từ từ siết lấy cơ thể Vạn Xuân. Trên bản đồ, Vạn Xuân nhỏ bé nằm ở giữa, bị bao vây bởi một mạng lưới đỏ rực, từng bước khép chặt. Những tuyến đường tiếp tế, kho hậu cần, tram y tế, thậm chí cả trung tâm dân cư đều nằm trong phạm vi nguy hiểm.
Tư lệnh phòng thủ phía đông nhíu mày:
" Chúng không đánh vào trái tim trước. Chúng muốn cắt đứt các mạch máu, làm tê liệt hệ thần kinh của Vạn Xuân. Khi ta chưa kịp phản ứng thì cả cơ thể đã chết lâm sàng.
Dương Hùng – tổng tư lệnh tối cao không nói gì, anh đứng dậy, bước đến gần bản đồ, mắt nhìn xoáy vào từng mũi đỏ.
"Chúng tưởng Vạn Xuân là con mồi nằm yên? Chúng không biết từng tấc đất này đều là máu của nhân dân đổ xuống. Vòi bạch tuộc à? Cắt từng cái một, cho chúng biết tay chúng ta".
Không khí trong phòng chuyển từ lo lắng sang kiên cường.
Các màn hình phụ bắt đầu hiện lên hình ảnh từng chiến khu:
Quân đoàn miền trung đã triển khai
Đặc nhiệm Tây Sơn đang trên đường áp sát phía nam
Hệ thống súng máy đã bật chế độ sẵn sàng
Hậu phương đã chuyển sang thời chiến
Không dừng lại, chỉ huy Dương Hùng rút bút laser chỉ thẳng vào mười chín vị trí hoàng cung của mười chín nước tham chiến ra lệnh:
Chiến dịch cắt đầu rắn – Khởi động.
Mười chín đội biệt kích, mỗi đội hai trực thăng CH-53King Stallion lấp tức cất cánh. Mục tiêu: Đột nhập hoàng cung của nười chín nước, bắt sống vua và hoàng hậu, giải về tiền tuyến nơi quân đội của chúng đang chuẩn bị tấn công. Không cần nói nhiều, Vạn xuân không thương tiếc bạo chúa. Chúng gieo chiến tranh, chúng sẽ được nếm máu.
Trong kho chứa được canh chừng nghiêm ngặt, ba mươi tám chiếc trực thăng CH-53K gầm lên. Trên mỗi máy bay là hai mươi đặc nhiệm ưu tú, mặt lạnh như thép, vũ ttrang đầy đủ. Áo chống đạn, kính nhìn đêm, vũ khí giảm thanh, thuốc mê, đạn khói, bom mini – tất cá đã sẵn sàng.
Một trong các đội trưởng biệt kích cười nhạt:
- "Đi bắt vua, không khác nào đi bắt cá lóc nhốt trong lồng. Chúng không biết thời làm vua bằng miệng đã qua rồi".
Tiếng cánh quạt xoáy dữ dội cả bầu trời. Phi đội biệt kích chia nhau tỏa khắp lục địa, tất cả đã được tính toán kỹ chia nhau hành động.
Chiến dịch cắt đầu rắn- Đội 1: Đột kích hoàng cung nước Hỏa Dã
Hai chiếc trực thăng CH- 53King Stallion bay lặng lẽ giữa màn đêm không trăng, đèn định vị tắt hoàn toàn. Hệ thống giảm thanh động cơ được kích hoạt. Trong khoang, hai mươi đặc nhiệm Vạn Xuân ngồi bất động như tượng đá. Tổ trưởng đội biệt kích, trung úy Tô Khánh Dương nhìn đồng hồ:
"45 giây nữa đến mục tiêu. Cửa số 7 – mái tây điện Long Cực. Rút êm, không để báo động.
Mục tiêu của họ là hoàng cung Hỏa Dã, nơi vua và hoàng hậu đang trú ẩn. Tin trinh sát báo: Cả hai đang ở dưới mái điện Long Cực.
Mái cung Long Cực:
Cửa trượt mở, mười sáu đặc nhiệm buộc dây từ trực thăng, đu người xuống mái cung. Mũ giáp chống đạn tích họp kính nhìn đêm, công nghệ cảm biến hồng ngoại, giao tiếp không lời qua nhịp tay. Họ len lỏi qua các hành lang, chặn lính gác, bắn thuốc mê bằng súng kim siêu thanh.
Nơi nội điện hoàng cung, tên quốc vương vẫn đang suy nghĩ xem làm thế nào để lấy được vùng đất màu mỡ nhất của Vạn Xuân từ tay các bạo chúa khác sau khi chiến thắng thì bỗng đèn trong điện vụt tắt. Ngọn đèn dầu khẩn cấp chưa kịp cháy thì bốn bóng đen đã hiện ra như ác quỷ trong gió.
" Không được động đậy, bệ hạ, chúng tôi cần ông còn thở - giọng nói phát ra từ một nữ phiên dịch viên, lạnh buốt như thép cắt da.
Hoàng hậu hoảng loạn hét lên, nhưng ngay lập tức bị chụp mặt nạ mê. Hai cận vệ hoàng cung rút kiếm, nhưng chưa kịp vung tay thì đạn điện từ phía sau cắm vào gáy. Gục xuống như bao cát.
Trên trực thăng quay về: Tên bạo chúa bị trói gọn trong lồng bảo vệ, mặt trắng bệch. Nằm bên cạnh hắn – là Vũ Nguyên hoàng hậu vẫn mê man chưa tỉnh. Trực thăng rời khỏi mái ngói hoàng cung, biến mất trước sự ngỡ ngàng của lực lượng phản ứng nhanh Hỏa Dã chưa kịp điều cứu viện tới..
Trung úy Tô Khánh Dương báo cáo về tổng hành dinh Vạn Xuân:
"Mục tiêu 1: Thành công tuyệt đối. Vua và hoàng hậu Hỏa Dã đã bị bắt sống, không có thương vong. Đang trên đường áp giải về nước theo kế hoạch. Xin hết"
Chiến dịch cắt đầu rắn – đội 2
Trên không phận nước Hùng Tượng:
Hai chiếc CH- 53K lướt nhanh như bóng ma qua dãy núi Thạch Hạc. Trên boong, hai mươi đặc nhiệm kiểm tra lại dây buộc, kim gây mê, đạn khói và mặt nạ gây choáng.
Tổ trưởng: Đại úy Lâm Ngọc Đan – người từng chỉ huy ba chiến dịch giải cứu con tin thành công, lần này đích thân dẫn đội. "Mục tiêu: Hoàng cung Hùng Tượng, tầng thượng điện Phù Lê. Vua đang ngủ cùng với ái phi. Không cần lịch sự với những kẻ đã bao đời ức hiếp nhân dân. Tất cả các chiến sĩ vào nhiệm vụ" – Giọng cô đanh thép cất lên.
Cánh cửa gỗ trắc khảm vàng mở hé, từ bên trong vọng ra tiếng cười khúc khích và mùi trầm hương. Vua Hùng Tượng – gã bạo quân nổi tiếng bạo ngược, từng thề sẽ cho Vạn Xuân thành tro, đang nằm dạng người trên chiếc sập ngà voi, một tay ôm ái phi, một tay cầm chén rượu chưa uống hết'
Vào. Hạ thấp ánh sáng, đại úy. Không gây tiếng động. – Đại úy Đan ra hiệu.
Một bóng đen lướt đến đầu giường. Một khẩu sung gây mê áp sát vào cổ vua. Pặc! Tiếng kim bắn vào da. Vua Hùng tượng mở mắt chưa kịp la đã trợn tròn. Ái phi bên cạnh hoảng hốt định hét, nhưng đã bị chụp mặt nạ mê từ phía sau. Cả hai bất tỉnh, trần như nhộng.
Biệt kích nhanh chóng trùm chăn lụa hoàng cung lên người họ, rồi nhanh chóng cuộn gọn lại như bọc xác ếch, rồi mang ra trực thăng chờ sẵn.
Một biệt kích vừa buộc chặt đai an toàn cho vua Hùng Tượng, vừa nhếch mép cười: "Ngủ cũng không yên, làm vua kiểu gì vậy?"
Đại úy Lâm Ngọc Đan báo cáo về sở chỉ huy: "Mục tiêu 2 hoàn thành – thành công ngoài mong đợi, do lính canh chủ quan, ỷ lại vào tường cao hào sâu quá nhiều! Đang áp tải vua và hoàng hậu về Vạn Xuân. Báo cáo. Hết!"
Chiến dịch cắt đầu rắn – Đội 3 Nữ Hoàng Ly Khả Yến nước Hoàng Tuyết: Bất ngờ khi chạm trán dòng máu chiến binh.
Hai chiếc CH -53K xé gió lao về cung điện ven biển của nước Hoàng Tuyết – Một quốc gia do Nữ Hoàng Ly Khả Yến trị vì. Bà ta từng là thống soái, nổi danh máu lạnh. Từng tuyên bố: "Nếu Vạn Xuân dám bước qua biên giới, ta sẽ tắm máu dân chúng họ ngoài bãi cát".
Mục tiêu lần này là bắt sống bà ta, nhưng không ai trong đội 3 đánh giá thấp người phụ nữ ấy.
Chỉ huy đội biệt kích này là Thiếu Tá Trần Đình Thao, kinh nghiệm 12 năm đột kích, là người duy nhất từng xâm nhập nội phủ của một quốc gia mà không để lại dấu vết.
Là một trong những quốc gia giàu nhất. Nữ Hoàng Ly Khả Yến luôn được bảo vệ bởi sáu trăm cận vệ đặc biệt.
Biết tính cách của Nữ Hoàng, đội 3 không lén lút, họ tiến thẳng vào bằng trực thăng, pháo sáng đỏ rực trời, đánh thẳng xuống quảng trường trước hoàng cung. Dùng loạt súng âm thanh và pháo choáng, dồn toàn bộ cung điện vào hỗn loạn.
Đội trưởng phát loa khắp hoàng cung: "Vạn Xuân không giết người vô tội. Chúng tôi đến chỉ để kết thúc chiến tranh".
Tiếng chân địch vang lên từ mọi hướng – cấm vệ quân xông tới tấn công, cầm theo giáo mác, cung nỏ, định bao vây hai con "Chim Sắt giữa trời".
Ngay lập tức, hai bên hông trực thăng bật ra súng máy sáu nòng xoay mini – gun, nổ liên hồi..
Đạn lửa bắn xe rách cả hàng đầu của đám lính phong kiến, khiến máu và sắt tóe khói loang lổ.
Lựu đạn khói được bắn xuống thành từng cụm trắng xóa như sương dày, khiến địch không thấy đường, ho sặc sụa, hoảng loạn tháo chạy tán loạn.
Khi đội biệt kích tiến vào phòng luyện kiếm của Nữ Hoàng, thì thấy bà đang đứng đó – một mình, mặc áo giáp lụa nhẹ, thanh kiếm cong bản địa trong tay, mồ hôi chưa kịp khô.
Ta biết các ngươi sẽ đến, Vạn Xuân vẫn luôn đánh như chó rừng, nhắm vào cổ trước. – Nữ hoàng nói, giọng dửng dưng nhưng nhưng ánh mắt sắc như dao
Một đặc nhiệm ra hiệu:
Bỏ vũ khí, bà đã bị bao vây rồi!
"Bị vây thì đã sao? Ta thấy các ngươi chưa dám ra tay. Các ngươi không giống như bọn sát thủ, mà như lính chính quy. Vậy thì ta đề nghị thế này:
" Ta cho các ngươi chọn hai người. Nếu cả hai cùng thắng được ta trong một trân đấu kiếm ngay tại đây, ta sẽ không kháng cự nữa. Các ngươi có thể đưa ta đi. Nhưng nếu ta thắng.. Tất cả cút khỏi đây. Ta là nữ hoàng, nhưng cũng là kiếm thủ. Đừng tưởng các ngươi có những thứ vũ khí kỳ lạ là có tất cả ".
Cả đội đặc nhiệm biệt kích ngạc nhiên. Bà ta không chỉ có dũng khí mà còn giữ được khí độ khi bị bao vây. Không la hét, không cầu cứu, không khóc lóc. Chỉ đơn giản.. Đưa ra một điều kiện như một võ sĩ thực thụ.
Đội trưởng lặng nhìn nữ hoàng vài giây, rồi truyền lệnh bằng giọng đều và ngắn gọn trong bộ đàm." Bà ta đã một chấp hai, đấu tay đôi bằng kiếm. Chúng ta mang súng, mang áo giáp, đến từ một thế giới khác.. Nếu còn để hai chiến sĩ nam lên đấu vơi một nữ hoàng đơn độc, chẳng khác nào ức hiếp. Hai nữ chiến sĩ vào làm nhiệm vụ, toàn bộ chiến sĩ nam quay lưng ra ngoài chu vi - đề phong cấm vệ quân đột kích. Không ai được can thiệp ".
Mệnh lệnh vừa dứt, các đặc nhiệm nhanh chóng di chuyển. Hai nữ chiến sĩ bước tới gần nữ hoàng, chỉnh lại giáp ngực và bao tay, rút kiếm cận chiến loại nhẹ.
Các nam chiến sĩ còn lại lập thành vòng ngoài hình cánh cung, lưng hướng vào sân đấu, mắt chăm chăm vào các mái cung điện, các lối đi ngầm, các góc tối – nơi có thể ẩn nấp lính.
Theo yêu cầu của nữ hoàng, trận đấu diễn ra giữa sân gạch đá dưới ánh trăng mờ (có lẽ là để mọi người nhìn thấy sự dũng mãnh của bà, hoặc là bà muốn đánh ở không gian thoáng đãng không có ám khí). Hai nữ biệt kích đứng đối diện với Nữ Hoàng. Một người dáng nhỏ gọn, tóc tết sát đầu, là cao thủ taekwondo kết hợp kiếm thuật của Nga. Người còn lại to con hơn, từng là vô địch Pentathlon quân sự. Họ đều không phải những người mạnh nhất về cơ bắp, nhưng được chọn vì chính điều đó – để giữ đúng tinh thần lấy nhẹ đấu nặng, đáp lại hành động một chấp hai của nữ hoàng.
Cấm vệ quân từ xa chạy tới – sững lại khi thấy nữ hoàng giơ tay, trầm giọng:
" Lui xuống. Không ai được xen vào. Đây là danh dự của ta, cũng là cơ hội để các ngươi thấy được vì sao người đời gọi ta là Bạch Tuyết Kiếm Hậu. "
Tuyết bắt đầu rơi, gió lạnh cuốn qua mái ngói cổ kính. Nữ Hoàng bước chậm rãi vào mái ngói cổ kính. Ánh kiếm trong tay sáng loáng, thân pháp uyển chuyển mà trầm ổn.
Một nữ biệt kích mở đầu bằng thế thăm dò, mũi kiếm lướt như rắn nước, bị nữ hoàng xoay cổ tay phản đòn trong tích tắc. Không kịp lui, người thứ hai lao vào từ bên sườn – nhưng kiếm cảu nữ hoàng đã như bóng tuyết lướt ngang, đấy cả hai về thế phòng thủ.
Trận đấu kéo dài gần một phút, với 15 lần kiếm chạm nhau tóe lửa, một lần nữ biệt kích suýt trúng đòn vào cổ, nhưng vẫn giữ được thăng bằng. Không bên nào rơi vào thế hạ gục hoàn toàn, nhưng rõ ràng nữ hoàng đang chiếm ưu thế kỹ thuật..
Dưới ánh tuyết rơi lặng lẽ, trận đấu bước sang phút thứ ba. Mồ hôi chảy trên trán hai nữ biệt kích, còn Nữ Hoàng thì vẫn điềm nhiên như vừa khởi động.
Bằng một loạt chiêu đánh ngang, đổi tay lắt léo và bước xoay ngược bất ngờ, bà ép hai nữ chiến sĩ phải dồn về góc tường, mất hẳn thế chủ động. Một nữ biệt kích bị xé rách vai áo, lưỡi kiếm lướt sát da chỉ còn cách 1cm nữa là trúng động mạch.
Đội trưởng từ xa nghiến răng, tay đã xiết vào cò súng, nhưng vẫn chưa ra lệnh – lời hứa danh dự vẫn còn giá trị.
Nữ hoàng lướt tới, vạt áo tung bay, đâm một nhát kiếm như tia chớp vào giữa khe hở phòng ngự của đối thủ. Trong khoảnh khắc quyết định ấy, nữ biệt kích thấp người hơn – không do dự - lấy cả thân mình hứng đường kiếm.
" Phập! "– tiếng vải rách. Thanh kiếm cắm xuyên qua áo giáp chống đạn mỏng, trượt xéo qua vai và phần thịt lưng trái, máu phụt ra nhưng cô không ngã.
Chớp thời cơ ấy, đồng đội bên cạnh bật người lao tới, dao găm đen kề ngay sát cổ nữ hoàng, chỉ cách yết hầu hai đốt ngón tay.
Cả sân đấu chết lặng.
Nữ hoàng sững người. Tay bà còn giữ chuôi kiếm, đang cắm trong người nữ biệt kích, máu nóng còn đang thấm qua chuôi.
Rồi bà buông tay. Thanh kiếm rơi xuống nền đá, ngân vang như một tiếng thở dài. –" Ra là vậy. Các ngươi không giỏi.. Chỉ là gan quá lớn ".
Nữ chiến sĩ nhỏ người đang chảy máu ngã gục xuống. Đông đội ôm lấy cô, băng tạm bằng vải sơ cứu. Nhưng nữ hoàng không phản kháng, cũng không ra lệnh cho ai can thiệp. Bà chỉ quay đầu nhìn trời tuyết, gật nhẹ:
" Đưa ta đi, ta đã thua. Nhưng người vừa đỡ nhát kiếm của ta.. Là kẻ mạnh nhất trong số các ngươi ".
Trực thăng hạ độ cao, đèn pha quét sáng cả sân hoàng cung. Cấm vệ quân không dám tiến lên. Dân chúng phía xa nghe tin bắt đầu tụ tập, đứng sau các tòa nhà và bức tường đá.
Khi trực thăng cất cánh khỏi mái cung điện phủ đầy tuyết trắng, ánh đèn phản chiếu lên những gương mặt lạnh lùng của các chiến sĩ đang im lặng kiểm tra vũ khí và đồng đội. Trong khoang, nữ hoàng bị trói mềm, mắt nhắm hờ, thần sắc vẫn cao ngạo nhưng không còn phản kháng. Chỉ huy đội biệt kích Thiếu Tá Trần Đình Thao bật kênh liên lạc nội bộ, giọng trầm nhưng dứt khoát:
" Trung tâm, đây là đội biệt kích số 3. Nhiệm vụ bắt giữ mục tiêu đặc biệt – Nữ Hoàng nước Hoàng Tuyết đã hoàn thành. Đã thoát ly khỏi khu vực nguy hiểm, đang trên đường về căn cứ hậu phương. Tình hình thương vong: Ba chiến sĩ bị thương trong đó hai nhẹ bị chém vào tay và vai và một bị thương nặng – trúng kiếm vào bụng khi cản đòn cho đồng đội. Đã được băng bó và truyền dịch tạm thời. Toàn đội đang ổn định tình hình trong trực thăng, xin lệnh hỗ trợ y tế ngay khi hạ cánh.
Một giọng nói từ trung tâm vang lên rõ ràng:
Đã nhận. Bác sĩ quân y và xe cứu thương sẽ đợi sẵn tại điểm tiếp đất số 2. Ưu tiên xử lý người bị thương nặng trước.
Nhiệm vụ thành công, toàn đội hoàn thành xuất sắc. Chúng tôi sẽ báo cáo lên hội đồng chỉ huy tối cao. Chỉ huy ngắt liên lạc, ánh mắt liếc nhìn sang nữ chiến sĩ đang được quân y băng bó vết thương, máu thấm ra cả áo chống đạn. Dù đau đớn, cô ấy vẫn cười khẽ:
"Chúng ta đã thắng.. Nữ hoàng đó kiếm thuật thật sự giỏi"
Chỉ huy siết nhẹ báng súng, gật đầu. "Nhưng người của chúng ta cũng không hề thua kém".
Trong bóng đêm mịt mờ tuyết, hai chiếc trực thăng bay đi, để lại sau lưng một đất nước vừa mất đi nữ quân vương của mình – theo cách không ai từng tưởng tượng nổi!
Dù có vài trường hợp khó khăn trong quá trình làm nhiệm vụ, nhưng cả 19 đội biệt kích tinh nhuệ đều hoàn thành nhiệm vụ với độ chính xác cao. Lý do lớn nhất không nằm ở sự may mắn, mà là ở quân địch quá chủ quan.
Bởi từ trước đến nay, bọn họ quen sống trên ngai vàng, quen phái quân đi chinh phạt thiên hạ. Họ là người ra đòn, chưa từng bị ai tấn công ngược.
Họ cho rằng hoàng cung tường cao, hào sâu, cấm vệ quân cả ngàn người, cung điện cả trăm gian – không một ai trên đời này có thể đột nhập. Nhưng đó đều là tư duy của thời đại cũ.
Họ chưa từng nhìn thấy trực thăng, chưa từng nghe tiếng súng. Chưa từng biết kính nhìn đêm, súng gây mê, lựu đạn khói, hay cách một nhóm người có thể từ trên trời đáp xuống mái cung giữa đêm tối.
Khi cận vệ hô hoán, khi tên lính đầu tiên gục ngã chỉ vì một vết chích nhỏ vào cổ, khi ánh đèn chói lòa quét qua cung điện – thì mọi phản ứng của quân địch đều.. Quá chậm. Hoàng cung không sụp đổ, nhưng tinh thần của bọn họ thì sụp.
Trong lúc họ còn đang hỏi: "Thứ bay kia là gì? Ma hay quỷ?" Thì biệt kích đã hạ cánh, phá khóa, bắt người, rồi rút lui bằng dây cáp như thần binh giáng thế. Họ không tưởng tượng nổi chúng ta không cần dẫn quân công thành, không cần phá tường, không cần mở cổng. Chỉ trong vòng vài phút, đã lặng lẽ như bóng ma cướp mất linh hồn của triều đình.
Trong số mười chín mục tiêu, có ba nước mà các đội biệt kích không bắt được hoàng hậu hoặc ái phi. Nhưng bù lại, họ bắt được tể tướng, thượng thư bộ binh và các nhân vật hàng đầu của bộ máy chiến tranh phong kiến do nhà vua ban đêm không về hậu cung nghỉ ngơi như thường lệ, mà họp bàn sách lược chiến tranh, những thủ đoạn để làm sao chia được miếng bánh nhiều phần ngon nhất sau khi chiếm được đất nước Vạn Xuân với các quan đại thần.
Bản đồ chiến trường Vạn Xuân hiện lên, mười hướng kéo đến như lưỡi dao muốn xiên vào trái tim đất nước. Nhưng giờ đây, thế trận đã thay đổi hoàn toàn.
Tổng chỉ huy Dương Hùng ra lệnh:
"Chia 19 vua, hoàng hậu và quan lại ra làm mười nhóm. Áp giải về đúng mũi tấn công mà đội quân của họ đang tiến đến".
"Mỗi đoàn sẽ đi cùng hai trực thăng, đứng trên tường thành của quân ta, mang theo loa phát thanh cỡ lớn có chuyên gia đàm phán đi cùng. Hãy khuyên tất cả quân địch ngừng chém giết và tiến về bãi đất trống phía nam kinh thành Vạn Xuân, kẻ nào không nghe, lập tức xử tử vua của chúng".
Từng cánh cổng thành Vạn Xuân lại vang lên tiếng động cơ gầm rú.
Mỗi đoàn áp giải vua địch tiến đến như một cơn ác mộng phủ kín trời đất:
Những chiếc trực thăng CH-53K bay sát nóc thành, quạt bụi tung mịt mù, giương loa phát thanh. Ba mươi chiếc xe bọc thép dàn thành hàng ngang, chở đầy lính đặc nhiệm vũ trang tới tận răng.
Phía ngoài thành, quân địch dàn trận đông như kiến. Họ kéo đến từ phương xa, mấy ngày dòng rã, lầm lũi tiến vào với khát vọng chiếm kinh thành Vạn Xuân. Nhưng thứ họ không ngờ, chính là cảnh tượng mở ra trước mắt:
Trên tường thành cao, từng vị vua và hoàng hậu của họ đầu trần, tay bị trói, bị đẩy ra từng người một.
Các binh sĩ Vạn Xuân đứng nghiêm chỉnh, dàn hàng theo đội hình danh dự, vũ khí giương sẵn. Loa phóng thanh vang lên:
"Quân sĩ các nước hãy nghe cho rõ: Đây là vua của các ngươi. Đây chính là người từng hứa sẽ đưa các ngươi tới vinh quang. Nhưng giờ y đang ở đây, thất bại và vô dụng"
Bên dưới, hàng vạn binh sĩ địch ngẩng đầu, kẻ thì bàng hoàng, kẻ thì sợ hãi. Người thì lẩm bẩm: "Là.. Là bệ hạ sao? Sao lại ở đó?"
Một số hoàng hậu bị bắt cùng chồng, cúi đầu khóc nức nở. Một số vị vua thì run lẩy bẩy, cố hét gì đó bằng ngôn ngữ nước họ..
Vài tên quan chức cấp cao bị bắt cùng vua thì gào lên binh sĩ dừng tấn công.
Dưới cổng thành, xe bọc thép dừng lại. Đội trưởng đặc nhiệm bước lên xe giơ loa phát lớn:
"Hỡi quân lính, nếu các ngươi còn tiến thêm một bước, chúng ta sẽ xử tử vua các ngươi ngay tại chỗ. Mọi hành động ngoan cố sẽ dẫn đến thảm sát ngay lập tức".
Một vài tên tướng giặc quay sang nhau thì thầm, mặt tái mét. Những tên lính ở tiền tuyến thì bắt đầu chùn bước. Họ không biết phải làm gì nữa khi vị vua họ tôn sùng giờ đây đứng co ro, xấu hổ như một phạm nhâm.
Trên tường thành, một chuyên gia đàm phán bước ra: "Chúng tôi không muốn các người chết. Nhưng nếu các người muốn chết, chỉ cần ra hiệu, chúng tôi sẽ tặng các người một nghi lễ tiễn đưa bằng hỏa lực".
"Ở phía nam kinh thành Vạn Xuân. Có một bãi đất trống rất rộng, từng dùng để nuôi ngựa chiến. Nếu các ngươi thực sự muốn cứu vua, bảo vệ mạng sống, thì hãy rút lui ra bãi đất ấy ngay lập tức. Nhưng hãy nhớ, Trên đường đi dừng tất cả mọi hoạt động chém giết".
Trưa ngày hôm sau, bầu trời phía nam kinh thành Vạn Xuân mù mịt bụi. Năm triệu quân – một con số khổng lồ, từ mười chín nước liên minh đang dồn về một hướng.
Từ xa nhìn lại, đại địa rung chuyển, giống như biển người đang từ chân trời tràn tới. Có đoàn mặc áo giáp bạc, có đoàn mặc áo da thú, có đoàn chỉ là đám lính đánh thuê lem luốc không quốc kỳ.
Tận phía xa, những con đường đất đỏ nối đến đây cũng chật kín người. Từ kỵ binh đến bộ binh, từ tướng sĩ đến lính hậu cần.. Đoàn người đông hết tầm mắt.
Họ đã đến đây, hay nói cách khác là buộc phải đến đây – theo lời của các chuyên gia đàm phán.
Trên tường thành phía nam, nơi cao nhất, mười hai vị đại biểu dân bầu của Vạn Xuân đã sẵn sàng.
Họ không mặc giáp sắt, không cầm gươm giáo, mà khoác trên mình bộ quần áo dân thường giản dị. Bên cạnh là các chuyên gia đàm phán, phiên dịch và hàng loạt loa phóng thanh cỡ lớn gắn trên giá thép, kết nối trực tiếp với hệ thống điện đài.
Tất cả đã kiểm tra kỹ lưỡng, không có sai sót trong thời khắc này.
Dưới chân tường thành, 5 triệu quân địch đã tập trung tại bãi đất trống phía nam – Chia thành mười khối quân khổng lồ theo từng mũi tấn công mà đến đây.
Họ ngước nhìn lên. Trên kia – không phải là hoàng đế, không phải là đại tướng – mà là những người dân từng sống dưới chế dộ nô lệ, từng bị giày xéo trong chiến tranh, giờ đây đang bắt giữ vua của họ.
Gió thổi nhè nhẹ qua tường thành, mười hai vị đại biểu dân bầu đứng dàn hàng ngang, đối mặt với biển người bên dưới – năm triệu quân sĩ từ mười chín nước đang im lặng lắng nghe.
Một vị lão nông tóc bạc trắng bước lên trước micro, tay cầm bản diễn văn viết bằng giấy thô:
- "Hỡi những người lính, Chúng tôi không phải vua. Không phải tướng, chúng tôi là dân. Là những người bị đánh cắp mùa màng, bị thiêu rụi nhà cửa.
Là người từng chôn con mình bằng đôi tay trần, sau một trận càn của quân xâm lược."
Ông tiếp tục, giọng run run nhưng kiên quyết:
"Nhưng hôm nay, chúng tôi không gọi các vị đến đây để trả thù. Bởi vì chúng tôi biết các bạn cũng là nạn nhân. Nạn nhân của những kẻ ra lệnh, còn các bạn, chỉ là những kẻ cầm gươm đi giết theo lệnh".
Một nữ đại biểu trẻ tuổi thay ông bước lên, ánh mắt sáng rực nhìn xuống biển người:
"Hãy buông kiếm. Hãy vứt bỏ thứ kim loại đã cướp mất cha mẹ, vợ con các bạn. Hãy để tay các bạn – lần đầu sau bao nhiêu năm – không cầm gươm, mà ôm người thân".
Một chiến sĩ trong hàng ngũ địch bắt đầu khóc. Một người khác nhìn cây cung trong tay mình bắt đầu hạ xuống.
Cả một làn xúc động lan tỏa.
Một đại biểu khác lên tiếng: "Bạo chúa sai khiến các bạn đi giết, chúng tôi không sai khiến các bạn gì cả. Chúng tôi chỉ mời các bạn xây dựng lại thế giới này."
Loa phóng thanh lặp lại từng lời bằng 19 ngôn ngữ. Tiếng loa không vang như tiếng pháo, nhưng mạnh hơn tất cả bom đạn từng nổ.
Một tướng lĩnh địch rút thanh kiếm bên hông ném xuống đất. Tiếng kim loại chạm đá vang lên.
Rồi đến người thứ hai, thứ ba, hàng trăm, hàng ngàn người..
Trên tường thành.. Vẫn tiếp tục..
Một đại biểu già, cất tiếng trầm ấm qua loa phóng thanh:
"Chắc các bạn cũng đã biết.. Vạn Xuân là đất nước máu lính đổ trước máu dân. Chúng tôi không để dân, mình chết thay cho tướng lĩnh.
Chúng tôi không bắt dân phải hy sinh trước quân đội.
Ở Vạn Xuân, Lính là khiên chắn cho nhân dân - không phải ngược lại".
Bên dưới, hàng vạn người lính các nươc bắt đầu dao động. Một người thì thầm:
"Ở nước mình.. Dân đổ máu trước, còn vua thì trốn trong cung".
Trên tường thành, một nữ đại biểu tiếp lời:
"Và có lẽ, các bạn cũng biết.. Có hàng ngàn người khốn khổ từ đất nước các bạn đã vượt núi băng rừng, bơi qua sông máu.. Chỉ được đặt chân đến Vạn Xuân – xin một cơ hội làm người, một mái nhà nhỏ, một thửa ruộng. Chúng tôi không xua đuổi họ, chúng tôi cưu mang họ".
Một người lính trẻ trong hàng ngũ giặc nhìn xuống đất, khẽ siết chặt cây giáo, rồi nới lỏng.
Một vị đại biểu già gằn giọng, rắn rỏi:
"Hôm nay các bạn tấn công nơi ấy – nơi đã nuôi sống người dân của các bạn khi họ chạy trốn khỏi bạo chúa. Hôm nay các bạn giương gươm về hướng của lòng nhân từ. Hãy nghĩ lại, Ai mới là kẻ thù thực sự? Những người đã cứu dân các bạn? Hay là những kẻ ép các bạn đi giết người lạ rồi cướp hết phần thưởng?"
Gió thổi phấp phới những lá cờ, treo cao trên tường thành.
Ánh mất những người lính địch giờ đây không còn oán hận – chỉ còn do dự, rồi dần chuyển sang xấu hổ.
Một người lính gỡ mũ giáp, ném xuống đất. Một người khác đập gãy cung tên, rồi đến người thứ ba, thứ tư.. Như những con domino ngã xuống vì sự thật.
Dưới lá cờ của lương tri trên tường thành, hàng trăm người bước ra – họ là những người từng trốn chạy khỏi áp bức, đè nén, sự đối xử bất công và tàn bạo dưới chế độ của các bạo chúa. Họ không cầm vũ khí, không mang áo giáp, họ mặc quần áo dân thường. Có người tay cụt, có người chống gậy vì bị đánh gãy xương..
Tiếng loa vang lên, không lớn, nhưng đủ để khiến mọi hàng quân im lặng:
"Hỡi 5 triệu người đang đứng phía bên kia chiến tuyến.. Các bạn có biết tại sao các bạo chúa lại liên kết với nhau tấn công Vạn Xuân không?"
Một khoảng lặng rợn người. Gió thổi qua bãi đất trống, mang theo âm thanh của sự thật sắp được hé lộ.
"Các bạo chúa liên kết với nhau không phải vì đất đai, cũng không phải vì tài nguyên. Thứ họ sợ nhất.. Chính là sự thức tỉnh. Họ run rẩy khi thấy một quốc gia nhỏ bé dám sống mà không cần vua, dám để nhân dân tự quyết định vận mệnh của mình. Bởi lẽ nếu dân chúng ở khắp nơi đều thức tỉnh, đều hiểu ra rằng họ có thể tự đứng lên, có thể sống không cần cúi đầu trước ngai vàng.. Thì toàn bộ vương quyền tàn bạo mà họ gìn giữ bao năm sẽ sụp đổ như lâu đài cát trước sóng.
Họ sợ những người lính - những người đang dùng máu thịt mà cha mẹ sinh ra, dùng đôi tay run rẩy mà chém giết – một ngày nào đó sẽ nhận ra: Họ không khác gì những người bị giết. Tất cả đều là người nghèo, đều là dân đen khổ sở, đều là những nạn nhân bị đẩy vào cuộc chiến không phải của mình.
Nếu tất cả tỉnh giấc.. Sẽ không còn ai chịu chết thay cho ngai vàng đó nữa. Và đó, chính là cơn ác mộng của mọi bạo chúa".
"Các anh cầm gươm giáo chĩa vào Vạn Xuân – một đất nước không có vua, không có bạo chúa. Chúng tôi không bắt ai phải quỳ, không buộc ai phải dâng nộp con cháu cho chiến tranh. Chúng tôi sống vì người dân, bảo vệ người dân. Và vì điều đó, chúng tôi bị 19 nước coi là cái gai trong mắt.
Các người cầm đầu các anh – chúng không sợ Vận Xuân mạnh. Chúng chỉ sợ dân chúng khắp thiên hạ nhìn thấy một sự thật rằng: Không có vua, nhân dân vẫn sống được, vẫn có thể đoàn kết, thậm chí xây dựng được một cuộc đời không máu lửa, không xiềng xích.
Các anh đang dùng thân thể mình, thân thể mà cha mẹ sinh ra – để liều mình chém giết những con người cũng nghèo khổ như mình, cũng từng cày sâu cuốc bẫm như mình. Mà vì ai? Vì ngai vàng của bạo chúa? Vì những chiến công rỗng tuếch để rồi cũng chết lạnh lẽo trên chiến trường như bao đồng đội khác?
Các anh ơi.. Nếu các anh buông vũ khí hôm nay, các anh không phải là kẻ thua trận. Các anh sẽ là những người dũng cảm đầu tiên từ chối làm công cụ giết người cho bạo quyền. Các anh sẽ là khởi đầu của một thế giới mới – nơi người lính không phải đánh đổi tuổi xuân để giữ ngai vàng cho kẻ tàn độc. Vạn Xuân không cần xác người, chúng tôi cần các anh còn sống. Về với nhân dân đi, các anh em ơi.. Trước khi quá muộn".
Dưới chân thành, hàng ngũ 5 triệu người bắt đầu dao động mạnh. Gió thổi nhẹ, mang theo lời bàn tán như sóng vỗ:
- "Ê, mày có nghe nói không? Họ nói đúng đấy. Tao có thằng em họ, bỏ trốn sang Vạn Xuân hồi năm ngoái, nó nhắn qua đoàn thương nhân về bảo giờ còn sống sướng hơn làm lính triều đình".
- "Tao nghe nói ở đó, nông dân được học chữ, ai cũng có quyền phát biểu trước làng. Không có tổng đốc hay bá quan nào được phép đánh dân."
"Người nghèo không phải ăn cắp để sống, tao còn nghe nói lính ở Vạn Xuân không phải quỳ lạy chỉ huy".
"Cái gì? Mày đừng nói xạo. Lính mà không quỳ ai, ai sai khiến họ?"
"Chính họ tự nguyện chiến đấu. Vì họ bảo vệ nhà cửa, gia đình mình. Không phải đi chinh phạt người khác vì tham vọng của vua".
Một chiến sĩ lớn tuổi, dày dạn kinh nghiệm thở dài:
- "Cái chốn đó.. Người ta gọi là đất không vua mà mạnh, không quý tộc mà không có loạn. Có lẽ.. Đó là điều mà cả đời chúng ta chưa từng thấy".
Phía sau, một nhóm lính trẻ thì thào:
- "Nếu họ thật sự không phân biệt giàu nghèo.. Thì bọn mình – những thằng áo rách – sang bên đó có khi còn được tôn trọng hơn làm lính đánh thuê cho vua".
- "Tao thấy mấy ông vua kia bị bắt trông chẳng còn vẻ già là oai phong nữa.. Như mấy con cừu sợ chết thôi".
Hàng ngũ 5 triệu quân rung chuyển. Tiếng nức nở xen lẫn tiếng gọi nhau. Có người quỳ xuống. Có người giơ hai tay xin tha. Những người cuối cùng còn do dự, cũng run lên khi thấy người thân mình đứng bên kia chiến tuyến – không phải kẻ thù, mà là gia đình. Và chính giây phút ấy.. Ngọn giáo cuối cùng cũng rơi xuống đất..
Bỗng nghe tiếng thét lớn từ một tên đại tướng:
"Phản loạn. Bỏ vũ khí là phản loạn. Chém chết"
Hắn phi ngựa như điên cuồng, mắt đỏ ngầu, vung kiếm dài, chém ngã một binh sĩ vừa buông giáo. Máu bắn tung tóe lên trên nền đất bụi. Không dừng lại hắn thúc ngựa chém tiếp người thứ hai, người thứ ba..
Đám tướng lĩnh phía sau thấy vậy cũng rống lên ra lệnh: "Tất cả ai không cầm vũ khí giết." Quân lệnh như sơn ".
Tiếng hò hét, tiếng roi quất, tiếng ngựa hí vang lên giữa biển người. Nhưng lần này, binh sĩ không còn run sợ nữa. Nhiều người quay lại nhìn xác đồng đội bị chém mà hai tay siết chặt. Trong mắt họ không còn là nỗi sợ, mà là nỗi căm phẫn. Một người lính trẻ gào lên:
" Chúng ta chết vì vua, không ai hỏi tên. Giờ bỏ vũ khí, lại bị giết như chó! "
Một nhóm khác hô lớn:
" Phản kháng, phản kháng. Chúng ta không phải công cụ giết người nữa ".
Bỗng chốc, một tướng giặc bị chính lính dưới quyền kéo xuống ngựa, tước vũ khí. Một tên khác bị đâm giáo sau lưng khi đang chém binh lính buông vũ khí.
Trên tường thành phía nam, những tay súng bắn tỉa tinh nhuệ đã vào vị trí từ trước. Mỗi người đều đã chọn sẵn mục tiêu: Tướng giặc cưỡi ngựa, mặc áo choàng đỏ, kiếm nạm ngọc, luôn vênh mặt gào thét như thú điên.
Ngay tên tướng đầu tiên vung kiếm chém lính buông giáo, Dương Hùng - tổng chỉ huy chiến dịch – ra lệnh dứt khoát qua bộ đàm:
-" Xử lý! "
Chỉ một giây sau, tiếng súng nổ khô khốc, không phải một, mà là hàng loạt phát bắn đồng loạt từ những tay súng tinh nhuệ ẩn mình trên mái cổng thành và trực thăng lơ lửng trên cao.
Mỗi phát bắn là một kết thúc gọn gàng, Một tên tướng gục xuống yên ngựa, máu trào từ trán. Tên khác trúng ngực, lật ngửa khỏi yên. Một tên đang gào lên" giết hết "thì ngay lập tức ngã vật ra đất với vết đạn xuyên giữa hai mắt.
Nhưng không phải tên tướng giặc nào cũng đủ gần và ở vị trí thích hợp để lính bắn tỉa có thể xử lý được, vài tên ở quá xa, lại còn lẫn vào với những người lính đã buông giáo, khiến những người lính bắn tỉa cho dù là dày dạn kinh nghiệm cũng sợ viên đạn đi trượt khỏi tên tướng mà trúng vào những người lính đã đầu hàng. Tuy nhiên, chưa kịp chém ai, thì chính những người lính đã bị chúng vắt kiệt suốt bao năm ấy vùng lên! Một người giơ cao lưỡi giáo, hô to:
" Hắn còn giết anh em mình nữa thì để ta chém hắn "
Tiếng hô như lửa đốt rơm khô. Những đạo quân rã rời mỏi mệt bỗng trở nên như triều dâng. Họ không còn coi những kẻ ngồi trên lưng ngựa là tướng, mà chỉ là những con thú đội lốt người. Họ bao vây, đè ngã, lột giáp và xử lý chúng một cách tàn nhẫn như đúng lẽ công bằng sau bao năm bị o ép, bóc lột.
Máu của tầng lớp quý tộc nhuộm đất. Nhưng lần này không phải do giặc ngoại xâm, mà do chính tay quân lính của họ trừng phạt.
Khi cơn hỗn loạn lắng xuống, các chuyên gia đàm phán của Vạn Xuân lại lên tiếng qua loa phóng thanh:
-" các vị đã thấy rõ chưa? Đó chính là bộ mặt thật của bọn bạo chúa và tầng lớp quý tộc! Khi thấy quân lính buông vũ khí, chúng không hề khuyên nhủ hay tha thứ - mà ra lệnh tàn sát các vị như cỏ rác. Chúng xem các vị là công cụ chiến tranh, không hơn không kém ".
-" Chỉ có chúng tôi – những người dân chân lấm tay bùn – mới thật sự hiểu giá trị tính mạng, vì chúng tôi cũng từng là người như các vị. Chúng tôi không cần thần phục, chỉ mong các vị thức tỉnh và dẹp bỏ mọi loại vương quyền còn độc tài trên thế giới này ".
Dưới chân thành Vạn Xuân – tại bãi đất trống phía nam từng dùng để nuôi ngựa, giờ đã trở thành nơi chứng kiến sự kiện chưa tùng có trong lịch sử nhân loại:" Gần năm triệu binh sĩ đến từ 19 nước quỳ xuống xin hàng trong sự xúc động thấu tâm can ".
Không còn tiếng trống, không còn lệnh tấn công. Những chiến binh từng chém giết không gớm tay, giờ đây cúi đầu rơi nước mắt. Có người ném vũ khí thật xa, như muốn đoạn tuyệt với quá khứ, có người thì ôm lấy người bên cạnh mà khóc. Những người đã từng một thời muốn chinh phạt Vạn Xuân, giờ đây xin gia nhập nó.
Ngay sau khi toàn bộ quân địch đã buông vũ khí đầu hàng, lệnh từ bộ tổng tư lệnh Vạn Xuân được ban ra:
-" Triển khai lực lượng thu hồi vũ khí. Mọi thứ, từ dao găm đến cung nỏ, từ giáo mác đến đao kiếm – đều phải được thu gom cẩn thận, không để sót vũ khí sát thương nào ".
Ngay lập tức, hàng vạn quân nhân Vạn Xuân, bao gồm cả những người mới được tuyển vào quân đội đã được chuẩn bị từ trước, lập tức xuất phát. Họ chia thành từng đội nhỏ, mỗi đội phụ trách một cụm quân địch đầu hàng. Hàng trăm xe vận tải, hàng ngàn xe ngựa kéo.. Được huy động hết công suất.
Từng người lính của liên minh 19 nước, theo lệnh chỉ huy bên Vạn Xuân, lần lượt tháo vũ khí, đặt xuống đất thành từng đống các loại gươm. Giáo, cung tên.. Và vài loại vũ khí dài kỳ lạ khác.
Một người lính Vạn Xuân mới nhập ngũ cười nói:" Cả đời mình chưa bao giờ thấy nhiều vũ khí như thế này, nếu đem đi rèn lại thành nông cụ thì tốt biết mấy.
Khi vũ khí cuối cùng được thu hồi, Trời đã ngả bóng chiều. Trên tường thành Vạn Xuân, mười hai vị đại biểu dân bầu đứng dậy, lần lượt cất lời qua hệ thống loa phóng thanh:
- "Từ giây phút này, chiến tranh kết thúc. Các vị không còn là lính của bạo chúa. Giờ đây, các vị là anh em của chúng tôi, những con người bình đẳng cùng đứng dưới bầu trời hòa bình. Chúng tôi, thay mặt nhân dân Vạn Xuân, trân trọng mời tất cả 5 triệu anh em ở lại dùng bữa liên hoan mừng ngày lịch sử này!"
Một cơn chấn động nhẹ chạy qua hàng ngũ 5 triệu con người đang ở phía dưới. Họ ngẩng đầu lên nhìn nhau, có người bật khóc, có người cười, có người đứng thẳng dậy, lần đầu tiên cảm thấy mình là người tự do.
Tổng chỉ huy Dương Hùng không để mất thời gian, ông ra lệnh: "Tất cả phi đội trực thăng lập tức xuất kích:
Các trực thăng chiến đấu CH – 53K được hoán cải tạm thời thành phi cơ săn thú, rời bãi đáp như những cánh chim khổng lồ. Phi công, xạ thủ và đội kiểm soát từ xa sử dụng công nghệ hồng ngoại, định vị địa hình và cảm biến sinh học để xác định đàn thú phù hợp – vừa đủ để không phá hủy hệ sinh thái, vừa đảm bảo bữa ăn khổng lồ.
Bên phía trong thành, những xe chở vũ khí, giờ đã thành xe chở lương thực, gạo, gia vị.. Và các đồ dụng cụ nấu ăn khổng lồ được thiết kế riêng cho quân đội. Dê, bò, cừu, được chính quyền nhân dân mua lại của người chăn nuôi hàng đàn, lùa ra phía ngoài thành, tất cả để chuẩn bị cho bữa tiệc liên hoan khổng lồ chưa từng có trong lịch sử loài người.
Trong khi đó, 5 triệu quân nhân đã tháo giáp, cởi mũ, dựng trại tạm, nhóm lửa, lấy gạo, lương khô, rau quả từ trong quân lương ra. Từ khi bị bắt nhập ngũ cho đến này, đây là lần đầu tiên họ nấu ăn không phải để chuẩn bị cho một cuộc chiến – mà là để chia sẻ.
Người dân Vạn Xuân mang đến nước sạch, thuốc men, y phục, chiếu mền, thậm chí cả nhạc cụ truyền thống góp vui cho ngày hòa bình. Một vài người trốn thoát từ đất nước của họ, nay đã trở thành công dân Vạn Xuân vô tình nhận ra người thân cũ bị chế độ bạo chúa bắt đi lính, nay gặp lại. Họ ôm nhau khóc, nước mắt lại rơi, nhưng là rơi trong niềm hạnh phúc vô bờ.
Những bếp lửa truyền thống nhóm lên khắp đồng cỏ rộng lớn phía nam, các đầu bếp giỏi nhất từ phía quân đội Vạn Xuân được điều động đến từ trước, nay bắt đầu trổ ra tài nghệ của mình.
Phía bên kia, các đầu bếp của liên quân 19 nước cũng tỏ ra không kém, những đàn dê, bò, cừu được lùa đến từ chiều, nay đã trở thành các món nướng thơm phức.. Với những gia vị kỳ lạ.
Tiếng cười vang lên khắp nơi. Những chiếc trực thăng bắt đầu hạ cánh, mang theo những con hươu lớn, vài con trâu rừng, và cả cá sấu từ khu đầm lầy cạnh bìa rừng cách đó chừng hai mươi kilomet.
Lò quay khổng lồ, các xiên nướng dài hàng mét được dựng lên ngay trên đồng cỏ. Mùi thịt nướng, hương gạo thơm, khói lửa và tiếng người hoan hỷ - Tất cả tạo nên một bữa tiệc có một không hai trong lịch sử nhân loại.
Một bác nông dân già, trước đây từng là di dân, nay đã trở thành công dân Vạn Xuân, bước ra gần đám lửa và cười lớn:
" Không phải cứ đánh nhau mới là anh hùng. Bây giờ ai nướng thịt ngon hơn, ai kể chuyện vui hơn, ai dám dứng lên hát giữa 5 triệu người.. Người đó cũng là anh hùng ".
Dưới ánh hoàng hôn đỏ rực, khi những xiên thịt khổng lồ bắt đầu tỏa hương, cả đồng bằng phía nam kinh thành Vạn Xuân như bừng lên sự sống. Hàng triệu con người đang lần đầu tiên sống đúng nghĩa của chữ" người ".
Mang tiếng là lính của 19 nước, nhưng đã nhiều tháng qua, họ không hề được ăn thịt. Thịt – vốn là thực phẩm cao quý – chỉ dành cho tầng lớp quý tộc và tướng lĩnh. Còn lính? Ăn rau khô, cháo loãng, lương khô nấm mốc, thậm chí có trường hợp một ngày chỉ ăn một củ khoai thôi. Có người cả năm chưa biết mùi mỡ, có kẻ từng trộm một miếng xương hầm để nấu lại nước nhưng bị phạt đánh roi giữa trại.
Thế nên hôm nay, khi thịt hươu nướng ngập mỡ bóng loáng, cá sấu quay vàng ươm, gạo nếp nấu thành xôi dẻo ngọt, rau xanh tươi rói trải dài cả trăm mét.. Dược dọn ra trước mặt, nhiều người lính cảm động!
Vì sống trong bất công bao năm, nay được đối xử tử tế, họ không tin vào sự thật. Có người nhìn chằm chằm vào miếng thịt, tay run run không dám ăn.
" Thật á? Cho tôi thật á? Không cần phải đánh đổi gì sao? "
Người lính Vạn Xuân cười hiền vỗ vai họ:
Không ai bắt các anh phải đánh đổi nữa. Các anh là người rồi, không còn là công cụ nữa, ăn đi, cười đi, cuộc đời tự do đang chờ anh!"
Phía hậu cần Vạn Xuân vẫn đang dốc toàn lực, các xe quân dụng chở thực phẩm dự trữ được đưa đến, đủ các món ăn vùng miền được dọn lên từng khu.
Khi trăng đã lên đến đỉnh đầu, lủa trại sáng rực như những đóa hoa lửa giữa đồng bằng, thì từ trên tường thành, 12 vị đại biểu dân bầu – những người vẫn mang danh lãnh đạo cao nhất của Vạn Xuân – bỗng không một lời báo trước, họ cùng nhau bước xuống cổng thành trong sự kinh ngạc và xúc động tột cũng của hơn 5 triệu người lính.
Không có lính hộ vệ đi cùng.
Không có nghi thức long trọng.
Chỉ có 12 con người bình dị, cùng những người phiên dịch, trong trang phục của nông dân, thợ rèn, thầy thuốc, ngư dân.. Bước qua đám đông như anh em trở về với gia đình.
Người lính từng là tiên phong nước Hỏa Xa ngạc nhiên:
"Các vị.. Các vị.. Không sợ chúng tôi giết sao?"
Một vị đại biểu cười, vỗ vai ông. Nếu lòng anh còn muốn giết, thì những lời nói chúng tôi nẫy giờ chỉ là vô ích. Nhưng nếu lòng anh muốn sống.. Thì hãy ăn với chúng tôi một bữa cơm.
Và thế là từ đó, không còn chỗ ngồi cao thấp, không còn mâm tiệc riêng biệt.
Một vị đại biểu ngồi cạnh mấy anh lính già từng bị tàn tật trong chiến tranh, gắp thịt cho họ.
Một vị khác ngồi uống rượu cần với mấy anh lính vùng Tây Lương.
Có người múa hát cùng vũ công trong đội văn nghệ binh sĩ.
Có người chỉ ngồi bó gối, nghe một anh lính trẻ kể chuyện về người mẹ nghèo ở quê nhà.
"Mẹ tôi nói, nếu tôi có chết trong chiến tranh, thì cũng đừng oán ai, vì người nghèo chỉ biết cúi đầu. Nhưng nay, tôi không cúi đầu nữa.. Vì có các vị".
Tiếng khóc vì nhận được người thân vang lên khắp nơi, tiếng cười nối tiếp. Người ta không còn biết ai từng là bạn, ai từng là địch nữa. Chỉ biết rằng, đêm nay, họ là người, họ là anh em.
Lúc nửa đêm, một vị đại biểu bước lên một phiến đá, nhìn khắp năm triệu người:
"Từ hôm nay, xin đừng gọi chúng tôi là lãnh đạo. Chúng tôi chỉ là người được dân bầu lên để phục vụ các vị.
Chúng tôi không ở trên, không ở dưới các vị. Chúng tôi ở trong các vị, ở cùng các vị.
Nếu phải chết để giữ nền hòa bình này, chúng tôi nguyện chết trước.
Nhưng nếu được sống để kiến tạo một tương lai mới.. Thì hãy cùng nhau sống, từng ngày, từng giờ!"
Cả cánh đồng bừng lên tiếng vỗ tay như sấm nổ - Một chương mới của lịch sử vừa bắt đầu – không bằng máu, mà bằng bình đẳng và lòng người.
Dưới bầu trời đêm rực rỡ của ánh lửa trại, khi tiệc liên hoan đã đến hồi cao trào, những tiếng hô vang bỗng dâng trào như sóng biển:
"Tung họ lên, họ là anh em của chúng ta! Họ không có ngai vàng, không có kiếm lệnh, mà có trái tim!"
Và thế, từng người một trong số mười hai đại biểu được dân bầu được đám đông nâng bổng lên bằng cánh tay thô ráp, chai sần của những người lính khốn khổ năm nào. Không ngai vàng, không kiệu gấm, họ được tung lên bằng chính niềm tin và lòng biết ơn của quần chúng.
Một vị dân biểu tóc bạc, vai rộng, da sạm nắng sau khi được mọi người nhẹ nhàng đặt xuống đất cất tiếng vang vọng:
"Thưa các anh em, các vị đã ăn cùng chúng tôi, uống cùng chúng tôi, cười cùng chúng tôi. Vậy ngày mai xin mời tất cả mọi người vào trong thành của Vạn Xuân mà xem! Để tận mắt thấy một dân tộc đã từng bị áp bức, từng chịu đói rét, giờ đây sóng thế nào khi không còn bạo chúa, không còn giai cấp"
Sau cuộc họp nhanh chóng giữa mười hai vị dân biểu và bộ chỉ huy chiến dịch, mọi người đưa ra quyết định cuối cùng:
"Vì số lượng quá đông, nên chúng ta chia ra lần lượt 19 ngày tiếp đãi 19 đạo quân một cách tử tế. Chúng ta không chỉ tiếp khác, mà còn dạy họ cách sống khác với cũ" – Chỉ huy Dương Hùng nói.
Ngày thứ nhất - Quân đội nước Hùng Tượng:
Khoảng bốn mươi lăm vạn quân lính nước Hùng Tượng – nay đã là người một nhà với Vạn Xuân được mời vào cổng phía nam, trong hàng ngũ gọn gàng. Thay vì bị tra xét, họ được đón tiếp bằng dàn nhạc truyền thống, người dân hai bên vẫy cờ nhỏ, trẻ em theo ba mẹ ra nhìn những người lính xa lạ.
Quân đội Hùng Tượng vốn là đội quân giỏi kỷ luật, từng gây kinh hoàng cho nhiều vùng, nhưng khi đặt chân vào Vạn Xuân, họ bàng hoàng và xúc động sâu sắc.
Họ nhìn thấy:
Những người dân nghèo xưa kia từng bị áp bức, giờ đây mặc áo sạch, mặt mày rạng rỡ, nói năng tự tin.
Trẻ con không phải nhặt rác hay đi lính nữa, mà đang cắp sách tới trường, được khọc toán, khoa học, y học, lịch sử và cả đạo đức làm người.
Người già không nơi nương tựa được chăm sóc miễn phí tại các trung tâm dưỡng lão – Thứ mà họ chưa từng tưởng tượng ra trước đây.
Những cánh đồng xanh mướt, trải dài ngút tầm mắt, tất cả đều là của dân lao động được trồng theo sự góp ý và chỉ bảo của các kỹ sư nông nghiệp.
Những loại lúa giống mới, ngô cao sản, khoai tây.. Được trồng từ hạt giống thời hiện đại mang về, cho năng suất vượt trội so với suy nghĩ của họ.
Một viên tướng già nước Hùng Tượng sau khi thăm trung tâm đào tạo nghề cho người khuyết tật đã rơm rớm nước mắt:
- "Tôi từng nghĩ vinh quang là cưỡi ngựa qua đầu người. Nhưng hôm nay tôi thấy vinh quang là dạy một đứa trẻ đánh vần được tên mình, dạy người khuyết tật có thể tự kiếm sống".
Nhiều người trong họ thầm ao ước.
- "Ước gì quê tôi cũng có trường học như thế".
- "Ước gì mẹ tôi được chữa bệnh mà không cần phải bán gia sản"
- "Ước gì không cần phải gọi ai là vua, và không phải quỳ lạy".
Họ bắt đầu tự hỏi về giá trị của chiến tranh, về lý do tại sao mình từng đi đánh những con người này – những người không thù oán, không cướp bóc, chỉ muốn được sống như người ".
Một người lính trẻ nói với bạn:
-" Ở nước mình, chỉ quý tộc mới được ăn no, ở đây tất cả mọi người được ăn sạch sẽ hơn chúng ta ".
Người kia nghẹn giọng:
-" Chúng ta đã bị lừa. Họ nói Vạn xuân là ác quỷ, Nhưng tôi chưa từng thấy ác quỷ nào mà cưu mang người già, dạy nghề cho người khuyết tật, đối xử với tù binh chúng ta như khách quý thế cả "
-" Xem ra, chúng ta có vẻ giống ác quỷ hơn "– một người đi cùng trả lời.
Và cứ như thế.. Sau 19 ngày:
Không còn ai trong số 5 triệu con người ấy muốn quay lại cuộc sống cũ cả.
Không còn ai muốn đem tấm thân máu thịt cha mẹ sinh ra để bảo vệ ngai vàng cho kẻ khác cả.
Và họ cũng hiểu, tại sao Vạn Xuân không cần bắt lính mà vẫn có nhiều người tình nguyện gia nhập quân đội như vậy. Vì người dân sợ. Họ sợ phải quay lại cảnh sống lầm than, bất công như trước một lần nữa.
Họ muốn trở về quê hương mình, không phải tiếp tục làm lính, mà để dạy lại những gì đã thấy, xây lại những gì đã sụp đổ, đốt đi những tượng đài sắt máu, xây nên những ngôi trường, những bệnh viện, những vườn hoa..
Hay đơn giản chỉ là muốn người nhà mình, con cái mình, được sống cuộc sống như những người dân Vạn Xuân đang sống.
Họ không còn là" tù binh "nữa, mà là người đưa ánh sáng về quê cũ.
" Nếu Vạn Xuân làm được thì nước tôi cũng có thể ".
" Nếu dân tộc này từng bị áp bức và sống được thế này thì dân tôi cũng có thể đứng dậy "
" Nếu tổ quốc tôi được như Vạn Xuân, tôi sẵn sàng chết vì nó! Nhưng hiện giờ, chúng tôi đang chết vì ngai vàng của kẻ khác! "
Tiếng người nhao nhao..
-" Xin hãy truyền lại với các vị đại biểu nhân dân Vạn Xuân.. Chúng tôi không muốn làm nô lệ nữa. Chúng tôi muốn được cứu. Muốn đất nước mình giải phóng giống như các anh giải phóng dân mình! "
Tối hôm đó, trong cuộc họp bất thường được triệu tập trong căn phòng hình tròn của Hội Đồng Nhân Dân Tối Cao. Mười hai đại biểu ngồi quanh bàn đá lớn, mặt bàn trải bản đồ thế giới cổ đại. Một vị lên tiếng:
-" Chúng ta đã bảo vệ thành công Vạn Xuân. Nhưng lương tâm không cho phép ta yên ổn sống trong hòa bình, trong khi hàng trăm triệu con người như chúng ta vẫn mang gông xiềng, chỉ vì họ sinh ra không đúng chỗ.
Một đại biểu khác trầm giọng:
- "Họ không phải xin ăn, họ không xin của, họ chỉ xin cơ hội để quê hương họ được sống như chúng ta đang sống"
Nhưng, một giọng nữ đại biểu lên tiếng:
- "Nhưng trong hiến pháp của chúng ta ghi rõ ràng rằng không được đi xâm lược bất cứ quốc gia nào".
Một vị đại biểu, trước đây là ngư dân lên tiếng:
"Chúng ta cử người đi cùng 5 triệu người kia, giải phóng quê hương họ, cứu đói cho họ, để họ tự lập nên chính quyền dân chủ, sau đó chúng ta rút toàn bộ về, để họ tự quản lý đất nước. Chúng ta không cướp bóc gì của họ, không sáp nhập, thì như vậy đâu gọi là xâm lược"..
Sau một cuộc họp căng thẳng xuyên đêm, kết luận đi hay không đi, quyền quyết định lại chính là ở.. Năm triệu con người vừa mới thức tỉnh kia.
Ngày hôm sau, tại bãi chăn thả ngựa phía nam kinh thành Vạn Xuân, năm triệu bính lính các quốc gia lại được triệu tập lần nữa.
Một đại biểu của hội đồng tối cao bước lên tường thành tuyên bố:
- "Chúng tôi không xâm lược, không can thiệp, cũng như không cứu rỗi ai nếu họ không muốn. Nên hôm nay, tôi phải hỏi các vị, không bằng gươm giáo, mà bằng trái tim và sự lựa chọn tự do:
-" Các vị có muốn Vạn Xuân về cùng các vị để giúp giải phóng dân tộc khỏi xiềng xích áp bức hay không? "
Chỉ trong vòng một khắc, biển người đồng loạt giơ tay lên, tiếng gào thét, khóc òa. Họ không còn là binh sĩ nữa, họ đã là những người mong được làm công dân tự do.
-" Chúng tôi muốn! "
-" Tôi muốn mẹ tôi không còn bị đánh vì không đóng đủ thuế "
-" Tôi muốn con tôi được học chữ như trẻ con Vạn Xuân "
-" Tôi muốn vợ tôi sinh con không phải chui xuống hầm tối trốn lính triều đình "
-" Tôi không muốn con gái tôi sau này bị quý tộc hãm hiếp giữa phố "
Tiếng người vang dội, Âm thanh gào thét xen lẫn tiếng cười cộng hưởng với tiếng khóc của những con người sắp đưa cả gia đình thoát khỏi kiếp nô lệ thật không ngòi bút nào có thể tả được.
Tôi còn nhớ rất rõ buổi sáng hôm đó. Trời còn chưa kịp hửng nắng, sương mù phủ khắp kinh thành Vạn Xuân như một tấm màn trắng dày đặc. Tôi đang ở trạm quân y phía nam thành, kiểm tra lại lượng thuốc men dự trữ thì có một đặc nhiệm chạy đến, nói có lệnh triệu tập khẩn từ bộ chỉ huy tối cao.
Tôi tưởng đâu có ai bị thương nặng hay cần cứu hộ đường không nên không nghĩ nhiều, vội vã theo anh ta đến tổng hành dinh.
Tại phòng họp khẩn của bộ tổng chỉ huy quân đội Vạn Xuân, sau bốn giờ nghe họp và phân công nhiệm vụ của từng người, tất cả chỉ huy cấp cao đã nhận nhiệm vụ và rời đi. Nhưng vẫn còn một chỗ trống duy nhất chưa được nhắc đến:
Chiến dịch Hùng Tượng.
Hùng Tượng – một vùng đất linh thiêng, và là nơi khởi nguồn của nhiều hệ thống tôn giáo. Từng bị chia cắt, sụp đổ dưới gót giày của hàng loạt triều đại phong kiến tranh giành quyền lực, đất đai liên miên bất tuyệt. Nay bốn mươi lăm vạn quân sĩ của vùng này, giờ đã là anh em của chúng tôi, đã đầu hàng, quy phục và xin Vạn xuân hỗ trợ để giải phóng đất nước của họ như chúng tôi đã từng làm với Vạn Xuân.
Tổng chỉ huy Dương Hùng, với đôi mắt từng trải và giọng nói trầm tĩnh bất ngờ nhìn thẳng vào tôi nói:
-" Gia bảo! Anh cần em dẫn dắt vùng này.. "
-" Em Ư? Sao lại là em "– tôi giật mình
Dương Hùng mỉm cười, một nụ cười lạ lùng – vừa tin tưởng, vừa bí hiểm, chưa kịp trả lời thì một trong số mười hai vị đại biểu lên tiếng:
" Chúng tôi đã bàn bạc rất kỹ, cậu là người thích hợp nhất, cũng là người mà chúng tôi và Dương chỉ huy tin tưởng nhất! "
Hai vị đại biểu khác gần như đồng thanh:" Kể từ giờ phút này, cậu là tổng chỉ huy chiến dịch Hùng Tượng! Hãy để người dân Hùng Tượng được sống đời dân chủ, hạnh phúc như người dân Vạn Xuân chúng ta! "..
Tôi rời phòng họp mà lòng mang bao nỗi thắc mắc. Nhưng thôi, lệnh là lệnh, cứ làm tốt công việc của mình đã, nếu còn sống sót thì về hỏi sau cũng chưa muộn – tôi tự nhủ
Chương 10: Ngày xuất phát
Trời còn chưa sáng hẳn. Mặt đất vẫn phủ một lớp sương mỏng lững lờ như khói, quấn lấy từng gốc cây, từng tảng đá, từng gót giày.
Tôi đứng trước hàng quân dài bất tận, mấy chục vạn con người xếp thành từng lớp, từng tầng, trải ra như một cánh đồng thép. Lá cờ Vạn Xuân bay phần phật phía trên đầu. Trước khi cổng thành mở ra, giữa tiếng tù và trầm hùng, 12 vị đại biểu nhân dân tối cao, đại diện cho ý chí của hàng triệu con người Vạn Xuân, xếp thành hàng ngang trên bậc tam cấp của quảng trường trung tâm. Phụ nữ thì khoác áo dài màu lam đậm, thêu biểu tượng bông lúa và mặt trời, tượng trưng cho ấm no và ánh sáng nhân đạo. Đàn ông thì khoác áo chàm đậm, nhẹ bay trong gió.
Họ không đến để tung hô, cũng không đến để chỉ huy. Họ đến để chứng kiến, để ghi nhớ khoảnh khắc hàng vạn con người bước ra khỏi quê hương, mang theo lý tưởng mà toàn dân gửi gắm.
Khi tôi vừa bước ngang qua làm lễ tiễn biệt, 12 vị đại biểu đồng loạt giơ tay lên ngực, như một lời thề không nói thành lời, không một tiếng hô, không một lời nói sáo rỗng – nhưng ánh mắt của họ như muốn truyền thêm ý chí, nghị lực và quyết tâm cho tôi.
Tôi khẽ cúi đầu với họ - không phải cúi đầu vì quyền lực, mà cúi trước trách nhiệm họ mang thay cho dân, và cái gánh nặng họ trao lại cho tôi và đồng đội.
Sau khi cúi đầu chào 12 vị đại biểu của Hội Đồng Nhân Dân Tối Cao, tôi tiến về phía tổng chỉ huy chiến dịch – Dương Hùng, người đàn ông mang gương mặt từng trải qua nhiều cuộc chiến, nhưng ánh mắt vẫn sáng như thủa đầu cầm súng.
Anh bước lên, giơ tay yêu cầu đoàn quân dùng lại. Cả biển người im lặng như tờ. Dương Hùng nhìn tôi thật lâu, rồi nói giọng rõ ràng như chuông đồng:
" Con đường anh em sắp đi.. Không phải là hành trình để làm người hùng mà là hành trình để người khác không phải chết như nô lệ ".
" Không cần mang vinh quang về, chỉ cần mang tấm lòng trong sạch, không cần hạ bao nhiêu thành trì, chỉ cần nâng được bao nhiêu kiếp người đứng dậy! – Từ giờ em cũng sẽ là Tổng Chỉ Huy! "
" Hãy để lịch sử sau này gọi các em là những người đã chọn tử tế, dù trong tay đang cầm súng! "
Cổng thành từ từ mở ra trong tiếng kẽo kẹt nặng nề, hòa lẫn với tiếng quân nhạc từ phía bên trái vọng lại. Gió bên ngoài ùa vào, thổi tung áo choàng của 12 vị đại biểu. Họ vẫn đứng đó, như tượng đá, như những người thân trong gia đình chờ chúng tôi trở về.
Chúng tôi bước đi, họ không theo sau, nhưng chúng tôi biết, từng bước chân mình.. Đã mang theo những ánh mắt ấy!
Trên bầu trời mù sương, hai chiếc trực thăng vận tải CH-53King Stalion gầm vang, bay song song phía trước đội hình.
Dưới đất, đoàn quân dài như rồng lửa đang dồn dập tiến về phương bắc xa xôi. Trên một trong những xe đặc chủng bọc thép đa năng, tôi ngồi bên trong khoang điều khiển, tay đặt hờ lên súng ngắn, mắt liếc nhìn màn hình liên lạc.
Phía đối diện là Diệp Lam – y sĩ kiêm chuyên gia ngôn ngữ cổ, đang kiểm tra hộp y tế cá nhân, ánh mắt bình thản nhưng tập trung, sẵn sàng cho mọi tình huống bất trắc.
Kế bên tôi là Minh, Dương Hoàng Minh, nhưng vì tạng người quá khổ, hay nói cách khác là béo. Nên từ nhỏ chúng tôi cứ gọi là Voi Còi.. Voi Còi là người cùng làng tôi, nhập ngũ cùng ngày, lại cùng tuổi, có thể nói tôi và hắn từ bé lớn lên cùng nhau – từ thời mặc chung quần xà lỏn đến bây giờ xuyên không rồi tôi vẫn chưa thoát được hắn. Hồ sơ của hắn được tôi tóm tắt lại như sau:
Họ tên đầy đủ: Dương Hoàng Minh
Biệt danh: Voi Còi (vì thân hình thì to như voi, nhưng so với voi thì vẫn.. Còi)
Vai trò trong quân đội: Chuyên gia chất nổ cấp cao
Thành thạo đặt mìn hẹn giờ, phá vật cản, đánh sập hang, tháo gỡ bom tự chế
Sở trường chiến đấu: Sử dụng súng phóng lựu xoay 6 nòng (MGL – Multiple Grenade Launcher) loại nặng, cồng kềnh rất ít người kham nổi – đặc biêt nguy hiểm khi dùng trong hang hẹp, địa hình tuyết và hoặc băng đá, nơi tiếng nổ dội lại và dễ gây choáng nếu không biết kỹ thuật.
Biết cách tận dụng hiệu ứng âm thanh vang dội để dọa kẻ địch mất tinh thần
Khả năng tâm linh bí ẩn: Từng được một bà thầy mù nói hắn có con mắt âm dương, có thể nhìn thấy những thứ không thấy
Trước hôm bị xuyên không về thời cổ đại này, hắn cứ nói bên tai tôi:" này, Gia Bảo, hễ tớ cứ nhắm mắt lại là thấy rất rất nhiều nước từ dưới đất chảy ngược lên trên trời, tớ có linh cảm mọi quy tắc vật lý mà con người từng khám phá ra sẽ vỡ ra rùng mảnh
Tính cách: Hay nói nhăng nói cuội. Từ khi quen biết hắn hơn hai mươi năm đến nay, thật lòng mà nói tôi chưa từng thấy hắn nói chuyện nghiêm túc quá câu thứ tư. Thường thì đến câu thứ ba là bắt đầu không nghiêm túc hoặc bẻ lái sang những thứ trời ơi đất hỡi rồi.
Một thành viên nữa cũng ngồi trên xe cùng chúng tôi đó là Max – chú chó chăn cừu đức, lưng đen bụng vàng đã được tôi nuôi và huấn luyện từ khi mới chỉ hơn một tháng tuổi vẫn còn chưa tách mẹ. Max năm nay hai tuổi, thính giác rất tốt và ưa hoạt động.
Đêm đầu tiên hạ trại giữa vùng biên giới lạnh lẽo – nơi còn cách thành trì biên giới của Hùng Tượng năm ngày đường ngựa nữa, tôi gọi những người chủ chốt của đội quân xuyên không vào trong lán trại họp về những việc quan trọng trong việc giải phóng Hùng Tượng.
Trong căn lều lớn tạm dựng từ bạt dã chiến, những thành viên cốt cán của đội quân xuyên không gồm hai mươi tám người ngồi họp khẩn. Bao gồm đại diện các bên: Quân đội, y tế, kỹ sư nông nghiệp, lương thực – tiếp vân, chính trị và truyền thông. Tôi thông báo, cuộc họp hôm nay về ba vấn đề chính:
1 – Siết lại kỷ luật của bốn mươi năm vạn binh sĩ đầu hàng kia, không thể để họ đánh thắng nơi đâu là cướp bóc và hãm hiếp nơi đó như xưa được nữa.
2 – Tìm ra cách đánh và chiến thắng bằng phương pháp ít đổ máu nhất.
3 – Từ kinh nghiệm của Vạn Xuân cho thấy, vấn đề cứu trợ nhân dân cũng rất nan giải.
Xin mời tất cả mọi người cho ý kiến.
Ngô Bá Dũng – sĩ quan phụ trách hậu cần, là người đầu tiên lên tiếng:
- "Cần ban hành ngay bộ quy tắc ứng cử quân sự, treo trong mọi doanh trại. Đồng thời lập đội giám sát kỷ luật, gồm lính xuyên không có kinh nghiệm. Đặc biệt là phải phổ biến tư tưởng thiêng liêng" Máu quân đội phải đổ trước máu dân cho bọn họ" "
Minh Voi Còi lên tiếng, vẫn cái giọng chẳng bao giờ nghiêm túc đó:
-" Cho phép nói thẳng. Lũ hàng mới về, cơ bản chưa có ý thức gì cả. Chúng không sợ chết, nhưng sợ.. Đói, sợ không được chia chiến lợi phẩm. Nếu không có hình phạt thật rõ và ai cũng biết, sớm muộn cũng có thằng lấy lí do đói để chém giết "
- Mai thảo linh – nữ chỉ huy dân vận nói thêm:
-" Đội nữ binh sẽ đảm nhiệm các điểm dân cư mới giải phóng – nơi dễ xảy ra cướp bóc nhất. Phụ nữ sẽ mềm hóa được sự manh động.
- "Quân nhân mà hãm hiếp phụ nữ phải xử tử làm gương cho kẻ khác" – Trần Vĩnh Khang, chuyên gia tâm lý nên tiếng
* * *Sau một hồi bàn bạc lâu dài, cuối cùng vấn đề thứ nhất đã có lời giải.
Giờ đây chúng tôi chuyển sang vấn đề thứ hai: Lần này có vẻ mọi người đồng tình hơn. Dùng vua và ái phi mà chúng tôi đã bắt trước đó làm con tin, ép chúng phải đầu hàng, nơi nào kháng cự sẽ xử lý bằng hỏa lực hiện đại: Trực thăng vận tải sẽ bắn từ trên cao xuống, sau đó lính đặc nhiệm được thả xuống mở cổng thành cho toàn quân vào, nếu trường hợp nào khó nữa thì sẽ dùng xe đặc chủng húc đổ cổng thành. Chúng tôi ưu tiên với phương án đặc nhiệm mở cổng thành đón đoàn quân vào hơn vì ở thời đại này sửa chữa xe đặc chủng rất khó, không có phụ tùng thay thế.
Còn vấn đề thứ 3: Cứu trợ cho nhân dân sau chiến tranh:
Tôi mở lời trước:
"Vừa để người dân đỡ khổ, vừa giảm gánh nặng cho chúng ta, tôi có ý kiến là sau khi giải phóng được vùng nào chúng ta cho phép người lính vốn là dân vùng đó được phép giải ngũ, về quê đoàn tụ với gia đình và tặng mỗi người chút lương thực, đủ để nuôi sống một gia đình trong một tuần"
Lý Trọng Nhân, chuyên viên đàm phán nói:
"Với dân địa phương chưa tin ta, việc thấy con cháu mình được trả về bình an. Lại có lương thực mang về làm quà tặng, thì người dân sẽ biết chúng ta không giống như những người từng chà đạp họ."
"Nhưng nếu để họ về, quân ta càng ngày càng ít, liệu có trụ nổi không? Hơn nữa vấn đề giúp nhân dân sau chiến tranh cũng rất cần nguồn nhân lực dồi dào" – Diệp Lam lên tiếng.
Lưu Minh Tường – chuyên gia bản đồ, địa hình phát biểu:
- "Chúng ta để họ về vừa để họ được sum vầy bên gia đình sau nhiều ngày tháng xa cách mà không có thư từ, hay liên lạc gì, hơn nữa sau khi để họ về chúng ta sẽ có được lòng dân. Tôi tin khi có được lòng dân rồi thì không điều gì không làm được".
"Còn vấn đề vũ khí – quân tư trang?" – Một người khác hỏi.
"Cho phép họ mang về, vì thời cổ đại này đất đai rộng lớn, nhiều nơi hoang sơ, thú dữ còn nhiều, hơn nữa tôi muốn chính họ sẽ là những người phản kháng đầu tiên khi những lực lượng chuyên chế phong kiến âm thầm nổi dậy sau lưng chúng ta" – Tôi đáp lời.
Ngô Diệu Anh – sĩ quan phụ trách truyền tin và dân vận:
"Một nước cờ táo bạo nhưng hay. Tần Thủy hoàng tịch thu hết vũ khí trong thiên hạ nhưng cuối cùng thì con cháu ông ta cũng có chống được khỏi nghĩa đâu. Suy đi suy lại thì lòng dân vẫn là trên hết!"
Trịnh Văn Quảng – Kỹ sư nông nghiệp lần đầu lên tiếng:
"Để sau khi ổn định tình hình rồi thì số vũ khí đó lại dược rèn thành nông cụ".
Sau cuộc họp, mọi người đều đã thống nhất ý kiến. Sáng sớm hôm sau trước khi xuất phát, mọi người được lệnh tập trung sớm hơn thường lệ nghe thông báo về điều luật mới của quân đội Vạn Xuân.
Trời còn chưa sáng hẳn, trên vùng đồng cỏ bạt ngàn nơi doanh trại chúng tôi tạm trú chân đêm qua. Từng quân đoàn được lệnh đổ về khu tập trung như sóng. Những người lính mới đầu hàng vẻ mặt còn bỡ ngỡ, nhưng tất cả đều im lặng, đứng nghiêm.
Đứng trên bục cao dựng tạm bằng gỗ. Tôi mặc quân phục, không đeo vũ khí, đứng đối diện với gần bốn mươi sáu vạn con người nghiêm túc thông báo:
- "Tất cả anh em chiến sĩ nghe đây:
Hôm nay, ta tiến về Hùng tượng – không chỉ để đánh giặc, mà còn để giải phóng nhân dân. Mỗi người lính Vạn Xuân, dù cũ hay mới, từ giây phút này đều mang trên vai không chỉ vũ khí, mà điều quan trọng hơn là danh dự của đội quân chính nghĩa.
Ta cấm tuyệt đối bất kỳ ai xâm phạm tài sản nhân dân, dù chỉ là cái kim sợi chỉ. Cướp bóc, đe dọa dân – chém không tha.
Cưỡng bức phụ nữ là trọng tội đặc biệt – đối tượng gây án sẽ bị tử hình công khai trước toàn dân. Những người biết mà không tố cáo cũng sẽ bị liên lụy.
Toàn quân im phăng phắc. Một vài người nuốt nước bọt. Những kẻ từng quen hôi của nơi khác cúi đầu.
" Các người đến để cứu dân, không phải để dọa dân. Mỗi căn nhà, mỗi mảnh ruộng, mỗi con gà của người dân đều là máu thịt của họ - ai lấy đi dù chỉ một chút, cũng tức là lấy danh dự của cả đạo quân ta ném xuống bùn ".
Toàn quân lại im phăng phắc. Tôi tiếp tục:
-" Kể từ hôm nay, mỗi khi một vùng đất được giải phóng khỏi ách thống trị của bạo quyền, thì những binh sĩ có quê hương tại vùng ấy - nếu không vướng kỷ luật – sẽ được giải ngũ trong danh dự, trở về xây dựng lại nhà cửa, ruộng vườn, gia đình. Trừ những người tự nguyện ở lại quân đội. Mỗi người lính giải ngũ sẽ được cấp phần quà đặc biệt: Lương thực đủ cho một gia đình năm người dùng trong một tuần – cùng giấy chứng nhận người đã góp công giải phóng quê hương mình. Các bạn không trở về với tay trắng, mà trở về với danh nghĩa người chiến thắng ".
Không khí toàn quân lại bùng cháy như đám lửa khổng lồ.
Hàng chục Vạn Người lính – cũ có – mới có – cùng đồng thanh hô to, không cần ai ra lệnh:
" Vì quê hương – vì gia đình! "– Chiến thắng..
Sau khi không khí dần lắng xuống. Tôi tiếp tục:
-" Và còn câu cuối – cũng là quan trọng nhất: Máu của quân đội phải đổ trước máu dân.. Xin thề ".
Tôi giơ cao cánh tay lên đầy quyết đoán. Ở bên dưới, hàng chục vạn con người cũng đồng thanh hô:" Xin thề.. Xin thề.. "Tiếng hô vang dội như nổ tung cả bầu không khí của cả một vùng đồng cỏ rộng lớn.
Trận đánh đầu tiên là thành Tượng Bắc, nơi biên giới giữa Hùng Tượng và Vạn Xuân. Thành tượng bắc là thành trì đắp bằng đá trắng, vững chắc như răng chó sói găm xuống đất, đám lính canh ngạo nghễ nhìn xuống bình nguyên – chúng tin rằng không một đạo quân nào có thể phá thành này trong vòng ba tháng.
Nhưng chúng đã lầm.
Từ trên một chiếc xe bọc thép. Vua Hùng Tượng và ái phi của hắn được quân đội Vạn Xuân áp giải ra, có chuyên gia đàm phán đi cùng.
Hai người bị xiềng xích nhẹ, không thương tổn, không máu me, chỉ bị buộc phải đối diện với quân mình. Giọng nói của chuyên gia đàm phán truyền qua loa chiến thuật:
" Quân lính Hùng Tượng mở mắt ra! Kẻ mà các ngươi gọi là thiên tử đang ở đây – cùng với người đàn bà mà hắn yêu nhất ".
Mọi bệ gác canh chấn động, Có vài tên tướng nhận ra vua của hắn, run lẩy bẩy. Một số khác thì không dám nghe, bịt tai gào lên phủ nhận. Nhưng ánh mắt thì đã bắt đầu rạn vỡ.
Chuyên gia không dừng lại.
" Chúng ta không cần giết họ, chúng ta chỉ cần cho các ngươi thấy: Chúng ta đã vào tới tận giường ngủ của hắn – mà hắn không biết ".
" Hôm nay, hắn sống, nhưng nếu các ngươi không hạ vũ khí, hắn sẽ là người chứng kiến các ngươi bị xóa tên khỏi lịch sử ".
Giữa lúc lòng quân hoang mang cực độ, một nhóm tướng lĩnh hùng tượng vội vàng trèo lên cổng thành, gào lớn:
-" Bọn man di đến từ phương nam. Không được lùi, tất cả theo ta, phản kích. Vì Hùng Tượng muôn năm! "
Chúng đang giơ tay chỉ trỏ những người lính hạ cờ, vài tên khác thì tay lăm lăm cầm mã tấu định chém những người có ý định đầu hàng. Bỗng tên tướng đầu tiên đổ gục, máu trào ra từ giữa trán. Viên thứ hai chưa kịp hiểu chuyện gì thì bị trúng liền hai phát – một vào cổ, một vào tim.
Không ai thấy viên đạn từ đâu bay tới – nhưng trên bầu trời hai chiếc trực thăng của Vạn Xuân đang lơ lửng cách mặt đất khoảng 300 mét, gần như bất động trong không trung.
" Phập "– Chưa kịp chém lính thì tên tướng thứ ba trên cổng thành gục xuống, rơi xuống dưới thành như một mũi tên.
Phía dưới, hàng nghìn quân hùng tượng nhìn thấy cảnh ba người hô hào phút trước giờ đã đổ gục, mà không ai nhìn thấy mũi tên nào xung quanh. Ánh mắt họ chuyển từ hỗn loạn sang kinh hãi thực sự. Nhiều toán lính ném vũ khí, bỏ chạy vào thành, những kẻ còn lại thì quỳ gối giơ tay đầu hàng, run rẩy như cỏ trước bão.
Một tiếng" KÉTTT.. "Dài, rền như tiếng gãy cột sống vang lên.. Cổng thành Tượng Bắc – cao ba trượng, dày hơn bốn thước, được đúc bằng thép từ năm đời vua đã mở.
Không phải bị phá, không phải bị đánh sập. Mà mở ra từ bên trong.
Dưới chân thành, một toán lính bỏ vũ khí, hạ cờ đầu hàng.
Vua Hùng Tượng thấy cảnh thành bị hạ trong một thời gian nhanh đến không thể ngờ được mặt trắng như vôi, lẩm bẩm:" Không, không thể. Thành Tượng Bắc không hề thất thủ trong hơn 100 năm qua. Ái phi của hắn thì không nhìn thành nữa, quay mặt đi vì không muốn thấy cảnh vương triều rơi xuống bụi.
Khi lá cờ của Vạn Xuân được dựng lên trên cổng thành, cũng là lúc những người ở dưới mở kho lương Nam Viện – Vốn là nơi chỉ dành cho quan lại, lính gác suốt nhiều năm. Nay bị phá niêm phong như xé một tàn dư của chế độ cũ.
Không mất nhiều thời gian. Tại các trục phố lớn Minh "Voi Còi" – trung úy quân nhu đứng giữa xe tải lương thực, tay cầm loa phóng thanh, mồ hôi như tắm nhưng vẫn cười rạng rỡ:
"Xếp hàng từng người, gạo, đường, lương khô – ai cũng có phần, không thiếu một ai cả.
Lúc trạm tiếp tế đầu tiên của Vạn Xuân dựng lên tại quảng trường trung tâm, tên là Nam Cổ, không ai dám bước tới. Dân chúng nép ở các ngõ nhỏ, trong các khung cửa, nhìn ra với ánh mắt nửa mong chờ, nửa sợ hãi. Suốt bao năm bị nhồi nhét bởi tuyên truyền của Hùng Tượng rằng:
- Nếu thành bị phá, quân lính tràn vào, bất kể là quân lính nước nào thì bọn chúng sẽ chỉ đốt sạch, cướp sạch, phá sạch. Đàn ông sẽ bị bắt làm tù binh hay đi lính, phụ nữ sẽ bị bắt làm nô lệ. Có lẽ quân đội Hùng Tượng trước đây chuyên làm thế với những nước khác khi họ phá được thành, nên họ nghĩ là các nước khác cũng sẽ làm như vậy khi thành của họ bị phá.
Không ai muốn làm người đầu tiên.
Thế rồi, người đàn bà gầy trơ xương, bế đứa con thơ vừa vừa đói lả vừa li bì vì sốt cao đánh bạo bước ra. Người đàn bà ấy không còn sự lựa chọn nào khác, đằng nào thì hai mẹ con cũng sẽ chết – vậy tại sao trước khi chết không thử đi về phía họ, biết đâu có cơ may thay đổi? Cô ấy thầm nghĩ.
Nhưng khi đến gần, thấy người lính Vạn Xuân vội chạy lại, không quát tháo, không chĩa súng, mà bưng bát cháo nóng đưa tận tay, mắt đỏ hoe vì xót đứa trẻ đang run:
" Cầm lấy ăn tạm cho đỡ đói đi chị! Chúng em sẽ chữa trị cho đứa bé! "
Chị chưa kịp cảm ơn thì phía sau đã có thêm vài người nữa bước tới. Một ông lão chống gậy run rẩy. Một đứa bé vịn vai anh trai, rồi hàng chục.. Hàng trăm người.
Trại y tế dã chiến được dựng ngay bên dưới cổng" Nha Môn "cũ của chế độ phong kiến. Giờ trở thành nơi tiếp nhận những người yếu nhất, bệnh nhất và tuyệt vọng nhất.
Bên trong trại, Diệp Lam gần như không có thời gian để ngẩng đầu. Mồ hôi ướt đẫm tóc, khẩu trang thấm máu và bụi, giọng nói khàn đi vì ra lệnh và dỗ dành liên tục:
" Cô bé này sốt cao quá, nhanh uống thuốc hạ sốt, đắp khăn lạnh lên trán ".
" Cụ già này cơ thể suy nhược nặng, truyền đạm ngay rồi mới phát đồ ăn cho cụ ".
" Em bé kia không còn phản xạ.. Ôi không! "
Trong góc trại, một bà mẹ trẻ vừa mất con, ngồi chết lặng. Tay vẫn nắm mảnh chăn nhỏ. Bên kia, một ông lão cụt chân được những người lính khiêng vào, miệng vẫn lẩm bẩm:
" Không.. Không ai cứu tôi đâu.. Vì tôi là người Hùng Tượng mà "
Diệp lam bước đến, quỳ xuống, đặt tay lên ngực ông cụ:
" Dân là dân, không còn Hùng Tượng hay Vạn Xuân nữa đâu cụ! Từ nay tất cả chúng ta đều bình đẳng. Giờ đây chỉ có người cần giúp và người dang tay ra giúp ".
Nói xong, cô đứng dậy.. Nhưng không ngăn nổi hai hàng lệ trên má. Cô lau vội, nhưng rồi lại khóc tiếp khi nghe người ta kể chuyện về một bé gái khuyết tật đang ăn miếng bánh phía góc trại.
Tôi và đội của Mai Thảo linh cũng bận rộn không kém.
" máu quân đội phải đổ trước máu dân "
- Tổng chỉ huy đạo quân Vạn Xuân-
Không chỉ ở cổng thành, khẩu hiệu này còn được treo ở dọc theo các trục đường lớn, các cơ quan công quyền của chế độ phong kiến cũ.
Dân chúng ban đầu còn dè chừng, đứng sững lại khi nhìn thấy khẩu hiệu này, nhưng sau những việc chúng tôi làm, họ dần dần tin là thật.
Sau hai hôm vào thành, lệnh từ bộ chỉ huy được công bố đều khắp các doanh trại lớn nhỏ:
Tất cả các binh sĩ Vạn Xuân, có quê quán tại thành Tượng Bắc – được phép trình báo giải ngũ ngay lập tức để đoàn tụ cùng gia đình!
Các nhóm quân nhân nghe tin, vui mừng rơi nước mắt, vì họ sắp được đoàn tụ với gia đình – đó không phải là lời hứa suông. Thật! Thật sự là họ sắp được ôm cha mẹ, vợ con – điều mà họ nghĩ sẽ gần như là không thể khi mà bị triều đình phong kiến bắt đi làm lính.
Hình ảnh những người lính bước về nhà giữa tiếng reo mừng lan truyền khắp Tượng Bắc và các vùng phụ cận. Ban đầu, người dân còn chưa quen, dần dần, họ chẳng ngại ngùng gì chúng tôi, thậm chí còn có phần quý mến!
Từ khi khởi binh đến nay, chúng tôi chỉ mất hai tháng để xé tan từng mảng của đế chế Hùng Tượng – Một đế chế còn rộng lớn gấp hai lần diện tích Vạn Xuân.
Vì sao quá nhanh?
Một phần, bởi vì chúng tôi đã bắt được vua Hùng Tượng và ái phi của hắn. Gương mặt tái mét, tiếng rên rỉ trong lồng sắt – trở thành lời cảnh báo rõ ràng cho những thành trì kế tiếp.
Một phần, bởi hai chiếc trực thăng vận tải hạng nặng của chúng tôi làm việc rất hiệu quả, đối với trực thăng, thành cao, hào sâu gần như trở nên vô nghĩa.
Nhưng phần lớn là vì lòng dân. Người dân từ thành này sang thành khác truyền tai nhau về đội quân Vạn Xuân không cướp bóc, không giết dân, còn mở kho lương cứu đói, dựng trại y tế, cho binh lính vùng giải phóng về quê nhà.
Cứ thế, nhiều thành không cần đánh, cửa tự mở. Nhiều nơi còn cử đại diện ra trước, dâng thư đầu hàng, xin tha mạng cho tướng sĩ, cam kết quy phục.
Đứng trên ngọn đồi cao, phía xa xa đã là kinh đô của Hùng Tượng. Bằng mắt thường chúng tôi đã có thể nhìn thấy nó – một tòa thành đồ sộ và nguy nga. Chúng tôi tin rằng, chỉ cần tiến vào kinh đô, toàn bộ thế cờ sẽ sụp đổ. Những thành trì còn sót lại, rải rác như lá rụng đầu đông, phần lớn tồn tại nhờ vào danh nghĩa triều đình vẫn còn, sẽ mất hết lí do để kháng cự nếu thấy lá cờ tự do bay trên nóc hoàng cung.
Chúng tôi không đánh một thành, mà đánh vào trái tim của cả một đế chế. Đó là cú chém định mệnh, chặt phăng cái đầu rắn, khiến những cái đuôi còn quẫy đạp trong vô vọng cũng phải tự giác nằm yên.
Nhưng.. Chúng tôi đã nhầm. Một sai lầm lớn.
Trên đường hành quân đến kinh đô, chúng tôi không gặp phản kháng. Không một mũi tên bắn ra, không một ngọn giáo giơ lên. Những con đường tưởng như sẽ rực lửa chiến tranh, lại im lặng đến rợn người. Thay vào đó.. Là xác người.
Xác người nằm la liệt. Trên đường hành quân, trên mương nước, trên những thửa ruộng khô nứt nẻ. Càng tiến về phía kinh đô, thì càng nhiều xác người, những thân thể khô đét nằm co quắp bên vệ đường, trên bậc thềm nhà, trước miếu thờ. Đau lòng hơn, có những đứa trẻ vẫn ngậm ti mẹ khi cả hai người chỉ còn là hai cái xác cứng đơ. Cảnh tượng thật đau lòng không dám nhìn, nhiều chiến sỹ nữ mắt ướt nhòe khuỵu lại không bước đi nổi. Những chiến sỹ nam rắn rỏi hơn thì nhanh chóng đến an táng cho người xấu số.
Ai nấy đều không cầm nổi nước mắt. Ngay lập tức tôi ra lệnh:
" Đội hậu cần lập tức cứu đói, những người khác phải cảnh giới bị giặc phục kích.
Sau khi phát cháo cho dân làng gần đó, những người còn sống sót mới kể lại:
! "Chính kẻ bạo chúa mới lên ngôi – Thạch Tà - là người gây ra tất cả. Sau khi giết chết thái tử - là anh ruột để đoạt quyền, hắn ra lệnh cướp sạch lương thực trong dân gian, gom hết về kho mật, tất cả các tuyến đường vận chuyển, tất cả trạm trữ lúa, đều bị kiểm soát tuyệt đối. Hắn gom vàng, lương thực và vũ khí mang hết lên vùng núi sâu phía tây bắc, nơi hiểm địa được bao phủ bởi rừng rậm, sương độc và vực sâu".
Diệp Lam nghe câu chuyện từ một bà lão đang thì thào, thì lẩm bẩm:
"Hắn xây thành trì trên xác người.
Lúc đó, tất cả chúng tôi đều hiểu: Trận đánh cuối cùng không phải là đánh một thành, mà là tiêu diệt một tên ác ma.
Voi Còi đang đứng cạnh những người dân vừa húp cháo xì xụp, vừa rơi nươc mắt vì một số người thân của họ đã không kịp chờ đoàn quân của chúng tôi đến. Đôi mắt đỏ ngầu, hai hàm răng nghiến chặt đến run bần bật, không còn vẻ hài hước như mọi ngày nữa cất tiếng:
" Trên đời này, lại còn thứ súc sinh đến thế sao? Hắn không xứng là người.. Không, hắn không xứng làm cầm thú nữa.
Bắt được hắn, ông sẽ nghiền nát bằng chính tay mình ".
Sau khi bàn bạc nhanh với những nhân sự cốt cán trong quân đội, mọi người đều đi đến thống nhất một phương án:
Tạm dừng mọi hoạt động quân sự, ưu tiên cứu đói cho người dân trước. Toàn bộ quân lương chia làm ba phần, một phần để nuôi quân, hai phần mang đi nuôi dân, trực thăng vận tải thay ca ngày đêm đi săn thú lớn mang về nuôi dân.
Đêm hôm đó, chúng tôi tiến vào kinh thành..
Không có tiếng hò reo, không có nghi lễ đầu hàng, cũng chẳng có đội quân nào ra nghênh chiến, chỉ có tiếng khóc ai oán, như vọng ra từ một địa ngục trần gian, khiến từng bước chân ngập ngừng, như giẫm lên tro cốt của cả một dân tộc.
Gió từ ngõ tối thổi ra từng cơn, không mang theo mùi khói, mà mang theo mùi xác người, mùi thịt thiu, mùi của sự tuyệt vọng kéo dài quá lâu mà không được cứu rỗi.
Nếu chúng tôi đến chậm thêm vài phú nữa thôi, thêm một đứa trẻ sẽ không qua khỏi, thêm một gia đình sẽ chết đói giữa kinh đô từng được gọi là Thành Vàng.
Không một ai trong chúng tôi có thể chợp mắt, nghĩ đến chuyện dựng lều trại, hay nghỉ ngơi ngồi ăn.
Thời gian không cho phép chúng ta nghỉ ngơi.
Tôi ra lệnh:
" Tất cả y sĩ, quân y lập tức tỏa đi các khu dân cư, đội vận tải dỡ hết quân lương, chia đều từng miếng bánh, từng túi gạo, từng giọt nước sạch.
Voi còi chạy đi khắp nơi, gào thét điều phối nhân lực, đôi mắt đỏ ngầu như vừa giận dữ, vừa muốn khóc.
Cả một đêm dài, chúng tôi không còn là những người lính chiến đấu nữa, chúng tôi là những người kéo con người khỏi tay thần chết.
Đêm hôm đó, khi người lính canh vừa định phát lương thực cho vua và ái phi của Hùng Tượng – thì bị Voi Còi kéo giật lại, phát cho người dân. Cậu ta vừa cầm thức ăn, vừa lầu bầu: "Xem điều tốt con trai ông làm đi, để ông nhịn đói thử một bữa xem cảm giác thế nào?"
Chúng tôi – ai cũng mệt mỏi rã rời, cũng chẳng còn hơi sức đâu mà quản cậu ta nữa.
Sáng hôm sau, ánh mặt trời cuối cùng cũng rọi qua được một màn sương dày đặc của một đêm chết chóc. Nó không còn vàng rực như màu lửa nữa, mà mang một thứ ánh sáng nhợt nhạt, ảm đạm như thể trời cũng đang chịu tang cho một đất nước bị chính vua chúa của mình đày xuống địa ngục.
Hai chiếc trực thăng vận tải của chúng tôi đã bay xuyên đêm hôm qua, mang được nhiều những con vật to lớn về, được các đầu bếp hậu cần chia nhỏ, sơ chế tại chỗ, tập trung tại quảng trường trung tâm, và năm địa điểm đông dân cư khác. Đóng gói các suất cứu trợ lương thực cấp tốc, những thứ thiết yếu nhất như gạo, muối, thịt, lương khô, được đóng thành các túi nhỏ để mỗi gia đình dùng đủ trong hai ngày.
Ai còn đi được, sẽ phát túi lương thực mang về nhà.
Ai không đi nổi nữa sẽ được ăn cháo đã nấu sẵn tại chỗ, và sẽ được nhân viên y tế kiểm tra sức khỏe.
Tại các điểm tập kết, hàng trăm bếp lò dã chiến đỏ lửa suốt ngày đêm. Mùi cháo thịt, canh rau, hòa lẫn khói bếp và hơi người. Nhưng.. Có một việc mà tất cả chúng tôi không thể ngờ tới..
Dù cháo đã nấu xong, thịt đã phát tận tay, và các túi lương thực được đóng gói cẩn thận đã sẵn sàng, nhưng chúng tôi để ý thấy một điều rất lạ:
Có những người dân, sau khi ăn một tô cháo xong, lại lặng lẽ đứng dậy xếp hàng trở lại. Ban dầu, chúng tôi tưởng họ còn đói, nên không ai nói gì. Nhưng rồi, có người xếp hàng đến bát thứ ba, thứ tư. Không ai cầm những túi thức ăn chúng tôi đã chuẩn bị sẵn mang về.
Tôi mới hỏi một người đàn ông trung niên, gầy tới mức da bọc xương:
"Tại sao bác không mang túi lương thực này về nhà? Bác có người thân ở nhà không?"
"có.. Có.. Nhưng tôi không dám!"
Giọng ông ta run rẩy, mắt nhìn quanh như sợ ai đó theo dõi.
"Không dám? Tại sao không dám?"
Ông ta cúi đầu, thì thầm:
"Mang về.. Là bị bắt đấy, quan trên họ sẽ nói là giấu giếm lương thực. Có người bị chặt tay rồi"
Tôi chết lặng.
Có thằng bé khoảng mười một, mười hai tuổi đứng bên cạnh đang húp cháo, giọng oang oang:
"Cả nhà cháu bây giờ chỉ còn mỗi mình cháu, chết cũng không sợ, nên cháu nói:
" Bố cháu bị bắt đi lính tám năm nay chưa thấy về, khoảng chục ngày trước, vì mẹ cháu giấu lương thực để nuôi cháu, mà bị bọn lính chặt tay. Vì vừa đói, vừa mất máu, mẹ cháu mất hai hôm sau đó "
Tôi gần như mất kiểm soát, định lao về phía trực thăng bay đi tìm sào huyệt, tính sổ với lũ đó. May nhờ có Diệp Lam can lại.
Bên cạnh tôi – Voi Còi, nghiến răng, bàn tay to như tay gấu, siết đến bật máu.
" Chặt tay vì giữ lại ít gạo nuôi con? Bọn súc sinh đó.. "
Sau ba ngày kể từ khi tiến vào kinh thành, chúng tôi cuối cùng cũng giúp người dân tạm thời thoát khỏi cái đói. Từng nụ cười mệt mỏi nhưng nhẹ nhõm dần hiện trên những gương mặt vốn xanh xao, hốc hác. Đám trẻ con bắt đầu chạy nhảy trong ngõ hẹp, người lớn đã thôi cúi đầu, nhìn thẳng vào những người lính chúng tôi với thái độ biết ơn!
Nhưng niềm vui ấy không kéo dài được bao lâu.
Chiều hôm đó, khi tôi cùng voi còi và Diệp Lam họp cùng ban hậu cần, ánh mắt ai cũng trở nên nặng trĩu. Một sĩ quan phụ trách tiếp tế đứng dậy, giọng khàn đặc phần vì điều động công việc quá nhiều, phần vì thiếu ngủ:
" Báo cáo tổng chỉ huy.. Chúng ta chỉ còn đủ lương thực cho khoảng hơn một tuần, nếu cứ tiếp tục chia cho dân như hiện tại, chỉ hai ngày nữa là quân mình cũng cạn sạch! "
Tôi siết chặt bàn tay. Bản đồ trên bàn hiện rõ:
Phía bắc là vùng núi, nơi tên Thạch Tà đang cố thủ cùng kho lương bị cướp, phía nam phần lớn là những cánh đồng bỏ hoang. Phía tây là rừng già, có thể săn bắn, còn phía đông là thảo nguyên rộng lớn. Nếu may mắn thì có thể tìm được những đàn trâu di cư qua đây. Chúng tôi đang nuôi sống hai triệu con người, với lương thực của gần ba mươi vạn lính.
Diệp Lam nhẹ giọng:
" Nếu chúng ta dừng phát lương thực thì người dân sẽ chết tiếp. Nếu tiếp tục, quân đội có thể không còn sức đánh trận, thậm chí chính chúng ta cũng có nguy cơ chết đói ".
Mai Thảo linh – nữ chỉ huy dân vận lên tiếng:
" Để dân chết, dù là chết đói hay chết bởi dao gươm súng đạn trước mặt mình thì không phải quân đội anh hùng. Hơn nữa, dù gì thì tôi cũng không nuốt nổi miếng bánh, khi những đứa trẻ bên cạnh mình đang đói lả chờ tiếp tế, nhìn tôi với ánh mắt đầy biết ơn! "
Voi còi nghiến răng, đúng tính cách của cậu ta:
" Hay để tôi dẫn một đội tập kích kho lương của Thạch Tà, giải quyết hắn luôn? "
Sau một hồi trầm ngâm, tôi nêu ý kiến:
" Chúng ta hãy cứ phát lương thực như bình thường, trực thăng hãy bay xuyên ngày đêm, tìm các con thú lớn mang về đây, lần này không cần săn bắn có chọn lọc nữa, mà theo phương châm mạng người quan trọng hơn mạng thú. Ngày mai tôi sẽ dẫn theo một đội đặc nhiệm đi thăm dò căn cứ của đối phương, nếu thuận lợi sáng ngày kia chúng ta sẽ đổ bộ bằng trực thăng vào sào huyệt của tên Thạch Tà ".
Dù chưa ai nhìn thấy Thạch Tà bao giờ, nhưng những chuyện về hắn đã trở nên quá nổi tiếng, người hiền lành thì tò mò muốn xem mặt mũi hắn ra sao mà có thể ác quá vậy. Những người bình thường và nóng tính thì khỏi nói, chỉ muốn nhanh nhanh chóng chóng tóm cổ hắn về cho dân chúng xử tội. Voi còi thậm chí còn không ngủ được vì quá háo hức khi được giao nhiệm vụ cùng đội biệt kích đi" hỏi thăm "Thạch Tà.
Mọi người đều thống nhất ý kiến.
Ngay sau cuộc họp, chúng tôi không thể ngồi yên thêm được nữa. Tình hình lương thực ngày một cấp bách, kho lương lớn nhất thì đang nằm trong tay của Thạch Tà – Tên bạo chúa đang cố thủ trên vùng núi sâu phía tây bắc. Hắn không chỉ mang theo vàng bạc, mà còn mang theo hàng nghìn bao lúa, gạo, thịt khô, muối, dầu.. Nếu để hắn yên thêm ngày nào, dân sẽ chết thêm ngày đó.
Tôi quyết định dẫn theo một đội đặc nhiệm gồm 15 người và max – chú chó chăn cừu giống đức mà tôi đã chăm sóc và huấn luyện kể từ khi mới xuyên không.
Mỗi xe đặc chủng có thể chở 12 người, nhưng chúng tôi có 15 người lại đi trên ba xe, vì phía sau xe còn để lương thực, quần áo và thuốc men, phòng khi có người dân bên đường cần cứu giúp.
Trên nóc mỗi xe, đều có gắn sẵn một khẩu súng máy sáu nòng xoay tự động, đề phòng quân Thạch Tà bao vây và tập kích chúng tôi.
Chúng tôi không phải đi đánh trận, nhưng nếu chẳng may gặp phải tên ác ma đó và đoàn quân của hắn cũng dám liều mình chống cự, vì những câu chuyện về sự tàn ác của hắn đã vượt quá xa người bình thường có thể tưởng tượng nổi.
Trên con đường gập ghềnh dẫn về phía tây bắc – nơi chúng tôi được báo cáo rằng Thạch Tà cùng khoảng hai ngàn thân tín của hắn đang trú ẩn ở đó cùng với kho lương vơ vét được. Khi trời gần xẩm tối, chiếc xe bọc thép tôi ngồi đi đầu đội hình, ánh đèn pha rọi dài trên nền đất lổn nhổn đá sỏi, bất ngờ tôi phát hiện ra ba bóng người bên vệ đường.
Tôi ra hiệu dừng xe gấp.
Khi chúng tôi bước xuống, cảnh tượng trước mắt khiến tim tôi thắt lại:
Ba người phụ nữ, có lẽ là ba bà cháu. Người bà – gầy gò, già yếu, tóc bạc – nằm dài dưới đất, hơi thở yếu ớt như chỉ trực rời khỏi thân thể.
Cô gái trẻ - chừng mười chín đôi mươi, khuôn mặt sáng sủa nhưng hốc hác, gầy sọp, đang lay gọi trong tuyệt vọng:" Bà ơi.. Bà đừng bỏ cháu.. Bà ơi.. "
Giọng cô lạc dần, nước mắt đầm đìa trên má.
Bé gái nhỏ nhất, chừng khoảng bốn, năm tuổi, đầu tóc rối bù, mắt trũng sâu, ngồi bệt xuống đất, không khóc thành tiếng, mà chỉ rơi nước mắt lặng lẽ, như thể em cũng không còn sức để nức nở nữa.
Tôi lập tức quỳ xuống cạnh người bà, tháo ba lô cứu thương cá nhân, gọi Diệp Lam qua bộ đàm. Trong lúc đó, Voi Còi bước tới, mở rộng thùng phía sau xe, lấy ngay lương khô và bình nước, đưa tận tay cô gái trẻ.
Nhưng cô gái lắc đầu nguầy nguậy:" Cho bà, cho em của em trước, em không sao, vẫn còn chịu được.
Diệp Lam đến ngay sau đó, cô quỳ xuống khám nhanh rồi siết chặt môi: "Nếu đến muộn 30 phút nữa là không kịp".
Chúng tôi lập tức dựng lều tạm, nấu cháo loãng, truyền dịch y tế cho ba người, một phần đội tỏa ra xung quanh xem còn người nào còn cần được cứu không.
Trời tối, gió núi thổi về lạnh buốt. Nhưng ngọn lửa nhỏ bên lề đường, và bóng áo lính nghiêng mình đút từng thìa cháo, đã khiến tôi nhớ vì sao chúng tôi có mặt ở đây.
Sau khi được ăn uống lương khô và cháo dinh dưỡng ăn liền, loại đóng gói sẵn, chỉ pha nước sôi vào là ăn được do chúng tôi mang theo, cả ba người dần có sức hơn. Diệp Lam, với kinh nghiệm sơ cứu dã chiến, truyền dịch y tế khẩn cấp cho từng người, đặc biệt là người bà và bé gái. Kim truyền được gắn nhanh gọn, mạch được kiểm tra đều đặn. Những đôi mắt vô hồn giờ đây đã bắt đầu lay động trở lại.
Nửa giờ sau..
Người bà vẫn còn yếu, nhưng đã mở mắt. Cô gái trẻ - bấy giờ mới nắm lấy tay tôi, ánh mắt ngập ngừng, khô khốc vì đã khóc quá nhiều:
"Các anh.. Là quân đội Vạn Xuân phải không?"
Tôi gật đầu.
"Chúng tôi nghe nói.. Quân Vạn Xuân đến cứu dân, nhưng không ngờ.. Thực sự đến thật.
Cô gái trẻ lau nước mắt, giọng run run, nhưng đủ rõ để từng lời như rạch vào không khí:
" Ba bà cháu chúng em ở làng Tân Hòa, cạnh bìa rừng, cách đây hai ngày đi bộ về hướng tây bắc. Em tên A Trân, còn bé gái kia tên Mỹ Mỹ. Nửa tháng trước, quân lính Triều đình kéo qua, đập cửa từng nhà.. Không chỉ cướp gạo, thậm chí là rau củ và hũ muối cũng bị chúng vét sạch.. "
Ba bà cháu phải ăn vỏ cây, uống nước suối qua ngày, rồi nghe tin quân Vạn Xuân đã chiếm được kinh đô, đang phát đồ ăn miễn phí, cứu cả những người từng theo chính quyền cũ.. Thế là ba bà cháu quyết định đi, nếu không đi thì thế nào cũng chết đói ở làng. Lúc bà em gục xuống bên vệ đường.. Em tưởng là hết rồi, không dám đi nữa, cũng không thể bỏ bà mà đi trước, chỉ biết ngồi đó chờ chết.. Thế rồi mọi người đến.
Bây giờ người bà mới thì thào lên tiếng:
" Chuyện của Mỹ Mỹ - con bé 5 tuổi đang nằm đây thì càng thê thảm hơn. Do cũng bị quân lính vào nhà cướp hết lương thực, nên mẹ nó phải vào sâu trong rừng, cùng người làng kiếm vỏ cây, lá rừng, hái nấm, bắt chuột về ăn. Nhưng không ngờ mẹ nó lại bị một con hổ vằn to lớn và hung dữ tha đi, trước sự chứng kiến của chính nó và sự bất lực của vài người đi cùng. Bố nó thì bị bắt đi lính từ khi nó còn trong bụng mẹ, thương tình nên hai bà cháu tôi nhận về nuôi ".
Tất cả mọi người như lặng đi, tôi cảm giác như có một thứ gì đó nhói qua tim. Voi Còi thì bẻ gãy cành củi khô đang định cho vào bếp lửa, nghiến răng kèn kẹt: Thạch Tà.. Lại là mày".
Vì chiến dịch gấp gáp, nên xe chúng tôi buộc phải đi trước trinh sát. Kế hoạch là sáng sớm mai trực thăng sẽ đến đúng vị trí của quân đội Thạch Tà đang ẩn náu. Chúng tôi phải đi dò đường xem nếu hắn lẩn trốn, thì sẽ đi theo hướng nào, không thể để hắn trốn thoát làm hại thêm bất cứ một người dân vô tội nào nữa. Tóm lại, đáng lẽ ra việc này phải là của trực thăng, nhưng mà trực thăng quá bận rộn với việc đi tìm săn những con thú lớn mang về cứu người dân trong cơn nước sôi lửa bỏng, nên chúng tôi phải để xe quân sự và drone trinh sát làm thay. Hơn nữa, nghe kể tại ngôi làng của A Trân và bà lão sinh sống, cũng có rất nhiều người đang cận kề với cái chết, chúng tôi phải mau chóng đi cứu họ!
Ba chiếc xe bọc thép gầm gừ lao đi trong sương núi dày đặc, lốp nghiến lên những đoạn đường gồ ghề, thi thoảng phải giảm tốc để vượt qua suối cạn hay những đoạn dốc khúc khuỷu. Cả đội không ai than phiền gì. Bên trong khoang xe, đèn vàng dịu bật sáng, tỏa ra một lớp ánh sáng ấm áp giữa màn đêm giá lạnh. Ba bà cháu A Trân ngồi sát vào nhau ở băng ghế phía trong.
A Trân có vẻ bối rối, cô cứ đưa tay chạm nhẹ vào vách xe, rồi lại nhìn ra ngoài cửa sổ nhỏ xíu, nơi ánh đèn mờ quét qua các thân cây rừng đang lùi về phía sau.
"Thật sự là.. Nó tự chạy được thật hả anh?" – cô quay sang hỏi, mắt tròn xoe.
Tôi bật cười: "Ừ, xe tự chạy, nhưng cũng cần người lái nữa.
Người bà, giờ đã tính táo hơn nhờ truyền dịch, ngồi dựa lưng vào ghế, tay ôm thật chặt chiếc chăn mỏng tôi đưa. Không giấu nổi vẻ kinh ngạc và dè dặt:
-" Chạy mà không cần trâu ngựa.. Người ta nói các anh là thiên binh đi cứu dân, tôi thấy quả không sai ".
Mỹ Mỹ thì khác, con bé ngồi đối diện với tôi, mặt lấm lem nhưng ánh mắt thì sáng rực. Mỗi lần xe nảy lên vì ổ gà, nó lại phấn khích bật cười khúc khích, tay chỉ ra ngoài cửa.
" Chú ơi, cây kia đang chạy ngược kìa! "
" Không phải cây chạy, mà là xe mình chạy đó Mỹ Mỹ! "
" Ồ.. "- nó gật gù rất nghiêm túc, rồi lại bật cười -" vui quá "
Tôi quay sang nói chuyện với A Trân và Diệp Lam thì nghe tiếng Mỹ Mỹ cất lên – Giọng bé nhỏ, trong trẻo nhưng vang lên như một mũi tên xuyên qua lòng tôi:
" Mẹ con nói.. Ba con đi lính chưa về. Từ nhỏ tới giờ, con chưa gặp ba bao giờ.. "
Tôi khựng lại.
Con bé chớp chớp mắt, rồi ngẩng mặt lên, nở nụ cười ngây thơ mà khiến tim tôi thắt lại.
" Chú tốt với ba bà cháu con như thế.. Nhất định chú là ba con rồi! "
Câu nói khiến cả khoang xe im bặt. A Trân quay đi, chậm rãi chấm nước mắt. Diệp Lam thì ngồi lặng, hai tay nắm lại.
Tôi cúi khom người xuống, bế con bé vào lòng, nỗi xúc động như luồng nước xiết quét qua ngực tôi.
-" Ừ, từ giờ ba ở đây.. Ba sẽ không để con đói, không để ai bắt nạt con nữa ".
Mỹ Mỹ dụi đầu vào ngực tôi, tay quàng qua cổ tôi một cách rất tự nhiên – như thể đã quen nhau từ kiếp nào. Tôi nhìn ra màn đêm mịt mùng ngoài kia. Tự hứa với chính mình. Phải sống, phải bảo vệ được nơi này, phải cho những đứa trẻ như Mỹ Mỹ có tuổi thơ đúng nghĩa.
Suốt quãng đường, tôi ôm Mỹ Mỹ vào lòng, như sợ nếu buông tay, nó sẽ tan biến vào cơn ác mộng chiến tranh.
Sau gần ba giờ xe chạy, chúng tôi dừng xe trước sân đất nhà A Trân. Bóng đêm của bìa rừng đã phủ xuống dày đặc, chỉ còn ánh đèn pin và đèn pha xé toạc màn đêm. Không một ai nghỉ ngơi, tất cả ngay lập tức lao vào công việc như chúng tôi đã phân công trên đường đi.
Đội kỹ thuật nhanh chóng mở thùng trang bị, lắp ráp các drone trinh sát. Tiếng cánh quạt cơ giới rít lên nhè nhẹ khi từng chiếc bay vút vào màn đêm, đèn hồng ngoại chớp sáng quét qua các sườn núi và khe sâu – nơi nghi ngờ quân Thạch Tà đang ẩn mình.
Ba đặc nhiệm tinh nhuệ mang theo vũ khí nhẹ - đề phòng ban đêm thỉnh thoảng có thú dữ về làng theo lời kể của cụ bà - hộ tống A Trân đi dọc theo những con đường đất lổn nhổn đá, gõ cửa từng nhà, mời bà con đến dùng bữa. Vài người kiệt sức đến nỗi không còn đi nổi nữa, thì được mấy anh lính cõng về.
A Trân vừa đi vừa cất tiếng gọi, giọng cô vang lên trong màn đêm:
-" Mọi người ơi! Ra đây, đến nhà cháu dùng bữa, cháu đã tìm được quân đội Vạn Xuân rồi, họ đến cứu chúng ta! "
Âm thanh ấy như một sợi dây hy vọng, xuyên qua lớp sương lạnh, lọt vào từng mái nhà tranh. Cửa hé mở, vài gương mặt hốc hác ló ra, đôi mắt đỏ hoe vì đói và mệt. Nhìn thấy A Trân cùng những người lính mang theo ánh mắt kiên định, họ chậm rãi bước ra, ban đầu còn dè chừng, rồi dần dần chạy lại.
Ánh đèn pin soi trên con đường đất gồ ghề, dẫn qua những mái nhà tranh siêu vẹo. A Trân đi trước, miệng không ngừng gọi:
" Bác ơi, dì ơi! Mọi người ơi, ra nhà cháu dùng bữa, có quân đội Vạn Xuân đến cứu chúng ta rồi ".
Mỗi khi tới một ngôi nhà, A Trân ghé sát cửa, gõ nhẹ và nói:
" Bác ơi, đừng sợ, cháu là A Trân đây, cháu tìm được người đến cứu rồi, mình sẽ có cơm ăn, có thuốc chữa! "
Có cụ già cố lết ra tới cửa nhưng ngã khuỵu, lập tức một đặc nhiệm bước tới, nhẹ nhàng bế cụ lên:
" Cháu đưa bác đi, nơi sẽ có cháo nóng ngay ".
Cứ thế, A Trân cùng mọi người đi khắp làng. Đêm bìa rừng lạnh lẽo, nhưng trái tim ấp áp của cô dẫn đường, gom từng sinh mạng yếu ớt về một điểm sáng – ngôi nhà của cô, nơi bếp lửa đã được nhóm sẵn và nồi cháo đang sôi.
Tại sân nhà A Trân, những người còn lại chia nhau nhóm bếp, khói bếp quyện cùng sương đêm, mùi gạo và thịt khô dậy lên trong không khí ẩm lạnh. Tôi cùng Voi còi thì nhanh tay dựng những lán trại tạm. Vừa để dân làng nghỉ, vừa để sơ cứu cho những ai yếu sức.
Tất cả đều khẩn trương nhưng trật tự. Giữa bầu không khí gấp gáp chuẩn bị cho chiến dịch, vẫn có cảm giác ấm áp lan ra từ ánh lửa và khói bếp. Từ mùi cháo nóng, và từng ánh mắt biết ơn của những người dân làng vẫn đang lần lượt kéo đến.
Trong khi mọi người đang tất bật với công việc của mình – thì ở phía bên kia sân nhà A Trân, Diệp Lam cũng không nghỉ ngơi. Bàn tay cô thoăn thoắt phân loại túi truyền dịch, kim tiêm, băng gạc..
Người già run rẩy được dìu tới, vài thanh niên đói lả chỉ còn sức ngồi bệt xuống đất. Diệp lam vừa cắm ống truyền, vừa trấn an:
" Bác cứ thả lỏng, chút nữa là sẽ thấy khỏe lại thôi "
Từng giọt dịch trong veo chảy xuống, len vào mạch máu những cơ thể đang kiệt quệ. Ánh đèn hắt bóng Diệp Lam trên vách che, dáng cô gầy nhưng rắn rỏi, đôi mắt tập trung tuyệt đối.
Cả ngôi làng như sống lại – người được truyền dịch thì nằm nghỉ, người khỏe hơn thì phụ quân lính nấu ăn, lấy củi nấu cháo. Tiếng cười xen lẫn tiếng thìa chạm vào nồi đồng, như một khúc nhạc vừa khẩn trương vừa ấm áp.
Sau mấy giờ liền tất bật, cuối cùng cả làng đã được cứu sống. Những người già yếu thì được truyền dịch, trẻ con thì đã có cháo nóng trong tay, tiếng thìa chạm vào bát sành leng keng vang lên như một bản nhạc ấm áp giữa đêm rừng. Lửa bập bùng, khói bếp quyện cùng mùi cháo nóng, và lần đầu sau nhiều ngày, ánh mắt dân làng đã le lói sự yên tâm.
Tôi đứng ở góc lán trại dã chiến, tạm an lòng. Nhưng chưa kịp thở dài nhẹ nhõm, một chiến sĩ thuộc đội kỹ thuật trinh sát từ khu vực điều khiển bước nhanh về phía tôi. Gương mặt nghiêm nghị:
" Báo cáo tổng chỉ huy.. Drone đã quét toàn bộ các khu vực khả nghi trên núi và vùng sương mù lân cận, nhưng.. Không thất bất cứ tín hiệu nhiệt, sóng điện hay bất cứ dấu vết nào của quân Thạch Tà ".
Tôi cau mày, trong đầu lập tức hiện lên nhiều khả năng – hoặc chúng rút sâu hơn vào rừng, hoặc chúng ta đã bị hắn cố tình đánh lạc hướng ngay từ đầu, đây là kế nghi binh hắn dùng với chúng tôi.
Xung quanh, tiếng dân làng trò chuyện khe khẽ, tiếng trẻ con cười vì được ăn no.. Nhưng với tôi, cả bầu không khí bỗng nặng nề như có một đám mây đen vừa kéo tới.
Nghe báo cáo từ đội kỹ thuật, tim tôi như có ai đó siết chặt. Ánh lửa bập bùng soi rõ từng khuôn mặt lính trinh sát, mồ hôi ướt đẫm dù trời đêm đã se lạnh.
Tôi nhìn xuống ba lô tiếp tế - lương thực của chúng tôi đã cạn kệt, chỉ còn đúng một bữa ăn cuối cùng. Đó là khẩu phần dự trữ để duy trì sức chiến đấu tối thiểu. Còn phía kinh thành, tôi biết rõ, hạt gạo cuối cùng sẽ được phát cho dân trong ngày mai.
Nếu không tìm ra được nơi ẩn náu của Thạch Tà, cùng toàn bộ kho lương thực của hắn cất giấu, chúng tôi sẽ kiệt sức chỉ trong vài ngày tới. Quân đội Vạn Xuân sẽ sụp đổ từ bên trong, không phải vì gươm đao, mà vì cái đói.
Tôi siết chặt tay, tưởng tượng viễn cảnh kinh hoàng: Thạch Tà lật ngược được thế cờ, tràn xuống kinh thành, và nhân dân lại chìm vào cảnh khổ sở như những tháng ngày đen tối nhất.
Bên ngoài, tiếng côn trùng rừng đêm rền rĩ, như nhắc tôi rằng, thời gian đang đếm ngược – nghiêng về phía có lợi hơn cho Thạch Tà.
Trời rừng phía đông nhạt dần từ màu đen, một vệt sáng mỏng như tơ bạc xé toạc màn đêm. Sương mai phủ dày trên mái lán trại và những tấm chăn lính dùng để đắp cho dân làng.
Trong tiếng thở đều đặn của những người dân được cứu, có tiếng ngáy khe khẽ của lũ trẻ ôm sát vào mẹ, môi vẫn mấp máy như đang mơ có bữa cơm no. Ở giữa khu lán, Mỹ Mỹ gối đầu lên tay A Trân, đôi mắt khép lại bình yên, khuôn mặt vẫn còn phảng phất nét mệt mỏi.
Nhưng ở vòng ngoài lán, chúng tôi – những người lính – không ai ngủ nổi. Mắt ai cũng đỏ ngầu vì cả đêm căng thẳng. Cứ mỗi cơn gió mang theo tiếng lá xào xạc, bàn tay lại vô thức siết chặt lấy súng.
Bỗng từ xa vọng lại âm thanh đặc trưng –" bùm bùm bùm "- của cánh quạt trực thăng. Âm thanh ấy ban đầu như một tiếng thì thầm xa xôi, rồi dần cuộn lại thành một làn sóng rung động, mạnh đến mức mặt đất dưới chân khẽ rung.
Những người dân bị đánh thức đầu tiên là lũ trẻ, chúng ngẩng đầu lên nhìn quanh, đôi mắt chớp chớp còn ngái ngủ. Rồi cả lán trại dần chuyển mình. Vài cụ già chậm chạp ngồi dậy, nghe tiếng trực thăng mà vừa ngạc nhiên, vừa bỡ ngỡ.
Tôi nhìn về khoảng trời phía đông, những chấm đen dần hiện ra trong ánh sáng rạng đông, lớn dần thành hình bóng những chiếc trực thăng. Trong lòng tôi không hẳn nhẹ nhõm.
Những cánh quạt xoáy tung màn sương, từng luồng gió mạnh quất vào mặt, cuốn bay bụi đất và lá khô. Khi chiếc trực thăng đầu tiên hạ thấp độ cao, cả làng như nín thở.
Một bà lão chống gậy run rùn, nhìn con" chim sắt "khổng lồ đáp nagy giữa khoảng đất trống.
" Trời ơi, nó biết bay như chim thật "- bà lẩm bẩm.
Lũ trẻ thì chẳng hề sợ hãi. Chúng reo hò, chạy lại gần, đôi mắt sáng rực như vùa thấy món đồ chơi kỳ diệu. Có đứa còn chìa tay chạm vào vỏ máy bay, cảm giác vừa lạ lẫm vừa thích thú.
" Chú ơi! Nó làm bằng đá hả? Sao nó bay được? "– một bé trai hỏi tôi, giọng đầy tò mò.
Người lớn cũng kéo lại gần, rụt rè đưa tay chạm vào vỏ thép nhẵn bóng. Họ nói với nhau bằng giọng vừa khâm phục, vừa hoang mang, như đang đứng trước phép màu của thần linh.
Nhưng trong khi dân làng vui như hội, chúng tôi chẳng ai cười nổi. Từng người lính đứng cách đó vài bước, mắt dõi về các dãy núi mờ sương bao quanh. Tôi cảm nhận rõ tim mình đập dồn dập – vì biết rằng mỗi giây phút trôi qua mà không tìm thấy dấu vết của Thạch Tà, là một bước chúng tôi đến gần hơn đến thất bại.
Sau khi hai đội đặc nhiệm hội ngộ với chúng tôi trên mặt đất, hiểu rõ tình hình, tôi lập tức giao nhiệm vụ cho phi công lái hai chiếc trực thăng chở theo đội trinh sát vào sâu trong rừng, chia làm nhiều điểm nhỏ, dùng drone trinh sát tìm kiếm quân đội của Thạch Tà. Mọi người đều biết tình thế khẩn cấp của chúng tôi, lập tức lên đường ngay, không để chậm trễ một giây nào cả.
Ở khu lán trại dựng tạm trên nhà A Trân, mọi người lại nấu bữa ăn cuối cùng, bằng số lương thực ít ỏi còn lại của chúng tôi. Mọi người chia nhau từng bát cháo loãng, chờ tin tức của đội trực thăng để quyết định xem Hùng Tượng sẽ là chính quyền của nhân dân – do dân làm chủ - hay chính quyền của bạo chúa – do Thạch tà cai trị.
Ở sâu trong rừng – nơi có bãi đất trống trực thăng đang đậu. Trong lúc màn hình điều khiển drone vẫn lặng như tờ, chỉ toàn màu xanh lạnh lẽo của rừng núi, một đặc nhiệm ngồi xuống bên gốc cây, khẽ thở dài:
" Nếu.. Lúc trước chúng ta không phát hết lương thực cho dân, thì ít ra bây giờ còn đủ lương thực cầm cự thêm một tháng.. Có thời gian mà tìm Thạch Tà ".
Câu nói vừa dứt, không khí trùng xuống. Mấy người quay lại nhìn anh, nhưng rồi một giọng khác vang lên, mạnh mẽ như lưỡi kiếm xe toạc sự yên lặng:
" Không, nếu phải làm lại.. Tôi vẫn sẽ phát. Tôi không thể nhìn những đứa trẻ chết đói được, lương tâm không cho phép tôi làm điều đó "
Ở phía cạnh trực thăng, một người lính trẻ đứng dậy, mắt nhìn thẳng vào mọi người. Cậu ấy không nói ngay, chỉ lặng lẽ dùng tay chỉ vào ngực áo quân phục của mình.
Ở đó, dòng chữ thiêng liêng được thêu nổi bật:" Máu quân đội phải đổ trước máu dân ".
Rồi cậu chậm rãi, từng lời nói như đóng đinh vào tim từng người:
" Chúng ta sinh ra trong màu áo này, là để đứng chắn trước nhân dân, chứ không phải để đứng sau họ. Dù có quay lại thời điểm ấy mười lần, tôi vẫn sẽ phát lương thực cứu dân trước, sau đó mới nghĩ đến chuyện sống chết của mình ".
Rồi nhiều người khác đồng thanh, không cần suy nghĩ:
" Đúng vậy! "
" Thà chúng ta chết đói, còn hơn để dân chịu cảnh ấy thêm một ngày nữa! "
Tôi đứng đó, nghe hết, lòng như siết lại. Cả đội đều biết quyết định đó của tôi đang đẩy chúng tôi vào tình thế ngàn cân treo sợi tóc, nhưng cũng chính nó khiến chúng tôi khác với Thạch Tà – hắn lấy cái đói để cai trị, còn chúng tôi dùng cái no để bảo vệ và giải phóng.
Sau gần cả ngày quần thảo khắp những dãy núi, drone lượn vòng hàng trăm lượt mà vẫn không bắt được một tín hiệu khả nghi nào. Màn hình điều khiển chỉ toàn hiện lên những mảng xanh nối tiếp nhau – rừng – rừng – và rừng, như trêu ngươi chúng tôi.
Mặt trời đã bắt đầu ngả về phía tây, ánh sáng yếu ớt xuyên qua những tán cây, nhuộm cánh quạt drone thành màu đồng xám. Từng chiếc lần lượt đáp xuống, tiếng động cơ tắt dần, để lại khoảng trống lặng lẽ và nặng nề.
Không ai nói gì nhiều. Cả đội thu dọn thiết bị, vai trĩu xuống vì mệt mỏi và thất vọng. Chúng tôi trở về nhà A Trân, bước chân nặng như đá. Chúng tôi đã cả ngày không ăn gì.
Trong sân, mấy đứa trẻ đang nô đùa quanh con chim sắt – chiếc trực thăng sáng loáng – nhưng tiếng cười ấy lại khiến sự im lặng của chúng tôi thêm rõ rệt. Mỗi người tự chìm trong suy nghĩ, biết rằng thời gian và hy vọng đang cùng nhau trôi đi, không đợi ai cả.
Giữa lúc cả đội đang ngồi lặng lẽ, ánh mắt vô hồn nhìn xuống đất, tiếng trò chuyện khe khẽ của mấy người dân bỗng lọt vào tai chúng tôi:
Một người đàn ông trung niên – khoảng trên dưới năm mươi tuổi, dáng gầy nhưng rắn rỏi, kể với giọng hồi tưởng:
" Hồi nhỏ, tôi theo cha đi săn, có lần bị lạc vào sâu trong rừng. Trời thì mưa to, thú rừng chạy tán loạn, lần theo hướng chạy của mấy con thú, chúng dẫn chúng tôi vòng ra sau núi. Lúc ấy cha tôi mới phát hiện ở đó có hang động khổng lồ, cửa hang rộng đến nỗi cả đàn trâu cũng lọt. Vào sâu bên trong, chỗ nào cũng khô ráo, bằng phẳng, rộng, nhờ thế cha con tôi mới không bị mưa lạnh và đói chết. Tôi thề, nếu là người ở, thì đủ chỗ cho cả vạn người trú ẩn. Khi thiên tai ập tới, thú rừng thường trốn vào đó cả ngày trời ".
Tiếng nói ấy như một tia chớp xé tan màn đêm u ám đang bao phủ tâm trí chúng tôi. Mọi ánh mắt đều hướng về ông ta, đồng tử chúng tôi giãn ra, hệt như kẻ sắp chết đuối vớ được chiếc bè gỗ trên biển.
Một người lính siết chặt tay tôi khẽ thốt:" Chỉ huy, đây có thể là nơi Thạch Tà đang ẩn náu "
" Thảo nào.. Drone không tìm thấy bất cứ dấu vết nào, thì ra chúng ở trong hang, dưới mái đá khổng lồ, tránh mọi sự quan sát từ trên không ".
Trong đầu tôi hiện lên hình ảnh Thạch Tà – Tên ác nhân ấy hẳn đã nếm mùi sức mạnh của trực thăng khi chúng tôi bắt vua Hùng Tượng. Nên tìm cách chui vào hang sâu, mục đích là để trực thăng của chúng tôi trở nên vô tác dụng.
Hắn hiểu rõ chúng tôi hơn cả, đi đến đâu là giúp dân đến đó, hẳn là hắn cũng từng nghe câu khẩu hiệu" Máu quân đội phải đổ trước máu dân "của chúng tôi, nên tìm cách lợi dụng. Bằng nước cờ độc, hắn vơ vét toàn bộ lương thực của cả vùng, ép chúng tôi phải lựa chọn giữa việc cứu dân hay bảo toàn lực lượng. Một công đôi việc – hắn vừa có nhiều lương thực dự trữ, hắn chỉ việc ung dung nghỉ ngơi trong cái hang khổng lồ đó, đợi chúng tôi chết đói hoặc nội bộ lục đục thì mới ra mặt.
Thực sự là âm mưu của hắn xém chút nữa thành công. Đã một ngày hôm nay chúng tôi chưa ăn gì, ngày mai đi chiến đấu thì cũng là ngày thứ hai chúng tôi ôm cái bụng đói đi đối đầu với những tên giặc no nê phè phỡn rồi.
Tôi nhìn sang phía đối diện – nơi người đàn ông trung niên ấy đang nói chuyện, thì đã thấy Voi Còi, Diệp Lam và mấy cậu lính vây quanh ông ta.
" Chú có thể dẫn bọn cháu đi tìm cái hang đó chứ "– Một cậu lính trẻ nhanh nhẹn nói.
" Có chứ, tôi có bận gì đâu, hơn nữa, các cậu còn cứu tôi thoát chết nữa – đền cái mạng này cũng được! "– Người trung niên đáp.
Voi còi lỡ miệng:" Nhưng đi cũng nguy hiểm lắm đấy, vì bọn cháu đi bắt Thạch Tà – Hắn còn hai nghìn quân đi theo hắn! "
Nghe đến tên Thạch Tà, người đàn ông trợn trừng ánh mắt phẫn nộ, hai tay nắm chặt lại, nghiến răng ken két:
" Nếu là hắn thì lại càng phải đi. Bà nhà tôi, vì bị chúng cướp hết lương thực nên mới chết đói, ngay cả tôi cũng suýt chết, may nhờ các cậu cứu! "
" Nếu phải chiến đấu – xin cho tôi liều một phen "– người đàn ông trung niên đó tiếp tục.
" Ở làng này, có nhà nào không có người chết đói vì Thạch Tà đâu? "– một giọng nói cất lên từ phía mấy người dân đang trò chuyện bên bếp lửa trên sân nhà A Trân.
Tôi mang tấm bản đồ địa hình vùng này đến cho người đàn ông trung niên xem - Thứ mà chuyên gia bản đồ và đội kỹ thuật dùng drone mới vẽ xong sáng nay.
" Nhờ chú chỉ cho cháu xem, cái hang ở chỗ nào ạ? Và hang có mấy cửa hả chú? "
Người đàn ông chấm mực vào hai chỗ trên bản đồ, một cái là cửa hướng đông, cái còn lại là cửa hướng tây.
Sau một hồi trò chuyện hỏi han, tôi mới biết chú ấy tên là Kha Vĩnh Lập, vợ là Mai Hoa, vì trận đói do Thạch Tà gây ra vừa rồi, nên không qua khỏi.
Chúng tôi mời chú Kha Vĩnh Lập ấy ra một góc, trải tấm bản đồ trên bàn tre. Chú ấy chống tay suy nghĩ một lát rồi bắt đầu miêu tả.
" Cái hang đó rộng lắm, có thể nhét cả một cái chợ phiên vào đó vẫn còn chỗ trống. Nó có hai cửa, một cửa ở phía đông và một cửa ở phía tây. Gió trong hang lúc nào cũng hun hút thổi từ đông sang tây, lạnh buốt như kim châm trong hang tuy rộng, nhưng có rất nhiều khe nhỏ cho vài người ẩn nấp, nếu chúng ta cứ từ hướng chính đi vào, rất dễ bị phục kích ".
" Hơn nữa, bọn chúng đã ở đó trước chúng ta nhiều ngày rồi, thế nào cũng có nhiều cạm bẫy được giăng sẵn "– Một thành viên của đội đặc nhiệm lên tiếng.
" Chúng ta hiện tại chỉ có chưa đến 50 người, mà quân chủ lực thì trưa mai mới tới. Chờ bọn họ thì ta đã đói mềm người "
" Dùng Khói "– cả tôi và chú Kha Vĩnh Lập cùng đồng thanh!
" Nhưng tôi muốn khói gì độc hại hơn khói thường "– tôi tiếp lời.
Ngay lập tức – cả tiếng nói của ba hay bốn người cùng vang lên:
" Ôi trời, tưởng khói gì để chúng em đi nhặt quả trắc thối về cho các anh – đảm bảo "thơm hơn tưởng tượng" "
Tôi nhìn quay lại thì ra là A Trân và vài cậu nhóc đang cười tủm tỉm. Voi Còi thì không hiểu gì," Thơm gì? Sao lại thơm? Chả lẽ lại muốn đối xử tốt với bọn Thạch Tà? "
Một cậu nhóc chừng hơn mười tuổi đứng cạnh A Trân nhanh nhẹn giải thích:
" Chúng em nói ngược đấy anh! Từ khi bị cướp hết lương thực, em với mấy đứa bạn hay mang quả trắc thối đi đốt để hun chuột mà anh. Mùi của nó kinh khủng lắm, đến loài chuột quanh năm chui rúc ở những chỗ hôi hám mà còn không chịu được, huống chi con người? "
Để A Trân và các em nhỏ ban đêm đi nhặt quả trắc thối ở một ngôi làng gần ngay bìa rừng thì tôi không yên tâm. Tôi cử mỗi một đặc nhiệm xách súng đi theo trông chừng một em, cũng vừa là để mang những bao tải đầy trở về.
Những người còn lại tiếp tục bàn luận chiến dịch, chúng tôi thống nhất chia quân làm hai, mỗi cửa hang bao gồm 25 lính đặc nhiệm, một trực thăng, đốt khói ở cửa hướng đông, nếu quân địch tràn ra liều mạng thì dùng hai súng máy sáu nòng trên trực thăng, kết hợp súng phóng lựu xử lý. Nếu chúng đầu hàng, thì trói từng tên một, áp tải về kinh thành giao cho nhân dân toàn quyền định đoạt.
Đang lúc bàn bạc sôi nổi thì vài người trong nhóm đi hái quả trắc thối đã trở về. Voi còi không nén nổi trí tò mò, lén nhặt vài quả thả vào bếp lửa vẫn đang cháy ở phía cuối góc sân. Chỉ vài giây sau, vỏ quả nứt tách, khói vàng sền sệt tràn ra, mang theo một mùi kinh hoàng như trộn giữa cá ươn, trứng thối và thịt hỏng. Voi Còi mặt tái mét, miệng há ra như định nói gì nhưng lại cúi gập người nôn liền hai lần. Mấy đặc nhiệm thì cười khổ, tay quạt lia lịa như đang đuổi cả đàn ong dữ.
Diệp Lam vừa bịt mũi vừa nhăn nhó:" Khói thường có thể chịu được một lúc, nhưng mùi này.. Ai mà chịu nổi "
Cái thứ mùi kinh khủng ấy khiến ai cũng nhăn nhó, nhưng tất cả đều hiểu: Nếu chúng ta chịu không nổi thì quân Thạch Tà trong hang cũng chẳng thể trụ lâu.
Công việc chuẩn bị đã hoàn tất, không muốn mất thời gian của mọi người, tôi đứng dậy giữa ánh lửa bập bùng, soi rõ từng gương mặt vây quanh.
" Được rồi "– tôi nói dõng dạc," Cuộc họp đến đây kết thúc. Còn hai tiếng nữa mọi người tranh thủ nghỉ ngơi. Sáng mai, vừa tang tảng sáng chúng ta xuất phát. Nhớ - ai cũng phải mang khăn vải thấm nước để bịt mũi! "
Ánh mắt tôi lia qua từng người, dừng lại chú Kha Vĩnh Lập. Chú khẽ gật đầu, nét mặt đanh lại. Ngoài kia, tiếng dân làng vẫn lạch cạch nhặt thêm quả thối, còn đội đặc nhiệm thì kiểm tra lại vũ khí, đạn dược, từng ổ xoay súng sáu nòng khẽ" lách tách "lên đạn, sẵn sàng cho giờ G.
Không khí im lặng mà căng như dây cung, chỉ còn tiếng gió đêm thổi hun hút từ hướng đông – như nhắc nhở chúng tôi về cái hang tối om, nơi quân Thạch Tà vẫn đang ẩn mình.
Sáng hôm sau, sương sớm còn đọng trắng cả triền núi. Đội đặc nhiệm và dân làng tập trung đầy sân đất, bao tải quả thối xếp thành đống như những trái đạn sinh học kỳ quái. Chúng tôi chuẩn bị bước lên trực thăng để làm nhiệm vụ, thì tiếng hô vang rền phía sau:
" Bắt Thạch Tà. Bắt Thạch Tà.. "
Cả trăm người hô theo, âm thanh dội vào vách núi khiến cả rừng rung lên như có trống trận.
Giữa đám đông, một giọng bé con xé tan tất cả:
-" Cha! Cha đừng đi! "
Tôi quay lại, Mỹ Mỹ chen qua đám người, đôi mắt ướt nhòe, bàn tay nhỏ xíu cố ôm chặt chân tôi bằng hết sức lực của một bé gái 5 tuổi.
" Cha ơi.. Con hứa sẽ ngoan! Từ giờ con không đòi ăn nữa.. Cha đừng đi nữa.. "
Vì cha ruột của Mỹ Mỹ bị bắt lính từ khi nó còn trong bụng mẹ, chưa một lần trở về, mẹ thì bị hổ vồ, tha đi trước mặt nó. Nên trong tâm trí non nớt của con bé, tôi chính là cha ruột của nó – Người thân cuối cùng của nó. Với nó, nếu tôi rời đi nghĩa là sẽ giống như lần trước – một lần đi là mãi mãi.
Nó chuyển sang níu tay tôi, mắt đỏ hoe, những giọt nước mắt nóng hổi lăn dài trên má:
" Cha đừng đi.. Cha ở nhà với con.. "
Tôi cảm nhận rõ sự run rẩy trong bàn tay nhỏ bé ấy, như sợ nếu buông ra thì tôi sẽ biến mất ngay lập tức. Trái tim tôi chùng xuống, từng bước chân lên máy bay bỗng như nặng gấp trăm lần. Tôi cúi xuống, lau nước mắt cho con bé. Sau một hồi suy tư, tôi khẽ mỉm cười nói với con bé:
" Mỹ Mỹ là đứa trẻ ngoan nhất trên đời.. Ba ở nhà với con! "
Tôi quay lại, nhìn dân làng và anh em đặc nhiệm đang chờ lệnh. Giọng tôi nghẹn nhưng vẫn dồn hết sức để nghe rõ ràng:
Các đồng chí! Mọi người thấy hết cả rồi đấy.. Tôi nhờ các đồng chí hãy bắt sống Thạch Tà, để cho thiên hạ này không còn một Mỹ Mỹ thứ hai!
Những đôi mắt trước mặt tôi sáng lên, không còn đơn thuần là lửa chiến đấu, mà là một lời thề. Tiếng súng lên nòng lách cách, tiếng giày đạp xuống đất chắc nịch, không ai nói gì, nhưng tôi biết họ đã nhận nhiệm vụ này như một món nợ danh dự.
Voi còi thì vẫn cái thái độ quen thuộc, vừa bước lên trực thăng vừa ngoái lại, nhếch mép cười:
Đi bắt chuột thôi mà, có gì vất vả đâu!.. Cứ ở nhà với con bé đi. Tớ sẽ mang về cho cậu một con chuột béo mẫm.
Chương 11 – bắt thạch tà
Cùng với sự dẫn đường và hỗ trợ của chú Kha Vĩnh Lập, hai chiếc trực thăng của đội đặc nhiệm nhanh chóng vượt qua những rạng núi hiểm trở, tiếp cận vị trí hai cửa hang.
Trên cao, qua lớp sương mỏng, bóng tối của hang động hiện ra như miệng quái thú há rộng. Một hướng đông, một hướng tây, đội đặc nhiệm chia làm hai nhóm, mỗi nhóm hai mươi bốn người, sẵn sàng áp sát theo kế hoạch
Không một lời thừa thãi, tất cả vào đúng vị trí như đã bàn bạc.
Hai chiếc trực thăng gầm vang, nòng súng máy xoay tít, xé toạc không khí. Loạt đạn như mưa thép trút vào cửa hang, từng tia lửa bắn ra chan chát. Ngay sau đó, súng phóng lựu nối tiếp khai hỏa, những tiếng" đùng đoàng "vọng dội trong vách đá, từng mảng khói và đất đá bị hất tung, cuộn theo gió thổi hun hút từ đông sang tây.
Ban đầu, quân Thạch Tà còn dàn hàng với khiên chắn cố thủ, cung tên bắn ra ngoài cũng như mưa. Nhưng trước hỏa lực dữ dội từ cửa hang, chúng dần bị đẩy lùi, những tên bị thương thì nhanh chóng xin hàng.. Chúng dần bị đẩy lùi, từng bước, từng bước, chúng buộc phải rút sâu vào phía bên trong, bỏ lại cửa hang trống trải, để lại dấu chân và những tên giặc đã mất khả năng chiến đấu.
Sau khi hỏa lực từ trực thăng buộc quân Thạch Tà phải co cụm vào sâu bên trong hang, bầu trời quanh vách núi vẫn còn vương khói súng và tiếng động cơ rền rĩ.
Từ mỗi chiếc trực thăng, thang dây được thả xuống. Từng tốp đặc nhiệm trượt dọc theo thang dây, động tác nhanh gọn như những con báo đen leo xuống từ vách đá. Dây chưa kịp hết rung, những đôi chân đã chạm đất, súng gác ngang sẵn sàng, mắt đảo liên tục theo từng khe đá và bóng tối trong hang.
Chỉ trong thời gian rất ngắn, mười tám đặc nhiệm đã xuống mặt đất, chia thành hai mũi áp sát cửa hang. Trên cao, trực thăng vẫn lơ lửng như diều hâu canh mồi. Giờ đây, mỗi chiếc chỉ còn lại sáu người, một phi công, một phụ lái và bốn xạ thủ bám chặt hai khẩu súng máy sáu nòng, sẵn sàng khai hỏa nếu địch dám tràn ra lần nữa. Khói thuốc súng vẫn còn lẫn trong gió, và từ sâu trong hang, tiếng bước chân và tiếng la hét của quân Thạch Tà bắt đầu vọng ra, báo hiệu trận đánh sắp bước vào giai đoạn quan trọng nhất.
Ngay khi đặc nhiệm vừa chiếm được vị trí an toàn trước cửa hang, ba người nhanh nhẹn nhất lập tức vác trên vai những bao tải hạt trắc thối, riêng Voi Còi cậy khỏe, cậu hai tay xách liền hai bao, hùng hổ lao về phía miệng hang.
Khói thuốc súng còn chưa tan hẳn, tiếng đạn liên thanh từ trực thăng và súng bộ binh vẫn rền vang, che chở cho họ từng bước áp sát. Dưới sự yểm trợ dồn dập ấy, bốn người gần như lao qua mưa đá vụn và bụi khói, đặt từng bao tải sát mép hang.
Voi còi nằng nặc đòi đảm nhiệm phần" Vinh dự "nhất – tự tay châm lửa cho bao hạt trắc thối
Mọi người đã vào đúng vị trí, súng máy vẫn nổ từng tràng áp chế, giữ cho quân Thạch Tà không ló mặt ra được, ngọn gió đông thổi thẳng vào cửa hang, đây chính là thời điểm châm lửa.
Dưới đất, đống hạt trắc thối đã được tẩm dầu xếp thành mấy ụ, chỉ chờ châm lửa. Voi còi tay cầm bó đuốc, đứng thẳng người, mắt lim dim như thể đang ở một buổi diễn thuyết long trọng:
Các đồng chí! – Anh ta hắng giọng, giơ cao bó đuốc. – Ngọn lửa này.. Không chỉ là lửa của hạt trắc thối. Nó là ngọn lửa sẽ chấm dứt xã hội phong kiến, đập tan mọi bất công, xóa bỏ mọi áp bức của bọn Thạch Tà!
" Ngọn lửa này cũng là ngọn lửa của nhân dân, của công lý.. Và của bữa cơm tối nay ".
Một đồng đội kéo tay:
" Nhanh lên cha nội, bọn chúng bắn ra bây giờ "
Như cũng cảm nhận được nguy hiểm, Voi Còi cúi xuống châm." phụt "– ngọn lửa bùng lên dữ dội, ánh sáng hắt lên gương mặt anh ta như thể vừa hóa thành một anh hùng sử thi. Mùi khói kinh khủng lập tức bị gió đông cuốn thẳng vào trong hang.
Rồi, tặng cho tụi nó món quà đặc biệt! – Voi còi cười hềnh hệch, lùi lại, phủi tay.
Làn khói, bị gió đông đẩy đi không ngừng, len lỏi qua từng khúc ngoặt, luồn qua các dãy hàng lang tối tăm, như một con mãng xà mù lòa trườn sâu vào huyệt đạo quân Thạch Tà.
Mùi hôi thối nồng nặc tới mức ngay cả lính đặc nhiệm đứng cách cửa hơn chục mét vẫn phải bịt khăn ướt kín mặt, nhăn nhó như vừa nuốt cả gáo nước ao tù.
Ở đầu bên kia, cửa tây, đội phục kích đã sẵn sàng.
Ban đầu, đám quân Thạch Tà vẫn gồng mình chịu đựng, lấy vải rách bịt mũi, rúc sâu vào những khe đá trong hang. Tiếng gió rít bên ngoài hòa cùng tiếng nổ lách tách cửa đống hạt trắc thối cháy ngùn ngụt, biến cả cửa đông thành một cái lò hun khổng lồ.
Khói đặc quánh, nóng hầm hập, từng đợt mùi hôi như xác thú chết lâu ngày quấn chặt lấy cổ họng, khiến kẻ nào hít phải đều buồn nôn, mắt cay xè, thở hổn hển. Nhưng chúng vẫn ngoan cố lấy áo, giẻ rách, nhúng nước, bịt mũi, rúc sâu vào các vách đá, quyết giữ vững phòng tuyến.
Bên ngoài, lửa ở cửa đông vẫn cháy rừng rực. Voi Còi – với thân hình chẳng nhanh nhẹn gì, nhưng lại nhất quyết đòi" giữ quyền châm lửa "giờ đang đứng nấp sau vách đá nhìn đám hạt trắc thối kêu lép bép, cười hềnh hệch. Khói đặc màu xám đen cuồn cuộn dồn vào cửa hang theo chiều gió. Mùi hăng hắc pha lẫn mùi thối khó tả lan đi khắp xung quanh.
Một tên liều lĩnh định xông ra cửa đông chặn lại, nhưng vừa ló mặt đã bị luồng khói nóng táp vào, lùi ngay vào trong, vừa khụt khịt vừa chửi rủa.
Mời phút.. Rồi hai mươi phút.. Tiếng ho và tiếng rên ngày một rõ. Mùi hôi nồng nặc không chỉ làm mắt cay mà còn khiến dạ dày chúng quặn thắt, buồn nôn không chịu nổi.
Đúng nửa giờ sau, ở cửa tây – nơi thoát gió, lác đác xuất hiện vài bóng người. Chúng bước loạng choạng, tay buông xuôi, mặt mày tái mét, mắt đỏ hoe, vừa ho khù khụ vừa cố hét lên:
Chúng tôi xin hàng. Xin tha mạng!
Tiếng" Xin hàng "phát ra liên tiếp, nhưng không phải tất cả đều ra cùng lúc. Đầu tiên, chỉ vài tên loạng choạng bước ra từ cửa tây, tay giơ cao. Đặc nhiệm lập tức áp sát, đá văng vũ khí, trói chặt tay ra sau lưng. Khói vẫn cuồn cuộn từ cửa đông tràn vào, thúc những kẻ trong hang phải bỏ chạy.
Từng tốp mười, hai mươi tên một, mặt mày tái mét, quần áo nhàu nát, lần lượt lết ra khỏi bóng tối. Chỉ huy đặc nhiệm hô lớn:
Giữ khoảng cách, đừng để chúng dồn ập ra cùng lúc!
Công việc khống chế không hề nhanh. Mỗi tên ra khỏi hang đều bị tước vũ khí, khám người, trói gọn, dẫn về khu tập kết cách cửa hang hơn trăm mét để tránh hỗn loạn. Trong khi nhóm này đang xử lý, nhóm khác lại tiếp tục nhận tù binh mới.
Voi Còi, sau khi hoàn thành" nhiệm vụ đốt hạt trắc thối "cũng tham gia phụ trói, nhưng với đôi tay to bè và cách buộc chẳng theo chuẩn nào. Sau hai lần khiến đồng đội phải buộc lại, anh ta bị điều ra trông chừng những tù binh đã bị trói xong xuôi, đã tụ họp cả nghìn người ngoài bãi đất trống.
Mặt trời đã ngả sang chiều, khi những top tù binh cuối cùng ra khỏi hang. Gần hai nghìn tên giặc giờ mới ngỡ ngàng khi thấy đội đặc nhiệm chỉ có chưa đến năm mươi người mà bắt trói được hết thảy bọn chúng. Nhiều tên địch không cam tâm, hối hận thì giờ đã muộn.
Tiếng cánh quạt trực thăng xa dần, chỉ còn khoảng sân trước nhà đầy bụi bay, lẫn với tiếng người dân đang dần dần tản đi. Mỹ Mỹ vẫn bám chặt lấy tôi, đôi mắt đỏ hoe nhưng đã bớt sợ hơn khi nghe tiếng tôi nói sẽ ở lại. Tôi ngồi xuống bậc thềm, đặt Mỹ Mỹ vào lòng, khẽ vuốt tóc con bé:
Ba ở đây với con. Ngoài kia đã có các chú lo rồi.
A Trân rót cho tôi một chén nước, giọng nhỏ nhẹ:
" Anh ở lại cũng tốt.. Nhưng chắc anh đang lo cho mọi người ngoài đó lắm đúng không? "
Tôi nhìn ra xa, về phía dãy núi nơi bọn Thạch Tà đang ẩn náu. Trong lòng tôi như có hai ngọn lửa: Một ngọn muốn lao ra trận cùng anh em, một ngọn giữ tôi ở đây, bên đứa trẻ này. Nhưng khi bàn tay bé xíu của Mỹ Mỹ siết lấy áo tôi, tôi biết mình đã chọn đúng.
Dân làng đã một ngày không có đồ ăn, riêng những người lính như chúng tôi thì đã bước sang ngày thứ hai với cái bụng đói. Tôi quay sang hỏi A Trân:
" Nơi đây còn thú rừng không? Nai, Lợn Rừng, hay bất cứ thứ gì "
A Trân khẽ lắc đầu, giọng pha chút bất lực:
" Thú rừng thì chẳng còn đâu anh ạ. Chỉ có đàn voi hơn chục con, thỉnh thoảng lại xuống phá ruộng. Nhưng dân làng chúng em không dám mơ săn được nó. Vũ khí thì bị chính quyền cấm ngặt, ngay cả nông cụ bằng đồ sắt cũng phải đăng ký. Gặp Voi thì chạy thoát được đã là phúc lớn, nói gì đến chuyện bắt được nó..
Nghe A Trân nói đến đàn voi, mắt tôi sáng lên, môi khẽ nở nụ cười tự tin. Trong xe còn khẩu Barett M82 – thứ vũ khí mà trên chiến trường từng hạ gục cả những mục tiêu ở cách hơn một cây số. Tôi lại là lính bắn tỉa thì lo gì không săn được voi.
Tôi ra xe kiểm tra súng và chậm rãi mở túi đạn, kiểm tra từng viên 50BMG, những đầu đạn nặng trĩu ánh lên màu đồng dưới nắng sớm mai. Tiếng kim loại chạm nhau khe khẽ, như tiếng hẹn trước của một cuộc đi săn đã định sẵn kết cục.
A Trân nhờ bà đánh lạc hướng Mỹ Mỹ đi chỗ khác vì sợ Mỹ Mỹ không cho tôi đi săn, như con bé đã không cho tôi đi chiến đấu. Bà của A Trân khẽ gật đầu, gọi Mỹ Mỹ ra ngoài chơi trò xúc cát, cách nhà không xa, Tôi và A trân trao nhau một cái nhìn, không cần nói cũng hiểu ý, chúng tôi lẻn ra sau nhà với tiếng chân khẽ nhất có thể.
Khi trời sang khoảng bảy giờ sáng, ánh nắng đầu ngày còn dịu, A Trân khoác túi vải lên vai, tay chỉ về hướng cánh đồng phía tây nam làng:
"Đàn voi thường từ trong rừng kia đi ra. Nếu mình đi sớm, có thể chặn được chúng trước khi tới ruộng.
Chúng tôi rời làng bằng lối mòn nhỏ. Tiếng gió thổi nhẹ qua tai, mang theo mùi đất ẩm và cỏ dại. Tôi vác khẩu Barrett M82 nặng gần 14 kg trên vai, từng bước theo sau A Trân. Mỗi bước chân đều làm đất kêu lạo xạo dưới lớp lá mục, nhưng chúng tôi cố bước thật nhẹ để không đánh động đàn voi. A Trân ghé sát tai tôi, thì thầm:
" Phía trước.. Khoảng hai trăm mét, chỗ ruộng sắn kia thường là nơi tụi nó đến "
Chúng tôi ngồi chờ bên bờ ruộng, trời sáng trong nhưng gió vẫn thổi lành lạnh từ cánh rừng. Cái đói làm thời gian trôi chập chạp, mỗi phút tưởng chừng kéo dài như một giờ, tôi đặt khẩu barrett M82 cạnh bên, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn về khoảng rừng nơi đàn voi thường hay xuất hiện.
A Trân ngồi sát bên, hai tay ôm gối, mắt cũng hướng về phía đó. Một lát, cô nghiêng đầu nhìn tôi, ngập ngừng hỏi:
" Anh nhận Mỹ Mỹ làm con nuôi không sợ chị nhà không đồng ý à? "
Tôi hơi ngạc nhiên, bật cười nhẹ:
" Tôi chưa có vợ mà "
Cô im lặng vài giây, khẽ quay mặt đi. Ánh sáng ban mai chiếu lên làn da cô, làm má cô ửng hồng hơn, đôi môi mím lại như muốn giấu nụ cười. Cái vui mừng kín đáo ấy vẫn lộ ra trong ánh mắt.
Gió lại lùa qua, mang theo tiếng xào xạc từ rừng, tôi im lặng để lắng nghe. Rồi từ xa, những âm thanh trầm đục vang lên – tiếng rống của voi. Mặt đất khẽ rung lên, tiếp theo là tiễng cây gãy răng rắc. A trân hơi nghiêng người về phía trước, căng mắt nhìn.
Những thân hình xám đồ sộ hiện ra, từng bước lặng nề phá vỡ sự yên lặng vốn có. Con đầu đàn ngẩng cao đầu, ngà dài và cong, rống vang lên rồi dẫn cả đàn lao thẳng vào ruộng sắn. Chúng chẳng hề để ý tới sự có mặt của con người, xé tung từng luống, đất và lá bay tứ tung. Con non lon ton chạy theo, đùa nghịch giữa đám trưởng thành như dự một bữa tiệc. Tôi đếm kỹ, tổng cộng có mười ba con, trong đó có bốn con non, chín con voi trưởng thành.
Tôi nằm rạp, kê báng súng vào vai, mắt áp sát ống ngắm.
Khoảng cách 670 mét.
Gió đông bắc, cấp 2
Ngón tay đặt lên cò. Tôi biết, chỉ một con là đủ, nhưng dân làng cần nhiều hơn một bữa no, hơn nữa đội đặc nhiệm đi làm nhiệm vụ chưa chắc đã lấy được lương thực của quân đội Thạch Tà trong ngày hôm nay. Họ cũng giống tôi, hai ngày nay chưa có gì bỏ vào bụng:
Ngón tay tôi chạm vào cò súng. Trái tim như ngừng đập trong tích tắc.
Bùm!
Âm thanh như sấm nổ vang rền, vọng cả khu rừng. Qua ống ngắm, tôi thấy con voi đầu đàn gục xuống, hai chân trước khuỵu hẳn, rồi ngã nặng nề xuống đất. Đàn voi nhốn nháo như chưa hiểu chuyện gì xảy ra – tôi đã kéo cò lần hai rồi lần ba.
Bùm! Bùm!
Hai phát tiếp theo, hai con voi nữa trúng đạn, gầm rống, loạng choạng rồi đổ ầm xuống ruộng sắn. Đám voi còn lại hoảng loạn bỏ chạy, nhưng tôi vẫn bám kính, chỉnh góc, nhả thêm ba viên nữa để chắc chắn ba con đã gục hẳn.
Tổng cộng sáu viên đạn cho ba con voi trưởng thành. Khói từ nòng barrett tỏa ra, hòa với mùi thuốc súng nồng nặc. Tôi thu súng lại, mỉm cười với A Trân:
" Thịt đủ cho cả làng.. Và cả đội quân rồi! "
A Trân dường như vẫn đứng bất động, chưa tin vào mắt mình khi thấy ba con vật khổng lồ gục ngã dễ dàng đến thế. Một lúc sau cô mới hoàn hồn, nhìn tôi với vẻ thán phục. Trong mắt cô, khẩu barrett và người lính cầm nó lúc này giống như một phần của nhau – lạnh lùng, chính xác và không khoan nhượng.
Tôi và A Trân không nán lại lâu, vừa cất súng, tôi vừa nói:
" Về báo cho cả làng đi, thịt nhiều thế này, ai cũng có phần.
Cô gật đầu, nét mặt pha giữa phấn khởi và thở phào nhẹ nhõm. Chúng tôi chạy băng qua những thửa ruộng, gió phả vào mặt, mang theo mùi ngai ngái của đất mới bị xới tung.
Chúng tôi vừa về đến đầu làng, A Trân đã hớt hải chạy trước, mái tóc dài vung lên theo từng bước, miệng gọi to:
"Có thịt rồi! Thịt voi rừng.."
Tiếng cô vang xa như một mũi tên xuyên qua làn đói khát đang bao trùm làng. Từ trong những mái nhà lụp xụp, từng người một ló đầu ra, mắt mở to không tin vào tai mình. Rồi chẳng biết ai cất tiếng trước, cả làng như ong vỡ tổ.
Mấy cụ già chống gậy cũng lật đật bước ra, trẻ con thì reo hò chạy vòng vòng, hỏi liên tục:
Thật hả? Thịt nhiều không?
Tôi gật đầu chắc nịch:
Cả đàn voi, ba con to nhất đã bị hạ rồi. Ai có dao để mổ và đồ đạc gì đựng thì mang hết ra. Ở ngoài ruộng sắn!
Không cần thêm lời, mọi người ùa vào nhà lục lọi, tiếng xoong nồi, dao rựa lách cách vang lên khắp nơi. Cả làng vốn ủ rũ vì đói, giờ bỗng sống dậy như vừa được tiếp thêm máu mới.
A Trân quay lại nhìn tôi, khóe môi khẽ cong, ánh mắt vừa tự hào vừa lấp lánh niềm vui – dường như niềm hạnh phúc ấy không chỉ vì có thịt.
Giữa lúc mọi người còn rộn ràng chuẩn bị dao, rổ và bao tải, tôi chợt nhớ đến Mỹ Mỹ. Tôi vội rảo bước về nhà A Trân, vừa mở cửa thấy Mỹ Mỹ đang ngồi bên hiên, đôi mắt to, tròn ngấn nước, tôi bước nhanh lại, xoa đầu trấn an:
"Ba đây rồi, không đi đâu cả"
Con bé nhào vào lòng tôi, ôm chặt lấy như sợ tôi tan biến. Tôi bật cười, bế bổng Mỹ Mỹ lên, nhẹ nhàng nói:
"Nào, bây giờ ba chở con đi xem một điều bất ngờ nhé!"
Chúng tôi ra bãi đỗ, nơi chiếc xe đặc chủng quân dụng đang đậu. Tôi đặt Mỹ Mỹ ngồi ở ghế bên cạnh, khóa an toàn cẩn thận. A Trân cũng vừa chạy tới, leo lên ghế sau.
Động cơ gầm lên trầm đục, bánh xe nghiền nát đất cát dưới chân. Chúng tôi lăn bánh ra ruộng sắn, nơi dân làng đang háo hức đợi. Lần này thay vì từng người phải vác thịt nặng nề, tôi sẽ dùng xe đặc chủng chở từng mẻ lớn về làng.
Khi xe đặc chủng vừa lăn bánh tới nơi xẻ thịt, cảnh tượng trước mắt đã náo nhiệt như một hội chợ làng. Mùi thịt tươi xen lẫn mùi cỏ, xộc lên nồng nồng, tiếng dao chặt cốp cốp, tiếng người gọi nhau í ới.
Một bác nông dân râu bạc, tay vẫn đang giữ chặt một tảng thịt đỏ au, cười hề hề trêu:
"Công lớn hôm nay là của Mỹ Mỹ đấy nhé, nếu con bé không giữ chú lại làng, chắc chú đã đi đánh nhau rồi, làm gì có thịt voi mà ăn"
Nghe vậy, mọi người bật cười rôm rả, một chị đứng bên còn góp thêm:
"Ừ, đúng rồi, vừa có thịt voi để ăn, vừa khỏi lo đàn voi phá ruộng nữa! Đúng là" công chúa bảo vệ mùa màng "của làng ta đây mà!"
Mỹ Mỹ đỏ mặt, dúi dúi vào người tôi như muốn trốn – còn tôi chỉ biết bật cười, xoa đầu con bé.
Một bác trung niên khác bỗng cất tiếng:
"Các chú vì dân quá nhiều rồi, tối nay cả làng mình sẽ đãi quân đội một bữa no nê"
Một cụ bà đứng cạnh gật đầu lia lịa:
"Phải đó, mấy hôm nay các chú nhịn ăn vì dân, giờ đến lượt dân làng lo cho các chú!"
Thế là tin lan đi nhanh hơn cả tiếng trống hội, chỉ chốc lát, từ các ngõ nhỏ, từng nhóm người mang nồi lớn, thùng nước, bó rau, gùi gia vị.. Kéo về nhà A Trân. Nhà cô vốn ở vị trí rộng rãi, lại gần bãi đất trống, nên trước đây chúng tôi đã dựng sẵn một rạp dã chiến để cứu trợ bà con cả y tế lẫn lương thực. Giờ rạp ấy biến thành một "nhà ăn dã chiến" sáng rực ánh lửa, khói bếp bốc lên nghi ngút, mùi thịt voi hầm lan xa hàng chục mét.
Những nồi canh thịt voi bắt đầu sôi ùng ục, mỡ vàng nổi lên óng ánh. Mấy bà chị vừa nêm nếm vừa cười rôm rả:
- Nấu cho thật đậm đà, để mấy anh lính ăn vào khỏe như voi!
Bọn trẻ thì chạy vòng vòng quanh rạp, lâu lâu len vào nhón miếng thịt, bị mấy ông già giả vờ quát, cả lũ lại cười khúc khích.
Không ai bảo ai, sau khi chuẩn bị xong nồi canh voi, thịt hầm, mọi người vẫn tụ tập ở nhà a Trân. Rạp dã chiến dựng sẵn ngoài sân, căng bạt vải xanh vững chãi, bên dưới kê hàng chục chiếc bàn tre dài mà mọi người mang đến. Mùi khói củi và hương thịt hầm thoang thoảng trong gió, hòa với mùi rơm khô và đất ẩm sau cơn mưa hôm trước, tạo nên thứ mùi ấm áp khiến ai cũng gần gũi.
Những ông già chống gậy ngồi thành từng nhóm trên phản gỗ, miệng nhấp chén nước pha thảo mộc vẫn còn nóng:
"Nhiều thịt thế này, nếu hong khô hết thì cả làng ta đủ ăn trong gần một tháng"
Người khác thì tỏ vẻ lo lắng cho đội đặc nhiệm lên đường hồi sáng:
"Họ cũng đã hai ngày không ăn gì rồi, không biết còn đủ sức đối phó với lính của Thạch Tà không? Tôi lo quá!"
Các bà mẹ thì bận rộn nhóm thêm bếp, bắc thêm nồi, nhưng cứ vừa làm vừa ngó về phía xa, ánh mắt hiện rõ vẻ lo âu.
Bọn trẻ con chúng chạy đi chạy lại quanh cột rạp, nghịch đừa, vừa lắng tai nghe câu chuyện người lớn kể.
Trời đã chuyển dần sang tối, ánh lửa đuốc tre vẫn rung rinh theo gió đồng, mọi người đang im lặng thì từ đằng xa vang lên tiếng bước chân và tiếng gọi khe khẽ. Lúc đầu, ai cũng mong là tiếng đội đặc nhiệm trở về, mặc dù biết là đội đặc nhiệm đã ra đi trực thăng thì có lẽ lúc về cũng vậy, nhưng trong trái tim họ luôn mong ngóng đội đặc nhiệm.
Một vài thanh niên làng nhanh chóng cầm đuốc tre chạy ra đón. Chỉ vài phút sau, họ dẫn vào một đoàn hơn hai chục người, quần áo tả tơi, mặt mũi hốc hác vì đói. Trong đoàn người đó, giữa đám áo quần rách rưới và gương mặt bơ phờ, một bóng dáng nhỏ gầy nhưng lưng vẫn thẳng tắp nổi bật lên, đôi mắt sắc và sáng khác hẳn với những người đi cùng. Vừa nhìn thấy bà, nhiều người dân làng lập tức nhận ra và xì xào:
"Bà Tống Vân Cơ đấy – Thầy bói nổi tiếng cả vùng cơ mà!"
"Bà ấy là bạn thân của bà nội A Trân đó, nghe đâu hai người là bạn thân từ thủa thiếu thời"
"Một người là thầy thuốc nổi tiếng – một người là thầy bói nổi tiếng chơi thân với nhau"
Nhiều người dân trong làng xì xào bàn tán.
Bà Tống Vân Cơ vốn được người trong vùng kính trọng không chỉ vì bói toán trúng, mà còn vì tính tình thẳng thắn, thương người. Từng giúp nhiều làng thoát nạn nhờ đoán trước thiên tai. Còn bà nội A Trân thì lại là một thầy thuốc giỏi, nổi tiếng vì chữa bệnh không lấy tiền cho người nghèo. Hai người từng một thời tung hoành khắp các chợ phiên, một lo đoán mệnh, một lo cứu người, trở thành đôi bạn được nhắc đến sự kính nể.
Bây giờ, thấy A Trân đứng giữa đám đông, bà Tống lập tức bước nhanh hơn, gương mặt già nua bỗng sáng rỡ như gặp lại người thân sau nhiều năm xa cách. Nhưng khi ánh mắt bà vô tình chạm đến tôi – đang bận khiêng một tảng thịt voi ra góc sân – thì bà sững lại, đôi đồng tử thoáng mở to như nhìn thấy điều gì kinh thiên động địa, rồi bỗng thốt lên một câu khiến tất cả mọi người im phăng phắc:
"Ngũ mệnh tử!"
Bà tống vừa nói dứt câu "ngũ mệnh tử" ánh mắt bà đột nhiên sáng rực, như muốn xác nhận thêm điều gì quan trọng. Không chần chừ, bà bước vòng ra phía sau lưng tôi, ngón tay run run gạt nhẹ mái tóc ở gáy.
Một tiếng "..."
Bật ra đầy kinh ngạc,
Quả nhiên.. Quả nhiên là thật! – bà thì thầm, giọng run rẩy lẫn hân hoan.
Tôi hơi giật mình, chưa kịp hỏi thì bà đã nhìn thấy rõ - ở chính giữa gáy tôi, có một nốt ruồi màu đỏ tươi, hình ngôi sao năm cánh, các đường viền đều đặn đến kỳ lạ.
Bà lùi lại một bước, rồi bất ngờ chạy thẳng ra cửa rạp. Trước ánh mắt ngơ ngác của mọi người, bà đứng giữa sân đất, quay mặt lên trời, quỳ xuống vái lạy xì xụp:
Ông trời ơi.. Chúng ta được cứu rồi! Ngũ mệnh tử đã xuất hiện!
Bà tống vái lạy thêm ba lần nữa rồi mới đứng dậy, ánh mắt long lanh như chứa cả một trời bí mật. Bà quay lại nhìn mọi người đang tụ tập kín sân, giọng nghiêm nghị:
- Mọi người nghe đây! "Ngũ mệnh tử không phải là người bình thường. Đây là đứa con của ngũ hành: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ - hội tụ đủ trong một thân xác. Người này sinh ra là để mang việc lớn, đi tới đâu thì loạn lạc tan, dân chúng yên bình, mùa màng bội thu.
Cả sân rạp im phăng phắc, chỉ còn tiếng gió lùa qua tán cây. Tôi thầm nghĩ người cổ đại dễ bị mấy trò mê tín này dụ thật, nhưng vì bà lớn tuổi, nên tôi không cắt lời, cứ để cho bà nói.
Bà ấy tiếp tục, giọng càng lúc càng chắc:" Trong sách cổ có ghi "ngũ mệnh tử xuất, thiên hạ an". Quanh người cậu ấy là một quầng sáng nhạt, nhưng không chỉ một màu, mà là năm sắc – xanh – đỏ - vàng- trắng – đen. Năm sắc này hòa vào nhau, xoáy thành một vòng như đang chuyển động chậm. Đây gọi là ngũ sắc khí, hay còn gọi là khí lành ngũ sắc hiếm đến mức ngàn năm chưa chắc gặp một lần ".
Bà thầy bói vuốt nhẹ chòm tóc bạc vì gió, chậm rãi nói tiếp:
" Người là ngũ mệnh tử sẽ mang hai đặc điểm mà mấy chục năm ta chỉ nghe kể trong sách cổ. Một là khí lành ngũ sắc vây quanh thân – mắt thường không thấy, chỉ bậc thầy xem mệnh mới nhận ra. Hai là nốt ruồi đỏ như máu phía sau gáy. Hình ngôi sao năm cánh, tượng trưng cho kim – mộc- thủy- hỏa- thổ. Ta đã già, lại nhịn đói hai ngày liền, nên lúc nãy thoáng thấy vầng ngũ sắc quanh người cậu ấy, còn tưởng mình hoa mắt, vì thế ta mới vội vàng chạy ngay ra sau lưng cậu ấy vén tóc lên xem.. Quả nhiên là có nốt ruồi đỏ ở đó. Rõ ràng như mới in ra từ lửa trời "
Rồi bà tiến lại gần tôi, ánh mắt như vừa kính trọng vừa kỳ vọng. Bà định quỳ xuống nói, nhưng tôi nhanh nhẹn hơn, đỡ bà dậy đứng nói chuyện:
" Ngũ mệnh tử, từ nay mỗi bước chân ngài đặt đến đâu, nơi đó sẽ được ấm no, hòa bình. Đó là sứ mệnh, nhưng cũng là trách nhiệm lớn. Xin ngài hãy cứu chúng tôi "– Bà lại định quỳ xuống tiếp, nhưng tôi vẫn nhanh hơn một nhịp, cúi đầu xuống thấp hơn người bà.
Dân làng xung quanh bắt đầu rì rầm, người thì gật gù, người thì mắt rưng rưng như vừa thấy tia hy vọng giữa thời loạn. Một cụ già chống gậy run run nói:
" Nếu lời bà Tống đây là thật.. Thì chúng ta đã gặp được người mà tổ tiên bao đời chờ đợi.
A Trân đứng bên cạnh tôi, bấy giờ má hơi ửng hồng nhưng ánh mắt lại sáng lên, như vừa hiểu ra rằng những gì tôi làm – từ chiến đấu với bọn Thạch Tà, giải cứu dân làng, đến săn voi giúp mọi người – đều không phải ngẫu nhiên.
Tôi thì vốn chẳng tin mấy chuyện ngũ mệnh tử gì đó. Trong lòng thầm nghĩ: Có mà ngũ ăn đạn thì hợp lý hơn vì từ bé đến giờ tôi đã không biết bao nhiêu lần suýt chết, tôi cảm thấy xung quanh bạn bè tôi chẳng có ai gặp nhiều nguy hiểm, hay nói cách khác là đen đủi như tôi cả.
Thấy bà Tống vừa mới từ làng xa tới, lại đang giữa lúc dân làng tụ tập đông vui, tôi liền cười xòa, cố xua bớt không khí trang nghiêm:
Thôi, mọi người để sau rồi hãy bàn chuyện thiên cơ gì đó, giờ vào ăn đã. Nhịn lâu quá rồi.
Nghe vậy, mấy cụ già đứng gần đó gật gù, còn bọn trẻ con thì reo lên thích thú. Tôi quay sang, đưa tay mời bà Tống, cùng cả đoàn khách làng xa vào nhà A Trân.
Vừa bước qua hiên, hương canh thịt voi nghi ngút bốc lên, ngọt béo và thơm đến nao lòng. Cả gian bếp đỏ rực ánh lửa, mấy người phụ nữ trong làng đang đứng quanh những chiếc nồi lớn, dùng thìa dài khuấy từng nồi canh sôi ùng ục.
Bà Tống thoáng ngạc nhiên vì sự tiếp đón nồng hậu, ánh mắt bà dịu lại. Bà nội A Trân – cũng bước ra từ gian trong, chống gậy, giọng sang sảng:
Khách quý từ xa, đã vào tới đây thì không ai được để bụng đói. Ngồi hết xuống đi!
Trong lúc mọi người bắt đầu ổn định chỗ ngồi, A Trân nhẹ nhàng đứng dậy, lấy một chiếc khay nhỏ đựng nước sạch trong vắt, bên cạnh là chiếc khăn sạch được gấp gọn ghẽ.
Bà để con mang nước rửa tay và rửa mặt nhé! Bà Tống!
Bà tống mỉm cười hiền hậu ánh mắt ánh lên vẻ trân trọng và biết ơn: "Cảm ơn con. Cô gái ngoan"
Tiếng nói chuyện rộn ràng, xen lẫn tiếng bát đũa chạm nhau, át cả tiếng gió rít ngoài sân. Bà Tống Vân Cơ ngồi ở vị trí gần cửa sổ, gương mặt đầy những ánh mắt sắc, như soi rõ từng sơi tơ số mệnh. Bà thong thả gắp một miếng thịt, nhai chậm, rồi đặt đũa xuống, khẽ hắng giọng, không gian trong nhà bỗng lặng hẳn, như thể ai cũng hiểu bà sắp nói một chuyện quan trọng.
Bà nhìn thẳng vào tôi, rồi nhìn khắp mọi người:
' Ta đã nói, chàng trai trẻ này là ngũ mệnh tử. Chỉ có người được sự bảo vệ của ngũ hành mới thoát khỏi những cửa tử mà người thường không bao giờ sống nổi ".
Có tiếng xì xào bàn tán, một cậu trai trẻ tò mò hỏi:
" Là những lần nào vậy bà? "
Rồi bà kể vanh vách 5 lần tôi thoát chết, y như chính bà cũng có mặt ở đó cùng tôi vậy, làm quan điểm của tôi cũng trở nên mông lung, mơ hồ:
Lần thứ nhất – hành kim
Khi cậu cùng đồng đội đi giải phóng Vạn xuân, Từ trên tường thành, một tên cung thủ ẩn nấp bất ngờ bắn hạ mũi tên nhọn hoắt, lao thẳng vào tim cậu. Ai chứng kiến lúc đó đều tin chắc cậu không thể tránh kịp.. Nhưng mặt dây chuyền bạc to bằng hai ngón tay mà cậu đeo đã cứu cậu. Đó không phải ngẫu nhiên, đó là kim hành hộ thân. Cậu nhớ chứ?
Tôi im lặng không nói được câu nào.
Lần thứ hai: Hành mộc
" Khi cậu từ con chim sắt đang bay trên cao nhảy xuống, dụng cụ cậu mang theo không hoạt động, khiến cậu bị rơi, rễ cây cổ thụ và dây leo ở rừng già đã cứu cậu! Chàng trai trẻ. Chắc cậu chưa quên? "
Tôi nhớ lại lần huấn luyện nhảy dù, chiếc dù bị kẹt, không bung ra được, rồi sau đó tôi bị rơi vào rừng cây um tùm, không chết, nhưng toàn thân đau ê ẩm, phải nằm viện mất ba ngày, tâm trí bắt đầu hoang mang vì mặc dù đây là lần gặp đầu tiên mà lời bà Tống nói lại rất chính xác.
Lần thứ ba: Hành thủy thì khỏi nói, khi trên đường đến bắc cực, trước khi bị xuyên không về đây, tôi nhảy xuống cứu thùng hạt giống, bị tảng băng rơi rúng đầu, ngất đi khoảng mười phút dưới làn nước lạnh mà vẫn sống. Không những không có cảm giác khó chịu, ngược lại còn cảm thấy bình yên và thoải mái như hồi bé nằm trong vòng tay của mẹ vậy.
Lần thứ tư: Hành hỏa
Khi ấy, ở một làng xa, một căn nhà gỗ bất ngờ bốc cháy giữa đêm khuya, Gió lớn thổi ngọn lửa như con rồng đỏ cuộn quanh mái nhà, ánh sáng chiếu cả một vùng. Tiếng khóc của một đứa trẻ vang lên từ bên trong, xé toạc màn đêm và tim người nghe.
Mọi người đứng ngoài đều hoảng loạn, lửa quá lớn, ai vào cũng sẽ bỏ mạng, vậy mà cậu.. Không chút do dự, dùng tấm áo trùm qua đầu, cúi thấp người, lao thẳng vào biển lửa. Trong căn nhà rực cháy, khói đen và sức nóng khiến mỗi hơi thở như nuốt phải than hồng. Cậu vừa tìm đứa bé, vừa dập lửa bén vào tay áo. Khi ôm nó vào lòng, lửa đã vây kín lối ra. Ngay lúc tưởng chừng tuyệt vọng, một xà gỗ cháy dở bất ngờ sụp xuống, tạo ra một khe hở. Cậu dùng chính thân mình che cho đứa bé, lao qua khoảng trống đó, thoát ra ngoài trong tiếng reo òa lẫn tiếng khóc của cha mẹ đứa bé.
Hỏa thần.. Đã không thiêu rụi cậu, mà mở đường cho cậu mang sự sống ra khỏi cõi chết.
Bà vẫn tiếp tục, mọi người mải nghe chuyện của bà, cũng đang im lặng chờ đợi..
Lần thứ năm: Hành thổ
Mùa mưa năm ngoái, cậu tình cờ đi ngang qua một bản làng vùng cao, bỗng vang lên một tiếng nổ rền như sấm – cả một mảng đồi lớn sạt xuống, chôn vùi mấy nóc nhà.
Thấy thế, cậu liền quay ngược lại, mặc cho đường bùn lầy trơn trượt. Tới nơi, cảnh tượng trước mắt thật đau xót: Đất đá phủ kín, tiếng kêu yếu ớt vọng ra từ dưới lớp bùn dày. Người ta bảo không thể đào vào, vì đất còn tiếp tục trượt, ai xuống cứu cũng sẽ bị chôn vùi tiếp theo ngay. Nhưng cậu, bỏ mặc ngoài tai những lời can ngăn, quỳ xuống, dùng cả hai tay không mà đào bới đến mức bật máu, bùn trộn với nước mưa tràn vào mắt, nhưng cậu vẫn không dừng.
Đúng lúc một tảng đá lớn từ trên cao lao xuống, mọi người la hét tránh ra. Nhưng cậu đưa tay ôm lấy người bị vùi nửa thân, kéo mạnh một cái. Trong tích tắc, tảng đá đó đang từ trên lăn xuống, thay vì nghiền nát cả hai, nó lại bị một khối đất ướt sũng bên cạnh sụp xuống chặn lại – tựa như thổ thần đã dang tay bảo vệ.
Bà Tống dừng lại, nhìn thẳng vào tôi, ánh mắt vừa nghiêm vừa ấm:
" Ngũ hành đã đủ cả - Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Năm lần lưỡi hái tử thần kề sát cổ nhưng đều bị đẩy lùi. Đây không phải trùng hợp – Đây là mệnh trời! "
A Trân ngồi ở góc bàn, đôi mắt mở to, ánh nhìn không rời khỏi tôi. Cô khẽ mím môi, cố kìm lại những giọt nước mắt không muốn rơi giữa đám đông. Nhưng trong đôi mắt đó, tôi thấy rõ một thứ khác: Sự kính trọng, không phải kính trọng vì tôi là chỉ huy, hay vì chiến công, mà là vì tôi đã nhiều lần liều mạng vì người khác, kể cả người xa lạ.
Khi mọi người vừa dùng bữa xong, chưa kịp thu dọn bát đũa, thì từ xa, tiếng cánh quạt trực thăng vọng lại, đèn pha chớp sáng. Ban đầu chỉ như tiếng gió mạnh lùa qua núi, rồi nhanh chóng rền vang át cả tiếng trò chuyện trong nhà A Trân và dưới lều bạt dựng tạm.
Bụi đất cuốn mù mịt khi chiếc trực thăng màu xanh quân dụng hạ độ cao, cánh quạt thổi tung mái rạp dã chiến, khiến mấy nồi canh xương voi vẫn đang sôi ùng ục phải đậy vung vào.
Khi càng đáp vừa chạm đất, cửa bên bật mở, voi còi là người nhảy xuống đầu tiên, vừa chạy vừa cười hềnh hệch:
Chuột đây! Tớ đã hứa mang về cho cậu con chuột béo nhất rồi mà.
Theo sau hắn là Diệp Lam, cùng năm người lính đặc nhiệm khác, nhưng ánh mắt mọi người nhanh chóng bị hút chặt vào ba bóng người bị trói chặt, áp giải xuống sau cùng. Ở giữa là Thạch tà – kẻ mà dân làng chỉ nghe danh, chưa ai dám nghĩ sẽ được nhìn thấy tận mắt. Hai bên là hai cận thần quyền lực nhất của hắn, mặt mày xám ngoét, mồ hôi đẫm trán, chẳng còn vẻ hung hăng nào.
Vừa nhìn thấy Thạch Tà bị áp giải xuống, đám đông dân làng như bùng nổ. Tiếng hò reo bỗng chốc biến thành tiếng gào phẫn nộ:
Chính hắn thằng ác ôn này đã giết anh trai tôi.
Chính hắn ra lệnh cướp lương thực và chặt tay em gái tôi..
Trả mạng cho dân làng chúng tao..
Chém nó đi.
Mấy thanh niên trai tráng nóng nảy lao lên, tay cầm dao rựa, gậy gộc, khiến đội đặc nhiệm hết sức vất vả. Không để tình hình mất kiểm soát, tôi nhanh chóng đứng vào giữa, che chắn cho Thạch Tà, hai cánh tay dang rộng để cản những con người đang sục sôi vì giận dữ đòi trả thù cho người thân:
- Thưa bà con, hiện tại vẫn còn một số thành trì phong kiến chưa đầu hàng, giữ mạng Thạch Tà sẽ ép chúng đầu hàng, mà quân đội không cần phải chiến đấu, không phải đổ máu nữa! Nếu bà con giết hắn, máu của quân đội chúng cháu sẽ phải đổ nhiều nữa.
Mọi người như sực tỉnh, từng hàm răng nghiến chặt, từng cánh tay run lên vì giận dữ. Nhưng không ai đòi lên giết hắn nữa.
Tôi chưa dùng lại:" Nếu bà con muốn máu chúng cháu đổ thêm nữa - thì cứ giết hắn đi. Thạch Tà và hai tên cận thần run lên vì sợ hãi, tôi ra lệnh cho những người lính tản ra, không ngăn cản bà con nữa.
Nhưng, kỳ lạ thay, có người run lên vì giận giữ, có người bật khóc vì căm thù, có người nghiến răng kèn kẹt, nhưng không một ai lao lên đòi hành hung Thạch Tà và hai tên cận thần nữa. Tiếng gậy gộc, tiếng dao rựa, tiếng cuốc xẻng bị ném xuống đất kêu loảng xoảng. Mọi người quay trở về chỗ cũ cho đội đặc nhiệm áp tải ba người đó vào xe bọc thép và khóa cửa cẩn thận.
Sau khi về chỗ ngồi cùng mọi người, tôi lại trấn an mọi người:
- Rồi đến một ngày không lâu nữa, chính nhân dân sẽ là người phán xét và xử lý hắn. Không phải chỉ cho làng này.. Mà cho tất cả những làng đã chịu khổ vì hắn.
Tiếng thở dài nối tiếp nhau vang lên. Vài người quay mặt đi, lau nước mắt. Dù tức đến nghẹn cổ, họ vẫn nuốt xuống, ánh mắt rực lửa căm hờn giờ chỉ còn âm ỉ chờ ngày phán xét.
Khi đám đông đã tản ra, đội đặc nhiệm lập tức đưa Thạch Tà và hai tên cận thần tới chiếc xe bọc thép chuyên dụng. Họ áp giải từng người, ép ngồi xuống ghế sắt bên trong, rồi khóa chốt an toàn ở cả cổ tay lẫn cổ chân. Sau cùng, cửa thép nặng nề "keng" một tiếng, chốt khóa kép được vặn chặt.
Voi còi không yên tâm, thử kéo mạnh cánh cửa hai lần, gật gù:
Giờ thì không con chuột nào chui lọt.
Lúc ấy, họ mới rời khỏi xe, mùi thịt hong khô và nồi canh sôi nghi ngút hương xộc vào mũi, khiến bụng ai cũng réo ầm ầm. Suốt hai ngày nay, cả đội chưa được ăn gì.
Vừa nhai miếng thịt, Voi Còi vừa cười hềnh hệch, miệng còn dính mỡ:
Trên trực thăng còn nhiều gạo lắm, nhờ bà con mang xuống, nấu cháo cho đội quân tiếp viện nhé. Họ đang trên đường tới đây để áp giải toàn bộ tù binh về kinh thành. Lúc bay về, bọn tôi đã nhìn thấy đoàn xe của họ rồi.
Nghe vậy, dân làng đồng thanh hưởng ứng, không ai chần chừ một giây. Mấy người thanh niên lập tức chạy về phía bãi đáp, khiêng gạo trắng và rất nhiều thứ khác ra. Người lớn tuổi hơn thì cùng phụ nữ nhóm thêm bếp, chuẩn bị nồi lớn, tiếng gọi nhau í ới để về lấy thêm nồi. Tiếng củi cháy lép bép, tiếng dao thớt rộn ràng, mùi gạo mới sôi cùng thịt thơm bay khắp sân.
Không khí rộn ràng hẳn lên – ai cũng biết rằng bữa ăn này không chỉ là để no bụng, mà còn là tấm lòng của dân làng dành cho những người đã liều mạng bảo vệ họ.
Nhà A Trân trở thành trung tâm của cả làng- bếp cháy đỏ rực, khói thơm bay nghi ngút. Bà con hết mang nồi lớn, chảo to ra, chất củi thành đống, lửa bập bùng suốt cả sân. Đàn ông thì xẻ thịt, chặt thành từng miếng to, phụ nữ thì thái nhỏ, bỏ vào nồi cháo đang sôi sùng sục.
Lũ trẻ con chạy vòng quanh, reo hò, có đứa còn cầm khúc củi cháy làm đuốc, múa may giữa sân.
Tuy không trả được thù ngay lập tức, nhưng quân đội Vạn Xuân đã bắt được kẻ đầu sỏ gây nên tội ác – điều mà họ trước đây chưa bao giờ nghĩ tới cộng thêm họ tin vào một tương lai tươi sáng, khiến nhiều người vui như chảy hội. Ngọn lửa cháy suốt đêm không ngớt. Từng đợt người thay nhau canh bếp, nếm cháo, thêm gia vị.. Sẵn sàng tiếp đón đoàn quân đang tiến tới bằng cả tấm lòng.
Khi trăng đã lên cao, lửa giữa sân nhà A trân vẫn sáng rực, cả làng như không biết mệt, tiếng cười, tiếng huýt sáo, tiếng hát.. Rộn vang xa tận cánh đồng.
Bỗng từ xa, tiếng chân đều đặn vang lên, xen lẫn tiếng vó ngựa và tiếng bánh xe lăn rào rào trên đường đất. Một cậu bé trèo tít lên ngọn cây la lớn:
Đoàn tiếp viện tới rồi..
Tiếng hò reo lập tức dậy lên như sấm, gần như cả làng ùa ra cổng chào đón đoàn quân mà họ yêu quý!
Những người lính vừa đặt chân đến cổng làng đã được bà con ùa ra đón. Mỗi bát cháo, mỗi miếng thịt được trao đi đều kèm một câu dặn dò chân tình:
- Ăn cho nóng, đừng để nguội mất ngon đó con!
- Lấy thêm miếng này, đường xa mệt rồi!
Ban đầu, nhiều chiến sĩ còn ngại ngùng, không dám nhận vì quen cảnh thiếu thốn, sợ làm phiền dân. Nhưng khi thấy ánh mắt và nụ cười của bà con, họ mới khẽ cúi đầu, hai tay đỡ lấy, khẽ nói:
Cảm ơn! Cảm ơn mọi người nhiều lắm..
Những tiếng ăn đi, múc thêm, còn thịt đây này vang lên không ngớt. Các chiến sĩ quây quanh đống lửa, vừa ăn vừa kể chuyện dọc đường, có người cười, có người rưng rưng lau mắt.
Không khí ấm áp ấy lan nhanh như ngọn lửa, xua tan hết mệt mỏi của quãng đường dài. Trong ánh lửa rực hồng, gương mặt những người lính kiên cường nơi chiến trường, giờ lại bình yên và đầy xúc động như những chàng trai trở về quê hương!
Sân nhà A Trân vốn rộng, nhưng trước dòng người kéo đến đông như trẩy hội thì chẳng mấy chốc đã chật kín. Người đứng, người ngồi, tiếng cười, tiếng nói rộn rã. Khi không còn chỗ, dân làng bèn trải chiếu, nhóm thêm bếp lửa ra tận cánh đồng gần đó. Đêm đó, cả vùng sáng rực như một lễ hội, ánh lửa nhảy múa trên gương mặt của lính và dân.
Sáng hôm sau, nhờ sự phối họp của đoàn quân tiếp viện, toàn bộ binh lính của Thạch Tà cùng hắn, sau khi đã hạ vũ khí đầu hàng, đều được áp giải về kinh thành. Đoàn người nối dài bất tận. Chính vì hầu hết số xe chúng tôi có đều dùng để chở lương thực đi cứu đói nhân dân các vùng xung quanh, nên toàn bộ quân lính của Thạch Tà – Và chính hắn, cũng phải đi bộ về kinh thành. Đoàn người nối từ đầu con đường đến gần hết tầm mắt xa tít tắp, ai nấy đều nhìn rõ mồn một nên tin đồn Thạch Tà cùng đạo quân "cứng đầu nhất" của triều đình đã đầu hàng lan nhanh như gió. Ở bất cứ thị trấn, làng mạc nào mà đoàn tù binh đi qua, người dân đều xì xào, rồi tin tức đi theo thương lái, người buôn, người dân và lính trạm truyền đi khắp nơi, cộng thêm tất cả những vùng giải phóng nhân dân được hoàn toàn miễn thuế trong ba năm, được dùng đồ sắt thoải mái mà không cần đăng ký – điều không bao giờ có dưới chế độ phong kiến. Khiến các nơi chưa chịu hàng càng muốn đầu hàng hơn.
Chỉ trong vài ngày, những thành trì vốn bấy lâu nay chống đối ngoan cố cũng bắt đầu dao động, lần lượt sai sứ giả đến doanh trại Vạn Xuân xin hàng.
Nói về số lương thực chúng tôi tịch thu được ở trong hang – quả thật là quá sức tưởng tượng. Nhiều đến mức không ai trong quân chúng tôi từng tưởng tượng nổi. Ngay cả khi đã huy động gần như cả xe ngựa của quân và dân, và toàn bộ số xe đặc chủng mà chúng tôi có, từng hàng dài nối từ đầu này đến đầu kia của cánh đồng, chúng tôi vẫn không thể chở hết một lần. Hai chiếc trực thăng vận tải hạng nặng thì hoạt động hết công suất, nhiệm vụ của chúng là chở một quãng đường trên không chỉ khoảng 5km đường chim bay, từ cửa hang nơi trú ẩn của Thạch Tà và đồng bọn, ra đến đường lớn nơi xe ngựa và xe đặc chủng có thể đi lại được.
Những tấm lưới thép lớn được móc vào móc treo, bên trong căng phồng bởi các loại gạo, thóc ngô vàng và những sọt khoai sắn, khi trực thăng nhấc bổng lên, bụi đất và rơm rạ cuốn thành vòng xoáy, đôi khi mắc cả vào lưới.
Trên đường lớn, bãi tập kết tạm thời như một cái chợ khổng lồ:
Xe ngựa xếp hàng chờ nhận hàng, những chiếc xe đặc chủng mở toang thùng sau để bốc dỡ. Những chú ngựa thở phì phò, hơi nóng bốc lên nghi ngút trong buổi sáng còn sương mỏng. Tiếng bánh xe nghiến trên nền đất, tiếng hò nhau khiêng bao, tiếng vó ngựa xen lẫn tiếng động cơ dầu gầm gừ - tất cả hòa thành một bản nhạc rộn rã ngày đại thắng.
Các toán vận chuyển nhanh chóng tỏa đi khắp các vùng lân cận. Ở mỗi điểm dừng, dân làng ùa ra, người bật khóc khi thấy bao gạo trắng tinh, người reo lên khi ôm được con gà hay nhận được túi ngô vàng óng – thứ mà họ nghĩ sẽ chẳng bao giờ quay lại. Quân lính trong đoàn cũng lặng đi vài giây khi nhìn thấy cảnh ấy, nỗi mệt mỏi trên đường hành quân dường như tan biến, chỉ còn cảm giác vừa tự hào vừa yên tâm khi người dân thoát được cái đói!
Vậy là nạn đói của toàn bộ người dân Hùng Tượng coi như tạm thời được giải quyết.
Chiến tranh vừa mới chấm dứt, khi ai nấy đều nghĩ rằng từ nay thì chúng tôi có thể thở phào và tận hưởng những ngày tháng nhàn hạ. Thì sự thật lại không màu hồng như vậy. Cuộc đời thường hay phũ phàng hơn so với những gì tưởng tượng, chuỗi ngày vất vả của chúng tôi mới chỉ bắt đầu..
Chương 12 – công cuộc tái thiết
Vì chiến tranh triền miên, ruộng đồng bỏ hoang, cỏ dại mọc ngập lối, kênh mương sạt lở, trâu bò bị bắt đi kéo quân hoặc bị giết thịt, chẳng còn mấy ai trông nom mùa vụ. Giờ đây, muốn khôi phục kinh tế cho nhân dân, các kỹ sư nông nghiệp, thủy lợi, xây dựng đều phải căng mình làm việc hết sức. Từng đoàn người đổ về các cánh đồng, đo đạc đất đai, nạo vét kênh rạch, sửa đập dẫn nước, khơi lại những thửa ruộng đã nứt nẻ dưới nắng hạn. Tiếng búa, tiếng cuốc, tiếng gọi nhau í ới hòa lẫn tiếng hò kéo của dân quân, tạo nên một nhịp sống khẩn trương mới – khẩn trương, bền bỉ nhưng cũng đầy hy vọng.
Nhiều kỹ sư hăng say lao động đến mức kiệt sức, có người ngất ngay trên cánh đồng, vì muốn kịp chuẩn bị cho mùa vụ sắp tới được bội thu. Ai cũng hiểu rằng nếu vụ này thất bại, nhân dân sẽ đối mặt với đói khát. Mà cũng chẳng còn Thạch Tà thứ hai để đi đòi lại lương thực về cho nhân dân. Không chỉ ruộng đồng cần khôi phục, mà hệ thống thủy lợi, đê điều – vốn đã bị bỏ mặc từ lâu do chiến tranh, cũng phải được sửa chữa gấp. Dưới ánh nắng chói chang, mồ hôi họ chảy thành dòng, thấm ướt cả lưng áo, bàn tay chai sần vẫn không ngừng đo đạc, vẽ thiết kế, rồi lại xắn quần lội xuống bùn cùng dân làng.
Bên bờ kênh, nhóm kỹ sư thủy lợi quỳ rạp bên tấm bản vẽ loang lổ mồ hôi, dùng thước đo từng đoạn bờ đê đã nứt, miệng không ngừng trao đổi với tổ quân đội đang hỗ trợ vác từng bao đất, bao đá để gia cố. Tiếng xẻng xúc đất, tiếng búa đập cọc gỗ, hòa lẫn tiếng dòng nước được dẫn lối chảy về đồng thành một bản nhạc khởi đầu cho mùa vụ no đủ.
Ngoài cánh đồng, dân làng chia nhau công việc: Thanh niên thì xới đất, làm cỏ, đắp lại những guồng quay nước, phụ nữ thì gánh phân, gieo mạ, giắc hạt giống mà chúng tôi đã chuẩn bị từ trước với sự chỉ bảo tận tình của các kỹ sư nông nghiệp. Cụ già và trẻ nhỏ thì lo nấu cơm, nấu cháo mang ra cho quân đội và kỹ sư giữa giờ nghỉ. Quân đội chúng tôi không chỉ giữ gìn an ninh, mà còn lội xuống bùn, kéo từng tấm gỗ, khiêng từng bó tre cùng người dân.
Phía bên các chiến sĩ làm công tác dân vận cũng bận rộn không kém, khi ruộng đồng vẫn còn chưa được gieo hạt trở lại, họ đã bắt đầu đi từng làng, từng xóm để khuyên bà con tham gia bầu cử chính quyền mới. Ban đầu, người dân vốn tin tưởng tuyệt đối vào quân đội Vạn Xuân – những người vừa cứu họ thoát khỏi chết đói, chữa bệnh cho họ và giải phóng họ khỏi ách thống trị, nên khi phát phiếu, gần như tất cả đều bầu tên các tướng lĩnh và binh sĩ..
Kết quả kiểm phiếu ở vài làng đầu tiên khiến ai cũng bật cười, nhưng đồng thời cũng hiểu ra một vấn đề: Nếu cứ để như vậy, dân sẽ không còn tiếng nói của mình, Và chính quyền mới sẽ không phản ánh đúng nguyện vọng của địa phương. Thế là các chiến sĩ lại phải quay lại từng nhà, từng nhóm họp làng, kiên nhẫn giải thích:
"Chúng tôi ở đây là để bảo vệ và giúp đỡ bà con, nhưng lãnh đạo làng phải là chính người của làng, tương tự như vậy, đến tận cấp tỉnh.. Để bà con tự quyết định chuyện của chính mình.."
Có khi giải thích cả buổi, người dân mới gật gù hiểu ra. Một số người già vẫn lo lắng:
"Nhỡ đâu chọn người mình mà họ lại tham những thì sao?"
Các chiến sĩ lại mỉm cười:
"Nếu vậy thì nhiệm kỳ sau bà con bỏ phiếu đổi, quân đội sẽ đứng về phía công lý".
Nhờ sự kiên trì ấy, từng bảng danh sách ứng cử mới dần xuất hiện với những cái tên quen thuộc: Bác thợ rèn, chị chủ quán, ông nông dân từng tổ chức cấy lúa chung cho cả làng.. Và rồi, lá phiếu thật sự của người dân bắt đầu định hình chính quyền mới theo đúng ý nguyện của họ.
Song song với công cuộc tái thiết, từ khắp nơi liên tiếp gửi về những báo cáo khiến chúng tôi rùng mình – thậm chí còn ghê rợn hơn những ngày tháng chiến đấu chống lại quân đội phong kiến.
Đó chính là sự xuất hiện tràn lan của các loài thú dữ, từ những con trăn dài bằng cột nhà, cá sấu khổng lồ mai sần như áo giáp, cho tới hổ nghe và hiểu được tiếng người, chó sói giả giọng trẻ con khóc để lừa gạt bắt người.. Từ khắp nơi đổ về không ngớt.
Thời đại này khi đất rộng người thưa, rùng núi bạt ngàn, thú dữ chiếm phần lớn lãnh thổ cộng thêm những năm tháng chiến tranh, khắp rừng núi, bờ sông, đồng hoang đều vương vãi xác người chết trận, chết đói. Lũ thú dữ trước đây thỉnh thoảng lắm mới có vài con bắt người hoặc coi con người nằm trong thực đơn của chúng. Nay bắt đầu tìm đến các bãi chiến trường, làng mạc bỏ hoang để ăn xác người. Đối với chúng, đây là những bữa ăn ngon tự dưng dâng đến tận miệng. Chúng ăn quá nhiều, nhiều đến mức quen mùi, nghiện vị thịt người. Hơn nữa, so với những con mồi ngoài tự nhiên, con người chạy chậm hơn hươu nai, yếu hơn trâu bò và gần như không có răng nanh hay móng vuốt để chống trả.. Chính vì sự yếu thế ấy, nên khi chiến tranh kết thúc, chúng vẫn coi con người là mục tiêu săn mồi lý tưởng.
Một con hổ muốn hạ gục nai rừng phải rượt đuổi cả cây số, còn với con người, chỉ cần vài bước là tóm được. Một con cá sấu rình bắt trâu rừng phải đấu sức vật lộn dưới nước, nhưng với một người gánh nước, chỉ cần kéo xuống nước là xong. Thú dữ vốn thông minh, nay lại quen mùi thịt người, nên chẳng buồn phí sức với những con mồi hoang dã – chúng chọn con người, vừa dễ bắt, "vừa đúng khẩu vị".
Khắp nơi lan truyền những lời đồn nhuốm màu huyền bí, khiến không khí vốn đã căng thẳng nay lại đặc quánh bởi nỗi sợ. Người ta đồn rằng một con hổ ăn thịt đủ một trăm người, sẽ thành tinh, có thêm trí khôn, biết sai bảo những con hổ khác bày binh bố trận, biết nói tiếng người, và có thể nghe, hiểu được tiếng người thì thầm ở cách đó hàng chục cây số.
Một con sói nếu ăn phải cuống họng của một người vào đêm trăng rằm, nó sẽ nói được giọng y chang người đó, rõ ràng, ấm áp như chính người đã khuất.
Những con trăn khổng lồ thường quấn quanh những gò mộ vô danh ngoài chiến trường, người ta nói, nếu ai cố đào lấy vật chôn theo người đã chết, hay chỉ là vô tình đi ngang qua đó sẽ bị con trăn nuốt chửng và giữ nguyên hình dạng cơ thể người đó trong bụng suốt bảy ngày.. Và nếu con trăn nuốt đủ số người, nó sẽ thành tinh, ban ngày hóa thành hình người, ban đêm hiện nguyên là trăn, trà trộn vào trong các bản làng, thậm chí là các thị trấn để bắt người.
Những con cá dữ to lớn sống ở các đầm lầy, sông hồ lớn nếu nuốt nguyên một xác người vào đêm trăng máu phần da trên lưng nó sẽ biến thành ảo ảnh mặt người, từ xa nhìn vào, tưởng là ai đang vẫy tay kêu cứu dưới nước, nhưng nếu có người dũng cảm nhảy xuống cứu.. Thì sẽ không bao giờ thấy họ ngoi lên mặt nước nữa. Chúng thậm chí còn phát ra những âm thanh như tiếng hát ru khi nuốt được những người mẹ đang nuôi con nhỏ nữa.
Người ta đồn, những con gấu từng lang thang giữa chiến trường để liếm máu người chết đã biến đổi. Ban ngày, chúng vào sâu trong rừng như những con gấu bình thường, nhưng đêm xuống thì đi thẳng vào làng. Chúng không ăn thịt ngay mà sẽ liếm sạch máu của nạn nhân trước rồi mới xé xác.
Nỗi sợ hãi lan rộng đến mức nạn hiến tế người bắt đầu trở lại, thậm chí còn nhiều hơn thời chiến. Nhiều làng lập miếu bên sông, thả trẻ em xuống làm lễ tế thủy thần, những cô gái chưa chồng ở nơi khác thì được trang điểm lộng lẫy như cô dâu vào đêm trăng rằm, để mang vào rừng hiến tế làm vợ của thần rắn..
Nghe sĩ quan trinh sát báo cáo về việc thú dữ hoành hành, ngang nhiên rình bắt người giữa ban ngày, tim tôi bỗng nhói lên một cách khó tả. Tôi nhớ đôi mắt tròn vo của Mỹ Mỹ, đã không dưới một lần hỏi tôi "ba ơi bao giờ mẹ con về?"
Mỗi khi nhớ mẹ, con bé thường hay lặng lẽ ngồi bên góc hiên nhà, thỉnh thoảng đưa mắt về phía rừng chờ đợi một điều không bao giờ trở lại.
Tôi siết chặt bàn tay, tự nhủ sẽ không để thêm một đứa trẻ nào phải chịu cảnh như Mỹ Mỹ nữa, dù phải săn lùng đến tận hang ổ của bọn thú dữ.
Mặc dù mọi nhân lực đang phải căng mình trên khắp các mặt trận tái thiết – Kỹ sư thì lội bùn cải tạo từng con kênh, từng con mương, chuyên gia nông nghiệp thì lặn lội từ các bản làng hẻo lánh tới đồng bằng để hướng dẫn và trực tiếp cùng bà con gieo những hạt giống mới, cán bộ dân vận ngày đêm đi từng nhà, từng xóm kiên nhẫn giải thích ý nghĩa của lá phiếu bầu cử. Quân đội thì sửa lại đê điều sau bao năm bỏ bê chẳng ai quan tâm vì chiến tranh, cộng thêm dựng lại những mái nhà dột nát cho những cụ già neo đơn và các em nhỏ mồ côi.. Nhưng tôi vẫn hạ quyết tâm phải lập tức thành lập các đội đặc nhiệm săn thú.
Mệnh lệnh được ban ra, binh sĩ được lựa chọn đều là những tay thiện xạ, những người từng quen với mọi môi trường hoang dã, mỗi đội được trang bị vũ khí hiện đại phù hợp với nhiệm vụ, Họ không chỉ săn thú dữ, mà còn giải cứu những người bị dân làng đem đi tế sống làm thức ăn hoặc làm vợ cho đám quái vật đó.
Chỉ trong ba ngày, hơn một trăm đội đặc nhiệm được thành lập, nhanh chóng tỏa đi như những mũi tên rời cung, len lỏi tới tận hang cùng ngõ hẻm. Từ rừng rậm biên viễn tới đầm lầy miền trung. Từ những dãy núi phủ tuyết trắng quanh năm tới những con sông cuồn cuộn đục ngầu, nơi đâu cũng sẽ có dấu giày của họ.
Mỗi đội mang theo danh sách những vụ mất tích, những lời kể rùng rợn của dân làng. Nhiệm vụ của họ không chỉ là giết – mà là truy vết, săn lùng, tận diệt những con vật đã gieo rắc nỗi kinh hoàng, đồng thời phá tan hủ tục hiến tế người sống của những người dân còn mang nặng niềm mê tín dị đoan.
Có rất nhiều đội, sau khi nhận lệnh, lập tức biến mất vào sâu trong rừng rậm, như những giọt nước rơi vào biển lá xanh ngắt. Những khu rừng ấy vốn đã rộng lớn và hiểm trở, nay lại chứa đầy những kẻ săn mồi đã quen mùi thịt người, Một tiếng gió rít cũng có thể là hơi thở của hổ rình mồi, một gợn sóng trên mặt đầm lầy cũng có thể là của thủy quái đang chực chờ..
Thương tâm nhất là tại cánh rừng sâu quanh năm sương mù bao phủ - cách nơi chúng tôi phát hiện hang ổ của Thạch Tà khoảng hai mươi cây số về hướng bắc, nơi mà chính Thạch Tà và đồng bọn của hắn vào lúc nguy hiểm nhất cũng không dám tiến gần. Năm chiến sĩ đặc nhiệm, toàn những tay thiện xạ dày dạn kinh nghiệm, nhận nhiệm vụ giải quyết nạn hổ ăn thịt những người dân quanh vùng. Chỉ sau hai ngày, khi cả đội tiến vào nơi mà người dân đồn thổi là hay có hổ tụ tập thành đàn ở nơi đó, một lão nông đi làm đồng bỗng chết sững khi thấy cảnh tượng bi ai: Giữa bãi cỏ còn đọng sương, quần áo rách tả tơi, bê bết máu của cả năm người lính bị vứt lộn xộn, như thể vừa bị xé khỏi thân thể và bị ném ra ngoài. Không xa chỗ đó, nhiều dấu chân hổ to bằng miệng cái bát con in sâu xuống đất – Như một lời cảnh cáo của đàn hổ: "Bất cứ kẻ nào xâm phạm sẽ phải trả giá bằng mạng sống".
Người dân hoang mang đến tột độ, trong mắt họ, quân đội Vạn Xuân bấy lâu nay là lá chắn thép, là những người không bao giờ lùi bước trước bất cứ hiểm nguy nào, ngay cả khi có chiến tranh, tin rằng chỉ cần còn bóng dáng màu quân phục kia – họ sẽ được bình yên.
Thế nhưng, chỉ thời gian ngắn sau khi vào rừng, toàn bộ năm chiến sĩ đặc nhiệm đều hi sinh thảm khốc, không một ai sống sót khiến họ vừa thương cảm vừa sốc nặng.
Tin dữ về năm chiến sĩ bị hổ vồ, xé xác lan nhanh khắp các làng mạc. Ở chợ, đám đông tụ lại bàn tán, giọng ai cũng hạ xuống thì thầm như sợ chính con thú nghe thấy: "Nếu lính Vạn Xuân còn hy sinh như thế, thì dân thường chúng ta làm sao sống nổi.."
Có cụ già nhìn về hướng rừng sâu, ánh mắt mờ đục nhưng vẫn toát lên vẻ sợ hãi, thì thào:
"Lá chắn.. Đã bị thủng mất rồi".
Nỗi sợ ấy lan nhanh như dịch bệnh. Đêm đến, hầu hết các làng đều đóng kín cửa chặn cả then gỗ, đốt đuốc sáng trưng quanh nhà, nhiều người không dám ngủ, vì ngủ sợ bị cọp vào nhà tha đi lúc nào không hay, chỉ ngồi co ro, mắt dán ra ngoài cửa sổ, tai lắng nghe từng tiếng lá rơi, từng tiếng chó sủa vọng từ xa..
Trong bóng tối của nỗi hoảng loạn, những câu chuyện cổ truyền được lôi ra như những lời tiên tri:
"Hổ ăn trăm mạng sẽ hiểu được tiếng người, nghe được lời khấn từ cách đó mười dặm".
"Muốn thần hổ tha, phải cúng người sống, càng trẻ càng tốt".
Thế là, trong nhiều ngôi nhà, đèn dầu leo lét soi gương mặt của những bô lão và vài kẻ mê tín. Họ bàn nhau thì thầm:
"Chỉ một mạng, cứu cả trăm mạng.. Không đáng sao?"
Những lời lẽ đó gieo rắc nỗi tuyệt vọng như thuốc độc, chỉ sau vài ngày, một số làng đã dựng miếu tạm ngay đầu làng, sát mép rừng, nơi đã từng thấy hổ lui tới, bằng tre nứa và lá cọ. Trước cửa treo đầu lợn, gà rải máu quanh gốc cây cổ thụ để báo hiệu cho "Thần hổ" biết đây là lễ cúng.
Khi tin đồn về "Thần hổ" và lễ hiến tế lan nhanh như cháy rừng, nhiều gia đình rơi vào cảnh mất ăn mất ngủ. Ban ngày, họ không dám để người thân ra khỏi nhà, ban đêm, họ khóa chặt cửa, nhồi thêm chấn song gỗ và cài then bằng xích sắt, như thể chuẩn bị chống trộm, nhưng kẻ xâm nhập ở đây lại là những móng vuốt ẩn trong sương.
Tệ nhất là nỗi sợ đến từ chính con người. Chỉ cần một lời thì thầm, "Nhà kia có đứa trẻ khỏe mạnh" hay "cô ấy đẹp nhất làng" là đủ để nhà đó bị dân làng lén nhắm tới cho lễ cúng.
Vì vậy, nhiều gia đình âm thầm thu xếp đồ đạc, chọn lúc sương dày đặc hoặc khi trời đêm không trăng để rời làng. Có người cõng con, có người dắt tay ông bà đã già yếu, lặng lẽ đi men theo lối mòn qua đồi, chỉ để tìm một nơi mà họ tin là ngoài tầm với của "thần hổ".
Thế nhưng, trong làn sương trắng đục như sữa, cái rủi không chừa một ai. Một số gia đình, vì quá sợ hãi lễ hiến tế, đã chọn cách thu xếp đồ đạc rồi lặng lẽ rời làng lúc đêm xuống. Họ đi rất khẽ, bước chân rón rén trên nền đất mềm, mong tránh đánh thức bất cứ sinh vật nào.
Nhưng chính lúc đó, ở nơi mà ánh bị màn sương nuốt chửng, hai đốm sáng vàng rực như lửa ma trơi hiện lên, rồi bốn, rồi sáu.. Tiếng gầm trầm đục vang lên, phá tan sự yên lặng của màn đêm – và khiến máu của những người dân lương thiện như đông lại.
Đàn hổ, như thể đã chờ sẵn, lao ra từ bóng tối. Chỉ vài giây sau, tiếng gào thất thanh xé toạc màn đêm, tiếng trẻ con khóc ré lên, tiếng đàn ông quát tháo trong tuyệt vọng, tiếng phụ nữ gào lên gọi tên người thân.. Rồi tất cả bị nhấn chìm bởi âm thanh ghê rợn của xương bị nghiền nát, thịt bị xé rách. Sương mù, vốn đã dày đặc, nay còn tanh nồng mùi máu tươi. Khi trời sáng, người dân tìm thấy dọc ven đường mòn những mảnh quần áo nhuốm máu, cùng dấu vết kéo lê vào rừng sâu. Không một ai trong nhóm đi còn sống sót.
Ngay chiều hôm đó, lời đồn lan nhanh hơn lửa cháy rừng:
"Thần hổ đã tức giận, bất kỳ ai rời khỏi vùng đất này đều bị xé xác, thần muốn chúng ta ở lại, để phục vụ ngài. Nếu không dâng lễ, thần hổ sẽ lấy mạng cả làng, phải cúng người để xin thần tha tội!"
Tiếng bàn tán rì rầm khắp ngõ nhỏ, ai cũng tin lời đồn "thần hổ" đã nổi giận và sẽ còn giết thêm. Trong ánh mắt của người dân không còn sự tỉnh táo, chỉ còn sự sợ hãi mù quáng.
Buổi trưa ngày hôm sau, trưởng làng – một lão già gầy gò, mắt hõm sâu, bước lên giữa sân đình đã tập trung đầy đủ mọi người được triệu tập đến từ trước. Giọng ông khàn đặc nhưng dứt khoát:
"Nếu không dâng lễ, thần hổ sẽ lấy mạng cả làng, phải cúng người để xin thần tha tội"
Không ai dám phản đối, những ánh mắt của dân làng lảng tránh, né sang chỗ khác, chỉ sợ bị gọi tên. Rồi như một nhát dao chém ngang, ông chỉ tay về phía một cô gái mới tròn mười bảy tuổi, là đứa trẻ đẹp nhất làng, cô sững người, đôi môi run rẩy nhưng không dám kêu, người dì cô thì quỳ rạp xuống khóc lóc, xin cho cháu gái mình, nhưng bị lính làng kéo ra.
Chưa dừng lại, trưởng làng tiếp tục chọn một cặp đồng nam đồng nữ - hai đứa mới có bốn, năm tuổi, vốn được coi là tinh khiết nhất. Khi bị bắt đi, tiếng khóc thét của chúng vang vọng khắp làng, xen lẫn tiếng gào van của gia đình. Nhưng đám đông đã bị nỗi sợ giày vò đến mức tim họ như hóa đá.
Trở lại kinh đô Hùng Tượng – khi chúng tôi còn đang đau đầu để giải quyết nhiều vấn đề tái thiết cam go, thì đột nhiên có người đến báo:
"Chỉ huy, có bốn người dân bản địa vùng núi họ đến tìm anh, nói là có việc gấp.."
Tôi khoác vội chiếc áo rồi cùng đi ra ngoài cùng cậu lính gác, trong đầu thầm nghĩ chắc lại có chuyện đau lòng gì nữa đây, người dân đến tận nơi đây cầu cứu, chắc lại có người bị thú dữ ăn thịt..
Thế nhưng, nhìn ra bãi đất trống xa xa, tôi chỉ nhìn thấy một cỗ xe ngựa, với hai người đàn ông dáng vẻ mạnh khỏe, đang ở phía trước, bước từ trong xe ra là.. Bà Tống, A Trân, và cả Mỹ Mỹ nữa. Tôi vui mừng khôn xiết, không ngờ họ lại đến thăm mình trong những lúc như thế này.
Mỹ Mỹ nhìn thấy tôi lập tức chạy đến ôm vai tôi, giọng hờn dỗi:
": Sao ba bảo ba đi vài ngày rồi về, có biết là con nhớ ba lắm không? Ba không nhớ Mỹ Mỹ hả?" – giọng con bé bắt đầu mếu máo, mắt ngân ngấn nước.
"Ba nhớ Mỹ Mỹ - đứa trẻ ngoan nhất trên đời nhiều lắm, nhưng vì công việc bận nên ba không về thăm Mỹ Mỹ được" – tôi trả lời.
Quay sang phía A Trân, khuôn mặt rạng ngời, đôi mắt cười tươi khó tả, đang hơi cúi đầu chào tôi.
Rồi tôi quay sang chào bà Tống – vẫn khuôn mặt nghiêm khắc, nhưng ánh mắt bà lần này có vẻ hơi lo xa xôi một chuyện gì đó. Chưa kịp chào, hai chàng thanh niên đi cùng đã chào tôi trước, ba chúng tôi hơi cúi đầu chào nhau.
Biết mọi người đi đường xa mệt mỏi, tôi mời mọi người vào trong, dùng trà rồi dặn nhà bếp làm cơm đãi khách.
Sau một hồi trò chuyện, tôi mới biết họ lặn lội đường xa đến đây là vì chuyện năm người lính đặc nhiệm của chúng tôi cử đi tiêu diệt hổ, nhưng ngược lại, không một ai sống sót trở về. Bà tống nghiêm giọng nói:
"Vì trước đây, số người chết vì nạn đói và chiến tranh quá nhiều, nhiều con hổ chuyên ăn xác người, chúng dư thừa thức ăn, nên sống tụ tập thành bầy lớn. Hầu hết chúng đã thành tinh, tinh khôn và to lớn hơn hổ thường rất nhiều, người thường khó lòng mà hạ được nó. Đặc biệt là con hổ chúa lãnh đạo cả đàn, nó vừa thông minh, tai thính, khứu giác nhạy bén, sức mạnh thì khỏi phải nói, gần như không đao kiếm hay cung tên nào có thể làm bị thương được nó. Người thường đi vào khu rừng đó đảm bảo sẽ không một ai sống sót trở về.
Chúng tôi đều há hốc mồm kinh ngạc, không muốn tin, nhưng bằng chứng sờ sờ ra đấy, năm chiến sĩ tinh nhuệ, đều là những xạ thủ lão luyện và gan dạ, được trang bị vũ khí đạn được đầy đủ - như chúng tôi đã tính, họ có thể chiến đấu sòng phẳng với đàn sư tử đông đảo lên đến ba mươi con mà không hề bị nép vế. Thế nhưng, theo như báo cáo, chỉ trong hai ngày ngắn ngủi khi tiến vào rừng, cả năm người đều không qua khỏi, quân phục của họ thậm chí còn bị hổ tha đến nơi có con người thường hay qua lại – như thể là một lời cảnh cáo đối với con người.
Chúng tôi im lặng, rồi bà Tống tiếp lời:
" Trong thiên hạ này, chỉ có Ngũ mệnh tử - đứa con của ngũ hành, mang trong mình sự bảo hộ của Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ mới đủ sức tiến vào đó rồi thoát ra, những người còn lại nếu ngang bướng cố tình dấn thân vào, thì coi như bước vào chỗ chết "
Tôi im lặng không nói gì, nhưng một sĩ quan đứng gần đó không nhịn được, hơi to tiếng:
" Nói vậy thì khác nào bảo chỉ huy của chúng tôi vào khu rừng đó một mình tìm đường chết? "
Một người khác tiếp tục:
" Dù thế nào chúng tôi cũng không để chỉ huy đi một mình, thiếu anh ấy ai lãnh đạo chúng tôi? Hổ tinh cái gì chứ, cứ cho ăn vài quả lựu đạn xem nó cứng rắn đến đâu! "
Một cậu lính hậu cần, vừa bê thức ăn vào, vừa lên tiếng:" Phải đấy, mang xác chúng về bón ruộng tốt cho cây trồng! "
Tôi đưa tay ra hiệu bảo mọi người im lặng. Tôi trả lời bà Tống:
" Nếu mọi người đã nghĩ vậy thì cháu sẽ lên đường thôi, lâu nay ở quanh quẩn với công việc đê điều và hạt giống cũng không phải chuyên môn của cháu, vả lại cháu cũng muốn trả thù cho mẹ của Mỹ Mỹ lâu rồi! "
Chưa kịp dứt câu, đã nghe tiếng voi còi chen vào:" Đi đâu đi đâu? Đi trả thù cho mẹ Mỹ Mỹ hả? Không thể thiếu Voi Còi này được nhé! "
Diệp Lam cũng cất tiếng sau lưng:" Đàn ông các anh, không được phân biệt, phụ nữ cũng có thể đánh được hổ, hơn nữa nếu "ngũ mệnh tử" bị thương thì ai chữa trị? "
Tôi lầm bầm hỏi nhỏ -" cả cô cũng tin chuyện ngũ mệnh tử hả? "
Sau một hồi nhốn nháo, bà Tống đợi cho mọi người yên lặng, bà lại trầm giọng nghiêm túc:
" Mặc dù nói là "Ngũ mệnh tử" có thể vào khu rừng đó mà không chết, nhưng muốn giết được con hổ chúa thành tinh đó thì đao thương kim loại bình thường, hay nước với lửa thì cũng không làm gì được! Cậu còn phải cần đến cái này. Mục đích của chuyến đi ngày hôm nay của chúng tôi đến đây là để tặng cho ngũ mệnh tử cậu thứ này ":
Nói rồi bà hất hàm, một người đàn ông đi cùng lập tức giơ chiếc hòm gỗ ra, rồi chầm chậm mở, bên trong là một con dao lưỡi dài khoảng ba mươi centimet, ánh bạc, lưỡi dao uốn cong hình móng vuốt hổ, cầm theo kiểu ngược tay chứ không phải kiểu cầm đao kiếm bình thường.
Ở phía tay cầm, có bảy cái lỗ nhỏ, trong lỗ có gắn bảy viên đá quý, mỗi viên một màu khác nhau được đính thành một đường thẳng. Phần tay cầm, cũng có kim loại vòng lên để bảo vệ các ngón tay nắm vào lưỡi dao. Gọi là phần bảo vệ.
Toàn quân đội chúng tôi, rất ít người có kiến thức về đao kiếm thời cổ đại, mọi người chỉ đoán già đoán non, thứ này thật đặc biệt. Riêng Diệp Lam, ngoài là y sĩ nơi chiến trường ra, còn là chuyên gia ngôn ngữ cổ, có lẽ vì chuyên môn có chút liên quan đến đồ vật cổ nên kinh nghiệm hơn chúng tôi mắt tròn mắt dẹt, há hốc mồm ra:
" Đây.. Đây là vũ khí cổ hiếm thấy, hình như nó từng tồn tại cả nghìn năm rồi.. "
Thấy Diệp Lam ngạc nhiên như vậy, nên tôi cũng đoán thứ vũ khí này đắt giá, tự nhiên chuyển sang tâm trạng ngại ngùng:
" Đồ quý thế này sao cháu dám nhận, hơn nữa chúng cháu còn có súng ống. Cháu cám ơn nhưng xin bà cứ mang con dao về đi! "
Khi tôi còn chưa kịp nói hết câu, thì bà Tống đã cắt lời:
" Chàng trai trẻ! Không cần phải khách sáo, ta đã đoán ra sứ mệnh của cậu còn lớn hơn giá trị của con dao này nhiều lần, hơn nữa, nếu không đưa vào tay cậu thì nó cũng chỉ là một mảnh sắt bình thường thôi! Sư phụ ta ở trên trời nếu có biết ta trao con dao này cho Ngũ Mệnh Tử để làm nghiệp lớn chắc người cũng vui mừng lắm. Cứ nghe lời ta, cậu hãy mang nó theo người, ắt có ngày dùng đến! Hơn nữa, cũng đã có lần cậu cứu mạng ta, cứ nhận lấy đi đừng ngại! "
A Trân chen vào:
" Bảo kiếm tặng anh hùng – là điều xưa nay thường thấy, anh cứ nhận đi đừng ngại! "
Tôi hơi xấu hổ, ngại ngùng cám ơn bà và A Trân.
Rồi bà quay sang phía Diệp Lam, khen cô có đôi mắt tinh đời, kể rõ về nguồn gốc của con dao này cho mọi người hiểu:
" Phải, đây là vũ khí trấn môn mà sư phụ đã truyền lại cho ta, tương truyền, khi xưa nó từng theo Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ lấy đầu Ân Thông, Tống Nghĩa, Rong ruổi khắp thiên hạ cùng người được mệnh danh là chiến thần "Thiên cổ vô nhị", rồi cuối cùng, chính nó là vũ khí mà Hạng Vũ tự sát ở bến Ô Giang "
Tiếc rằng ông ta không có tấm lòng nhân từ như cậu – Ngũ mệnh tử! – giọng bà trầm ngâm, xen lẫn chút nuối tiếc.
Chúng tôi đều kinh ngạc không nói lên lời, xưa nay đã từng nghe nhiều chuyện về ông ta – Một tượng đài nổi bật bậc nhất về lòng dũng cảm và sự mạnh mẽ của các chiến binh. Nhưng không ngờ, có ngày được cầm trong tay chính thứ vũ khí đã cùng ông chinh chiến bao năm.
Voi còi thì lầu bầu, có mạnh mẽ đến mấy thì cũng chả bằng khẩu phóng lựu sáu nòng của tớ, chỉ cần một phát thôi, voi cũng phải bỏ mạng.
Tôi kiên nhẫn giải thích:" Tớ không nói thứ vũ khí này tốt hơn của cậu, nhưng khách quan mà nói: Từ khi xuyên không tới nay, tớ không vội phủ nhận hay khẳng định bất cứ thứ gì. Ngay như cái chuyện chúng ta xuyên không về đây cũng là chuyện mà bất cứ nhà khoa học lỗi lạc nào của thế giới hiện đại cũng không giải thích nổi ".
" Thậm chí ngay cả hai thứ tưởng chừng như quen thuộc nhất với con người là ánh sáng và nước – cũng có những bí ẩn mà những nhà khoa học chưa giải thích nổi "– Diệp Lam lên tiếng.
" Sao lại chưa giải thích nổi? "– Voi còi thắc mắc.
Một nhà vật lý lượng tử kiên nhẫn giải thích cho cậu ta:
" Cấu trúc phân tử nước thay đổi theo cảm xúc và âm thanh, như thí nghiệm của Masaru Emoto cho thấy: Đặt nước trước các tờ giấy (hoặc lời nói) có chữ yêu thương, cảm ơn, ghét bỏ, mày làm tao tức, các loại âm nhác khác nhau
* * * rồi nhanh chóng làm đông mẫu nước ở nhiệt độ thấp, sau đó chụp ảnh tinh thể băng. Kết quả là nước nhận năng lượng tích cực từ lời nói đẹp, nhạc dịu êm, chữ yêu thương.. Sẽ kết tinh thành những tinh thể tuyệt đẹp, cấu trúc hình lục giác đối xứng hoặc tinh xảo như hoa tuyết.. "
" Ngược lại, những nước nhận năng lượng tiêu cực – như lời lẽ cay độc, âm nhạc ồn ào, ý nghĩ thù hận, thì tinh thể nhìn qua kính hiển vi rất xấu xí, quái dị thậm chí có phần đáng sợ! "
Voi còi há hốc mồm ngạc nhiên:" Thật vậy sao? Sao lại có chuyện kỳ lạ như vậy? "
Chưa hết – nhà vật lý lượng tử vẫn tiếp tục:
" Hiện tượng thí nghiệm khe đôi cho thấy, ánh sáng (photon) thay đổi hành vi, khi bị quan sát. Nghĩa là nếu không có ai đo, photon đi như sóng, nhưng nếu có thiết bị hoặc có người theo dõi, nó lại hành xử như hạt. Điều đáng sợ là ánh sáng biết khi nào có người hoặc thiết bị theo dõi, khi nào không "
" Từ thời Newton đến Einstein rồi tới cơ học lượng tử, chúng ta vẫn không thể thống nhất ánh sáng là gì. Hạt ư? Sóng ư? Hay là thứ vượt qua mọi định nghĩa? Và nếu ánh sáng là nền tảng cho mọi thứ - từ năng lượng, sự sống đến thời gian – thì việc ta chưa hiểu ánh sáng, nghĩa là.. Ta chưa hiểu hiện thực ".
Lần này, tất cả chúng tôi đều im lặng, chỉ biết rằng cái sự hiểu biết của con người xưa nay vốn tự hào chẳng đáng là gì so với vũ trụ vô biên vô tận ngoại kia cả.
Diệp Lam lên tiếng xóa tan sự im lặng:" Chẳng cần những sự kiện cao sang hay bí ẩn thế kỷ nào, nguyên việc đội đặc nhiệm năm người dày dạn kinh nghiệm và lòng dũng cảm – với trang bị vũ khí hiện đại mà toàn bộ đều bỏ mạng trước miệng hổ đối với chúng ta cũng đã là sự kiện khó giải thích rồi ".
Tôi cầm thử con dao cong của bà Tống, cảm giác đầm tay rất chắc chắc chắn. Điều ngạc nhiên hơn nữa là khi vừa nắm chặt trong tay, cảm giác tự tin và dũng khí như ở đâu chạy thẳng về lòng bàn tay, rồi lan ra toàn thân.
Ngay tối hôm đó, tôi triệu tập một cuộc họp khẩn tại nơi trước đây từng là" Công Đường dưới thời Thạch Tà. Vì hoàng cung rộng lớn, và đặc biệt là sân hoàng cung của Hùng Tượng rất rộng, nên chúng tôi đã thống nhất chọn nơi đó làm "Bệnh viện" cho toàn dân, những ngày đầu mới giải phóng, tình cảnh thật thê thảm như nước sôi lửa bỏng, chúng tôi dựng rất nhiều lều bạt dã chiến trên sân hoàng cung, làm nơi tiếp tế lương thực cho nhân dân, người già, phụ nữ, trẻ em, hoặc những người bệnh đều được mời vào bên trong nghỉ ngơi. Khỏi phải nói người dân họ đã ngạc nhiên và cảm động như thế nào. Bây giờ, khi người dân đã trở về nhà của họ, thì hoàng cung trước đây chúng tôi sử dụng như là bệnh viện chung của nhân dân.
Sở chỉ huy của chúng tôi thì đặt ở nơi trước đây từng là "Công Đường" – chuyên xét xử các vụ án dưới thời phong kiến. Nhà cửa, phòng ốc thì cũng bình thường. Nhưng vì người của chúng tôi đã tỏa đi khắp đất nước lo liệu công cuộc tái thiết đất nước, nên vừa đủ.
Ngồi trước mặt tôi là ba người:
Kỹ sư nông nghiệp Trịnh Văn quảng – dáng gầy nhưng nhanh nhẹn, đôi mắt lúc nào cũng quan sát từng chi tiết nhỏ, anh là người tính toán chính xác lượng lương thực cho những lần chúng tôi đã cứu đói người dân Hùng Tượng. Giúp cho việc phân phát lương thực thuận tiện hơn rất nhiều.
Sĩ quan phụ trách truyền tin và dân vận Ngô Diệu Anh – giọng nói nhẹ nhàng nhưng kiên quyết, là người cực kỳ ấm áp và hiểu tâm lý người khác.
Thiếu Tá Nguyễn Thành Lâm: Đại diện quân đội – Vai rộng, gương mặt vuông chữ điền, nổi tiếng kỷ luật thép. Luôn luôn coi hoàn thành nhiệm vụ quan trọng hơn sinh mạng.
Tôi lên tiếng, giọng trầm ấm:
"Tôi và đội sẽ vào rừng, trong thời gian tôi vắng mặt, nếu tệ hơn, trong trường hợp tôi không trở về được. Ba anh chị sẽ chịu trách nhiệm điều hành ở đây, Khi có vấn đề nhỏ thuộc chuyên môn của ai người đó giải quyết, nếu vấn đề lớn phát sinh, họp ngay tại phòng này, bên nào được hai phiếu trở lên, sẽ thực hiện ngay, không tranh cãi, không chần chừ".
Cả ba gật đầu, nhưng trong ánh mắt họ tôi thấy một điều mà không ai nói ra: Một phần không muốn tôi đi, một phần lại phải gật đầu đồng ý vì đây là mệnh lệnh. Sự giằng co ấy khiến không khí trong phòng nặng nề hơn trước.
Tôi tiếp tục:
"Sáng sớm mai chúng tôi sẽ lên đường, tôi tin là mọi người sẽ làm tốt hơn hẳn tôi! Thay mặt những người dân Tượng Hùng cám ơn mọi người!"
Vì tính nghiêm trọng của vụ việc, năm chiến sĩ đi trước đã tử nạn, nên lần này chúng tôi chuẩn bị rất kỹ càng, quân số tuy chỉ đông hơn có một người vì nhân lực của chúng tôi quá thiếu thốn, phải trải dài trên khắp Hùng Tượng để thực hiện công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh nhưng lại có một chuyên gia động vật. Trang bị cũng kỹ càng hơn: Bao gồm một khẩu súng bắn tỉa, một khẩu phóng lựu sáu nòng xoay do Voi Còi sử dụng, ba khẩu súng AK và tôi một khẩu súng lục Five – seveN hộp tiếp đạn hai mươi viên, và một con dao quý kỳ lạ mà bà Tống đưa cho. Ngoài ra, còn có thêm Max và Bin - hai chú chó nghiệp vụ lưng đen bụng vàng, to gần bằng hai con bê con, đã được huấn luyện kỹ lưỡng, riêng Max đã gắn bó với tôi từ khi nó còn chưa cai sữa mẹ.
Không ai ngờ được rằng, cuộc săn hổ lần này lại chẳng đơn thuần là một nhiệm vụ quân sự. Chúng tôi vốn tưởng là sẽ vào rừng, tìm diệt vài con hổ khát máu vốn quen ăn xác người, để mang lại ánh sáng văn minh và xóa tan niềm mê tín của những bản làng quanh vùng, nhưng sau khi chạm trán những sự kiện kỳ bí, chính chúng tôi mới phải suy nghĩ lại những nhận thức của mình.
* * * Khi kinh đô Hùng Tượng còn chưa thức giấc, màn sương còn phủ dày trên những mái ngói cổ, con đường lát đá dẫn ra khỏi thành vắng vẻ. Chúng tôi từ biệt bà Tống và Mỹ Mỹ để lên đường, con bé bịn rịn ôm lấy chân tôi, phải dỗ dành hồi lâu mới đi được. Tôi cúi xuống bế bổng Mỹ Mỹ lên, bàn tay nhỏ bé bấu chặt vào vai tôi:
"Mỹ Mỹ ngoan, để ba đi, ba đi tiêu diệt đàn hổ một loáng rồi về với con! Con xem này, ba ngồi trên trực thăng thì đàn hổ không với tới đâu! Con yên tâm nhé, nhiệm vụ lần này không ai thay thế ba được"
Bà tống và A Trân cũng hiệp sức dỗ dành, được một lúc, con bé chạy vào phòng ngủ tối hôm qua lấy con búp bê vải mà nó thích nhất, rồi dúi vội vào tay tôi:
"Con tặng ba, ba mang theo rồi nhớ trở về với con!"
Tôi cất con búp bê vào phía sau ba lô, cảm thấy một sức nặng khác thường từ món quà ngây thơ ấy. Tôi buộc phải sống sót trở về với con bé.
Chương mười ba – cuộc chiến mới
* * *Tiếng cánh quạt trực thăng dồn dập như muốn xé toạc bầu trời, dưới chân chúng tôi, biển rừng nguyên sinh dài bất tận, xanh thẫm và mịt mùng như một tấm thảm khổng lồ. Sương mù lượn lờ từng khoảng trắng mờ đục quấn quanh những ngọn cây, tựa như có thứ gì đó đang thở ra từ lòng đất.
Tiếng động cơ trực thăng ầm ì, nhưng trong khoang, câu chuyện ngày càng nóng.
Minh khoa – một chiến sĩ trẻ nhíu mày nói:
"Nếu chỉ là một con hổ, thì chẳng thể nào hạ nổi năm người lính được trang bị vũ khí hiện đại, không lẽ cả năm người đều bất cẩn cùng một lúc?"
Voi còi vỗ đùi đánh "bộp" :
"Đúng đấy, hổ vốn là loài sống đơn độc, lãnh địa còn chẳng chịu cho đồng loại bén mảng vào. Cùng lắm là hai con đực cái, chứ làm gì có chuyện tụ tập đông như bầy sói được? Tôi thấy chuyện này có gì đó sai sai".
Diệp Lam lên tiếng, giọng đầy hồ nghi:
"Nhưng sự thật là năm đồng chí của chúng ta đã nằm lại trong rừng rồi. Không thể coi thường được, có khi là một con hổ đặc biệt to lớn hơn, hung dữ hơn và đã quen với việc săn người.."
Tôi ngồi trầm tư suy nghĩ, giờ mới lên tiếng:
"Nhưng năm người dày dạn kinh nghiệm, một con hổ thì dù to lớn đến mấy cũng khó mà áp đảo được họ trong thời gian ngắn. Phải chăng.. Còn có điều gì khác?"
Không khí bỗng lắng xuống. Mọi ánh mắt giờ đây đều dồn về chuyên gia động vật Đỗ Hồng Quang – một người đàn ông ngoài bốn mươi, nhưng sức khỏe vẫn tráng kiện, tóc hơi hoa râm, làn da rám nắng và gương mặt vuông chữ điền. Anh ngồi yên trên ghế trực thăng, tay vô thức mân mê cuốn sổ da đã cũ, nơi anh vẫn nghi chép tỉ mỉ từng kết quả quan sát. Người đàn ông ấy vẫn quen với việc dựa vào dữ liệu, vào số liệu đo đạc, vào lý thuyết tiến hóa để giải thích hành vi của muôn loài. Nhưng lúc này, trước câu hỏi vì sao năm chiến sĩ dày dạn kinh nghiệm lại gục ngã trước đàn hổ, trong lòng anh chỉ còn lại một khoảng trống mịt mùng.
Ánh mắt anh hằn sâu những nếp nhăn lo âu, khác hẳn vẻ bình thản thường ngày. Anh không sợ hổ, nhưng sợ thứ không thể giải thích bằng khoa học. Trong phút chốc anh cảm thấy mình như một kẻ bé nhỏ, bị ném ngược về thời tiền sử - nơi con người chưa phải là kẻ thống trị, nơi những bí ẩn của tự nhiên vượt ngoài tầm hiểu biết.
Ngoài kia, rừng già mở ra một bức tranh kỳ vĩ, từ trên cao nhìn xuống, từng dải xanh thẫm trải dài như tấm thảm khổng lồ, nối tiếp nhau bất tận đến tận chân trời. Những cây gỗ đại thụ cao hàng vài chục mét, tán lá dày đặc, che kín mặt đất, chỉ hé ra những dòng suối bạc loáng ánh sáng mặt trời, sương mờ tựa như khói trắng, lượn lờ ôm lấy sườn núi. Những cụm hoa rừng đỏ rực xen giữa tán lá xanh, như đốm lửa lặng lẽ cháy trong biển lá. Thỉnh thoảng bóng cánh chim khổng lồ vụt qua, để một vệt đen liêu trai trên màn sương ngang lưng chừng núi.
Dưới mặt đất, lớp sương mù dày đặc khiến những lối mòn ngoằn ngoèo hiện ra rồi tan biến như đang che dấu một thế giới khác. Anh nhìn khung cảnh ấy, lòng bỗng dâng lên một cảm giác lạ lùng, vừa mê hoặc trước vẻ đẹp nguyên sơ, vừa bất an như thể rừng đang nhìn lại con người, chứ không phải con người đang quan sát rừng. Anh khẽ lẩm bẩm:
"Có lẽ.. Chúng ta đã đánh giá thấp trí tuệ của tự nhiên".
Câu nói lạc trong tiếng cánh quạt ầm ì, nhưng trong lòng Quang, nó như lời cảnh báo. Thứ chờ đợi chúng tôi phía dưới tán lá kia không chỉ là hổ, mà có thể là cả một sự thật kinh hoàng mà nhân loại một ngàn hai trăm năm sau chưa chắc đã lý giải nổi.
Hai chú chó nghiệp vụ Bin và Max ngồi dưới chân mọi người, không hiểu chuyện, nhưng bỗng dưng tru lên khe khẽ, mắt đỏ ngầu.. Sự bất an vô thức ấy càng khiến khoang trực thăng thêm nặng nề.
Chiếc trực thăng chở chúng tôi gầm rú, rồi hạ dần xuống một khoảng đất trống giữa rừng già – địa điểm mà chúng tôi đã hẹn trước. Cả nhóm bảy người chúng tôi bước xuống, gió cánh quạt quất tung bụi đất và lá khô, khiến ai nấy phải đưa tay che mặt. Người phi công tháo tai nghe, quay lại giơ tay chào:
"Đây là điểm hẹn, chúc các Đồng Chí may mắn! Đúng một tuần nữa chúng tôi sẽ quay lại đón!"
Sau cái bắt tay thật chặt, cánh quạt lại gầm lên, trực thăng nâng mình rời đất, rồi nhanh chóng biến thành một chấm nhỏ giữa bầu trời, trong tiếng gió xa dần, chúng tôi biết kể từ nay chỉ còn bảy con người và hai con chó này dựa vào nhau để sinh tồn nơi hoang dã, cách biệt hoàn toàn với mọi sự trợ giúp từ bên ngoài. Chiếc trực thăng vội vã bay đi để làm nhiệm vụ cũng quan trọng không kém công việc của chúng tôi: Đưa các kỹ sư nông nghiệp, chuyên gia thủy lợi đi tìm những vùng đất phì nhiêu mà con người chưa khai phá, để xây dựng lại cuộc sống cho hàng vạn người dân vừa thoát khỏi ách thống trị.
Rừng già cách đây một nghìn hai trăm năm hoang sơ đến mức gần như thần thoại, cây cổ thụ cao vút, thân to đến mấy người ôm không xuể, rễ ngoằn ngoèo như những con trăn khổng lồ bò trườn trên mặt đất. Lá cây sum suê, che khuất cả bầu trời, khiến ánh sáng lọt xuống chỉ còn những vệt lốm đốm vàng úa, vừa đẹp lại vừa ma quái. Không gian im ắng lạ thường, không có tiếng chim, không có tiếng côn trùng – chỉ có tiếng gió thoảng qua kẽ lá, thỉnh thoảng rít lên như những tiếng thở dài. Hai chú chó nghiệp vụ chồm về phía trước, gầm gừ khe khẽ, chúng đi khắp nơi sục sạo gần đó, mũi đánh hơi liên tục, rồi bất ngờ cả hai dừng lại, lông gáy dựng đứng, hướng thẳng mắt vào rừng tối như thể đã nhìn thấy một bóng hình vô hình nào đó.
Voi Còi khạc nhổ một bãi, khoác khẩu súng phóng lựu sau lưng, cười gằn:
"Xem ra tụi nó cũng biết chỗ này chẳng lành, nhưng mà kệ, rừng có sâu mấy, hổ có to mấy thì tao cũng bắt về để nhân dân trị tội!"
Diệp Lam thì nheo mắt nhìn những tán cây khổng lồ, ánh mắt lóe lên sự hiếu kỳ:
"Đẹp thật, như bước vào một thế giới khác!"
Sau khi rà soát xong vũ khí, chúng tôi ngồi thành vòng tròn quanh đống lửa vừa nhóm tạm, bóng rừng dày đặc, tiếng côn trùng râm ran, xa xa vọng lại tiếng hú mơ hồ như thử thách lòng can đảm.
Tôi nêu ý kiến trước tiên:
"Chúng ta không nên mạo hiểm đi tìm hổ ngay bây giờ, trước tiên phải có chỗ trú chân an toàn, hang đá là tốt nhất, vừa tránh thú dữ, vừa làm căn cứ. Sau đó mới đặt bẫy, dùng thịt, máu động vật dẫn dụ ở những nơi hổ buộc phải lui tới – ví dụ như nguồn nước..
Voi Còi thở hắt, gật đầu:
" Chuẩn, có chỗ dựa lưng mới đánh được, không khéo mò vào rừng rậm thế này, chính chúng ta mới thành mồi ngon.
Quang – Chuyên gia động vật- lên tiếng:
"Loài hổ thường ra suối uống nước sau khi ăn no mồi, đặt bẫy ở gần đó có cơ hội nhất, nhưng nhớ chúng ta phải cảnh giác cực kỳ, vì nguyên nhân thiệt mạng của năm chiến sĩ vào rừng lần trước vẫn chưa rõ nguyên nhân – điều đó có nghĩa là trong bất kỳ khoảnh khắc nào cũng có khả năng nguy hiểm rình rập đến tính mạng.
" Hang đá thường có ở gần nguồn nước, hoặc núi đá vôi gần các con suối hoặc khe núi quanh năm nước chảy róc rách "– Diệp Lam lên tiếng.
Sau khi thống nhất ý kiến, gần như ngay lập tức, cả nhóm dập tắt lửa, thu dọn đồ, chúng tôi đi tìm các khe núi, cạnh các con suối. Hai chú chó quân khuyển giờ đây trở thành đôi mắt và đôi tai đáng tin cậy nhất của chúng tôi, chúng không chịu đi thẳng hàng mà luôn chạy lăng xăng phía trước rồi quay đầu nhìn chủ. Thỉnh thoảng, con Bin dừng lại gầm gừ khe khẽ vào bụi cây tối om, khiến tim mọi người thắt lại, dao và súng đều giơ lên chĩa theo. Nhưng chỉ vài giây sau, khi xác định đó chỉ là con sóc rừng hay con cầy chạy ngang nó mới chịu thôi, lại tiếp tục dẫn đường.
Con Max thì bám sát đội hình, tai dựng đứng, mõm liên tục hít ngửi mặt đất. Có lẽ nó lần tìm hơi thở của thú dữ còn vương trên nền đất. Mỗi khi nó dừng lại, cả đội cũng dừng, không ai dám bước liều.
Hai chú chó vẫn tiếp tục tiến bước, dù đôi lúc khựng lại, gầm gừ thấp trong cổ như đang cố cảnh báo chúng tôi. Đường rừng mỗi lúc một khó đi, dây leo chằng chịt, lá mục dày dưới chân. Trời mới xế chiều mà tán rừng đã khép kín đến mức ánh sáng gần như tắt hẳn, bóng tối bắt đầu len lỏi giữa những thân cây to bằng mấy người ôm. Sau khoảng ba giờ tìm kiếm ai nấy trong chúng tôi cũng mồ hôi thấm ướt lưng áo, hơi sương lạnh bắt đầu phủ quanh thì từ đâu đó vọng lại âm thanh khiến chúng tôi khựng lại:" Tiếng khóc "
Tiếng khóc ấy mỏng manh, nghẹn ngào giống như của một bé gái đang gọi mẹ:
" Mẹ ơi.. Con lạnh.. Con sợ lắm.. "
Voi còi là người đầu tiên lên tiếng:
" Ở nơi quái quỷ này thì làm gì có người cơ chứ - lại còn là tiếng trẻ con nữa.. "
A Trân và Diệp Lam dường như là hai người nhát nhất trong nhóm chúng tôi. Cả hai cùng đồng thanh thốt lên:
" Trời vừa bắt đầu tối.. Sao lại có tiếng người khóc.. Không lẽ? "
A Trân mặt tái mét, run rẩy nói:
" Theo như các cụ già quê em kể lại, thì khi con hổ ăn đủ một trăm xác người, đặc biệt cắn cổ họng người vào đêm trăng rằm thì con hổ đó sẽ nói được tiếng người, có thể nấp trong bụi rậm, cười, khóc y hệt như con người, dụ những người tò mò vào đó để xé xác ăn thịt. Không lẽ.. Đó là sự thật.. "
Diệp Lam thì cũng chỉ khá hơn đôi chút, nhưng đôi mắt vẫn hiện rõ sự hoảng sợ:
" Nếu hổ mà không nói được tiếng người, mà nơi đây hoang vắng, lại có tiếng trẻ con, không lẽ.. Không lẽ.. Là.. Maaa ".
Con Bin gầm lên dữ dội, tai chĩa thẳng về hướng khóc, lông trên lưng dựng đứng thẳng lên như bàn chông, rõ ràng là chúng đang cố cảnh báo chúng tôi, nhưng con Max vẫn tiến về phía trước cẩn thận vừa đi vừa ngửi, thận trọng dò xét mà không gây ra tiếng động gì
Tất cả mọi người im lặng nghe tiếng khóc – tiếng khóc ấy không chỉ giống một người cụ thể, mà còn quá rõ trong không khí dày đặc sương mù, như thể ai đó đang thì thầm sát bên tai.
Cả nhóm chụp lại thành vòng trong tựa lưng vào nhau, đèn pin và súng chĩa ra bốn phía. Sương mù lạnh lẽo lượn lờ quanh chân, luồn vào cổ áo, còn tiếng khóc kia vẫn văng vẳng, khi xa khi gần. Ngay cả chuyên gia động vật ngày thường rất cứng cỏi, lúc này cũng hoang mang:
" Ở nơi rừng núi hoang vắng này, lại còn nổi tiếng về nạn hổ ăn thịt người, sao lại có tiếng trẻ con khóc được, không những một đứa, mà.. Mà còn là hai đứa? Nhà ai mà lại để con cái đi lạc vào đây? "
Tôi trầm ngâm từ nãy. Giờ bắt đầu lên tiếng:
" Không phải hai, là ba.. Không cần biết chúng là thứ gì, chúng ta phải hoàn thành nhiệm vụ "– Nói rồi tôi tôi rút khẩu súng lục có gắn đèn pin ra, một tay còn lại thì cầm con dao cong đặc biệt mà bà Tống đã trao cho từ trước, chầm chậm tiến về nơi có tiếng khóc. Hai chú chó cảnh giác đi theo hai bên, dường như chúng không gây bất kỳ tiếng động nào, mặc dù có đôi chút sợ hãi nhưng vẫn sẵn sàng lao vào bảo vệ chủ. Những người còn lại cũng tựa lưng vào nhau, đèn pin và vũ khí cũng đã chĩa ra bốn phía, bọc A Trân vào giữa chầm chậm tiến bước.
Chúng tôi áp sát từng bước, chân dẫm lên lớp lá mục mềm nhũn, tiếng động bị sương mù nuốt chửng, tiếng khóc vẫn yếu ớt vang lên, nhưng giờ đây đã nghe rõ hơn cả tiếng thở gấp, run rẩy nghe rõ ràng là tiếng người. Khi cách chừng bảy, tám mét, bóng người trong sương bắt đầu hiện rõ hơn. Một hình ảnh khiến tất cả chúng tôi ngạc nhiên: Một cô gái trẻ, tóc xõa rối bời, bị trói vào giữa thân cây, không xa là hai đứa bé – một trai, một gái ước chừng bốn hoặc năm tuổi cũng bị trói chặt vào thân cây không nhúc nhích gì được. Chân tay cả ba đều lấm lem bùn đất, gương mặt mệt mỏi lẫn hoảng sợ cực độ, mắt đã khóc đến mức sưng húp cả. Cô gái nhận ra bóng người lấp ló trong sương liền ngẩng mặt lên, đôi mắt đỏ mọng vì đã khóc quá nhiều, run rẩy thốt ra:
" Các anh chị ơi.. Cứu bọn em.. Trưởng làng bắt trói chúng em ở đây! "
Bản năng người lính không cho phép chúng tôi đợi lâu. Tôi lập tức cúi xuống, dùng con dao đang cầm của bà Tống cắt từng sợi dây trói cổ tay cô gái và hai đứa trẻ, lớp dây đã hằn sâu vào da, để lại những vệt sưng tấy, có chỗ rớm máu. Khi sợi dây cuối cùng rơi xuống, cả ba con người vừa thoát chết run rẩy chạy lại ôm chầm lấy nhau, tiếng nức nở còn to hơn lúc trước.
Chúng tôi đưa cho mỗi người một bình nước nhỏ, Diệp Lam và A Trân thì ngay lập tức kiểm tra xem cô gái và hai đứa trẻ có vết thương nguy hiểm nào không. Sau khi xác nhận không có bất cứ vết thương lớn nào, cô gái mới kể lại chuyện cho chúng tôi, giọng vẫn nức nở, gương mặt vẫn chưa hết bàng hoang sợ hãi:
" Chúng em.. Là người làng gần đây.. Hồi trưa, trưởng làng chọn chúng em để cúng thần hổ, nói là.. Nếu không hiến tế.. Cả làng sẽ bị xé xác! "
Nghe đến đây, cả nhóm lặng đi, ánh mắt hai đứa trẻ còn hoảng sợ hơn cả cô gái, đôi môi tím lại vì lạnh, chúng bám chặt lấy nhau, không dám rời nửa bước, như thể bất cứ khoảng cách nào cũng sẽ khiến một trong hai biến mất.
Cô gái tiếp tục, giọng càng lúc càng run:
" Họ trói bọn em.. Dẫn sâu vào trong rừng.. Bỏ lại và nói là thần hổ sẽ đến.. Và.. Và.. "
Câu cuối cùng cô không dám nói tiếp chỉ úp tay lên mặt và khóc. Tôi thấy đôi vai gầy run lên từng cơn, và hiểu rõ rằng họ vừa trải qua mấy giờ đồng hồ sống trong khủng hoảng tột độ - mỗi tiếng động, mỗi làn gió lay cành cây cũng có thể là dấu hiệu của tử thần.
A Trân và Diệp Lam nhanh chóng lấy lương khô chúng tôi mang theo chia cho cả ba người, nhưng dường như nỗi sợ hãi vẫn chưa tan biến, mặc dù trông có vẻ rất đói, nhưng cả ba không ăn được nhiều.
Như vậy, đoàn chúng tôi ban đầu là bảy người, giờ đây thêm hai đứa bé và cô gái vừa được cứu, con số đã tăng lên mười. Thế nhưng trong mười người ấy, chỉ có sáu người là thực sự có khả năng chiến đấu: Tôi – Diệp Lam, Voi Còi, chuyên gia động vật cùng hai chiến sĩ đặc nhiệm.
Bốn người còn lại hoàn toàn là gánh nặng trong tình huống này. A Trân tuy nói là biết địa hình, nhưng không được huấn luyện quân sự, lại là con gái chân yếu tay mềm. Cô gái bị bắt hiến tế thì vừa run rẩy vừa sợ hãi, hai đứa bé thì ngây thơ và yếu ớt, chỉ một tiếng gầm trong bóng tối cũng đủ khiến chúng chết lặng – điều đó khiến sáu người trong số chúng tôi luôn phải để hai người thay phiên nhau cõng chúng. Điều này khiến đội hình vốn cơ động và gọn nhẹ của chúng tôi trở lên cồng kềnh – nhưng biết sao được, bảo vệ nhân dân là niềm vui của lính chúng tôi mà. Mỗi bước di chuyển của chúng tôi đều phải chậm lại để bảo đảm an toàn cho những người không thể tự vệ. Tôi biết rõ – trong rừng sâu chỉ cần chậm hơn thú săn mồi một nhịp thôi là đủ để trả giá bằng cả mạng sống.
Chúng tôi vừa mới cứu được ba người, chưa kịp hỏi thêm điều gì thì rừng già lại chìm vào một thứ tĩnh lặng nặng nề, chỉ có tiếng thở hổn hển xen lẫn tiếng là khô lạo xạo dưới chân. Đến khu đất trống, tôi ra hiệu dừng lại, cả nhóm tập hợp thành vòng tròn quanh ánh sáng nhỏ của chiếc đèn pin. Voi còi là người lên tiếng trước:
" Chỉ huy, giờ ta mang thêm ba người không chiến đấu được, tốc độ sẽ giảm xuống còn một nửa. Tôi đề nghị đưa họ ra ngoài trước, rồi mới truy tìm con hổ, điều tra nguyên nhân dẫn đến sự hy sinh của năm người anh em chúng ta ".
Diệp lam lắc đầu ngay, ánh mắt sắc lạnh:
" Đưa ra ngoài là thế nào? Trong rừng này, ngoài chúng ta ra ai đủ sức bảo vệ họ? Các anh định để ba người quay lại làng rồi lại bị bắt đưa vào rừng hiến tế à? "
Mọi người xì xào bàn tán một hồi, rồi cuối cùng, quay sang nhìn tôi, chờ lá phiếu cuối cùng. Tôi nhỏ nhẹ lên tiếng;
" Khi gia đình không còn là chỗ dựa vững chắc nữa, thì họ biết dựa vào ai bây giờ? "– nói rồi tôi đưa tay chỉ lên ngực áo, chiếc áo quân phục có in dòng chữ thiêng liêng mà ai cũng biết là gì đó. Câu nói ấy khiến cho mọi người như bừng tỉnh, quyết định phải nhanh chóng tìm cho ra hang đá lấy chỗ trú chân cho an toàn trước đã, rồi nhiệm vụ để tính sau, vì khi đêm về là thời điểm săn mồi của loài hổ.
Chúng tôi men theo dòng suối lớn, hướng về phía ngọn núi đá đằng xa mà chúng tôi đã nhìn thấy từ khi bầu trời còn ánh nắng chiếu vào đi tìm hang đá trú chân, y như tổ tiên chúng ta ngày xưa cũng sống trong hang đá vậy. Khoảng nửa giờ sau, từ phía trước vang lên tiếng gọi dồn dập của Minh Khoa – một cậu lính trẻ tuổi, có gương mặt dường như búng ra sữa
" Ở đây này! Tôi tìm thấy rồi! "
Chúng tôi vội chạy lại, dưới ánh đèn pin soi kỹ mới thấy trước mắt hiện ra một vách núi dựng đứng, dây leo chằng chịt. Cửa hang trước mặt không hề nhỏ, rộng chừng ba người như Voi Còi đứng ngang vẫn còn dư khoảng, từng mảng dây leo buông xuống như tấm rèm tự nhiên, hang cao gần gấp đôi thân người, đủ rộng cho mười người chúng tôi trú chân, nền đá dưới chân tương đối bằng phẳng chỉ rải rác vài phiến đá lớn có thể tận dụng làm ghế ngồi, Ở giữa hang có một khoảng trống tròn như cái sân nhỏ, rất hợp để nhóm lửa.
Tiếng gió luồn qua các khe đá tạo thành âm thanh ù ù trầm đục, nghe xa như tiếng biển, không khí trong hang vừa mát vừa khô, không hề nặng mùi ẩm mốc, một vài chỗ trên trần vòm rũ xuống những khối thạch nhũ óng ánh, phản chiếu ánh đèn pin thành vô số đốm sáng lung linh đẹp đến mức khiến ai nấy quên cả mệt mỏi.
Sau khi dùng đèn pin cẩn thận thăm dò khắp hang, từ những ngóc ngách tối cho tới trần vòm cao, chúng tôi yên tâm ràng nơi này không có dấu hiệu của dã thú trú ngụ. Nền đá bằng phẳng, khô ráo, chỉ có vài khe nứt nhỏ thông gió ra ngoài, một vài tiếng gió rít vọng lại nghe như tiếng hú, nhưng thực ra chỉ là tiếng gió lùa qua khe đá.
Yên tâm phần nào, chúng tôi gom củi khô ở gần xung quanh, châm lửa giữa khoảng trống tròn nơi trung tâm hang. Ngọn lửa bùng lên, ánh sáng vàng hắt ra bốn phía làm thạch nhũ trên trần lấp lánh như được dát vàng. Nhiệt lửa tỏa ra khiến cảm giác trong hang ấm áp hơn hẳn, xua tan cái lạnh ban đêm của núi rừng.
Hai người trong nhóm nhận nhiệm vụ trực canh ở cửa hang, súng trên vai, mắt luôn hướng ra ngoài, bên cạnh là hai chú chó nghiệp vụ nằm phục sát đất, tai dựng thẳng, mũi khẽ động đậy sẵn sàng phát hiện bất kỳ mùi lạ nào. Ở nơi rừng thiêng nước độc nổi tiếng có đi không về này, đề phòng chưa bao giờ là thừa.
Ở bên trong hang, phần còn lại ngồi quây quần quanh đống lửa, mọi người tranh thủ hong khô quần áo, lấy bi đông múc nước đun sôi. Dương như là bản năng của phụ nữ, A Trân và Diệp Lam nhanh nhẹn chăm sóc, và lau người cho hai em nhỏ mà chúng tôi vừa cứu thoát, ôm ấp và kể chuyện vỗ về cho hai em đỡ sợ.
Tiếng lửa nổ lách tách hòa cùng tiếng thở đều đều của những người đã mệt mỏi suốt ngày dài, tạo nên một nhịp điệu bình yên hiếm hoi giữa nơi rừng thiêng nước độc. Một chiếc nồi dã chiến được đặt trên bếp lửa, nước sôi ùng ục, hương thơm từ vài lát thịt khô thả vào lan tỏa trong không khí, quyện cùng mùi khói củi. Cả đoàn ai nấy đều im lặng một lát, như chỉ muốn tận hưởng sự bình yên hiếm hoi.
" Cả ngày hôm nay, cuối cùng cũng được ngồi xuống "– Tiếng Voi Còi vừa nói vừa cười, tay thì bẻ lương khô đưa cho hai em nhỏ!
Tôi ngồi gần ở cửa hang hơn cả, mắt vẫn dõi ra màn đêm đặc quánh bên ngoài, trong lòng dâng lên một cảm giác lạ: Tuy đã chuẩn bị kỹ càng nhưng tôi vẫn có linh tính bóng tối ngoài kia đang che dấu điều gì đó.
Chúng tôi thay phiên nhau vừa ăn vừa nghỉ, cơn đói dần lắng xuống, ai nấy đều thả lỏng cơ thể sau cả ngày dài mệt mỏi. Ngọn lửa reo lách tách, ánh sáng ấm áp khiến bầu không khí trong hang tưởng như yên bình tuyệt đối.
* * * Thế nhưng, sự yên ả ấy chẳng kéo dài được bao lâu.
Từ ngoài rừng sâu bỗng vọng lại một âm thanh kỳ lạ - Một giọng hát. Ban đầu rất mơ hồ, như tiếng gió len lỏi qua kẽ lá, nhưng càng lúc nó càng rõ ràng hơn: Đó là tiếng hát của một người phụ nữ, vang lên cao vút rồi lại trầm xuống, lẫn trong tiếng gió và tiếng côn trùng nghe lạnh sống lưng. Cả nhóm lập tức im bặt, không ai dám nhai thêm miếng nào. Max và Bin Hai chú chó nghiệp vụ đứng phắt dậy, gầm gừ, mắt chăm chú nhìn ra ngoài cửa hang. Tôi đưa tay ra hiệu cho hai chú chó. Ngay lập tức cả hang chìm trong im lặng căng thẳng, chỉ còn tiếng lửa cháy và tiếng gió u u ngoài rừng. A Trân hoảng sợ đến mức mặt trắng bệch, hai tay ôm chặt lấy vai, run rẩy đến mức khó mở miệng, sau một hồi lắp bắp.. Cuối cùng đôi môi run rẩy cũng thốt lên thành lời:
" Là giọng của.. Mẹ Mỹ Mỹ! "
Mọi người sửng sốt, mặc dù chúng tôi chưa từng gặp mẹ của Mỹ Mỹ, nhưng không ai xa lạ gì câu chuyện của Mỹ Mỹ: Cha bị triều đình phong kiến bắt đi lính từ khi con bé còn trong bụng mẹ. Một mình mẹ Mỹ Mỹ nuôi con bé đến khi nó năm tuổi thì bị quân lính của Thạch Tà cướp sạch lương thực (của cả vùng) mang vào cố thủ trong hang núi. Hết cách, mẹ Mỹ Mỹ phải vào rừng kiếm cái ăn cùng vài người dân làng, rồi sau đó bị hổ vồ, cắn cổ tha đi trước sự bất lực của vài người dân trong làng cùng tiếng gào khóc đứt ruột gan của Mỹ Mỹ!
A Trân còn trẻ, lại là người cùng làng, vốn chẳng xa lạ gì gia đình Mỹ Mỹ, nên chuyện cô nghe nhầm giọng hát là điều khó có thể xảy ra..
" Nhưng.. Chị ấy.. Chẳng phải đã? "– Giọng của Diệp Lam bắt đầu trở nên hoang mang và sợ hãi!
A Trân bật khóc – dường như vừa nhớ lại cảnh tượng đau buồn vừa hoảng sợ, Giọng nghẹn ngào:
" Phải.. Chị ấy chết rồi.. Bị hổ cắn cổ lôi đi ngay trước mặt em và vài người làng nữa.. Mấy tháng nay rồi.. Làm sao còn có thể hát được? "
Không khí trong hang bỗng chốc như đông cứng lại, tất cả đều cảm thấy rùng mình như có luồng khí lạnh từ ngoài rừng ùa vào..
Tiếng hát kia vẫn kéo dài, lúc gần, lúc xa, chập chờn không dứt. Nó vang lên từng câu chậm rãi u uất, nghe như tiếng gọi từ cõi âm vọng về, khiến da gà nổi khắp người. Nếu đúng như lời A Trân, thì thứ hát ngoài kia không phải là người sống.
Nỗi sợ ấy lan nhanh như một cơn gió lạnh, có lẽ vì nhìn thấy sự hoảng sợ của A Trân, hai đứa bé năm tuổi vốn đang rúc sát vào nhau bên đống lửa cũng bắt đầu cảm nhận được bầu không khí khác thường. Bé gái bắt đầu òa khóc, úp mặt vào người lớn để che đi âm thanh ma quái kia, bé trai còn lại run rẩy níu chặt tay bạn, đôi mắt tròn xoe nhìn quanh như sợ sẽ bị bóng tối nuốt chửng bất cứ lúc nào, nước mắt cũng bắt đầu trực trào.
Cô gái mười bảy tuổi – mới lớn, lòng còn non trẻ, nhưng những câu chuyện ma mị cô đã được nghe từ bé thì không ít, đứng sau ngọn lửa, đôi vai run lên từng chập, chắp hai tay đang lầm rầm khấn vái hướng ra phía cửa hang.
Vì thân hình quá khổ, nên khả năng leo trèo của Voi Còi rất kém, tôi dặn Voi Còi cùng mọi người ở lại bảo vệ an toàn tuyệt đối cho hai đứa trẻ, A Trân, và cô gái mười bày tuổi – những người vốn không có sức chiến đấu, sau đó tôi ra hiệu cho Minh Khoa – cậu lính trẻ theo cùng, chúng tôi nhẹ nhàng bước ra ngoài cửa hang, nơi hai con chó nghiệp vụ vẫn đang cảnh giác cao độ, ánh mắt căng thẳng dõi vào màn đêm đặc quánh.
Gió lạnh bên ngoài hang mang theo hương ngai ngái lạ lùng, tiếng hát vẫn vang vọng đâu đó, khi xa khi gần. Mỗi bước đi tim tôi đập nhanh hơn nhưng càng lúc càng quyết tâm phải nhìn cho rõ rốt cuộc là thứ gì đang rình rập ngoài kia.
Minh khoa đi sát bên, bàn tay nắm chặt khẩu súng AK, ánh mắt lộ rõ sự căng thẳng nhưng vẫn kìm nén để không run. Chúng tôi chọn một cây cao gần cửa hang, thân cây sần sùi, cành cây đủ chắc để leo lên. Vì ở trong hang không thể nhìn ra gốc cây này cho nên chúng tôi chia nhau Minh khoa canh gác, tôi là người leo lên trước, sau khi leo lên được rồi, thì tôi ở trên cao lại cầm súng để bảo vệ cho Minh Khoa ở dưới leo lên.
Cả hai phối hợp ăn ý, cẩn trọng để không gây ra bất kỳ tiếng động nào, khi đã leo lên được tán cây, chúng tôi thấy gió thổi mạnh hơn, rừng đêm trải ra mênh mông và bí ẩn. Tôi lắp súng ổn định vào nhánh cây chắc chắn, bật ống ngắm nhìn đêm. Một tiếng" tách "nhỏ vang lên, và ngay lập tức bóng đêm tối mịt mùng trong mắt thường bỗng hiện lên rõ rệt trong ống kính. Qua ống ngắm, từng gốc cây, bụi cỏ, cả làn sương mỏng trườn trên mặt đất đều trở nên sáng hơn, rõ ràng hơn.
Minh Khoa ngồi ngay cạnh, tay cầm súng trường cũng có gắn ống nhòm đêm. Tôi lia ống ngắm khắp khu rừng. Ban đầu chỉ có những thân cây già, những bụi rậm và vài cặp mắt thú nhỏ phát sáng xa xa. Nhưng rồi.. Ống ngắm trong tay tôi chợt bắt được một chuyển động khác thường, ban đầu tôi cứ ngỡ là bóng người, nhưng chỉ vài nhịp tim sau, tôi cứng đờ cả người.
Ngoài xa kia, giữa khoảng rừng trống lờ mờ ánh trăng, không phải là người.. Mà là một con hổ.
Từ trên ngọn cây, qua ống ngắm nhìn đêm, tôi thấy rõ mồn một cảnh tượng khiến tim suýt ngừng đập:
Ở giữa – sừng sững như một vị vua đến từ địa ngục: Con hổ trắng đầu đàn, thân hình nó to lớn gần bằng một con ngựa chiến, cơ bắp cuồn cuộn, từng bước đi làm mặt đất cũng như run sợ. Bộ lông trắng toát, dưới ánh trăng loang lổ, phản chiếu ánh sáng xanh rờn từ ống ngắm khiến nó chẳng khác nào một oan hồn khổng lồ đội lốt dã thú. Đôi mắt nó sáng rực lên như hai cục than hồng, vừa lạnh lùng vừa khát máu. Mỗi âm thanh mà từ cổ họng nó phát ra lại quặn thắt lồng ngực người nghe, như tiếng người đàn bà đang hát trong mộng mị chết chóc.
Ngay sau nó, hai con hổ vằn máu di chuyển song song như hộ vệ trung thành, bộ lông của chúng vẫn vằn, nhưng những sọc đen cổ điển giờ đây biến dạng, nhuộm thành thứ màu đỏ tươi như máu thấm lâu ngày. Dưới tầm nhìn của ống ngắm, trông chúng như vừa được lột da từ một cái xác đẫm máu, rồi khoác lên mình để thị uy. Mỗi bước chúng đi, bờ vai gồ lên như tảng đá, đôi mắt sáng rực ánh máu, không gầm rú, không rống lên mà lặng lẽ quan sát như hai cánh tay tả hữu của một tướng quân.
Qua ống ngắm, tôi lia dần sang hai bên và.. Tim như ngừng đập. Không chỉ là ba con hổ dị thường, mà xung quanh dần hiện ra đàn hổ vằn đông khủng khiếp. Chúng đứng ẩn nấp dưới bóng cây, khe núi, cạnh suối.. Từng đôi mắt vàng khè sáng lên như những đốm lửa lập lòe trong đêm. Tôi đếm nhanh.. Ít nhất phải ba mươi con.
Con to thì gần bằng con ngựa chiến, con nhỏ thì cũng cao ngang ngực người lớn, vai u thịt cuồn cuộn, chỉ cần tát một cái cũng đủ xé nát thân người, con nào con nấy len lỏi nhanh nhẹn như những bóng ma giữa rừng. Ngoài ra còn có khoảng năm, sáu con hổ non, nhưng móng vuốt đã dài nhọn, ánh mắt trong veo nhưng ranh mãnh, như đã được tập dượt để săn mồi. Chúng không ngây thơ như thú non bình thường, mà ánh mắt lạnh lẽo, tàn bạo như được nuôi dạy bằng máu người.
Tiếng tru ngân nga của con hổ trắng còn chưa dứt, thì bất chợt từ nhiều hướng trong rừng vọng lại những âm thanh hỗn loạn. Lũ hổ vằn khổng lồ kia cũng cất tiếng.
Nhưng chúng không gầm như dã thú, mà phát ra những âm thanh.. Của con người.
Một con tru lên tiếng cười khanh khách, lạnh toát sống lưng, giống hệt tiếng cười của một người đàn bà đã ngoài sáu mươi..
Một con khác thì cất tiếng như tiếng hát ru khe khẽ, nghe rờn rợn như tiếng mẹ dỗ con ngủ, nhưng kéo dài, nghẹn ngào, đứt quãng. Có con lại bật ra tiếng khóc thảm thiết, lẫn trong tiếng rống, như tiếng ai bị cắt cổ vẫn cố kêu cứu trong tuyệt vọng.
Âm thanh của hàng chục con hổ hòa quyện vào nhau, tạo thành một bản nhạc tang thương, lúc thì chập chờn như vọng từ cõi âm, lúc lại dồn dập như lễ tế của ma quỷ.
Cả khu rừng chìm trong những âm thanh hỗn loạn ấy, như thể hàng trăm ngàn linh hồn bị nuốt chửng đang bị cầm tù trong cổ họng lũ hổ, bị biến thành công cụ gieo rắc kinh hoàng cho những kẻ còn sống.
Tôi siết chặt khẩu súng trong tay, mắt vẫn dán qua ống ngắm nhìn đêm, một luồng suy nghĩ lóe lên trong đầu: Giờ thì tôi đã hiểu tại sao năm đồng đội của chúng tôi làm nhiệm vụ lần trước không một ai sống sót trở về. Nếu đêm nay chúng tôi không tìm thấy cái hang đá này, một chỗ trú ẩn vững chắc để tránh đàn hổ tấn công từ mọi hướng.. Thì có lẽ số phận của chúng tôi sẽ sớm an bài. Ngoài kia, đàn hổ đông và to lớn dị thường, lẩn trong đêm tối như những bóng ma, chỉ cần lạc một bước sẽ không ai toàn mạng.
Suy nghĩ miên man trong đầu vẫn chưa dứt, trong khoảnh khắc nghẹt thở khi con hổ trắng ngẩng đầu gầm vang, âm thanh rền rĩ như sấm dội cả khu rừng tôi càng hiểu rõ hơn vì sao người xưa ở nhiều nơi trên thế giới lại lập miếu thờ thần hổ đến vậy. Cái thời súng đạn chưa phát triển, khi vũ khí chỉ là gươm giáo, cung tên. Làm sao người ta có thể chống lại con thú khổng lồ và hung dữ như thế này! Chỉ cần một con hổ thôi cũng đủ gieo rắc kinh hoàng, huống chi cả đàn hổ to lớn, quái dị đến rợn người, chẳng trách nơi nào trên bản đồ có hổ xuất hiện, nơi đó hầu như đều có phong tục thờ" thần hổ ".
Trên ngọn cây, tôi ép sát thân mình vào cành, mắt không rời khỏi ống ngắm. Đàn hổ vẫn đang di chuyển nhưng chưa vội áp sát, con hổ trắng đứng đầu đàn, dáng như một vị tướng chỉ huy, thỉnh thoảng ngẩng đầu cất lên tiếng tru ma quái. Hai con hổ vằn máu hộ vệ thì lượn vòng quanh nó, ánh mắt đỏ rực như đang dò xét cả khu rừng.
Tôi hít một hơi thật sâu, rồi ra hiệu bằng tay cho Minh Khoa đi xuống. Bàn tay tôi nắm lại, rồi mở ra, chỉ về phía hang – tín hiệu ngắn gọn nhưng rõ ràng:" Báo cho họ biết, nhưng không được dùng lời nói! "
Minh Khoa khẽ gật đầu, không một lời, không một tiếng động. Cậu rút dần người khỏi thân cây, trườn xuống như một con mèo rừng. Cành lá rung nhẹ nhưng không phát ra một âm thanh nào, tôi dõi theo đến khi bóng cậu ta khuất vào trong hang.
Trong hang, ánh lửa bập bùng soi rõ sự lo lắng của từng gương mặt. Minh Khoa bước vào, giơ tay ra hiệu im lặng tuyệt đối. Ở cái nơi vốn không thiếu những chuyện quái dị này, lại nghe truyền thuyết về việc một con hổ mà ăn đủ một trăm xác người thì nó sẽ giả được giọng của những người mà chúng đã ăn, và tai thì nghe và hiểu tiếng người thì thầm cách đó cả chục cây số. Cái khoản đầu tiên – giả tiếng người khóc, tiếng người đã khuất hát ai oán não nùng – chúng tôi đã tận mắt chứng kiến, tận tai nghe thấy. Còn việc thứ hai: Nghe và hiểu tiếng người thì thầm từ khoảng cách xa, chúng tôi không biết có phải là lời đồn hay không, nhưng cẩn thận vẫn hơn!
Sau khi thấy mọi người đã tuân thủ ám hiệu, ai nấy vừa có chút hoang mang xen lẫn ánh mắt sợ hãi, Minh Khoa mới quỳ xuống, bắt đầu dùng dao khắc chữ trên nền hang. Từng nét dao hằn xuống, khô khốc và căng thẳng, trong khi ngoài kia, tiếng đàn hổ vọng về ngày càng gần. Tiếng cười, tiếng hát, tiếng gầm gừ quái dị chồng chéo vào nhau.
Mọi người vây lại, mắt chăm chăm nhìn những dòng chữ hiện lên:
Hổ trắng – đầu đàn – chỉ huy lo
Hai hổ vằn máu – hộ vệ - Voi Còi lo
Tất cả những người còn lại giữ cửa hang, giết hổ vằn. Tuyệt đối không lên tiếng – chúng hiểu tiếng người.
Lưu ý, chúng có khoảng ba mươi con!
Một sự im lặng đến nghẹt thở bao trùm. A Trân run rẩy, ôm chặt hai đứa bé. Cô gái mười bảy tuổi cắn môi, ánh mắt hoảng hốt tột độ như hồi chiều khi chưa được chúng tôi cứu. Những quân nhân trong hang còn lại, bao gồm cả Voi Còi – ánh mắt chuyển từ hoang mang – hoảng hốt – sang nghiêm nghị và sẵn sàng chiến đấu.
Voi Còi khẽ nhấc khẩu súng phóng lựu sáu nòng xoay, từng vòng xoay kim loại phản chiếu ánh sáng đỏ hắt từ đống lửa, trông như một bánh xe tử thần. Cậu ta kiểm tra lại đạn, rồi khẽ búng tay lên báng súng, ánh mắt rực lửa, đôi môi mím chặt, gân cổ nổi lên. Cậu ta hiểu là làm oan hồn hàng đêm nghêu ngao hát dưới họng của dã thú – hay là làm anh hùng diệt hổ phụ thuộc vào mấy giây sắp tới!
Diệp Lam bình thường hay khắc khẩu với Voi Còi, giờ tỏ ra thân thiện hơn hẳn – cô chỉ tay về đống lửa, ra hiệu cho Voi Còi nếu hết đạn thì dùng lửa đối phó hay hơn là báng súng! Tuy nhiên gương mặt cô hơi tái đi, nhưng ánh mắt thì không hề lùi bước. Theo bản năng người lính cô nhìn thoáng qua hai đứa trẻ rồi quay lại, hít một hơi thật sâu, siết mạnh cò súng, như muốn lấy sự sống của mình đổi lại sự an toàn cho chúng!
Chuyên gia động vật thì gần như không chớp mắt. Anh ấy đã nghiên cứu về động vật nhiều năm nhưng chưa bao giờ thấy thứ gì như thế này – một đàn hổ biết phối hợp như quân đội, biết bắt chước tiếng người. Anh thầm nghĩ trong đầu:" chúng không còn là dã thú bình thường nữa, đây là quái vật rồi "Tay trái anh đặt lên con dao quân dụng cài ở thắt lưng trên bộ quân phục rằn ri xanh lá, tay phải giữ thật chặt khẩu súng.
Quốc Vinh thì ngồi gần ở cửa hang, lưng tựa đá, súng gác lên đầu gối, nòng hướng thẳng ra ngoài, mắt liếc sang Voi Còi, khẽ gật đầu như thể quá hiểu ý nhau:" Anh lo hai con vằn máu, còn em lo đàn còn lại! "
Trong góc hang, A Trân ôm hai đứa bé sát vào ngực, toàn thân cô run rẩy, môi mím đến bật máu. Tiếng hát ma quái ngoài kia càng lúc càng rõ, cô càng nhớ đến cảnh tượng kinh hoàng mà không ít người dân quanh vùng mà cô quen biết đã bị hổ ăn thịt – nay lại nghe thấy những âm thanh quen thuộc của những con người đáng lẽ ra là đã ở thế giới bên kia..
Cô gái mười bảy tuổi thì càng thảm hơn, cô quỳ thụp xuống góc trong cùng của hang, hai tay ôm chặt tai, mắt nhắm nghiền, nước mắt rơi lã chã. Nỗi sợ làm toàn thân cô run rẩy, cô cố bịt chặt tai để không nghe thấy tiếng cười khanh khách vọng lại, dường như cô nhận ra tiếng cười quen thuộc đó là của một gia đình người làng cô, vì sợ con của họ bị bắt đi hiến tế" thần hổ "nên cả nhà dắt dìu nhau đi khỏi làng vào ban đêm, nhưng sáng hôm sau dân làng nhận ra họ đã chết thảm dưới móng vuốt hổ, những gì còn sót lại chỉ là quần áo và giày dép còn bê bết máu.
Hai con chó nghiệp vụ đứng chắn ngay cửa hang, bộ lông chúng dựng ngược, răng nhe ra gầm gừ. Không con nào lùi bước dù bốn chân run lên bần bật. Bản năng tổ tiên qua gene di truyền đã nói cho chúng biết những sinh vật ngoài kia là thứ mà loài chó nên tránh càng xa càng tốt. Nhưng vì đã qua khóa huấn luyện khắt khe của quân đội, dường như chúng cũng có tinh thần của người lính: Sẵn sàng bỏ mạng chứ không rời nhiệm vụ!
Bên ngoài, tiếng gió rít lên, mang theo mùi hăng hắc của máu và lông thú, tiếng gầm trầm đục của hổ trắng vang lên, chấn động cả khu rừng, rồi tiếng cười, tiếng hát ma quái của đàn hổ đồng loạt nổi lên, khiến mặt đất như rung chuyển.
Trong cái khoảnh khắc căng như dây đàn, tiếng động bất thường vang lên từ góc rừng khuất sau tảng đá lớn, rồi đột ngột, hai bóng đen khổng lồ hiện ra – hai con bò rừng với thân hình cơ bắp cuồn cuộn, đôi sừng dài lấp loáng ánh trăng, máu me còn vương trên cổ, mắt đỏ rực, mồ hôi lấm tấm bốc hơi mù mịt trong khí lạnh. Chúng không lao vào một cách vô cớ, xung quanh chúng, đàn hổ vằn tỏa ra thành một vòng cung kín, như những mũi giáo cắm xuống mặt đất, rít gầm gừ từng nhịp. Chúng quây lại bốn phía, dồn ép từng bước, chỉ chừa duy nhất một lối thoát: Cửa hang, nơi mọi người đang ẩn náu.
Những cú vồ sượt qua, những cú cào vào hông khiến hai con bò rống lên thảm thiết, mắt lạc đi trong cơn hoảng loạn. Không còn con đường nào khác, cả hai con thú khổng lồ như phát điên, cắm đầu lao thẳng vào hang. Tiếng móng guốc dập đất rầm rập, âm vang như tiếng trống tử thần.
Đúng như kế hoạch ma quái của đàn hổ: Hai con bò rừng trở thành mũi tên sống, vừa che chắn cho chúng khỏi đạn, vừa xé nát đội hình trong hang. Trong tích tắc, mọi người trong hang chưa kịp hiểu chuyện gì thì cả cửa hang đã rung chuyển bởi tiếng thét rống của bò, tiếng đá văng lạo xạo và ngay sau đó là những bóng vằn chớp lóe trong bóng tối đang chực chờ ập vào.
Qua ống ngắm nhìn đêm, tôi bám chặt vào thân cây, mắt không rời khỏi con hổ trắng đầu đàn. Tôi hít sâu, giữ hơi thở, ngón tay đặt lên cò súng, chỉ cần nó đứng im thêm một nhịp tim thôi..
Nhưng.. Nó biến mất, một thoáng trong cái chớp mắt, cái bóng trắng ấy đã lẩn ra sau những tán cây rậm, tôi vội lia nòng súng, căng mắt nhìn qua ống ngắm, tim tôi đập dồn dập như trống trận.
Rồi bất ngờ, nó lại xuất hiện ở một góc hoàn toàn khác, đôi mắt sáng rực như ngọn lửa xanh ma quái. Chưa kịp ngắm chuẩn, nó lại biến mất, chỉ còn tiếng lá xào xạc, như có hàng chục cái bóng trắng đang di chuyển quanh tôi.
Tôi cắn chặt môi, mồ hôi chạy dọc sống lưng. Khốn kiếp.. Nó biết có tay bắn tỉa đang theo dõi – tôi thoáng nghĩ, tim thắt lại.
Nó không lao tới như loài thú bình thường, nó ẩn hiện như một chiến binh lão luyện, biết rõ cách khiến tôi không có đường bắn, mỗi lần vừa lấy nét, cái bóng trắng ấy lại lùi vào bóng tối, để lại những ảo ảnh khiến tôi hoa mắt.
Khi tôi vẫn dán mắt vào con hổ trắng, từng hơi thở nén chặt, toàn bộ tâm trí đang tập trung thì đúng lúc ấy, mặt đất phía dưới rung lên, tiếng guốc dồn dập, tiếng gió rít ngang tai.
Tôi giật mình rời mắt khỏi ống ngắm nhìn về phía cửa hang: Hai con bò rừng khổng lồ đang lao thẳng vào hang, ngay phía sau là hàng dài những con hổ vằn khác cũng tràn vào như nước lũ không gì cản nổi.
Tôi thầm nhủ.. Không.. Các bạn mình không xong rồi, không mất thời gian suy nghĩ, tôi xoay nòng súng bắn tỉa, nhằm thẳng con bò mà bắn, quyết không để âm mưu của đàn hổ thành hiện thực. Nhưng.. Khẩu súng bắn tỉa quá dài, lúc ở xa thì là lợi thế nhưng giờ đang ở trên cây, cành lá ken dày, nó lại biến thành gánh nặng. Nòng súng quệt vào cành cây, tôi lại đang xoay người, thao tác va chạm nòng súng vào cành cây làm tôi mất thăng bằng, hành động chậm đi vài giây, nhưng vài giây đó cũng đủ để tôi mất đi cơ hội duy nhất..
Hai con bò đã lao vào trong hang với tốc độ khủng khiếp, tiếp theo là tiếng la hét và tiếng khóc, tiếng súng nổ, và hơn chục con hổ vằn đã ập vào trong hang. Tôi cắn răng siết cò súng, nhằm thẳng vào những con hổ đang tiếp tục xông vào hang..
Đoàng.. Một con hổ bị ăn đạn xuyên qua lưng, ngã vật xuống lăn lộn thét gào..
Đoàng.. Một con khác lãnh nguyên viên xuyên đầu, gục tại chỗ.
Tiếng" đoàng đoàng đoàng "vang vọng trong rừng, từng viên đạn như xé toạc bóng đêm. Mỗi lần bóp cò, bả vai tôi lại giật lùi mạnh đến tê dại, nhưng bầy hổ quá đông, chúng ngã xuống rồi lập tức có con khác lấp chỗ trống. Chỉ trong chốc lát, hộp tiếp đạn đã trống rỗng. Tôi giật mạnh khóa nòng, rút băng đạn ra, chuẩn bị thay cái mới. Thế nhưng, đúng lúc ấy một tiếng gầm rùng rợn vang dội, từ dưới gốc cây vang lên như sấm nổ.
Trước đó, tôi đã leo lên cách mặt đất gần chục mét, cứ nghĩ vị trí cao ấy đã là an toàn tuyệt đối, hổ không thể nào với tới, nhưng sự kiện sắp tới mới thấy tôi đã lầm to
Nhìn xuống, tôi thấy con hổ vằn máu – một trong hai con hộ vệ của hổ chúa với bộ lông đỏ sẫm như nhuộm máu tươi, đôi mắt rực lửa giận dữ - đang chồm mạnh. Khối cơ bắp sống động từ trong bụi rậm lao ra, nó không nhảy thẳng mà dùng tảng đá bên cạnh làm bàn đạp, thân hình hơn ba trăm ký bay vút lên như một mũi tên sống.
Khi con hổ vằn máu đang lấy đà chuẩn bị lao tới lao tới, chưa kịp chạm vào cành cây tôi đứng, trong đầu tôi lóe lên một ý nghĩ:" Nếu để con hổ to chà bá thế này vồ trúng, thì chết chắc, mà nếu trốn tránh để nó có thời gian chạm chân vào cây xoay người chuyển tư thế tấn công thì mình còn khó tránh hơn nữa. Nhỡ may trong lúc vật lộn mà rơi xuống đất từ độ cao này với hàng chục cái miệng hổ đỏ lòm kia đang chờ thì đến một nhúm thịt cho vào quan tài cũng chẳng còn chứ đừng nói đến chuyện sống sót. Đằng nào thì cũng chết, thà chết anh hùng còn hơn bị nó vồ chết mà không kịp phản kháng, thôi thì cố gắng lôi nó theo để đỡ gánh nặng cho đồng đội vậy ".
Nghĩ là làm, trong giây phút sinh tử ấy, khi con hổ vằn máu bay vút lên, bóng nó che lấp cả ánh trăng, tôi rút phắt con dao cong mà bà Tống đã trao cho mình, ánh kim loại lạnh lóe lên giữa màn đêm.
Tôi gồng hết sức, dồn toàn bộ sinh mạng vào cú nhảy, thân hình tôi lao thẳng lên không, ngược hướng với con mãnh thú đang bổ nhào. Trong giây lát, tôi và nó đối mặt ngay ở khoảng không mênh mông, đôi mắt đỏ ngầu của nó ánh lên vẻ hung bạo, còn tôi thì chỉ duy nhất một ý nghĩ:" dù có chết cũng phải mang nó theo ".
" Vụt "
Mũi dao cong cắm phập vào ngay gáy con hổ, xuyên qua lớp da dày cộm. Hai cổ tay tôi đau điếng vì dùng sức quá đà, một luồng máu nóng phụt ra, tạt vào mặt tôi, tanh nồng nghẹn thở, con thú gầm lên một tiếng kinh thiên động địa. Trong cơn đau thấu óc, nó vùng vẫy dữ dội, toàn thân xoắn lại như cuồng phong, móng vuốt cào loạn vào không khí.
Sức mạnh khủng khiếp ấy không chỉ làm nó mất thăng bằng, mà còn hất văng tôi ra khỏi quỹ đạo rơi ban đầu. Thay vì rơi xuống mặt đất đầy nanh vuốt, cơ thể tôi rơi phịch xuống một chùm dây leo chằng chịt, chúng đan xen vào nhau như một tấm võng tự nhiên. Cú va đập dữ dội khiến cả thân cây rung chuyển, những chiếc lá rơi lả tả xuống dưới. Tôi nằm gập người trên dây leo, toàn thân đau nhức như bị búa đập, một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Hơi thở khó nhọc, lồng ngực phập phồng, cảm giác từng khớp xương rạn nứt.
Ràn rạt..
Tôi đưa tay sờ xuống người mình – cảm giác nhớp nháp, ướt lạnh, rút bàn tay lên trước mắt, tôi thấy máu loang đỏ, chảy khắp cả thân thể. Sự việc diễn ra quá nhanh, tôi không rõ là máu của tôi, hay máu của con hổ vằn vừa bị dao cắm vào gáy văng tung tóe. Mùi tanh đặc trưng của máu xộc thẳng vào mũi, trong bóng đêm nhập nhoạng tôi thấy những vệt đỏ thẫm chảy theo dây leo xuống dưới, nhỏ tong tong xuống mặt đất.
Bên dưới, bầy hổ ngẩng đầu, ánh mắt đỏ rực như lửa địa ngục, mỗi giọt máu rơi xuống như tiếng chuông gọi bữa, khiến chúng càng gầm rú, nhảy chồm chồm, móng vuốt cào lên thân cây, để lại những vết rạch sâu hoắm.
Tôi cố cử động, nhưng cả người như bị dập nát, xương cốt rã rời, cánh tay run bần bật không đủ sức. Chưa kịp định thần, một bóng trắng khổng lồ lao vút qua màn lá. Cành cây rung lên ầm ầm, dây leo trĩu nặng.
Tôi giật mình nhìn lên, đối diện với tôi là con hổ trắng khổng lồ, nó không gầm, không rống, chỉ im lặng đứng sừng sững ngay đầu chùm dây leo, ánh mắt lạnh lẽo như từ đáy của địa ngục nhìn xuyên thấu qua bóng tối. Lúc đầu nó không cử động, chỉ im lặng nhìn tôi như một kẻ tử tù, cái im lặng ấy còn đáng sợ hơn cả tiếng gầm, khiến từng nhịp tim tôi như muốn vỡ ra khỏi lồng ngực.
Rồi bỗng.. Một giọng nói trầm khàn vang lên trong tai tôi:" khá lắm.. "
Tôi giật thót, mắt đảo quanh, không hề có ai khác, mà giọng nói xa lạ này cũng không phải của người trong nhóm chúng tôi. Môi con hổ vẫn ngậm chặt, mõm không hề cử động, nhưng âm thanh ấy rõ ràng phát ra từ nó, vang dội qua tai, thấm vào tận xương tủy.
Tôi ngạc nhiên tột độ, nó không chỉ là thú dữ, nó còn như một linh hồn tà ác đội lốt hổ - một sinh vật từng ăn không biết bao nhiêu con người rồi biến họ thành tiếng nói của mình.
Con hổ trắng khổng lồ vẫn đứng ung dung trên chùm dây leo, nó không vội, như kiểu đang chơi trò mèo vờn chuột, hay là tính mạng của tôi đã nằm sẵn trong tay nó không gì có thể thay đổi được. Lúc này, trông nó điềm nhiên như một vị vương gia quyền quý đang ngồi thưởng trà vậy.
Nó nhìn tôi, đôi mắt như hai hòn than cháy âm ỉ, ban đầu, ánh nhìn ấy chỉ là sát ý của một kẻ mạnh tuyệt đối đang nhìn con mồi của mình, nhưng rồi.. Nó bất ngờ khựng lại.
Ánh mắt nó đảo chậm rãi, từ bàn tay tôi đang siết chặt con dao cong, lên cánh tay rướm máu, rồi lướt qua lồng ngực, bụng, rồi đến đôi chân rách bươm vì lúc nãy bị con hổ vằn máu cào cấu loạn xạ trong lúc cả hai đang rơi xuống. Cái nhìn ấy không giống dã thú, mà giống như một kẻ trí tuệ đang dò xét, soi xét từng đường gân thớ thịt.
Bỗng một lời nói vang lên, lần này không còn trầm khàn, không còn ma quái, mà rõ ràng, rành rọt như một lời phán quyết từ khắp bốn hướng của khu rừng rọi thẳng vào tai tôi:
" Ngũ.. Mệnh.. Tử ".
Tôi sững người, ngoài bà Tống ra, thì chưa có ai nói với tôi như vậy cả.. Trước đây tôi không tin câu chyện của bà Tống. Nhưng giờ đây chính con hổ ma quái này lại gọi tôi như vậy, nguyên việc nó có thể nói tiếng người không thôi đã là một chuyện kỳ lạ rồi. Thế giới này thật nhiều điều mà khoa học chưa thể giải thích nổi – tôi thầm nghĩ.
Âm thanh như lời phán quyết ấy lại vang lên:
" Nếu quả thật ngươi là ngũ mệnh tử, dám đặt chân vào lãnh địa của ta, lẽ ra ngươi được tha chết, nhưng.. Ngươi đã giết con của ta.. Thì cho dù ngươi là ngũ mệnh tử cũng không thoát khỏi cái chết.. "
Ngay khi chữ" chết "dội xuống, đôi mắt hổ trắng sáng bừng như hai khối lửa, hàm răng lộ ra sắc bén như ngà. Dây leo dưới chân nó rung lên, bụi lá bay tứ phía, từng nhánh nhỏ gãy răng rắc như chính khu rừng cũng đang run sợ trước nó.
Tôi đứng đối diện với nó – sinh mệnh mạnh nhất của loài đứng đầu chuỗi thức ăn trên hành tinh này. Một cảm giác nhỏ bé đến tuyệt vọng bủa vây, như thể trước mặt tôi không phải là một con vật, mà là hiện thân của thiên nhiên nguyên thủy, của sức mạnh tuyệt đối mà loài người hàng nghìn năm qua vẫn luôn run sợ. Tôi siết chặt con dao cong như để lấy thêm dũng cảm, ánh thép mờ mờ phản chiếu đôi mắt xanh ma quái của con hổ trắng. Giữa tiếng gió rít và tiếng rừng thì thầm, tôi gằn từng chữ, như nói với chính nó, cũng như khắc sâu vào linh hồn mình:
" Ta có thể chết.. Nhưng nhân dân phải được bình yên ".
Lời thề ấy không vang lớn, nhưng rừng núi như lắng lại, con hổ trắng khựng lại trong thoáng chốc, đôi đồng tử lạnh lẽo co hẹp, dường như nó hiểu. Rồi nó gầm lên, không phải tiếng thú, như hàng vạn tiếng trống đồng dội từ lòng đất, như hàng nghìn oan hồn gào thét.
Sức ép từ tiếng gầm làm dây leo rung bần bật, dây leo vốn đã đến cực hạn của sức chịu đựng nay lại bị tiếng gầm khủng khiếp làm cho sức nặng của cơ thể của tôi và con hổ như cộng hưởng, cả dàn dây leo dứt" Phịch "Tôi và con hổ chúa cùng rơi xuống đất, xung quanh là hàng chục con hổ vằn to lớn khác, nhưng không con nào dám đụng vào con mồi của hổ chúa, đôi mắt hau háu thèm thịt tươi, miệng nhỏ dãi, chúng chỉ dám đứng vòng ngoài chứng kiến bữa tiệc..
Ngay khi rơi xuống từ độ cao bốn hoặc năm mét so với mặt đất, tôi loạng choạng vài giây rồi mới đứng vững được, còn con hổ chúa mặc dù thân hình to lớn nhưng lại tiếp đất một cách nhẹ nhàng uyển chuyển như một con mèo, đơn giản như con người chúng ta bước xuống một bậc cầu thang vậy. Từ kinh nghiệm chiến đấu cho tôi biết, về thực lực chiến đấu và sức mạnh vật lý – tôi chẳng có cơ hội nào, thứ tôi còn lại duy nhất là" tinh thần ". Tôi đứng thẳng dậy, dù đầu gối còn run rẩy, tay vẫn nắm chặt con dao còn vương máu. Tôi hiểu rõ, nếu tôi gục ngã, không chỉ tôi chết, mà cả người trong hang, cả dân làng rồi biết bao nhiêu người nữa.. Sẽ trở thành mồi cho con quái vật này.
Con hổ trắng chồm người lên, bộ lông trắng muốt pha những vệt trắng bạc như ánh trăng đêm, thân hình nó to như con ngựa, phóng thẳng về phía tôi. Móng vuốt trước xòe rộng, bén như lưỡi kiếm ánh lên dưới chút ánh sáng mờ ảo. Nó lao nhanh đến mức tôi chỉ còn kịp nhìn thấy một luồng sáng trắng xé ngang bóng tối.
Tôi siết chặt cán dao cong, toàn thân đau đớn nhưng vẫn bật ra sức mạnh cuối cùng, khi thấy đôi mắt ma quái lóe sáng ngay trước mặt, bản năng và ý chí sống còn buộc tôi nhảy lệch sang một bên, lưỡi dao vung theo quán tính, rạch một đường ngang bờ vai vạm vỡ của nó. Tiếng kim loại chém vào đá cũng không thể chói tai hơn khoảnh khắc con dao trượt trên lớp lông da cứng như thép ấy. Tôi thậm chí còn chưa làm được nó chảy máu, không ngăn được nó, cú vả của bàn tay hổ mạnh như búa tạ giáng, áo giáp chống đạn tuy bảo vệ được lục phủ ngũ tạng của tôi khỏi bị móng vuốt cắm phập vào lôi ra ngoài nhưng sức mạnh vật lý khủng khiếp của bàn tay hổ to lớn đánh tôi văng vào thân cây, ngực như muốn nát vụn. Máu ộc trong cổ họng, tôi gắng gượng đứng dậy, dao vẫn trong tay. Con hổ trắng xoay mình, đuôi quật mạnh, cả khu rừng dường như cũng đang run sợ, nó nhìn tôi, gầm lên một tiếng vang dội, không chỉ bằng thanh quản, mà bằng cả linh hồn:
" Kẻ nhỏ bé.. Ngươi dám thách thức vua của các vị vua? "
Nó lao tới lần nữa – nhanh hơn, mạnh hơn. Tôi hét lên, dồn hết sức bình sinh nhảy chéo vào quỹ đạo của nó, dao cong vung lên hướng vào cổ họng trắng muốt kia. Trong khoảnh khắc ấy, mọi thứ chậm lại, tiếng gió rít, tiếng cành lá nát vụn, ánh sáng nhấp nháy từ mắt con thú và ánh dao lóe lên giữa rừng tối.
Một người – một dao.
Một con hổ trắng – sức mạnh của thần thoại
Cuộc chiến sắp phân ra, một mất một còn.
Tiếng gió rít bên tai, từng nhát vuốt của con hổ như những lưỡi búa thép giáng xuống, tôi tránh được cú cào tiếp theo, dao cong lướt qua vai nó, nhưng vẫn không mảy may làm nó bị thương, ngược lại, khiến nó thêm điên cuồng. Nó xoay mình nhanh như chớp, đuôi quật mạnh khiến tôi ngã dúi dụi vào gốc cây, phổi như muốn nổ tung. Máu từ miệng tôi vô tình phụt vào lưỡi con dao cong, tôi cố bật dậy, một lần nữa lưỡi dao lại vung lên, rạch dọc theo hông nó, lần này máu trong người nó lại chảy ra, cả tôi và nó cùng chưa kịp ngạc nhiên thì cú vả trời giáng đã quét ngang mặt tôi, tôi không kịp xoay người né, chỉ kịp đưa cao cánh tay và hơi cúi đầu nép vào cánh tay để phần đầu – vốn dễ tổn thương nhất được cánh tay che chở không bị cú vả trực tiếp tác động. Thế nhưng.. Sau cú vả, tôi thấy trời đất tối sầm, máu từ miệng phun thành vệt đỏ trên lớp lá khô. Một cánh tay của tôi giờ đây không còn nghe theo lệnh điều khiển của tôi nữa, cơ tay giật giật một cách vô thức, máu từ cánh tay chảy xuống mặt đất, khiến lũ hổ vằn canh chừng vòng ngoài như càng phấn khích, khát máu
Cơ thể tôi run lên, tay chân tôi nặng như chì, không nghe lời não bộ chỉ huy nữa, tôi nằm đó, con hổ trắng gầm lên, chỉ một cái chớp mắt, móng vuốt nó đã nghim xuống đất sát ngay mang tai tôi. Tôi cố giơ dao lên lần cuối, nhưng cánh tay không còn sức, mũi dao chỉ nhúc nhích nhẹ, chuôi dao không nâng nổi qua lớp lá khô.
Rồi.. RẦM.. - bàn chân nặng tựa tảng đá của nó đạp thẳng xuống ngực tôi, lồng ngực bị nghiền ép, xương kêu răng rắc, hơi thở bị chặn đứng. Tôi há miệng cố hớp lấy chút không khí, nhưng chỉ thấy máu trào ra từ trong cổ họng. Con hổ đứng đó, đôi mắt giận giữ và huyền bí chyển màu xanh lục sáng dưới ánh trăng, miệng há hé nhưng không động đậy, tiếng vang vọng khắp đầu tôi như giọng của địa ngục:
" Ngươi dám làm ta chảy máu? Hơn một ngàn năm nay ta chưa từng chảy máu. "
Đầu óc tôi mơ hồ, con hổ này nó đã sống hơn một nghìn năm rồi sao? Thảo nào đàn hổ ở đây quái dị vượt ngoài sức tưởng tượng của bất kì ai trong chúng tôi, kể cả chuyên gia động vật. Nhưng làm sao nó có thể sống đến ngàn năm được cơ chứ? Các câu hỏi cứ liên miên bất tuyệt trong đầu tôi.
Đúng lúc hơi thở nóng rực của con hổ trắng khổng lồ phả xuống mặt tôi, nanh vuốt của nó đã nhích thêm một khoảng, chỉ chực xuyên thẳng qua cổ họng.. Trong khoảnh khắc ấy, tôi không còn sức kháng cự, không còn ý nghĩ chiến đấu. Một cảm giác lạnh buốt lan tỏa – buông xuôi, chờ nanh vuốt kết liễu. Tôi khép mắt lại, chấp nhận cái chết. Nhưng ngay trong khoảng khắc tuyệt vọng ấy, một tiếng" Đoàng "vang lên, sắc lẹm và dứt khoát như sấm rạch ngang màn đêm.
Từ phía triền núi cao, một chớp lửa lóe lên, Voi Còi – người cầm khẩu súng phóng lựu sáu nòng, chuyên gia thuốc nổ của đội – đã kịp nhìn thấy tảng đá khổng lồ chênh vênh phía trên. Đạn lao đi, phát nổ đúng điểm yếu nhất của tảng đá khổng lồ..
Ầm ầm ầm!
Tiếng ầm ầm vang dội núi rừng chưa kịp lắng xuống thì một điều kỳ lạ xảy ra – Phía sau tảng đá khổng lồ vừa bị bắn sập ấy không phải vách núi đặc như chúng tôi tưởng, mà lại là một hồ nước ở lưng chừng núi.
Khối đá vỡ vụn, nước từ hồ tuôn trào, như một cánh cửa bí mật vừa được mở ra, chỉ trong nháy mắt, dòng thác bất ngờ ào ào đổ xuống trắng xóa, bọt tung mịt mù. Hàng chục tảng đá lớn nhỏ cùng lăn ầm ầm xuống chỗ tôi và con hổ trắng khổng lồ.
Con hổ trắng lập tức giật nảy, đôi mắt xanh lục lóe sáng kinh ngạc. Nó bật khỏi người tôi, cơ bắp cuồn cuộn căng như dây cung, thân hình khổng lồ lao sang bên né tránh, cả khoảnh đất nơi tôi nằm rung chuyển dữ dội, đá rơi ầm ầm, bụi mù mịt, cây cối gãy đổ. Tôi còn ngơ ngác, thân mình mệt mói không còn sức chống đỡ, thì vài hòn đá lăn vào người tôi, rồi sau đó dòng nước hung hãn cuốn phăng tôi khỏi nanh vuốt con hổ trắng. Cảm giác lạnh buốt xuyên thấu lồng ngực, tai ù đi vì tiếng nước vỡ tung.
Con hổ trắng gầm vang, tiếng gầm như tiếng sấm sét, giận dữ khi con mồi ngay trước nanh vuốt lại bị dòng nước cuốn đi. Nó chồm tới nhưng bị vài tảng đá lớn vẫn lăn từ trên cao xuống buộc nó phải lùi về phía sau, cộng thêm dòng nước đã ngăn cách tôi với nó như một bức tường khổng lồ.
Tôi bị cuốn xoáy, lăn nhào giữa thác nước, toàn thân tôi đau nhức, máu hòa tan trong dòng nước, nhưng không chìm xuống mà lại nổi lên, được nước đẩy đi như một người mẹ ôm con thoát hiểm. Trong cơn mê man tôi thầm cảm ơn nước, nhớ lại những lời của bà Tống nói, dường như tôi được hành thủy cứu lần này.
Tôi mở mắt trong mờ ảo, nhìn thấy bọt nước tung trắng xóa quanh mình, tựa như vô số bàn tay vô hình đỡ lấy thân xác. Trên vách đá, con hổ trắng ngẩng cao đầu gầm rền, tiếng gầm bị tiếng thác át đi, nhưng đôi mắt nó vẫn dõi theo tôi, dữ dội, u uất và có chút tiếc nuối. Như thể nó đang tự trách mình sao không kết thúc tôi sớm hơn. Khoảnh khắc ấy, trong lòng tôi vừa run sợ, vừa dâng lên một niềm tin kỳ dị: Tôi không chỉ đang chiến đấu cho nhân dân, mà còn đang đi con đường của ngũ mệnh tử - đứa con của kim – mộc – thủy – hỏa – thổ!
Dòng nước lạnh buốt ôm chặt lấy thân thể, tôi chỉ còn biết để mặc nó cuốn đi. Trong khoảnh khắc mơ hồ giữa sống và chết, tôi thầm nhủ:
" Cái mạng này vốn không phải của riêng mình, nó là của nhân dân – của những người đã đặt niềm tin vào tôi. Máu quân đội phải đổ trước máu dân. Tôi đã sống và chiến đấu vì câu khẩu hiệu ấy, hôm nay ngã xuống cũng không hổ thẹn ".
Ý nghĩ ấy khiến tôi có chút thanh thản, nhưng khi nghĩ đến hai đứa trẻ còn ở trong hang, A Trân và cô gái mười bảy tuổi – cùng biết bao nhiêu dân làng sinh sống xung quanh vùng này trái tim tôi lại đau nhói. Tôi cắn răng nhưng khóe mắt lại cay:
" Xin lỗi.. Tôi đã cố hết sức, nhưng không thể bảo vệ mọi người được nữa! "
Dòng nước lạnh siết chặt, đưa tôi đi xa dần khỏi chiến trường. Tôi thấy tim mình đập chậm lại, từng nhịp rời rạc như tiếng trống báo hiệu kết thúc một trận đánh. Con dao cong nãy giờ tôi giữ trong ngực áo nhắc nhở tôi rằng tôi còn một sứ mệnh chưa tròn.
Ý thức mờ dần, chỉ còn lại hai cảm giác cuối cùng: Niềm kiêu hãnh của người lính đã không phụ nhân dân, và nỗi thương đau cho những người thân thương chưa kịp bảo vệ đến cùng.
Tôi mở mắt trong mơ hồ, mí mắt nặng trĩu như chì, cả cơ thể đau ê ẩm, xương cốt như vỡ vụn nhưng kỳ lạ thay, tôi vẫn còn sống. Trước mắt tôi không còn là bầu trời đêm, cũng chẳng phải mặt nước cuồn cuộn, mà là hang động khổng lồ. Trần hang vút cao mờ ảo ánh sáng xanh lân tinh hắt ra từ những vách đá rêu phong. Một con suối ngầm róc rách chảy xuyên qua lòng hang, nước trong đến mức trông thấy cả đá cuội dưới đáy, phản chiếu ánh sáng nhấp nháy như muôn ngàn con mắt dõi theo. Tôi thẫn thờ nhận ra – có lẽ chính dòng nước ấy đã cuốn tôi đến đây, như một bàn tay số mệnh đã kéo tôi khỏi nanh vuốt tử thần.
Ở một góc khác trên trần hang, nơi các vết nứt nhỏ hẹp nằm như mắt thần của thiên nhiên, bất chợt một luồng ánh sáng vàng nhạt len qua, tạo thành chùm tia mảnh mai rọi xuống giữa nền hang u tịch. Ánh sáng không rực rỡ, mà tinh khiết như ngọn nến trong đêm hải đảo – tôi thầm nhủ:" Mình đã trôi suốt một đêm dài.. "
Tôi rút con dao cong ra, với hai bàn tay còn run rẩy, cố gắng cắt vải từ áo mình làm băng sơ cứu tạm thời, buộc chặt vào các vết thương hở để cho máu không chảy ra mỗi lần cơ thể di chuyển nữa – một bước sống còn trong tình trạng này.
Hơi lạnh hít căng vào lồng ngực, không còn ẩm ướt như khi còn ướt đẫm dưới dòng nước, gió thổi hun hút – cảm giác như hang không chỉ có một cửa, mà là hai cửa thông ra ngoài, dòng không khí đối lưu xuyên suốt khiến không gian luôn mát lạnh và trong lành.
Theo kiến thức tôi từng học, hang có nhiều cửa thông ra ngoài sẽ tạo nên hiệu ứng ống khói, giúp luồng không khí liên tục lưu thông nhờ sự chênh lệch nhiệt độ và áp suất trong lòng hang. Cảnh tượng trước mắt đúng là như vậy: Gió thổi nhẹ nhưng không ngừng, khiến không khí thoáng đãng, giảm độ ẩm, lạnh và khô. Trong khoảnh khắc, tôi nhận ra: Dòng nước mang tôi tới đây không chỉ cứu mạng, với không khí lưu thông sâu lạnh khô – như giúp tôi tích tụ năng lượng của sự sinh tồn.
Tôi cố di chuyển từng bước, mặc dù toàn thân đau nhức khiến chân tay co giật. Mặt đất gồ ghề, hơi lạnh bén tê từng đầu ngón chân, dòng suối vẫn róc rách bên chân, cứ như dẫn lối cho tôi vào sâu hơn khám phá hang động. Ngẩng mặt nhìn lên, thấy các vách đá cao vút phủ rêu phong nhạt màu, lơ lửng như những giọt nước nhỏ tí tách từ nhũ đá. Đôi khi ánh sáng nhè nhẹ từ trên cao lọt xuống, tạo nên không gian huyền hoặc như một cảnh tiên giới giữa lòng đất. Bố cục khiến tôi liên tưởng đến cảnh tu luyện trong truyền thuyết đạo giáo.
Tiếp bước theo dòng suối, đôi chân mỏi nhừ nhưng trí óc cứ thế sáng ra, trên nền đá tôi phát hiện những vết khắc mờ chưa rõ hình dạng – như những ký hiệu cổ, có đường nét như những chữ tượng hình sơ khai, hay đôi khi chỉ là hình vẽ biểu tượng. Có vết thì như đường vòng tròn, có vết lại nông sâu khác nhau – như người xưa đã khắc vào đó một minh văn hay sơ đồ tu hành. Khi đang lảo đảo, từng nhịp thở dồn nén. Cái đau khiến tay chân tôi cử động không được linh hoạt thì bỗng.. Một âm thanh phát ra từ xa, không chói tai mà dịu dàng như một sợi dây hy vọng:
" Gâu – Gâu "
Tôi ngoảnh lại, theo dõi tiếng sủa vọng lại qua các khúc quanh của hang đá, ngay sau đó nghe tiếng Voi Còi và A Trân vọng lại, gấp gáp:
" Gia Bảo – cậu ở đâu? "
" Chỉ huy – anh ở đâu? "
Rồi sau đó là tiếng của chuyên gia động vật, Diệp Lam, Minh Khoa và Quốc Vinh!
Tôi vui mừng nhưng thầm nghĩ họ gọi ầm lên như thế không sợ đàn hổ nghe thấy sao? Ở nơi hang động này, cận chiến hổ có lợi thế tuyệt đối. Sự lợi hại của đàn hổ tối hôm qua mọi người đã nếm trải rồi, nếu chúng xông vào đây, không một ai sống sót.. Hay.. Hay là..
Một suy nghĩ đau lòng nhưng ghê rợn chợt lóe lên trong đầu. Có khi nào mọi người bị hổ ăn thịt hết rồi, giờ đây bầy hổ kia đang mượn tiếng nói của họ để dụ mình ra?
Trong hoàn cảnh này tôi cũng đã nửa sống nửa chết rồi, nếu thật sự là đàn hổ tìm đến, thì tôi cũng không còn cách nào khác, đành chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, suy nghĩ vừa dứt, tay tôi nắm chặt con dao cong lên tiếng đáp lời những âm thanh kia – âm thanh mà vào lúc này tôi không biết là bạn hay thù.
May mắn thay, họ đến thật, chỉ một đêm cách xa thôi mà chúng tôi đều ngỡ như cả tháng không gặp. Chỉ đến khi nhìn thấy đồng đội, tôi mới buông lỏng con dao cong, cố bước ra chào, mặc dù khắp toàn thân đau nhức. Hai con chó nghiệp vụ nhanh nhẹn hơn cả, chúng hít hít ngửi ngửi, hai chiếc đuôi mừng rỡ cuống quýt, mặc dù tôi thấy trên lưng chúng có vài vết thương hở, tôi khẽ vuốt ve, ôm thật chặt cả hai chú chó vào lòng. Tôi nhìn quanh, thấy những gương mặt thân quen mà mình từng nghĩ sẽ không bao giờ gặp lại nữa, ngực tôi thắt lại, sống mũi cay xè. Tất cả chúng tôi đã bước qua ranh giới sinh tử, và giờ đây chỉ cần nhìn thấy nhau còn sống, từng ánh nhìn, từng giọt nước mắt thôi cũng đủ nói lên tất cả: Niềm vui, nỗi đau và cả sự biết ơn định mệnh đã cho chúng tôi cơ hội đoàn tụ.
Trong số tất cả, A Trân là người khóc nhiều nhất, ngay khi nhìn thấy tôi cô ấy đã bật khóc nức nở, giọng cô nghẹn lại, bàn tay run rẩy nắm chặt lấy tay tôi không chịu buông, như thể chỉ cần buông ra là tôi sẽ lại biến mất.
Ánh mắt đồng đội quanh đó lặng lẽ dõi theo, không ai cười đùa, không ai xen vào tất cả đều im lặng dành cho A Trân một khoảng riêng để trút hết nỗi lo sợ vừa trải qua. Trong sự im lặng ấy, chỉ còn tiếng khóc run rẩy của cô hòa nhịp với nhịp tim tôi đập.
Khi vết thương của tôi đã được băng bó lại bằng dụng cụ y tế mà Diệp Lam mang theo, mọi người ngồi quây lại, ai nấy mắt còn đỏ hoe, rồi từng người kể lại khoảnh khắc tưởng như là cuối cùng của tôi:
" Lúc con hổ chúa lao tới, cả đội đều chết lặng, nhưng tình hình lúc đó vô cùng hỗn loạn, người thì còn ở trong hang, người thì cố ra ngoài cứu tôi nhưng đàn hổ vằn vẫn khát máu lao tới. Được sự giúp đỡ của chuyên gia động vật, Voi Còi có chút thời gian vàng để nạp lại đạn cho khẩu súng phóng lựu sáu nòng, vì trước đó mải đối phó với hai con bò rừng và lũ hổ tràn vào hang đã bắn hết cả sáu viên đạn.
"Vì lúc đó con hổ chúa ở quá gần cậu, nên nếu dùng súng phóng lựu bắn vào nó, chắc chắn cậu cũng sẽ hy sinh vì vụ nổ quá gần, mảnh đạn sẽ văng trúng. Đang lúc không biết làm thế nào thì tớ chợt nhìn thấy phía trên cao chếch về hướng núi có một tảng đá to đang nằm chênh vênh như sắp đổ, lại nghĩ đến chuyện bà Tống nói cậu là ngũ mệnh tử, được kim mộc thủy hỏa thổ - đủ cả ngũ hành bảo vệ. Thế nên tớ nhằm thẳng vào điểm yếu nhất của tảng đá bóp cò, với hy vọng duy nhất là nó sẽ lăn vào con hổ chúa, buộc nó phải tránh ra. Sự tình lúc đó thật quá gấp gáp, một ý nghĩ lóe lên thế là tớ làm luôn!" – Voi Còi bần thần kể lại.
"Nhưng không ai ngờ là phía sau tảng đá khổng lồ đó lại là hồ nước, nước tràn xuống, cuốn chỉ huy đi, nước và đất đá ào ào đổ xuống khiến đàn hổ đang hăng máu cũng phải vội vã bỏ đi, mặc dù bọn chúng đã cách chiến thắng chỉ một bước!" – Minh Khoa kể lại.
Những người còn lại tiếp lời: Mọi người ở trong hang, đối phó với hơn chục con hổ mà ai nấy cũng mấy lần suýt chết, khi biết tôi bị rơi xuống đối diện với con hổ trắng khổng lồ, xung quanh là hàng chục con hổ vằn khác, không ai nghĩ là tôi sẽ còn sống mà ra được khỏi vòng vây của chúng. A Trân, Diệp Lam, cô gái mười bảy tuổi và hai đứa bé được chúng tôi cứu đều òa khóc trong bất lực.
Trong lòng tôi dâng lên một cảm giác vừa ngại ngùng vừa xúc động, cám ơn mọi người đã liều mình xuyên đêm tối, bất chấp nguy cơ đàn hổ rình rập, kiên trì tìm tôi suốt từ đêm qua đến tận trưa nay.
Cả hang lặng đi một lát, Voi Còi cười lớn; "giữa chúng ta cần phải nói lời cảm ơn sao? Cậu dạo này lạ quá, hay là bị" thần hổ "nhập rồi?" khiến mọi người dù mệt mỏi nhưng không ai nhịn được cười.
A Trân, Minh Khoa và Quốc Vinh khẽ lắc đầu: Chúng em mới phải cảm ơn anh! Nếu không có anh cản bớt bước tiến công của đàn hổ, thì chắc chẳng còn ai trong bọn em ngồi đây
Chuyên gia động vật cùng Diệp Lam cùng lên tiếng: "Chúng ta đều là đồng đội một nhà, không cần nói những lời khách sáo ấy! Nhưng trải qua lần trải qua sinh tử này, ai trong chúng ta cũng làm quá khả năng của mình, chỉ huy thì một mình diệt sáu con hổ, trong đó có một con hổ vằn máu to lớn dị thường, đối diện với hổ chúa mà không chết. Voi Còi thì với phát bắn thần kỳ cứu cả đội thoát chết, những người còn lại trong hang thì phối hợp ăn ý tuyệt vời, bảo vệ được A Trân, cô gái mười bảy tuổi và hai em nhỏ - những người không có khả năng chiến đấu khỏi nanh vuốt của hổ. Ngoài ra hai cậu lính đặc nhiệm còn nhanh nhẹn như mèo, Minh khoa thì liều mình trèo lên cây cổ thụ chỗ tôi để khẩu súng bắn tỉa đã hết đạn để lấy lại súng trong khi ở dưới, nước và đất đá vẫn chảy cuồn cuộn. Quốc Vinh thì xuất sắc hơn cả mong đợi, trong tình hình ngàn cân treo sợi tóc ấy vẫn dùng dao quân dụng lấy được phần ngon nhất của hai con bò rừng cho vào ba lô của từng người mang theo làm thực phẩm cho người và hai chú chó nghiệp vụ.
Hai em nhỏ mới chỉ năm tuổi chúng tôi cứu được hôm trước, lúc này đã đói mềm người, gương mặt thẫn thờ, đôi mắt lấm lem vẫn còn ánh lên vẻ sợ hãi. Nhìn cảnh ấy, chẳng ai trong chúng tôi nỡ bàn chuyện tiến sâu vào hang hay nghĩ chuyện xa xôi nữa!
" Lo cho tụi nhỏ trước đã "– Diệp Lam khẽ nói, giọng dứt khoát.
Thế là mọi người tạm gác hết mọi chuyện, chia nhau nhóm lửa, chuẩn bị thịt. Chỉ trong chốc lát, mùi khói bốc lên, rồi ánh lửa bùng lên soi sáng những gương mặt ai nấy đều phờ phạc nhưng ánh mắt lại ánh lên niềm vui sống sót.
Mùi thịt nướng tỏa ra thơm ngậy, tiếng mỡ chảy xuống nổ lép bép trên than hồng khiến bụng mọi người sôi sục, mùi khói quện với mùi thịt bò cháy xém khiến ngay cả người lớn chúng tôi cũng nuốt nước bọt, nhưng tất cả đều dành phần đầu tiên cho hai em nhỏ!
Khi những miếng thịt nướng chín vàng được xé nhỏ, đưa tận tay, hai em nhỏ run run đón lấy. Hai đôi môi nhỏ xinh khẽ cắn một miếng rồi ánh mắt sáng bừng, như vừa được tiếp thêm sự sống. Chúng ăn chậm rãi, vừa ăn vừa nhìn quanh như sợ đàn hổ có thể quay lại bất cứ lúc nào, khiến mọi người phải trấn an thêm chút nữa.
Khi hai đứa nhỏ đã ăn no, yên tâm ngồi nép sau A Trân và cô gái mười bảy tuổi, cả đội chúng tôi ai cũng đói lả, thương tích còn rỉ máu, nhưng không hề lơ là cảnh giác, chúng tôi chia làm hai, một nửa ăn trước, nửa còn lại cảnh giới và nghỉ ngơi, rồi đổi ca.
Nhóm thứ nhất ngồi quanh đống lửa, vừa ăn vừa hong khô quần áo, nhóm còn lại tỏa ra những vị trí trọng yếu quanh hang, tựa người vào vách đá, tay giữ súng luôn sẵn sàng. Tôi được ưu tiên ăn trong lượt thứ hai (Lượt đầu tiên là hai em nhỏ, A Trân, và cô gái mười bảy tuổi). Lượt thứ hai gồm tôi, Voi Còi và Diệp Lam. Lượt thứ ba là Minh Khoa, Quốc Vinh và chuyên gia động vật Đỗ Hồng Quang.
Trong lúc thịt nướng đang tỏa hương thơm ngậy, lúc này tôi mới hỏi Voi Còi sao mà mọi người tìm được tôi nhanh vậy?
Voi Còi – lúc này tay cầm khúc thịt lớn, vừa nhai vừa hào hứng nói, giọng như còn run vì xúc động. Rồi cậu ấy kể, mọi chuyện diễn biến như sau:
" Thực tình lúc đó anh em đã nghĩ.. Chắc chẳng còn hy vọng gì gặp lại cậu nữa! Nước xiết, dấu vết trôi sạch, chó nghiệp vụ cũng bất lực, hơn nữa đàn hổ vẫn còn chưa đi xa.. "Rồi cậu ấy kể lại, bắt đầu từ cảnh bắn súng phóng lựu vào tảng đá lớn đang chênh vênh như sắp đổ cứu tôi:
Sau tiếng nổ là tiếng đất đá từ vách cao ầm ầm đổ xuống cuốn theo dòng nước trộn đất đá đục ngầu, cây cối bật gốc, bùn đất tràn ào ào. Lũ hổ đang hung hãn bỗng dừng lại, những đôi mắt vàng ngập ngừng, một vài con gầm gừ điên dại nhưng rồi bị dòng nước cuốn phăng, biến mất trong hỗn loạn. Khung cảnh ấy vừa dữ dội vừa khủng khiếp: Tiếng gầm, tiếng đá lăn, tiếng nước xé rách không gian. Cả đội nhanh chóng bế hai em nhỏ dán chặt lưng vào tảng đá nhô cao ngay chỗ cửa hang, hai con chó nghiệp vụ cũng nhanh nhẹn lên cùng, chen chúc trên mỏm đá chưa đầy mười mét vuông. Súng đã hết đạn, mà đạn dược mang theo thì vẫn đang ở trong hang, lúc này ai cũng lăm lăm con dao quân dụng trong tay, chỉ chờ giây phút cuối cùng. Nhưng rồi – đàn hổ dần tản ra, từng con một, chúng gầm lên đầy giận dữ và tiếc nuối rồi lùi bước, từng bóng đen to lớn dần biến mất sau màn đêm của rừng.
Ngay sau khi thấy bóng đàn hổ khuất dần sau màn bụi mù, nước còn chưa kịp rút không ai dám thở phào, ngay lập tức Minh Khoa và Quốc Vinh tay lăm lăm con dao quân dụng vào hang lấy đạn ném lên cho mọi người ở trên cao vừa nạp đạn vừa bảo vệ hai em nhỏ. Hai cậu ấy thậm chí còn lấy được thịt bò và khẩu súng bắn tỉa tôi cài trên cây cổ thụ trước khi liều mình nhảy xuống chiến đấu với con hổ vằn máu.
Không lâu sau đó, cả đội nạp đạn, tiếng kim loại lạnh lẽo vang lên đều đặn như gõ nhịp quyết tâm, nhanh chóng chỉnh đốn lại đội hình, người che chở phía trước, người cảnh giác hai bên sườn, ai nấy mắt vẫn còn ngập máu đỏ và bụi đá nhưng không một ai dao động.
Hai con chó nghiệp vụ thân thể còn bê bết máu, rít khẽ lên một tiếng rồi phóng lên trước, mũi đánh hơi theo dòng nước chảy xiết. Cả đội vừa thận trọng vừa khẩn trương men theo bờ từng bước chân dồn dập, mang theo quyết tâm phải tìm thấy tôi bằng mọi giá.
Một bức" tường đá "bên dưới chỗ tảng đá khổng lồ chênh vênh mà Voi Còi đã bắn trúng trước đó lại đổ ập xuống, khiến tiếng thác nước lại gầm cuộn như muốn nuốt trọn cả núi rừng. Nhưng giữa cơn hỗn loạn ấy, đoàn người nhỏ bé kia vẫn tiến lên, mắt nhìn chằm chằm vào dòng nước dữ, như tìm kiếm một dấu vết mong manh để giành giật tôi lại từ tay tử thần.
Dòng nước xiết chảy dài không để lại dấu vết nào. Hai chú chó nghiệp vụ - thông minh như hai đứa trẻ, vốn quyết tâm tìm tôi, lúc này chỉ đứng bên bờ gầm gừ, quay đầu nhìn chủ nhân, ánh mắt bất lực. Đến ngã ba con sông, dòng chảy tách thành hai nhánh đều tương đương như nhau..
Cả đội sững lại. Ai cũng hiểu nếu chia quân ra, chỉ cần vô tình gặp lại đàn hổ, số ít người chắc chắn không sống nổi. Nhưng nếu cứ chần chừ ở lại đây, thì tôi – người đang trôi theo dòng sẽ vĩnh viễn biến mất.
Không khí đặc quánh như đông cứng, mồ hôi hòa cùng máu chảy xuống gương mặt ai nấy. Chuyên gia động vật buồn rầu:
" chia đội thì chết chắc, nhưng không tìm thì cậu ấy coi như xong ".
Diệp Lam bước ra, cơ thể mỏi mệt nhưng ánh mắt rực sáng:
" Không, không ai được bỏ cuộc. Chúng ta sẽ đi một hướng, tất cả đi cùng nhau, dù đúng hay sai, ít nhất ta còn sức để chiến đấu, để cứu cậu ấy! "
Mọi người im lặng, ánh mắt đan xen cuối cùng đồng loạt gật đầu. Chẳng còn sự lựa chọn nào khác ngoài niềm tin và sự lựa chọn đoàn kết. Nhưng.. Giờ mới là giây phút quan trọng, quyết định đi theo hướng nào?
Cả đội căng thẳng đứng bên ngã ba sông, phán đoán dòng nước, tiếng nước ầm ào như xé nát tinh thần, từng thời khắc trôi qua đều giống như bản án tử treo lơ lửng trên đầu.
Đúng lúc ấy, hai đứa trẻ mà chúng tôi đã liều mình cứu thoát hôm trước bỗng cùng lúc mà chỉ tay về nhánh sông phía bên phải. Giọng đồng thanh mà rành rọt:
" Bên kia, chúng cháu thấy có năm người mặc quần áo giống các cô chú. Các bác ấy cười hiền lắm, còn vẫy tay gọi chúng ta qua đó kìa! "
Cả đội giật mình, tim như thắt lại, ai cũng nhìn nhau không nói lên lời. Trong khoảng khắc ấy không biết đó là thật hay ảo giác của trẻ thơ. Năm người mà bọn trẻ thấy.. Phải chăng là bóng dáng của những đồng đội đã ngã xuống? Hay là một điềm báo dẫn đường cho họ đến nơi tôi trôi dạt?
Diệp Lam và A Trân nghẹn ngào, ôm chặt vai hai đứa bé:
" con có chắc không? Thật sự thấy năm người cười và vẫy gọi sao? "
Hai đứa đều cười và gật đầu liên hồi, ánh mắt trong veo không một chút nghi ngờ.
Mọi người rơi vào trầm tư, ai cũng hiểu" năm người mặc quần áo giống các cô chú "mà bọn trẻ nhắc tới chính là năm đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại trong lần nhận nhiệm vụ trước. Những thân xác đã bị đàn hổ xé nát, đến mảnh xương cũng khó lòng tìm lại. Nghe hai em nhỏ hồn nhiên thuật lại, tim mọi người cùng thắt lại. Một cảm giác vừa đau đớn, vừa rùng mình chạy dọc khắp sống lưng. Nếu thật sự họ đang mỉm cười vẫy gọi, thì đó không thể là người sống.. Mà là những linh hồn.
Quốc Vinh thì thầm, giọng run rẩy:
" vì sao.. Chỉ bọn trẻ thấy mà chúng ta lại không? Hay là mắt trẻ thơ trong sáng, có thể nhìn thấy những điều vượt ngoài khả năng nhìn của chúng ta? "
Không ai đáp, chỉ có tiếng nước cuồn cuộn và tiếng gió rít qua tán rừng. A Trân cúi xuống, nắm lấy bàn tay nhỏ bé của bé gái, ánh mắt vừa lo lắng vừa biết ơn.
" Có lẽ.. Chính vì các em chưa mang bụi trần, nên mới thấy được điều chúng ta không thể ".
Mọi người lặng lẽ cúi đầu, trong khoảng khắc ấy không ai coi lời trẻ nhỏ là mơ hồ nữa. Trái lại, cả đội tin rằng đó chính là cách những đồng đội đã khuất gửi gắm những tín hiệu dẫn đường – qua đôi mắt trong sáng của trẻ thơ.
Hai chú chó nghiệp vụ đột nhiên dựng thẳng tai, mắt sáng rực đồng loạt quay đầu nhìn theo hướng hai em nhỏ chỉ, cả hai cùng gầm gừ khe khẽ, rồi lao vút đi như có bàn tay vô hình nào đó dẫn lối.
Cả đội giật mình, những con chó này từ lâu đã gắn bó với chúng tôi, bản năng của chúng chưa từng sai. Vậy mà giờ đây, không cần mệnh lệnh, chúng đã phản ứng ngay lập tức, chẳng khác nào chúng cũng nhìn thấy được" năm người "đang vẫy gọi kia!
Chuyên gia động vật Đỗ Hồng Quang xúc động, giọng thì thầm:
" Có lẽ.. Linh hồn đồng đội thật sự đang hiện diện. Trẻ con nhìn thấy, thú vật cũng cảm nhận được.. Chỉ chúng ta – những kẻ chai sạn giữa máu và súng đạn lại mù lòa trước sự dẫn dắt ấy! "
Diệp Lam cố kìm nén nước mắt, trong giọng nói có pha lẫn sự biết ơn:
" Dù là gì đi nữa thì đó chính là con đường duy nhất để tìm thấy cậu ấy. Các đồng đội của chúng ta vẫn đang bảo vệ chúng ta giống như khi còn sống! Thân thể các anh tuy không còn, nhưng tinh thần người lính thì chưa bao giờ phai nhạt! "
Minh Khoa thì thầm, giọng lạc đi trong tiếng nước cuộn:
" Anh em dã nằm xuống, vậy mà đến phút cuối vẫn không bỏ chúng ta, vẫn còn dẫn lối để chúng ta tìm chỉ huy! "
Không ai do dự thêm, cả đội siết chặt súng rồi nhanh chóng theo bước hai chú chó trên bờ sông loang lổ bùn đất. Đoàn người tiến đi mang theo niềm tin kỳ lạ rằng giữa ranh giới sống – chết này, những đồng đội đã khuất vẫn chưa bao giờ rời bỏ mình. Nhiều đôi mắt đỏ hoe, nước mắt không kìm được rơi lặng lẽ, hòa cùng mưa bụi và máu trên gương mặt. Đó không phải nước mắt của kẻ yếu đuối, mà là của những chiến binh kiêu hãnh cúi đầu cảm tạ những người đã khuất vì sự thủy chung không rời!
Trên đường men theo nhánh sông, dường như sự dẫn lối của năm người đồng đội dã khuất vẫn còn tiếp diễn. Mỗi khi cả đội bối rối trước một khúc cua gập ghềnh, hay đứng lặng giữa một ngã ba mịt mờ, hai đứa trẻ lại reo lên, chỉ về một hướng:
" Các bác ấy đang đứng kia kìa, vẫy gọi chúng ta đi tiếp đó! "
Hai chú chó nghiệp vụ cũng gầm khẽ, đuôi vẫy mạnh, lao đi theo cùng hướng. Cả đội không còn do dự, trái tim ai cũng rực sáng bởi niềm tin: Chúng tôi không hề đơn độc, những người đã ngã xuống vẫn đi bên cạnh!
Cứ thế, qua từng khúc cua, từng ngã ba, ánh mắt trong veo của trẻ thơ và bản năng của loài chó dẫn dắt cả đoàn, không ai thốt lên lời, nhưng trong tim mỗi người đều vang lên một lời cảm ơn lặng lẽ.
Cho đến khi bước vào một cửa hang đá rộng lớn, nơi chứa được cả con suối dưới chân nhưng vẫn thoáng đãng. Hai em nhỏ đột nhiên sững sờ, mắt mở to, tay đưa ra phía trước rồi ngập ngừng thốt lên:
" Các bác.. Biến mất rồi! "
Không còn bóng dáng nào nữa, chỉ còn tiếng nước chảy và hơi lạnh tràn ra từ lòng núi. Hai chú chó dừng lại, vẫy đuôi khe khẽ rồi đánh hơi, hít hít ngửi ngửi xung quanh..
Chỉ ít phút sau khi năm bóng hình vô hình biến mất ở cửa hang, tiếng sủa dồn dập vang lên, hai chú chó lao thẳng vào khe đá, móng cào liên hồi, miệng tru lên như gọi cả đội lại.
Mọi người vội chạy theo, tim ai cũng đập thình thịch, rồi trong góc khuất của hang, mọi người nhìn thấy một mảnh vải quân phục của tôi. Ai cũng mừng rỡ vì cả đội đã đi đúng hướng và tin rằng tôi chỉ còn ở khoảng cách không xa.. Mọi người vừa tìm vừa lên tiếng gọi..
Nghe xong câu chuyện của Voi Còi, tôi ngồi lặng trước ngọn lửa, miếng thịt trong tay đã nguội lạnh, chẳng còn nuốt nổi, tôi thấy gương mặt của từng đồng đội hiện ra trong trí nhớ: Người thì hay cười xòa trêu ghẹo cả đội, người thì luôn lặng lẽ gánh phần nặng nhất, người lại siêng năng chăm từng bữa ăn, từng viên đạn.. Họ đã sống như thế, đầy ắp tình nghĩa – và rồi lại ngã xuống một cách bi thương, xác thân tan nát giữa nanh vuốt thú dữ.
Vậy mà giờ đây, khi máu của họ chưa kịp khô trên lá rừng, linh hồn họ vẫn chưa thể an nghỉ, họ lại quay về.. Không phải để đòi hỏi điều gì, không phải để oán trách mà chỉ để đưa đường cho đồng đội tìm thấy một kẻ đã ngã quỵ - là tôi.
Tôi siết chặt nắm tay, móng tay bấm sâu vào da thịt, cơn đau của tất cả các vết thương không bằng nỗi đau trong lòng. Nếu tôi trèo lên cây cao hơn nữa, cao đến mức con hổ vằn máu cho dù có lấy đà cũng không thể nhảy tới được.. Tôi có thời gian nạp lại đạn.. Thì mọi người đâu phải vất vả cả đêm để tìm tôi, những đồng chí đã khuất đâu phải quay về, đâu phải chịu cảnh linh hồn chưa siêu thoát, vẫn lặng lẽ theo dõi kẻ đã mắc lỗi này!..
Nhưng rồi, giữa cái cảm giác tội lỗi ấy, một dòng chảy khác cũng trào lên: Niềm biết ơn sâu thẳm, tôi biết dù tôi có trách bản thân đến mấy, thì các đồng chí, đồng đội của tôi vẫn chọn cách ấy – vẫn cứu lấy tôi. Bởi chúng tôi hiểu nhau, tình đồng đội là trên hết, chính điều đó lại khiến tôi thấy mình phải sống, sống sao cho xứng với phần đời mà mọi người đã gửi gắm nơi tôi.
Tôi cúi đầu thật thấp, chìm trong suy tư, cảm giác tội lỗi và biết ơn cứ giằng xé trong lòng. Không cần phải nói, dường như mọi người đều nhận ra tôi đang tự trách mình.
Voi Còi – lúc nào cũng ồn ào, vui tính nay bỗng chậm lại, đặt bàn tay to bè lên vai tôi khẽ nói, giọng nghèn nghẹn nhưng dứt khoát:
" Đừng tự dằn vặt nữa, nếu các anh ấy còn sống, chắc chắn cũng sẽ chọn cứu cậu, bởi vì cậu là đồng đội, là anh em – đó là điều tự nhiên nhất! "
Diệp Lam khẽ ngẩng lên, ánh mắt dịu dàng mà kiên định:
" Cậu không hề yếu kém đâu. Người thường chúng ta không ai có thể tưởng tượng nổi con hổ vằn máu quái dị đó lại có thể nhảy cao đến mức ấy, nếu là người khác, có khi đã mất mạng ngay trên cây rồi, đằng này, ngược lại – cậu còn giết được nó khi đạn đã hết. Nếu cậu không kiên cường chống chọi đến phút cuối, làm sao mọi người có thể tìm được cậu? Cậu sống sót chính là minh chứng rõ ràng nhất ".
Tôi gắng gượng đứng dậy, vết thương còn đau nhói, nhưng tôi biết mình phải làm điều này bằng tất cả sự thành kính, cả đội lặng lẽ nhìn theo không ai ngăn cản. Từ ba lô, tôi lấy ra một mảnh vải được giữ gìn cẩn thận – mảnh vải thiêng liêng in câu thề từ ngày nhập ngũ:" Máu quân đội phải đổ trước máu dân ".
Tôi đặt mảnh vải lên tảng đá phẳng giữa hang, tay run rẩy lấy máu từ vết thương của chính mình vẫn đang rỉ ra, trong ánh lửa bập bùng tôi chậm rãi viết từng cái tên của năm con người anh hùng đã ngã xuống:
Trần văn lực
Nguyễn hoàng nam
Phạm minh quân
Lê đức thắng
Vũ hữu phong
Mỗi nét khắc, máu đỏ thấm vào vải, lòng tôi lại nghẹn đi như có ai đó siết chặt, mọi người im phăng phắc chỉ còn nghe tiếng lửa lép bép và tiếng thở đều của hai đứa nhỏ đang ngủ ngon lành trên đùi A Trân và cô gái mười bảy tuổi.
Khi năm cái tên hiện lên trọn vẹn, tôi nâng mảnh vải lên ngang trán, giọng khàn đặc:
" Các đồng chí.. Chúng tôi xin khắc sâu tên các đồng chí trên mảnh vải thiêng liêng này. Máu của các đồng chí đã đổ, để dân còn sống, để chúng tôi còn tiếp tục bước đi. Hôm nay, xin coi ngọn lửa này như nén nhang, thay vàng mã, tiễn đưa mọi người về miền an yên ".
Nói rồi, tôi từ từ đặt mảnh vải vào đống lửa, ngọn lửa bùng lên, nhuộm đỏ cả hang động, ai nấy đứng thẳng người, mắt đỏ hoe, tất cả đều giơ tay chào theo nghi thức quân đội, im lặng cho đến khi mảnh vải cháy thành tro.
Hai chú chó nghiệp vụ cũng ngồi ngay ngắn trước đống lửa, ngẩng đầu tru lên khe khẽ như một điệu tiễn biệt bi thương. Dường như chúng cũng" đánh hơi "được tâm trạng chúng tôi.
Trong giây phút ấy, tôi có cảm giác năm bóng hình kia vẫn còn đâu đây, cũng đứng nghiêm chào cùng chúng tôi, ánh mắt kiên cường, nụ cười hiền hậu, rồi họ tan dần vào hư vô, để lại trong tim chúng tôi một lời thề bất diệt – ngọn lửa của sự tiếp nối, của lời hứa không bao giờ lụi tàn.
Sau khi tất cả mọi người cùng hai chú chó nghiệp vụ đã được ăn uống đầy đủ, cơn đói đã lắng xuống, mệt mỏi dần tan đi, tôi mới có dịp nhìn kỹ và trò chuyện cùng hai em nhỏ - lúc này đã thức giấc. Một trai, một gái đều trạc tuổi Mỹ Mỹ, đôi bàn tay bé xíu, ánh mắt trong veo như thiên thần..
Tôi quay sang cô gái mười bảy tuổi hỏi khẽ, sợ làm đàn hổ nghe tiếng thì sẽ tan đi khoảnh khắc yên bình hiếm có:
" Em tên gì? "
Cô bé hơi ngâp ngừng đáp:
" Em tên Mẫn Nhi, năm nay mười bảy tuổi, hai em nhỏ kia là người cùng làng với em! "
Vì cha mẹ mất sớm trong một đợt dịch bệnh khi Mẫn Nhi chưa tròn mười tuổi, ngôi nhà nhỏ vốn đầy ắp tiếng cười chỉ sau vài ngày đã trở nên lạnh lẽo, để lại cho cô một khoảng trống không bao giờ lấp đầy được, từ đó Mẫn Nhi sống với người dì – người phụ nữ cũng chẳng khá giả gì, chỉ có hai đôi tay sần và tình thương vô bờ. Hai dì cháu nương tựa vào nhau, lặng lẽ vượt qua những năm tháng khắc nghiệt.
Làng nơi cô sống nhỏ bé, quanh năm sợ loài hổ dữ, nỗi sợ lên đến đỉnh điểm khi người dân phát hiện đàn hổ tha những bộ quân phục bê bết máu của năm chiến sĩ đã hy sinh ra chỗ người dân thường hay qua lại như để thách thức, như để đe dọa, như để cảnh cáo..
Người ta tin rằng muốn yên ổn thì phải hiến tế cho thần hổ một thiếu nữ xinh đẹp, một cặp đồng nam đồng nữ.
Mẫn Nhi là cô gái xinh đẹp nhất làng, nét đẹp trong trẻo như sương sớm, lại hiền lành, ngoan ngoãn, khi cha mẹ mất, chỉ còn hai dì cháu nương tựa vào nhau, Mẫn Nhi lại càng trở thành đối tượng dễ bị nhắm tới, dì cô khóc cạn nước mắt quỳ lạy van xin nhưng trưởng làng lấy lý do" vì sự bình yên của dân làng "gạt phắt đi.
Buổi trưa định mệnh ấy, cô bị bắt đi, Mẫn Nhi không có sức chống cự, chỉ kịp quay đầu nhìn người dì già nua đang quỳ lạy van xin trong tuyệt vọng. Bị trói chặt tay đưa đi vào rừng, Mẫn Nhi chỉ biết ngẩng mặt lên nhìn bầu trời u ám thầm gọi tên cha mẹ..
Nỗi bất hạnh tưởng như khép đời cô tại đó, nếu như không có chúng tôi xuất hiện cứu cô kịp thời. Tuy Mẫn Nhi được cứu sống, nhưng trong lòng luôn mang nỗi sợ hãi dường như đã ngấm vào máu khó mà nói thành lời mỗi khi nghe tiếng gầm vọng ra từ rừng sâu.
Từ sau lần chiến đấu sinh tử với đàn hổ đêm qua, ánh mắt của Mẫn Nhi dành cho chúng tôi đã khác, không còn cái vẻ dè dặt, ngại ngùng khi mới gặp, thay vào đó là một niềm tin tưởng khó tả. Cái cảnh tôi bị hổ chúa vồ ngã, tưởng như không thể sống sót, cảnh tôi đứng đối diện với con hổ trắng khổng lồ gằn lên từng chữ" ta có thể chết.. Nhưng nhân dân phải được bình yên "dường như đã khắc sâu vào tim cô.
Khi mọi người đang quây quần bên bếp lửa đã dần tàn, Mẫn Nhi bất chợt hỏi tôi:
" Chỉ huy.. Tại sao lại có chiến tranh hả anh? Tại sao con người không thể sống yên ổn, mà cứ phải giết chóc, xác chết đầy đồng để rồi những con hổ ăn quá nhiều người khiến cho chúng thành tinh quái như thế này? Có cách nào để không còn chiến tranh nữa không? "
Tất cả mọi người đều khựng lại, không ai ngờ được rằng một câu hỏi quá lớn được thốt ra từ một cô gái mới mười bảy tuổi, háo hức câu trả lời bằng một ánh mắt trong sáng đến vậy.
Tôi cúi mặt, trong đầu trống rỗng, làm sao tôi có thể nói cho một cô gái mới mười bảy tuổi hiểu được sự phức tạp tàn khốc của thế giới ngoài kia, tôi nhìn quanh ai cũng lặng im, đôi mắt rơi vào trầm tư suy nghĩ, tôi thở dài, thành thật nói:
" Anh.. Cũng không trả lời ngay được, câu hỏi này quá lớn, có lẽ chúng ta nên cùng nhau bàn bạc ".
Voi còi nhíu mày:
" Chiến tranh.. Là do lòng tham, kẻ mạnh muốn nuốt kẻ yếu, kẻ có quyền muốn cướp thêm quyền, dân đen luôn là người chịu trận! "
Minh Khoa lắc đầu, chen vào:
" Không chỉ tham lam, đôi khi chiến tranh còn bùng lên từ sự sợ hãi, từ hận thù, kẻ này lo kẻ kia lớn mạnh rồi ra tay trước. Vòng luẩn quẩn cứ thế kéo dài ".
Nghe mọi người trầm ngâm bàn bạc, tôi ngẩng đầu nhìn khối thạch nhũ trên trần hang động, hít một hơi thật sâu rồi cúi xuống chậm rãi nói:
" Anh nghĩ.. Chiến tranh vốn không phải chuyện mới, nó đã đi cùng loài người từ thuở sơ khai. Từ khi con người còn sống thành từng bầy nhỏ, tranh giành hang đá, nguồn nước, con mồi.. Thì đã có đổ máu. Rồi đến thị tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc.. Tất cả đều không tránh khỏi việc cầm vũ khí chống lại nhau. Và khi có nhà nước, có lãnh thổ, có biên giới.. Thì chiến tranh càng lớn, càng kéo dài và khốc liệt.
Tôi nhìn sang Mẫn Nhi, giọng trầm hẳn xuống:
"Dường như càng ngày chiến tranh càng mở rộng quy mô, từ vài chục người, rồi vài trăm, rồi hàng vạn, hàng triệu.. Từ gươm giáo đến súng đạn. Từ đi bộ đến xe ngựa, xe tăng, máy bay, vũ khí nguyên tử.. Thời nào cũng thế, chỉ khác nhau công cụ giết chóc và quy mô ngày càng lớn mà thôi"
Mẫn Nhi chưa chịu dừng lại, vẫn ngước đôi mắt trong sáng lên nhìn tôi, giọng trong trẻo nhưng tràn đầy hy vọng:
"Vậy.. Có cách nào để hết chiến tranh không anh? Vì em thấy chiến tranh chỉ mang lai khổ đau thôi. Người chết, nhà tan.. Chẳng còn lại gì.."
Chúng tôi lại bước vào một cuộc bàn bạc sôi nổi.
Nhà nước vốn ra đời vốn để "bảo vệ con người" nhưng trên thực tế nhiều khi lại ưu tiên quyền lực và lợi ích của số ít giai cấp hoặc cường quốc. Ví dụ chân thực nhất ở thế giới hiện đại: Để xóa nạn đói toàn cầu chỉ cần khoảng 30 – 40 tỷ đô la mỗi năm, nhưng chi phí quân sự toàn cầu hàng năm đã vượt xa mức 2500 tỷ đô la – gấp gần bảy mươi lần con số cần để cứu đói. Nói cách khác, chỉ cần 2% ngân sách quân sự thế giới cũng đủ để nuôi sống toàn bộ loài người khỏi nạn đói!
Thay vì đầu tư vào phúc lợi chung, con người vẫn dốc tiền vào chạy đua vũ trang, bảo vệ ảnh hưởng chính trị, quân sự, dẫn đến một nghịch lý ngớ ngẩn nhất của loài tự cho mình là thông minh nhất hành tinh: "Con người có thể dễ dàng cứu cả hành tinh khỏi đói nghèo, nhưng lại chọn chi tiền để nuôi hàng trăm bộ máy chiến tranh giết hại lẫn nhau. Đây là mâu thuẫn căn bản của xã hội có nhiều nhà nước hiện nay".
Voi Còi chen vào:
"Khi loài người phát minh ra vũ khí hạt nhân – đó chính là giới hạn cuối cùng của nền văn minh. Trước đó, chiến tranh chỉ giết một phần loài người, nhưng hạt nhân có thể xóa sổ toàn nhân loại, chính vì vậy nó trở thành dấu mốc buộc loài người phải lựa chọn: Hoặc là thống nhất, hoặc là tự diệt vong. Nếu còn tồn tại nhiều quốc gia đối lập, sớm muộn gì thì cái nút hủy diệt cũng sẽ bị bấm xuống".
Nói đến đây, những người lính chúng tôi bỗng như bị ai đó đâm vật nhọn vào tim đau nhói, mọi người nghẹn lòng nhớ đến quê hương, người thân, không ai bảo ai tất cả đều lặng lẽ cúi đầu. Quê hương chúng tôi giờ này có lẽ cũng đã tan nát, những mẹ già, những em nhỏ, những người vợ thường đứng tựa cửa ngóng chồng về.. Giờ có lẽ cũa đã không còn. Mặc dù đất nước chúng tôi đã cố gắng làm bạn với tất cả các nước, càng không phải là một trong những bên tham chiến. Mọi người cố kìm nén nước mắt.
Tôi giọng run run:
"Nếu muốn chấm dứt chiến tranh vĩnh viễn.. Thì cách duy nhất là xây dựng toàn thế giới một nhà nước, cứ một triệu dân thì bầu ra một người vào quốc hội, tất cả mọi người dân trên khắp nơi đều bình đẳng, không còn chuyện siêu cường áp chế tiểu quốc, cũng không còn cảnh dân tộc thiểu số bị bỏ quên. Khi không còn quốc gia đối lập, không còn biên giới thì chiến tranh giữa các nước trở nên vô nghĩa".
Vừa nói dứt câu, trong lòng tôi không khỏi dâng lên một nỗi niềm chua xót, miệng lẩm bẩm:
"Vũ trụ bao la, đủ cho mỗi người chúng ta sở hữu riêng cả một thiên hà thì chúng ta không hướng tới, vậy mà lại tranh giành nhau từng tấc đất trên bản đồ, để rồi làm hỏng cả hành tinh đất mẹ thân yêu – cái nôi sinh ra loài người đến mức không ai sống nổi. Quả là chuyện ngược đời".
Chuyên gia động vật thì rơi vào trầm tư, giọng chua xót:
"Suy đi nghĩ lại thì người lớn chúng ta đôi khi còn không bằng một đứa trẻ. Những đứa trẻ lên năm, lên sáu khi biết yêu thương san sẻ giúp đỡ bạn bè đôi khi còn được cô giáo hoặc cha mẹ khen ngợi hay tặng chút quà nhỏ. Nếu người lớn chúng ta biết đoàn kết yêu thương nhau, Thượng Đế sãn sàng ban cho chúng ta cả vũ trụ bao la. Vậy mà chẳng những chúng ta không làm được mà còn tự hủy hoại cái nôi của chính mình".
Voi Còi bực dọc văng tục:
"Thông minh cái khỉ gì. Bị lòng tham và thù hận dẫn lối thì thiên tài cũng thành thằng đần hết."
Diệp Lam tiếp lời:
"Loài người từng nghĩ rằng phải có biên giới thì mới an toàn, nhưng cuối cùng cũng hiểu ra: Chỉ khi không còn biên giới, con người mới thực sự an toàn".
Nghe đến đây A Trân và Mẫn Nhi mắt long lanh:
"Vậy là sau này chúng em có thể đến Vạn Xuân thăm các anh chị được đúng không? Chúng em sẽ không bị bắt vì nghi là gián điệp, cũng không phải xin giấy tờ hay thủ tục thông quan gì đúng không anh?"
Tôi cười đáp:
"Đúng, không những sau này các em có thể đến Vạn Xuân thăm mọi người mà đợi đến khi tất cả các nước được giải phóng khỏi ách phong kiến rồi thì các em có thể đi bất cứ nơi đâu, không riêng gì Vạn Xuân. Không những các em không bị bắt vì nghi ngờ là gián điệp mà khi gặp hoạn nạn hoặc tai nạn bất ngờ, các em có thể đến bất kỳ cơ quan công quyền nào yêu cầu trợ giúp!"
Hai cô gái trẻ bất ngờ, vui sướng ngẩng cao đầu nhìn khối thạch nhũ đang được ánh nắng chiếu vào trên trần hang, khiến nó xuất hiện những đốm sáng lấp lánh li ti tựa như những viên kim cương nhỏ được ai đó gắn vào. Ánh mắt hai người long lanh như thầm ước mơ điều gì đó..
Chuyện canh phòng hang động giờ được giao cho hai chú chó nghiệp vụ, Minh Khoa và Quốc Vinh giúp đỡ hai chú chó nghiệp vụ lên tảng đá cao trên hang, để có thể nhìn xa hơn. Mỗi con quay đầu về một hướng cảnh giới, còn tất cả chúng tôi giờ ngồi quây quần bên nhau hướng về câu chuyện của sự hy vọng, của tương lai tươi sáng, thậm chí là xây dựng thiên đường trên địa cầu. Tuy nhiên, tất cả súng đã được nạp đầy đạn, nòng súng đã hướng sẵn ra ngoài, chỉ cần nghe tiếng chó sủa là chúng tôi có thể chiến đấu ngay lập tức.
Chuyên gia động vật lên tiếng:
"Xét theo tiến trình lịch sử thì loài người chúng ta sẽ trải qua sáu giai đoạn, đó là xu hướng tất yếu của xã hội văn minh: Bầy người nguyên thủy – Thị tộc – Bộ lạc – Liên minh bộ lạc – Nhà nước – Nhà nước dân chủ toàn cầu".
Mọi người lại sôi nổi bàn về chuyện vui khi chỉ có một nhà nước:
Điều quan trọng hàng đầu là không còn các quốc gia thì cuộc chiến giữa các quốc gia tự nhiên sẽ biến mất.
Chín mươi phần trăm nguồn lực từng dùng để duy trì quân đội, vũ khí, chạy đua vũ trang, căn cứ quân sự.. Sẽ được giải phóng để phục vụ hòa bình và nghiên cứu khoa học vũ trụ.
Nhân loại lần đầu tiên thoát khỏi lời nguyền chiến tranh, thoát khỏi cảnh "nồi da nấu thịt" vì xét cho cùng chúng ta đều là con người với nhau. Chính thức thoát khỏi thứ đã ám ảnh con người suốt hàng chục nghìn năm.
Bình đẳng tuyệt đối giữa mọi dân tộc. Nguyên tắc một triệu dân – một đại biểu xóa bỏ hiện tượng nước lớn áp đặt nước nhỏ. Một cộng đồng một triệu người ở vùng núi xa xôi có tiếng nói ngang với một thành phố một triệu dân ở trung tâm hiện đại, không còn phân biệt cường quốc, tiểu quốc, không còn phe mạnh, phe yếu, không còn chúng ta và họ, vì tất cả đều là chúng ta.
Kinh tế toàn cầu hóa thực sự. Không thuế quan, không biên giới hải quan dẫn đến hàng hóa lưu thông tự do, giá cả giảm mạnh, cạnh tranh công bằng. Người nông dân ở châu phi có thể bán nông sản trực tiếp sang châu âu mà không lo thuế xuất nhập khẩu. Người châu âu cũng có thể bán đồ hiện đại của mình khắp nơi mà không lo thuế quan và thủ tục rườm rà.
Các nguồn lực (lao động, công nghệ, vốn) luân chuyển toàn cầu, kích thích phát triển đồng đều.
Không hộ chiếu, không visa, mỗi người là công dân trái đất – đó là thiên đường của những người đam mê du lịch. Một gia đình bình thường có thể du lịch vòng quanh thế giới như đi chợ. Một cô bé từ Kenya có thể ngắm cực quang Bắc Âu từ đó nảy mơ ước làm nhà khoa học khí tượng.
Tập trung tài nguyên cho những mục tiêu chung. Thay vì chia nhỏ ngân sách cho quốc phòng của hàng trăm nước, toàn nhân loại gom vào những "siêu dự án" :
Xóa đói, xóa mù chữ, chữa bệnh nan y
Phục hồi môi trường, chống biến đổi khí hậu
Thám hiểm không gian, khai phá vũ trụ. Với 50 % ngân sách quốc phòng, có thể đưa con người trở thành nền văn minh liên hành tinh. Chúng ta nên dùng nguồn lực để khám phá vũ trụ bao la vô tận hơn là dùng nguồn lực ấy để sản xuất vũ khí rồi chĩa vào nhau
Văn hóa đa dạng nhưng bình đẳng, không còn chủ nghĩa dân tộc cực đoan, không còn phân biệt chủng tộc, tôn giáo. Mỗi cộng đồng vừa giữ được bản sắc riêng vừa hòa nhập vào đại gia đình chung.
Nhà nước toàn cầu là chính phủ của toàn nhân loại. Luật pháp thống nhất sẽ không còn nơi ẩn náu của tội phạm xuyên quốc gia, không còn chênh lệch pháp lý gây bất công.
Quốc hội toàn cầu hoạt động công khai minh bạch, được toàn thế giới giám sát trực tiếp. Các chính sách giáo dục, y tế, môi trường áp dụng chung cho mọi người, không ai bị bỏ lại phía sau.
Voi còi, Minh Khoa, Quốc Vinh suýt xoa:
"Sống thế mới đáng kiếp người, có thể đi du lịch, khám phá những vùng đất mới, những nền văn hóa và phong tục kỳ lạ.. Và ẩm thực nữa.. Nghĩ đến là đã thèm nhỏ dãi rồi!"
Tôi không ngờ trong nhóm chúng tôi lại có nhiều người đam mê xê dịch đến thế, nhìn sang A Trân và Mẫn Nhi, tuy hai người có vài điều không hiểu, nhưng cả hai dường như rất tin tưởng chúng tôi, khuôn mặt mỉm cười, ánh mắt long lanh mơ về một tương lai tươi sáng.
Đang trong lúc mọi người mơ tưởng về niềm hạnh phúc tột cùng của nhân loại, thì chuyên gia động vật Đỗ Hồng Quang đưa chúng tôi về hiện thực phũ phàng.. Đúng như những đứa trẻ vùng nông thôn ngày xưa chúng tôi hay nói đùa: Đang mơ tưởng về cuộc sống giàu sang thì trở về hiện thực với cái máng lợn.
Anh lấy que củi, viết trên đất dòng chữ "tại sao đàn hổ lại để chúng ta yên ổn lâu vậy?"
Chúng tôi cũng giật mình, đọc xong câu hỏi ai cũng im phăng phắc, đôi mắt chuyển sang căng thẳng và đề phòng. Hai chú chó nghiệp vụ đang nằm nghỉ cũng bật dậy, dựng đứng tai, gầm gừ khe khẽ như cũng cảm nhận được sự lo lắng nơi chúng tôi.
Voi Còi đang hưng phấn ngưng bặt tiếng cười, với tay cầm khẩu súng phóng lựu như bản năng. Cậu ấy cũng lấy hòn than viết lên trên nền hang: Đúng vậy, loài hổ săn theo bầy đâu dễ bỏ qua con mồi, nhất là khi ta đã vào lãnh địa của chúng.
Diệp Lam khẽ rùng mình, cũng viết lên phiến đá: Chẳng lẽ chúng đang rình ngoài kia chờ chúng ta mất cảnh giác?
Không khí trong hang trở nên đặc quánh, gương mặt ai cũng căng cứng như thể cả vách đá cũng đang thu hẹp lại, những tiếng gió thổi ngoài kia, thoạt nghe như tiếng gầm rít trong cổ họng loài thú dữ.
Tôi nhìn quanh các đồng đội, cũng lấy cục than của Voi Còi lên viết:
Chúng ta đi suốt từ hôm qua đến tận cái hang này, suốt dọc đường toàn máu loang lổ, dấu vết rõ mồn một.. Đàn hổ vốn thông thuộc nơi này, sao có thể không biết được? Không thể nào.
Tôi vừa viết xong, cả đội thoáng chốc im lặng, không ai muốn thừa nhận, nhưng ai cũng hiểu điều đó có nghĩa là gì, Mẫn Nhi tái mặt, đôi mắt hoang mang, hai tay ôm chặt bé gái.
Voi Còi nghiến răng viết tiếp:
Chúng nó không bỏ đâu, loài hổ dữ thà chết cũng không để con mồi thoát, con hổ chúa ranh ma như thế, đằng sau sự im lặng này chắc chắn có ý đồ.
Quốc Vinh cũng viết trên nền đất:
Có thể chúng chờ ta kiệt sức, hoặc chờ lúc ta rời khỏi hang để vồ một lần.
Minh Khoa lại xóa chữ của Voi Còi viết lúc trước đi, để lấy chỗ viết lại:
Vậy thì khác nào bị giam trong bẫy, ra ngoài thì bị vồ chết, mà ở trong này thì đói chết?
Chuyên gia động vật giờ cũng hoang mang:
Đừng bảo chúng nó cũng biết đốt lửa dùng chiêu hun khói vào trong hang như chúng ta bắt Thạch Tà nhé! – vừa viết xong anh lại xóa đi ngay, dường như sợ đàn hổ cũng đọc được rồi lại bắt chước mưu kế này thì chúng tôi chết chắc.
Không khí trong hang căng đặc đến mức như nghẹt thở, thời gian trôi đi mà cảm giác như tiếng đếm ngược của số phận, mọi người đều hiểu sự yên tĩnh này chẳng phải bình an, mà chỉ là khoảng lặng trước cơn bão máu lửa.
Tôi đưa mắt nhìn ra khoảng xa hướng về cửa hang, trong đầu hiện rõ ký ức về con hổ đầu đàn: Khổng lồ, cơ bắp cuồn cuộn, đôi mắt hung thần, nó không hành động một cách bản năng như loài thú bình thường, mà quan sát, tính toán.. Rồi ra lệnh bằng những tiếng gầm trầm đục, chính nó đã chỉ huy đàn hổ lùa hai con bò rừng khổng lồ vào hang hôm trước, ép chúng tôi vào cảnh thập tử nhất sinh. Giờ đây, chúng để mặc chúng tôi yên ổn quá lâu, điều này nhất định không phải do sơ suất. Tôi cảm thấy từng thớ thịt trên người như căng ra, linh tính báo hiệu con hổ đầu đàn ấy còn đang chuẩn bị một thứ còn khủng khiếp hơn nhiều.
Không gian im ắng đến lạ thường, ngoài kia gió ngừng thổi, lá cây thôi xào xạc, rừng rậm bỗng trở thành một khối tĩnh lặng, chết chóc. Tiếng nước nhỏ giọt từ vách đá vọng xuống nghe như tiếng tử thần đếm ngược thời gian của chúng tôi. Tôi rùng mình, trong lòng dấy lên một linh cảm: Chúng tôi đang ở khoảng lặng mong manh của trời đất – cái khoảng yên ả giả tạo ngay trước khi cơn bão nổ tung.
Chúng tôi căng thẳng suy nghĩ bước tiếp theo con hổ chúa sẽ làm gì, mọi người viết rất nhiều trên nền đất, rồi lại xóa đi nhưng không ai đoán được, đến tận khi trời tối ngoài cửa hang bỗng vang lên tiếng bước chân và tiếng người gào khóc, chúng tôi đều nín thở, lập tức giương súng chĩa về phía trước, trong lòng ai nấy đều cùng một suy nghĩ: Lại trò cũ, lại giả giọng người giở mánh khóe lừa đảo để kéo chúng ta lộ diện. Voi Còi thậm chí còn lên tiếng:
"Tưởng con hổ chúa thế nào, hóa ra chúng ta đã đánh giá quá cao nó rồi.."
Nhưng.. Vừa dứt lời, thì trước mắt chúng tôi bỗng hiện ra những bóng người.. Ai nấy đều bàng hoàng, mọi người đều dụi mắt mấy lần. Ở nơi rừng sâu núi thẳm này lấy đâu ra người cơ chứ?
Khi những bóng người dần dần tiến lại gần, chúng tôi mới nhận ra, đó thực sự là người thật: Đàn ông, phụ nữ.. Có khoảng hơn chục người mặt mày thất thần bị đàn hổ quây ép, lùa thẳng vào hang. Tiếng bước chân hỗn loạn, kèm theo tiếng khóc thảm thiết, hàng chục người dân đầu tóc rũ rượi, quần áo rách nát, toàn thân đầy vết thương, mặt tái nhợt vì sợ hãi hiện lên rõ mồn một.
Mẫn Nhi hoảng hốt đứng bật dậy, tay run run:
"Người.. Người còn sống, là dân làng em đó!"
Nghe thấy có tiếng người ở trong hang, những con người đang bị đàn hổ lùa ngoài cửa hang kia mừng như người sắp chết đuối vớ được cọc:
"Cứu! Cứu chúng tôi với!" – tiếng kêu hòa lẫn tiếng khóc, nghẹn ngào như xé nát tim gan.
Ngay phía sau họ, ánh mắt xanh lè của đàn hổ chớp nháy trong bóng tối, tiếng gầm rít từng hồi, chấn động cả núi rừng. Từng con hổ vằn to lớn như những bóng quái vật.
Chuyên gia động vật tái mặt, chửi thề qua kẽ răng:
"Chúng.. Khốn kiếp, chúng dùng người sống làm bia đỡ đạn, chắn đường đạn của chúng ta".
Thoạt đầu, ai cũng nghĩ đó chỉ là một trò lừa mới của đàn hổ, giả giọng, giả hình hoặc bày thêm một mánh khóe nào đó. Nhưng khi những bóng người run rẩy bước vào, trong ánh sáng leo lét từ đống lửa, tất cả đều sững sờ.. Đó là những gương mặt tái nhợt, đôi mắt đẫm lệ, chân tay trầy xước, có người trung niên, phụ nữ vừa đi vừa lùi vì sợ đàn hổ phía sau, có cả thanh niên trai tráng nhưng ánh mắt đã tuyệt vọng, như sẵn sàng phó mặc cho cái chết. Không còn nghi ngờ gì nữa – đây là dân lành, bị đàn hổ lùa vào làm bia sống.
Ai nấy siết chặt súng, nhưng ngón tay run run không thể bóp cò. Chúng tôi không thể bắn, bởi vì chỉ cần nổ súng, viên đạn sẽ xuyên qua thân thể những người dân vô tội trước khi chạm được tới bầy hổ. Không gian trong hang căng thẳng đến mức chỉ cần một hơi thở cũng như châm ngòi cho một vụ nổ. Đàn hổ đang áp sát, dùng chính đồng loại của chúng tôi làm con tin sống. Đây không còn là cuộc săn mồi nữa, mà là cuộc vây hãm có chiến lược.
Cửa hang bừng lên những tiếng gầm rợn người, hàng chục người dân bị lùa vào đứng chắn tầm nhìn của chúng tôi trước đàn hổ, ánh mắt họ hoảng loạn, đôi chân run rẩy như sắp quỵ, phía sau lưng họ, từng cặp mắt xanh lục ánh lên trong bóng tối – bầy hổ đang áp sát, hàng ngũ chỉnh tề như một đạo quân đang đợi lệnh. Ngón tay chúng tôi đã đặt sẵn vào cò, nhưng chẳng ai dám bóp, nếu nổ súng người dân sẽ đổ máu trước, mà chúng tôi lại đang mặc quân phục có in dòng chữ thiêng liêng: "Máu quân đội phải đổ trước máu dân". Nhưng nếu chờ đợi, để đàn hổ áp sát thì sẽ chẳng còn một ai sống sót. Mồ hôi lạnh chảy khắp sống lưng, tiếng tim đập dồn dập, như tiếng trống tử thần.
Voi Còi nghiến răng, thốt ra giữa hơi thở gấp gáp:
"Chúng ép mình vào thế tiến thoái lưỡng nan, bắn thì giết dân, không bắn thì chết cả đội!"
Ánh mắt mọi người nhìn tôi, chờ đợi một quyết định.
Tôi siết chặt khẩu súng, nhìn hàng chục ánh mắt kinh hoàng của dân lành trước mặt, họ chẳng khác nào những con cừu non bị lùa vào miệng sói, còn chúng tôi bị ép trở thành kẻ đồ tể bất đắc dĩ, tim tôi như muốn vỡ tung. Tôi quay lại, giọng nghẹn nhưng dứt khoát:
"Voi Còi, Diệp Lam mau đưa A Trân, Mẫn Nhi và hai đứa nhỏ lên vị trí cao nhất trên trần hang, bất cứ giá nào cũng phải giữ họ sống sót. Những người còn lại theo tôi cận chiến với Đàn hổ, không được bắn vào dân".
Mọi người sững lại, đôi mắt rưng rưng, ai cũng hiểu điều đó nghĩa là gì, cận chiến với đàn hổ nghĩa là cửa tử. Bốn người còn lại trong chúng tôi sẽ lấy mạng mình để đổi lấy chút thời gian quý giá cho những người dân chạy trốn. Tôi hít một hơi thật sâu, đôi tay run lên nhưng ánh mắt lại kiên định, trong khoảnh khắc ấy tôi chẳng biết quyết định của mình là ngu dốt hay anh hùng, chỉ biết một điều: Thà chết dưới nanh vuốt hổ còn hơn bóp cò súng giết nhầm người vô tội.
Voi Còi cắn răng kéo lấy A Trân đang khóc nấc, cô giãy giụa, hét đến khản giọng: "Không.. Không.. Em sẽ không để anh ở dưới đó, anh sẽ chết mất, anh sẽ chết mất!"
Trong khi tiếng gào thét của A Trân cùng tiếng sủa dồn dập của hai chú chó nghiệp vụ vọng lại, hòa cùng tiếng kêu cứu của hơn chục người dân vô tội đang đứng trước đàn hổ tạo nên những âm thanh hỗn loạn, ba người đàn ông nhanh chóng tiến lên, đứng ngang hàng với tôi: Chuyên gia động vật Đỗ Hồng Quang, Minh Khoa, Quốc Vinh. Cả ba cùng đồng thanh, ánh mắt kiên định nhưng sắc bén:
"Không nói nhiều, lên đi!"
Chúng tôi bốn người lưng tựa vào nhau thành một vòng cung trong hang tối, trước mặt là những người dân vô tội đang tiến đến gần, ngay sát sau lưng họ là những thân hình vằn vện thấp thoáng trong bóng đêm, ánh mắt xanh lục rực cháy, nanh vuốt lấp lóa.
Chuyên gia động vật rút con dao quân dụng, lưỡi thép ánh lên ánh lửa đỏ hồng từ đống củi vẫn còn cháy dở, Minh Khoa gắn lưỡi lê vào đầu nòng súng, Quốc vinh thì kéo chặt dây buộc tay, cầm chắc cây rìu cứu hộ đã mẻ lưỡi. Còn tôi, nhớ lại lần trước vô tình phun máu vào con dao cong, có thể rạch chảy máu con hổ chúa khổng lồ, nên lần này tôi dí sát con dao cong vào vết thương vẫn đang rỉ máu của tôi, hy vọng cũng có tác dụng như lần trước.
Trong khoảnh khắc định mệnh ấy, tôi hiểu rõ mình chỉ còn nửa cái mạng, các vết thương khắp người vẫn rỉ máu, mỗi hơi thở như có lưỡi dao cắt vào phổi. Thân thể không còn vẹn toàn, nhưng lòng tôi không hề run sợ.
Bên cạnh tôi, hai chú chó nghiệp vụ cũng đang rùng mình, toàn thân đầy vết xước và máu thấm đẫm bộ lông, chúng run vì bản năng cảm nhận cái chết đang đến gần, nhưng tuyệt nhiên không lui nửa bước. Trái lại, cả hai ghìm chặt chân, bày nanh, gầm gừ sát bên chủ nhân như hai tấm khiên sống sẵn sàng lao vào đàn hổ.
Tôi nhìn anh em mình – chuyên gia động vật, Minh Khoa, Quốc Vinh, ba người đều bị thương nhẹ, miễn cưỡng lắm thì mới được coi là hoàn chỉnh, rồi nhìn lại bản thân: Một thân tàn, gắng gượng đứng thẳng nhờ ý chí, thêm hai chú chó trung thành, máu chó lúc này hòa cùng máu người.
Tôi cười cay đắng mà tự hào thầm nghĩ: "Chúng ta không phải bốn người, mà chỉ là ba người rưỡi.. Cộng thêm hai linh hồn dũng cảm. Nhưng như thế cũng đủ để liều một phen.
Tiếng hổ chúa gầm vang, đám hổ lao tới, chúng tôi siết chặt vũ khí, hai chú chó bật chồm lên, đôi mắt ánh lửa, từng nhịp tim dồn dập như trống trận. Không còn đường lui, chỉ còn quyết tử.
Tiếng gầm vang vọng như sấm dội, những đôi mắt xanh lục trước đây khi tiến gần đến ánh lửa trở nên vàng khè lóe sáng trong bóng tối, hàng chục thân hình vằn vện đang trườn tới, uốn mình thấp áp sát đất, nấp sau những người dân lành đang ùa vào, chúng như những cơn ác mộng khổng lồ đang áp sát dần.
" Giữ vững đội hình! - Tôi hét khàn giọng, giơ dao găm, tay kia nắm chặt khẩu súng lục duy nhất của cả đội ".
Chuyên gia động vật rít lên, hướng nòng súng đã gắn lưỡi lê ra ngoài:
" Hãy để nhân dân chạy ra phía sau chúng ta thì mới tấn công! "
Minh Khoa nhếch môi cười, ánh mắt rực lửa:
" Từ lúc mặc quân phục, tôi đã thề sẵn sàng chết thay cho dân, bây giờ chính là lúc thực hiện lời thề đó! "
Quốc Vinh không nói, chỉ gật đầu một cái chắc nịch, rồi kéo mạnh dây rìu, đứng sát cạnh tôi.
Ngay lúc ấy, con hổ đầu tiên vọt lên, tiếng rít gió xé toạc không khí. Minh Khoa nổ súng, viên đạn găm thẳng vào vai nó, máu văng tung tóe. Con thú đau điếng nhưng không ngã, gầm rống lao thẳng vào cậu ta, Minh Khoa hét lớn, lấy súng làm gậy vụt ngang, cả hai lăn lộn giữa đất đá.
Chưa kịp thở, hai con hổ khác cùng lúc lao thẳng vào Minh Khoa, khoảng cách quá gần, cậu ấy không kịp giơ súng lên bắn được. Tôi xông tới, trong lúc người và thú vật lộn cũng không dám bắn, lưỡi dao xuyên qua khoảng sườn lộ ra giữa vằn lông. Máu nóng phụt lên mặt, con hổ thét quằn quại, quét vuốt một đường sắc như lưỡi kiếm, tôi cảm thấy máu mình lại tuôn ra, vết thương chưa lành rách toạc thêm, nhưng vẫn nghiến răng trụ vững.
Hai chú chó nghiệp vụ cũng nhào lên, một con cắn phập vào hông hổ, con kia ngoạm chân sau của nó, tiếng gầm, tiếng tru hòa lẫn vào nhau, ghê rợn đến nghẹt thở.
Những dân làng ban nãy còn bị đàn hổ lùa đi đầu, nay thấy cảnh hỗn chiến kinh hoàng thì bản năng sinh tồn trỗi dậy, họ hoảng loạn tháo chạy về phía sau, nấp hết sau lưng chúng tôi.
Chúng tôi, bốn thân hình đã đầy thương tích, lưng áp lưng thành một vòng chắn, phía sau là dân lành không vũ khí, không sức kháng cự. Phía trước là hai chục con hổ to lớn dị thường, mắt vàng sáng rực như những đốm lửa trong bóng đêm.
Chúng tôi cảm giác rõ rệt ý nghĩa câu khẩu hiệu đã thề trước quân kỳ:" Máu quân đội phải đổ trước máu dân ". Giờ phút này, câu nói ấy không còn là khẩu hiệu, nó chính là xương máu, là sinh mạng, là số phận của cả đội.
Vì phòng tuyến của chúng tôi có thể bị đàn hổ chọc thủng bất cứ lúc nào, nên trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, tôi nói với những người dân giờ đây đã ở phía sau chúng tôi, trong hang đá, những âm thanh vang vọng rõ rệt:
" Hãy chạy sâu nhất vào trong hang có thể, không được dừng lại xem trận chiến, chúng tôi có thể thua bất cứ lúc nào! "
Những người dân vốn đang hoảng sợ, giờ như bừng tỉnh, họ không nấp sau lưng chúng tôi nữa, mà ai nấy đều cố gắng chạy thục mạng vào bên trong hang – nơi mà chúng tôi cũng chưa từng vào, chỉ biết một điều chắc chắn rằng nơi đó an toàn hơn nơi mà trận chiến đang diễn ra ngay tại đây.
Mục đích chính của đàn hổ là chúng tôi, nên khi người dân chạy trốn vào trong hang, chúng có vẻ không bận tâm. Đàn hổ đồng loạt gầm vang, từng con hổ lao thẳng vào, không còn che dấu nữa. Chúng tách ra vây chặt chúng tôi vào giữa. Móng vuốt sắc như lưỡi dao vạch loang loáng trong ánh lửa leo lét còn sót lại từ mấy khúc củi cháy dở.
Minh Khoa vung lưỡi lê đã gắn vào súng, chém rách mặt một con, máu tung tóe, nhưng chưa kịp rút lại thì một con khác lao đến tát ngang, cả người cậu ấy hất văng đập mạnh vào vách đá. Giờ đây không còn vướng bận người dân, nên Quốc Vinh bắn liên tiếp hai phát vào ngực con hổ đang lao tới, nhưng vì lực lao của nó quá mạnh, khiến cậu ấy bật ngửa, móng vuốt sượt qua ngực và cổ tóe máu. Chuyên gia động vật giờ cũng đỏ ngầu mắt. Anh lăn tránh một cú vồ rồi đâm mạnh con dao găm vào hông hổ, nhưng bị nó hất tung lên cao, ngã xuống đất nặng nề.
Tôi.. Vết thương chưa lành, chỉ còn nửa cái mạng, nhưng vẫn cắn chặt răng nhảy tới cản một cú vồ nhằm vào Minh Khoa, cú va chạm làm tôi nghẹt thở, tai ù đặc. Hai chú chó nghiệp vụ lúc này cũng chẳng hơn tôi là bao, vết thương khắp người nhưng cũng dồn sức gầm gừ lao ra, cắn chặt chân hổ quyết không buông.
Hang động rung chuyển bởi tiếng gầm rít, tiếng đạn nổ tiếng thép va vào móng vuốt, tiếng máu chảy hòa vào đất đá. Cái chết đang kề sát, và chúng tôi đều biết: Đây là trận chiến cuối cùng, hoặc là toàn đội nằm xuống, hoặc là có kỳ tích xảy ra.
Tất cả chúng tôi giờ đây đều đã nằm trên mặt đất, súng hoặc đã hết đạn hoặc bị đánh văng, hơn chục con hổ vằn to lớn lại đang lao đến gần, Phía ngoài rìa bòng tối, con hổ chúa cuối cùng cũng nhích bước, uy nghi như một vị vương giả đi kiểm tra chiến trường của mình.
Trong khoảng khắc ngột ngạt ấy, khi tận mắt thấy mấy chục bàn chân hổ to lớn đang lao thẳng về phía chúng tôi, thì từ trên cao vang xuống một tiếng nổ chát chúa.
Đùng!
" Anh em cố lên, tôi còn ở đây "
Từ trên vách đá cao, bóng người quen thuộc của Voi Còi hiện ra, vai vác khẩu súng phóng lựu, không chỉ dừng lại ở một phát, cậu ấy lia nòng, bắn liên tiếp những quả lựu đạn khác, tạo thành bức tường nổ rền vang cắt ngang bước tiến của đàn hổ.
Bầy hổ lập tức bị rối loạn, một con văng ra xa, lông cháy xém, mùi máu và thuốc súng quyện lại, khiến chúng gầm lên điên cuồng. Con hổ chúa khựng lại nhìn sang phía Voi Còi, ánh mắt bình tĩnh lạ thường, nó không những không sợ hãi tiếng nổ mà trong đôi mắt ấy ánh lên vẻ trịch thượng và tự tin nắm chắc phần thắng.
Chúng tôi tranh thủ thời cơ, Minh Khoa rướn người kéo Quốc Vinh lùi về sát vách, chuyên gia động vật chộp vội lấy con dao rơi bên cạnh, còn tôi thì vịn vách đá đứng lên, máu đã theo các vết thương chảy ra quá nhiều, nên giờ chỉ đứng không thôi cũng đã khó, nhưng ánh mắt vẫn cố gắng dõi theo đàn hổ, sẵn sàng liều một phen.
Thấy chúng tôi vẫn bị vây quanh bởi đàn hổ, vì khoảng cách quá gần, sợ viên đạn của súng phóng lựu cũng ảnh hưởng đến chúng tôi, nên Voi Còi quay sang bắn con hổ chúa – với hy vọng cái chết của thủ lĩnh sẽ làm bầy thú hung hãn này dừng lại. Quả đạn màu lửa đỏ rực rít thẳng đến như ánh chớp tử thần. Trong khoảng khắc tưởng chừng như không thể nào tránh khỏi, hổ chúa bất ngờ hạ thấp thân hình, bật mạnh hai chân sau như lò xo thép.
" Vụt! "
Quả đạn lướt qua, nổ tung vách đá phía sau nó, cả khối đá khổng lồ rơi xuống, khói bụi mịt mù nhưng thân hình lẫm liệt của con hổ chúa thì vẫn nguyên vẹn, nó không gầm thét dữ dội, mà ngẩng cao đầu, điềm nhiên như một bậc vương giả. Thế nhưng.. Khi khói bụi dần tan đi, gương mặt của nó hiện ra, chúng tôi bỗng rùng mình:
Một bên mắt của nó tĩnh lặng như trời đêm, sâu thẳm và kiêu hãnh, mang nét uy nghi kiêu hùng của vị vua thống trị. Bên mắt còn lại rực cháy ánh đỏ, lạnh lùng như lưỡi dao kề cổ, ánh lên tia sáng của sát thủ máu lạnh.
Đàn hổ vằn thấy thủ lĩnh hoàn toàn bình an vô sự, chúng lập tức phát động tấn công.
Một con hổ xẹt ngang qua, móng vuốt của nó vả mạnh làm Minh Khoa văng ra, ngực phập phồng, hơi thở loạn nhịp. Quốc Vinh thì đã mất máu nhiều, chỉ còn bấu chặt vào con dao trong tay, tôi thì vết thương cũ rách thêm, máu nóng chảy xuống chân, mắt mờ đi từng nhịp.
Voi Còi từ trên cao nhìn xuống, ánh mắt lóe lên sự tuyệt vọng. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, bảo Voi Còi không được nhảy xuống. Bốn người dưới đất chúng tôi bao gồm Minh Khoa, chuyên gia động vật, Quốc Vinh và tôi không còn hy vọng, không còn lối thoát, chỉ còn lại sự quyết tâm chết cùng nhau.
Con hổ chúa lúc này tiến thêm, uy nghi như một vị vương, bước chân khoan thai mà vững chãi, ánh mắt lạnh lùng nhìn chúng tôi, nó gầm lên, tiếng vang dội cả hang động, uy lực đến mức những viên đá nhỏ trên cao cũng rơi xuống, như khúc mở màn của bản án tử.
Tôi nắm chặt con dao cong, cố gắng đứng vững. Nhưng Voi Còi, bỏ ngoài tai lời nói của tôi, đã đặt một chân lên vách đá, chuẩn bị nhảy xuống quyết cùng chúng tôi chết chung, tử chiến với đàn hổ.
Khung cảnh lúc ấy thật sự như tận cùng của bi kịch. Chúng tôi đã gắng gượng đến kiệt sức, thân thể rách nát, hơi thở đứt quãng, Voi Còi trên cao lật ngược khẩu súng phóng lựu sáu nòng, từ một vũ khí tầm xa cậu ấy biến nó thành vũ khí cận chiến, chuẩn bị gieo mình xuống thì bất ngờ một bóng người lao vút từ trên cao xuống như mũi tên xé gió.
Anh em! – tiếng thét của Diệp Lam vang dội và cháy bỏng.
Bởi vì khoảng cách của chúng tôi với đàn hổ đã quá gần, nên từ vị trí cũ, cô ấy không dám bắn, sợ nhầm vào đồng đội, trái lệnh tôi, Diệp Lam đã để A Trân, Mẫn Nhi và hai em nhỏ ở lại trên cao, còn bản thân thì ném mình vào trận chiến. Muốn bắn trúng, buộc phải áp sát, có nghĩa là chọn cận chiến.
Nhưng khi Diệp Lam và Voi Còi vừa lao xuống, thân thể còn chưa kịp đứng vững, thì một con hổ vằn máu tinh khôn dường như đã đoán trước được bước đi này của chúng tôi. Ngay từ đầu, nó đã tìm chỗ ẩn nấp vào một khe đá ngay dưới nơi mà Mẫn Nhi, A Trân và hai em nhỏ được Voi Còi và Diệp Lam hộ tống lên. Ngay trước cửa khe đá đó lại là một tảng đá lớn cao ngang đầu người khiến cho từ vị trí trên cao của A Trân và Mẫn Nhi nhìn xuống thì không thể phát hiện ra nó, mà từ chỗ chúng tôi nhìn vào thì chỉ thấy tảng đá. Nếu muốn nhìn thấy con hổ vằn máu to lớn với cơ bắp cuồn cuộn đó, buộc phải tiến gần đến khoảng hai mét so với khe đá. Nhưng đứng đối diện với một con hổ như vậy với khoảng cách hai mét thì cho dù trong tay có cầm súng đã lên đạn sẵn cũng chưa chắc sống nổi. Tôi có cảm giác như chúng tôi đã bị" bắt bài "chiến thuật. Vì từ chỗ chúng tôi mà nhìn vào thì chỉ thấy tảng đá to lớn, chứ không thể phát hiện ra con hổ vằn máu nấp sau đó, nên khi nó chồm ra, chúng tôi chỉ biết giật mình xót xa chứ không kịp thông báo cho hai người đồng đội máu thịt là có thần chết đang ở sau lưng.
Diệp Lam vừa tiếp đất, thân thể vẫn còn loạng choạng, chưa kịp chạy gần đến cứu chúng tôi, thì từ đằng sau, bóng một con hổ vằn máu, là một trong hai con hổ hộ vệ của con hổ trắng khổng lồ đã chồm đến ngay sau lưng cô ấy. Không chịu nổi một đòn, Diệp Lam bị một cú vả, cả thân mình đập vào vách đá, nằm bất động ngay tại chỗ, Voi Còi cũng rơi xuống chừng sau hai giây, tuy có thời gian kịp phản ứng, không bị bất ngờ như Diệp Lam. Nhưng, chỉ hai giây thôi cũng đủ để con hổ vằn máu to lớn dị thường ấy chuyển hướng tấn công sang Voi Còi. Lợi dụng sẵn đà đang rơi, cơ bắp căng như dây cung, khẩu súng phóng lựu sáu nòng trong tay lúc này không khác gì cây chùy thép khổng lồ, chuẩn bị nện thẳng xuống đầu con hổ. Nhưng con hổ vằn máu đã quay phắt lại, bộ móng của nó dài như lưỡi dao, xé không khí thành tiếng rít, chỉ một cú quật ngang, mục tiêu của nó không còn là Diệp Lam, mà là Voi Còi – lúc này – vì con hổ đã xoay mình nên thành ra cậu ấy lại đang rơi trong tư thế bất lợi. Cả hang động như nín thở, trong ánh lửa chập chờn hình ảnh ấy như cái chết đang mở ra miệng vực sâu chờ nuốt chửng hai người cùng lúc.
Sự khác biệt giữa tôi và Voi Còi lúc chiến đấu với hai con hổ vằn máu là ở chỗ khi con hổ vằn máu vồ lấy tôi, là nó đang trên đà phóng vọt lên thân cây chỗ tôi đang đứng, cả cơ thể lơ lửng trên không trung, không có điểm tựa bám để chuyển hướng, vì thế tôi sẵn đang trên cây cao, cố nhảy cao hết sức, bắt đúng nhịp đà rơi, cũng lợi dụng sức nặng của cả cơ thể để đâm một nhát chí mạng vào gáy con hổ vằn máu to khủng bố đó. Nhưng lần này Voi Còi và Diệp Lam thì khác, con hổ vằn máu này đã từng thấy sự lợi hại của chúng tôi, nên nó không liều lĩnh phóng từ dưới thấp lên cao như con hổ trước đây đã bị tôi tiêu diệt nữa. Thay vào đó, nó kiên nhẫn rình rập, chờ đợi thời cơ hai người không ngờ tới và giờ sự kiên nhẫn của nó giờ đây đã được đền đáp..
Thế bị động lại chuyển sang Voi Còi, cậu ấy xoay khẩu súng phóng lựu sáu nòng hòng chống đỡ, nhưng sức nặng cùng tốc độ của con hổ vằn máu vượt quá sức chịu đựng. Cú chạm khủng khiếp vang lên như sấm, thân thể cậu tuy to lớn so với người thường nhưng vẫn bị hất văng ra xa, va vào phiến đá lớn rồi rơi xuống nền hang. Máu tuôn ra từ ngực, miệng, loang đỏ từng mảng trên nền đất lạnh. Khẩu súng phóng lựu trượt khỏi tay, va chát chúa vào vách đá rồi lăn lóc bên cạnh vô dụng như một khối sắt phế.
Voi Còi cũng nhanh chóng nằm dưới móng vuốt con hổ vằn máu trông như lực sĩ trong thế giới loài hổ đó trước sự bất lực của chúng tôi. Nhưng nó không vội kết liễu hai người ngay, mà nó cắn gãy khẩu súng của Diệp Lam, để mặc Diệp Lam nằm im bất động, còn bản thân nó thì ngậm chặt vào vai Voi Còi tha đến cùng chỗ chúng tôi, chờ lệnh của con hổ chúa khổng lồ.
Không khí trong hang lúc đó tuyệt vọng vô cùng, chỉ còn lại tiếng gầm gừ khe khẽ của đàn hổ và tiếng thở dốc rời rạc của chúng tôi. Móng vuốt bén nhọn của chúng ấn chặt xuống vai, xuống ngực, xuống bụng mỗi người, cảm giác lạnh buốt chạy dọc sống lưng tôi, da thịt tê cứng, từng giọt máu rỉ ra dưới sức nặng của chúng, chúng tôi không ai còn sức chống trả nữa, tay buông thõng, súng ống hết đạn nằm chỏng trơ bên cạnh.
Điều lạ lùng là đàn hổ không hạ sát ngay, chúng đứng đó, ánh mắt vàng rực như những ngọn đuốc trong đêm tối, gầm gừ đều đặn như lệnh thúc quân. Chúng tôi biết, chúng đang đợi lệnh kết liễu từ thủ lĩnh.
Trong lúc máu chảy chan hòa, hơi thở nặng nhọc, tôi vẫn không thể không âm thầm khâm phục con hổ chúa. Nó không chỉ có sức mạnh cơ bắp như một con dã thú siêu việt, một kiệt tác hoàn hảo trong từng đường gân thớ thịt phục vụ chiến đấu của tạo hóa, mà nó còn hiểu rõ trái tim con người, hiểu được" điểm yếu chí tử "của những người lính chúng tôi chỉ trong một ngày ngắn ngủi tiếp xúc.
Nó biết, chỉ cần lùa dân lành đi trước, thì nòng súng của chúng tôi dù chĩa thẳng vào cái chết trước mắt cũng không thể bóp cò. Đó không phải là thủ đoạn của loài thú nữa, mà giống như mưu kế của một vị tướng lão luyện, đánh thẳng vào điểm yếu tinh thần của đối phương.
Một con thú, dù có thông minh đến đâu, cũng khó mà hiểu được những quy luật trong tim người lính. Nhưng hổ chúa này.. Nó dường như biết rõ từng suy nghĩ, từng lời thề của chúng tôi. Tôi tự hỏi:
" Có phải nó nghe được tiếng thì thầm của chúng tôi cách hàng chục dặm? Hay nó chỉ cần nhìn ánh mắt, nhìn hành động của chúng tôi mà đoán được tất cả? Hay thực sự nó đã ăn xác người quá nhiều nên đã hiểu hành vi con người? Cũng như chúng ta hiểu được tập tính của bầy gà vậy? "
Dường như nó nó là một thứ gì đó vượt ra ngoài bản năng thông thường, biết cách bẻ gãy ý chí con người bằng chính điều thiêng liêng nhất của họ.
Con hổ chúa lầm lẫm bước ra, uy nghi như một vị vương giả đi kiểm tra chiến trường của mình, ánh mắt nó lúc này vàng rực, tỏa ra thứ ánh sáng như lưỡi dao cắt ngang màn đêm, khiến tất cả chúng tôi bất giác run lên. Thân hình nó khổng lồ, cơ bắp cuồn cuộn từng bước đi khoan thai nhưng chứa đựng uy lực tuyệt đối.
Lũ hổ còn lại lập tức lùi sang hai bên, hạ thấp đầu, thậm chí không dám gầm gừ nữa, cả hang động rơi vào một khoảng tĩnh lặng nghẹt thở. Chúng tôi, những kẻ nằm dưới móng vuốt chẳng khác nào tù binh bị điệu ra trước mặt vị vua để chờ phán quyết. Con hổ chúa không lao đến ngay, nó đi một vòng chậm rãi, quan sát từng người trong nhóm chúng tôi, đôi mắt nó sáng lên như đọc thấu tâm can. Đến chỗ tôi, nó dừng lại, ghé thật gần, hơi thở nóng rực phả vào mặt. Tôi có thể thấy từng cọng râu từng sợi lông hai bên miệng to bè của nó.
Trong ánh nhìn của nó, tôi đọc ra một thông điệp rành rành, như tiếng gầm, không cần phải nói thành lời:
" Lần thứ nhất, người nằm dưới móng vuốt của ta, vẫn còn thoát được. Lần này ngươi nghĩ ngươi còn cơ hội không, hỡi con người nhỏ bé kia? "
Móng vuốt khổng lồ của nó ấn sâu xuống nền đá, như để đe dọa, như để thị uy sức mạnh, nền đá phát ra âm thanh răng rắc như xương người gãy, những con hổ trong hang như những tay đao phủ, đồng loạt cúi rạp xuống, gầm gừ khe khẽ chờ lệnh.
Cả cơ thể tôi đau buốt, máu thấm ướt áo, hơi thở chỉ còn đứt đoạn, nhưng trong ánh mắt vẫn còn chút lửa, ngẩng nhìn lại nó nghĩ thầm:
" Dù lần thứ hai, lần thứ ba hay lần cuối cùng, ta cũng không hối hận, máu của ta đổ trước máu dân đó là số mệnh ".
Dường như con hổ chúa cũng cảm nhận được ý nghĩ ấy, nó hơi nghiêng đầu, đôi mắt khẽ nheo lại, như cười nhạt, như vừa thách thức vừa công nhận. Rồi bất ngờ nó há to miệng, gầm một tiếng ẦM ẦM vang dội cả hang động, khiến đá vụn trên trần rơi lả tả. Âm thanh ấy như lời phán quyết tử hình dành cho chúng tôi.
Trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, khi móng vuốt hổ chúa đã kề sát cổ tôi, thì một bóng dáng nhỏ nhắn từ trên cao rơi xuống.
A Trân – mái tóc tung bay, gương mặt đẫm nước mắt nhưng ánh mắt kiên định, lao thẳng từ vòm hang xuống, tay siết chặt con dao sáng loáng.
Con hổ chúa ngẩng đầu, hơi ngoảnh mặt về hướng A Trân, đôi mắt lóe sáng trong ánh lửa lần đầu tiên để lộ một thoáng kinh ngạc. Hơn chục con hổ vằn và con hổ vằn máu hộ vệ cũng tò mò nhìn về phía cô gái nhỏ bé. Chúng nhìn A Trân với vẻ tò mò như chơi một trò chơi tiêu khiển, hoàn toàn khinh thường sức chiến đấu của cô gái nhỏ bé này. Trong ánh mắt con hổ chúa lấp lánh lên vẻ thú vị:
" Một con người nhỏ bé, dám nhảy xuống từ trên cao để lấy mạng ta? Ngươi điên rồi, thật sự điên rồi ".
Khoảnh khắc ấy, tất cả chúng tôi – những người chỉ còn đang thoi thóp dưới móng vuốt hổ cũng sững người, một giây kéo dài như cả trăm năm.
Sự việc tiếp theo còn khiến chúng tôi bàng hoàng hơn. Không ai ngờ được rằng từ trong góc tối của hang – nơi mà những người dân nghe theo lời của tôi đã chạy sâu vào trong hang, tìm cách giữ mạng sống trước đàn hổ tàn nhẫn này, xuất hiện hai bóng người lao ra, trên tay họ ôm những vò rượu cũ kỹ, lửa đã bén đỏ hồng trên mỗi vò, họ không chút do dự, hét lớn như xé nát bầu không khí chết chóc:
" Mọi người!.. Chúng tôi quay lại đây! "
Rồi cả hai ném thẳng những vò rượu bốc lửa vào giữa bầy hổ.
" Ầm! Rực! "
Ngọn lửa bùng lên nhanh chóng, rượu văng tung tóe, bén vào lớp lông dày khiến mấy con hổ vằn giật mình nhảy dựng lên. Mấy con hổ thường thoáng chững lại vừa sợ hãi vừa tức giận. Ngay lúc đó, thêm bốn, năm người dân nữa liều mình chạy ra, vác theo các vò rượu còn sót lại. Họ nối tiếp nhau, dường như quên cả sống chết, ánh mắt vốn từ sợ hãi hoảng loạn tột độ lúc trước giờ chuyển sang căm thù. Ánh mắt này dường như muốn trả thù cho người thân của họ đã bị đàn hổ xé xác.. Họ ném từng vò rượu vào chỗ những ngọn lửa đang cháy rừng rực do hai người lúc trước khởi đầu. Ngọn lửa lập tức lan rộng, đến mức không chỉ hổ thường, mà cả con hổ vằn máu lúc trước đã hạ Voi Còi và Diệp Lam chỉ trong vòng chưa đến ba giây cũng phải lùi dần về phía cửa hang. Ánh lửa phản chiếu gương mặt khắc khổ của dân làng – những con người vốn chỉ biết cày cuốc, nhưng lại rất nghĩa khí tình nguyện biến thành chiến sĩ bất đắc dĩ giờ đây dùng máu và lửa để bảo vệ chúng tôi!
Về phần tôi. Trong khoảnh khắc con hổ chúa ngửa cổ nhìn về A Trân, ngay trước khi dân làng mang những vò rượu đã bén lửa ra, tôi nghiến răng, dồn chút hơi tàn cuối cùng siết chặt con dao mà bà Tống đã trao, bật dậy như kẻ đang nằm trong quan tài sống lại từ cõi chết. Cả thân mình lao lên như một mũi tên gãy, con dao trong tay tôi lóe sáng từ đống lửa bếp vẫn còn âm ỉ cháy.
Xoẹt!
Mũi dao đâm trúng ngay vào lớp da dưới cổ của con hổ chúa – nơi lớp da dày và cứng như sắt thép vẫn được coi là bất khả xâm phạm. Con dao thấm máu tôi phát ra một tiếng nổ lách tách kỳ dị, như có lửa bén vào máu, một dòng máu đen sánh đặc phun ra nóng bỏng hôi tanh tạt thẳng vào mặt tôi.
Con hổ chúa khựng lại, trong đôi mắt vàng rực rỡ của nó thoáng hiện lên thứ mà nó chưa bao giờ từng có – một tia đau đớn đầy giận dữ.
Lần trước, con dao vô tình thấm máu của tôi đã làm con hổ chúa rỉ máu, một chuyện tưởng như không thể nào xảy ra. Khiến cho tôi hiểu ra: Máu của tôi là khắc tinh duy nhất của nó.
Con hổ chúa thét lên một tiếng gầm long trời lở đất, cả hang động chấn động, đá vụn rơi rào rào từ trần hang xuống. Theo bản năng nó điên cuồng lắc mạnh thân thể, tưởng chừng sẽ hất tung mọi thứ ra khỏi cơ thể nó, nhưng tôi đã đoán trước khoảnh khắc ấy, cánh tay run rẩy của tôi vẫn cố bám chặt chuôi dao lợi dụng chính cú giãy dữ dội của nó để xoay mũi dao cong sang hướng khác.
Thân thể tôi như một khối nặng bị lắc văng. Tôi cố bám trụ lấy vì hiểu đây là cơ hội duy nhất của tất cả con người nơi đây. Lực giằng xé của con hổ cộng thêm sức nặng của tôi khiến vết thương nơi cổ họng nó xé toạc ra như một miệng núi lửa nổ tung. Máu phun thành vòi nóng rực và tanh nồng.
Con hổ chúa cố gắng gầm lần nữa, như bản năng vốn có của kẻ đứng đầu núi rừng, nó há to cái miệng khổng lồ cổ họng run lên bắp thịt dồn hết để phát ra tiếng rống từng khiến rừng già im lặng.
Nhưng..
Thay vì âm thanh vang dội, chỉ có tiếng khò khè tắc nghẹn.
Hơi thở nóng bỏng phun ra kèm theo dòng máu đen đặc, bắn tung tóe thành từng vệt dài nhuộm đỏ mặt và ngực tôi.
Ánh mắt vàng óng rực lửa của nó nhìn tôi giờ đây không còn là sự khinh miệt cao ngạo mà là một tia căm hờn xen lẫn không cam tâm.
Con hổ chúa, mặc dù đã bị vết thương chí mạng nhưng vẫn còn sức mạnh kinh hoàng cuối cùng của kẻ đứng đầu. Nó vùng vẫy dữ dội, lồng lộn toàn thân. Tôi cảm giác lúc này nó còn khỏe hơn cả một con tê giác, mỗi cú quăng quật khiến mặt đất rung chuyển và đá vụn rơi rào rào từ phía trần hang. Tôi chưa kịp điều chỉnh, cả cơ thể đã bị hất văng mạnh, bay qua phiến đá dựng đứng, đau buốt toàn thân khi lưng đập vào nền hang gồ ghề.
Cú quật với sức mạnh kinh hoàng đó khiến cơ thể tôi bay như một khối vô định giữa không trung. Khi đập vào nền hang gồ ghề, cơ thể tôi chưa dừng lại ngay, mà còn lăn thêm mấy vòng nữa. Con dao cong – thứ vũ khí duy nhất khiến hổ chúa bị thương bị bật khỏi tay, lăn xuống nền hang xa tầm với. Tôi cứ thế lăn theo quán tính vào đống lửa bập bùng, nhiệt hừng hực cháy trên nền đá khiến da thịt tôi rát bỏng, mùi khét xộc vào mũi. Cả cơ thể gần như bất động, xương cốt ê ẩm hơi thở đứt quãng, đôi mắt mờ dần vì đau đớn và mất máu.
Ý thức thì tôi vẫn biết là lửa đang bén lên thân thể mình, nhưng cơ thể không cử động được nữa, tôi tưởng mình sẽ chết giữa biển lửa và máu, nhưng may mắn thay, từ phía sau vài người dân gan dạ lao tới, họ bất chấp khói lửa và bụi đá, nắm lấy tay tôi kéo tôi ra khỏi đống lửa đang bùng cháy, thở hổn hển, ánh mắt vẫn còn kinh hoàng vì những sự việc vừa xảy ra.
Những con hổ còn sống sót lúc này đã đứng cách phía bên kia của ngọn lửa, ánh mắt hoảng loạn khi phát hiện hổ chúa – vị vua của bầy đã gục xuống máu me loang lổ. Không còn một tiếng gầm. Con hổ vằn máu còn lại dũng cảm nhất thử tiến tới, nó nhìn xuống xác con hổ chúa rỉ máu cùng lửa đỏ rực rồi giật mình quay đầu bỏ chạy gầm rú vang vọng trong tuyệt vọng lao ra khỏi cửa hang vào rừng sâu, mất hút vào màn đêm u tối của rừng rậm. Những con hổ thường thấy thế cũng từng bước run rẩy, theo chân con hổ vằn máu, không thấy tăm hơi đâu nữa.
Không khí trong hang cuối cùng cũng tạm lắng, chỉ còn tiếng thở hổn hển, mùi khét của lửa và máu lan tỏa.
Phải mất gần một giờ, sau khi khói lửa dần lắng xuống và bầy hổ bỏ chạy, Mẫn Nhi và A Trân mới kiểm tra lại từng người. May mắn thay, chưa ai tử vong, nhưng tất cả những người lính chúng tôi đều mất máu và bị thương nặng, không biết có qua khỏi hay không. Hai chú chó nghiệp vụ trung thành cũng đang nằm thoi thóp.
Ánh lửa còn lại trong hang hắt lên những khuôn mặt tái nhợt. Chúng tôi nằm đó, mỗi người đều đã được người dân quấn băng tạm bợ bằng mảnh áo rách, máu vẫn thấm ra từng mảng đỏ sẫm, cả thân thể rã rời, vết cắn xé, móng vuốt rạch sâu, hơi thở thì ngắt quãng. Mỗi lần hít vào lồng ngực như bị dao cứa, máu từ ngực và vai tôi chảy xuống không ngừng, nóng rát lúc đầu nhưng rồi dần lạnh buốt.
Mắt tôi nhòe đi, cảnh vật trước mặt chỉ còn là những bóng mờ lẫn trong mùi khói lửa và tiếng người ồn ào, cơ thể tôi dường như không còn là của mình nữa: Tê liệt, nặng trĩu, từng sợi gân cốt như muốn buông xuôi. Thế rồi.. Tôi thấy mình đang trôi.. Nhẹ bẫng, sự đau đớn không còn nữa mà là một sự bình yên đến khó tả. Tôi nhìn xuống thấy thân xác mình nằm bất động, ngay bên cạnh là A Trân quỳ sụp xuống đôi tay run rẩy bấu chặt lấy cánh tay tôi, nước mắt cô hòa vào vết thương loang lổ, từng tiếng gào khóc như nát tim gan:
" Anh ơi.. Đừng bỏ em.. Đừng bỏ mọi người! "
Mẫn Nhi – cô gái chỉ mới mười bảy tuổi khuôn mặt non nớt giờ òa khóc nức nở, hai tay che mặt như không dám tin sự thật phũ phàng ngay trước mặt. Quanh đó là đồng đội của tôi: Voi Còi, Diệp Lam, chuyên gia động vật Đỗ Hồng Quang, Quốc Vinh và Minh Khoa, tất cả đều nằm im bất động, hơi thở thoi thóp.
Tôi lơ lửng trên cao nhìn toàn cảnh, khung cảnh như một bức tranh nhuốm đầy máu và khói lửa, tôi muốn ôm lấy tất cả, muốn trấn an, muốn nói rằng tôi vẫn ở đây chưa rời bỏ họ nhưng khoảng cách vô hình ngăn tôi lại. Tiếng tôi cất lên chỉ tan vào hư vô không một ai nghe thấy.
Bất ngờ, từ phía xa, một luồng ánh sáng trắng tinh khiết kéo đến như một cơn lốc xoáy. Tôi chưa kịp phản ứng thì đã bị nó hút mạnh, toàn thân như rơi vào một dòng chảy ấm áp. Không còn mùi máu tanh, không còn tiếng gào khóc của A Trân hay Mẫn Nhi.. Tất cả lùi xa, mờ dần, tan biến như một giấc mơ.
Khi mở mắt ra, tôi đứng giữa một nơi không thể gọi tên: Bầu trời cao thẳm xanh ngát, ánh nắng vàng rực rỡ nhưng không hề chói, hương thơm ngạt ngào của hoa cỏ lan tỏa khắp không gian, dịu dàng như vòng tay mẹ. Trong khoảnh khắc ấy tôi thấy lòng mình nhẹ tênh, không còn đau đớn nơi vết thương, không còn sức nặng của trách nhiệm, chỉ có sự bình yên tuyệt đối. Sự thoải mái đến mức mà không bút mực nào diễn tả hết được.
Tôi nhìn xuống dưới chân: Một biển mây trắng xóa mềm mại, bồng bềnh như lụa. Mỗi bước chân tôi đặt xuống, mây lại dập dờn nâng đỡ nhẹ nhàng như thể sợ tôi bị ngã. Cảm giác ấy.. Thật khó diễn tả, vừa thoải mái vừa thanh thản. Trước mắt tôi, con đường bằng mây kéo dài xa tít, dẫn đến những cổng vòm sáng rực như dát vàng. Từng tia sáng rọi xuống từ phía trên, lung linh như những dòng suối bạc chảy trên bầu trời. Không khí nơi đây trong trẻo đến nỗi mới hít một hơi thôi đã thấy thân thể nhẹ nhõm, cảm giác vui sướng lan tỏa khắp người.
Xa xa, có những bóng người thong dong bước đi trên mây, nét mặt họ rạng rỡ, nụ cười hiền hòa. Không ai vội vã, không ai lo toan, tôi chợt nghe thấy những khúc ca ngân nga, du dương như gió, dịu dàng như sóng, khiến tâm hồn tôi lâng lâng muốn buông hết gánh nặng để hòa vào cảnh giới này mãi mãi.
Tôi nghe đâu đó thấy tiếng cười giòn giã, tiếng nói quen thuộc. Quay lại tôi thấy năm đồng đội dã hy sinh trước đó đang đứng mỉm cười với mình, ho mặc quân phục chỉnh tề, ánh mắt sáng như chưa từng trải qua đau đớn.
Tôi định lao về phía họ, thì chợt nhận ra giữa biển mây trắng bồng bềnh ấy, không chỉ có năm đồng đội đang mỉm cười chờ mình. Tôi bỗng khựng lại, tim nghẹn trong lồng ngực, nước mắt chực tuôn trào như những đứa trẻ.. Bởi ngay phía trước, cha mẹ tôi đang đứng đó:
Mẹ vẫn dáng vẻ dịu hiền như trong ký ức tuổi thơ, đôi mắt ướt nhưng tràn ngập yêu thương. Cha thì vững chãi, nụ cười điềm đạm, ánh mắt chan chứa niềm tự hào. Hai người không nói lời nào, chỉ lặng lẽ mở vòng tay như muốn ôm tôi vào lòng. Nước mắt tôi dâng trào, bao năm rồi tôi khát khao giây phút này biết mấy.
Và bên cạnh cha mẹ, bốn vị lãnh đạo đất nước tôi cũng hiện ra. Không còn vẻ căng thẳng mệt mỏi vì gánh vác vận mệnh quốc gia, họ nhìn tôi bằng ánh mắt hiền hòa, sáng rỡ như ánh nắng ban mai.
Trong biển mây trắng ngập tràn ánh sáng dịu êm ấy, bốn vị lãnh tụ bước đến gần tôi, không còn dáng vẻ uy nghiêm ngày nào, họ hiện ra hiền hòa, nhân hậu, đôi mắt chan chứa tình thương như ánh nhìn của cha mẹ. Một người đặt tay lên vai tôi, giọng trầm ấm, vang vọng:
" Con à, hãy cố lên, chúng ta luôn ở đây dõi theo và ủng hộ con! "
Người khác mỉm cười, giọng như dòng suối mát lành, xoa dịu trái tim tôi:
" Đừng sợ, đừng gục ngã.. Trách nhiệm của con là thiêng liêng, tuy vất vả nhưng con không đơn độc. Có chúng ta, có đồng bào, có cả nhân loại đứng phía sau lưng con! "
Hai vị còn lại nhìn tôi đầy trìu mến, giọng hòa vào nhau như một khúc ca cổ xưa:
" Con chính là hy vọng mà chúng ta gửi gắm. Con đường phía trước đầy đau khổ, nhưng hãy nhớ rằng tình thương, niềm tin và lý tưởng sẽ giúp đỡ con. Hãy quay về, tiếp tục hành trình. Chúng ta yêu con như chính máu thịt của mình ".
Cha tôi nở nụ cười trầm tĩnh, giọng vang vọng như sấm mà ấm áp như lửa trong tim:
" Con trai, cha mẹ tự hào về con, cả đời chúng ta sống cũng chỉ để nuôi dưỡng một tấm lòng như con hôm nay ".
Mẹ thì lau nước mắt, bàn tay chạm vào má tôi, như tranh thủ chút thời gian quý giá:
" Con ơi.. Đừng sợ, sau khi hoàn thành trọng trách mà số phận đã phó thác, con sẽ được lên đây với mẹ! Mãi mãi! "– Rồi bà khóc nấc, không nói lên lời.
Năm người đồng đội cùng nhau bước tới, ánh mắt họ sáng rực trong mây:
" Chúng tôi tin tưởng ở cậu! Giờ đây, niềm tin ấy càng vững chắc, hãy biến nó thành nền móng cho hòa bình nhân loại ".
Nghe những lời ấy, trái tim tôi vừa đau đớn, vừa bừng lên sức mạnh, tôi hiểu rằng đây không còn là lựa chọn nữa. Đây là định mệnh, tôi buộc phải quay về, không phải vì bản thân tôi muốn, mà vì thứ vĩ đại hơn sinh mệnh một cá nhân nhiều triệu lần, nó như một chất keo gắn kết toàn nhân loại vốn đang bị chia cắt thành nhiều mảnh nhỏ xấu xí. Đấng sáng tạo đã tạo ra nhân loại như một bức tranh ghép hình hoàn mỹ, nhiệm vụ của chúng tôi là đưa bức tranh trở về hoàn mỹ bằng tình yêu thương vô bờ bến mà chúng tôi đã cảm nhận được từ ngài.
Khi mọi người mỉm cười vẫy tay chào tôi giữa biển mây trắng, ánh sáng dần xa khuất, tim tôi quặn lại như bị xé đôi, tôi muốn ở lại nơi tuyệt vời này mãi mãi, nhưng trách nhiệm vẫn nặng như núi. Một luồng lực mạnh mẽ kéo tôi rơi thẳng xuống, gió rít bên tai, lòng bàn tay tôi chới với níu giữ ánh sáng, nhưng tất cả đã tan biến.
Tôi giật mình mở mắt, cảnh tượng lúc trước đã tan biến, cơn đau từ khắp cơ thể ập đến như hàng ngàn mũi dao cùng một lúc xuyên qua da thịt. Ngực tôi nặng trĩu, hơi thở gấp gáp, mõi lần hít vào như lưỡi dao cứa vào phổi. Toàn thân chẳng có chút sức lực nào, chỉ còn cơn đau buốt đến tận óc.
A Trân chợt khựng lại khi thấy ngón tay tôi khẽ run lên, cô nghẹn ngào, nước mắt còn lăn dài trên má nhưng ánh mắt bỗng sáng rực hy vọng. Mẫn Nhi cũng nhận ra, vội đưa tay ngang mũi tôi, thốt lên run rẩy:
" Anh.. Anh ấy vẫn còn thở! "
Hai cô gái như được truyền sức mạnh, lập tức ngừng khóc, hối hả lao vào chăm sóc. A Trân lấy mảnh vải trong ba lô cứu thương của Diệp Lam băng lại vết thương cho tôi, đôi tay run rẩy nhưng dứt khoát, cẩn thận như sợ tôi đau thêm, Mẫn Nhi cúi xuống lau mặt cho tôi bằng tấm vải ướt, giọng thì thầm run rẩy:
" Anh cố lên.. Anh nhất định không được bỏ bọn em lại! "
Tôi cảm nhận được những ngón tay mềm run run trên làn da rách nát của mình. Mỗi lần chạm vào vết thương là cơn đau nhói bắn thẳng vào óc, nhưng trong đau đớn lại có hơi ấm, có sự ân cần cùng niềm tin đang níu giữ tôi ở lại cõi trần. Hai chú chó lúc này cũng lết sát vào người tôi, thở hổn hển nhưng mắt vẫn không rời, như đang cùng A Trân và Mẫn Nhi tiếp thêm sức mạnh cho tôi.
Thật may mắn là Diệp Lam đã tỉnh lại, tuy chưa thể cử động được ngay, nhưng nhờ sự chỉ dẫn của Diệp Lam – vốn là quân y, Mẫn Nhi và A Trân đã giúp chúng tôi nhặt được cái mạng từ quỷ môn quan trở về. Sáng ngày hôm sau, tất cả sáu người lính chúng tôi đều đã qua cơn nguy kịch.
Sau khi mọi người dần ổn định, tôi mới nhận ra một chi tiết ngạc nhiên:
Thì ra một trong hai người thợ săn gan dạ đã liều mình đi đầu cứu chúng tôi lại là cha của bé gái năm tuổi mà tôi đã cứu trước đó.
Tôi thì vẫn chưa thể ngồi dậy được, đành dùng ánh mắt biết ơn nói lời cảm ơn những người đã cứu mạng chúng tôi. Anh ấy thì quỳ xuống dập đầu lạy tạ vì chúng tôi đã cứu con gái anh ấy. Hai bên cứ cám ơn nhau như thế Trong ánh mắt của anh ấy, như nói rõ ràng ra một điều: Tính mạng của con gái anh ấy quan trọng hơn anh ấy rất nhiều lần.
Chỉ mới gặp nhau, nhưng trong khoảnh khắc sinh tử ấy một tình nghĩa sâu sắc đã hình thành. Không cần lời dài dòng, chúng tôi những con người từng đối mặt với cái chết đã trở nên tin tưởng nhau tuyệt đối.
Sau khi tất cả đã chia lương khô mà chúng tôi mang theo, chúng tôi mới lắng nghe câu chuyện từ dân làng và hai người thợ săn, dần dần, một bức tranh hoàn chỉnh hiện ra:
Sau khi thất bại trong việc giết chúng tôi, đàn hổ không hề buông tha cho chúng tôi mà chuẩn bị một kế hoạch khủng khiếp hơn. Dưới sự chỉ đạo của con hổ chúa, chúng rút về làng của Mẫn Nhi, nơi dân làng sinh sống. Chúng bất ngờ xông thẳng vào làng, lùa bắt người dân, xua lên rừng, dùng người sống làm bia đỡ đạn hòng giết hết tất cả chúng tôi.
Vì khoảng cách từ trong làng tới rừng rậm khá xa, nên đàn hổ đã để cho chúng tôi thời gian dài nghỉ ngơi – điều mà chúng tôi đã thắc mắc suốt thời gian đó! Nhưng có một điều tất cả chúng tôi đều phải ngầm khâm phục đàn hổ đó là, ở thời điểm tôi bị dòng nước cuốn đi, thì cái hang kia cũng không thể ở được nữa, do nước ngập và đất đá tràn vào. Vậy mà dường như chúng biết trước rằng chúng tôi sẽ tìm một cái hang khác. Chúng nắm rõ tập tính con người khi đối mặt với thú dữ hay thích trốn vào trong hang, hệt như thợ săn biết rõ tập tính con mồi vậy. Điều kinh khủng hơn nữa là chúng biết lợi dụng nguyên tắc không được bắn vào dân của chúng tôi để dồn tất cả mọi người vào chỗ chết.
Tình hình hiện tại bây giờ là tất cả những người lính chúng tôi đều bị thương nặng, không thể về làng được, cũng không ra điểm hẹn với trực thăng như kế hoạch ban đầu được nữa.
Mà lượng lương thực chúng tôi mang theo thì lại không đủ nuôi sống mọi người đến khi hồi phục hoàn toàn. Cố gắng lắm thì cũng chỉ đủ dùng vài ngày đến khi trực thăng quay lại điểm đã đánh dấu trên bản đồ, thế nên Diệp Lam – có vẻ là người còn khỏe mạnh nhất trong nhóm chúng tôi đã vẽ bản đồ, chỉ hướng cho hai người thợ săn ra điểm hẹn, đón trực thăng về gần cửa hang này đón chúng tôi. Ngoài ra, còn trao cho hai người thợ săn hai khẩu súng AK của đội, bên trong còn mười viên đạn. Dạy họ tỉ mỉ cách sử dụng, nhờ họ đón trực thăng quay về cứu tất cả mọi người ở đây.
Dân và đám lính chúng tôi cứ thế chia nhau từng chút lương khô, cùng chăm sóc lẫn nhau, cùng ăn ở với nhau vài ngày, không ai dám bước ra ngoài vì ngoài kia vẫn còn khoảng chục con hổ dữ. Cuối cùng thì thời hạn một tuần hẹn với trực thăng đã đến, hai người thợ săn vui vẻ đồng ý ra đi, sau khi chào nhau, họ khoác súng lên vai, ánh mắt kiên định như trao gửi niềm tin. Chúng tôi nhìn bóng họ khuất dần sau những tảng đá, trong lòng dâng tràn vừa lo lắng vừa hy vọng.
Hai người thợ săn rời hang từ lúc trời còn mờ sương, cả đội và người dân ngồi trong hang thấp thỏm chẳng yên, mỗi tiếng gió lùa qua cửa hang cũng khiến chúng tôi giật mình. Thời gian như kéo dài lê thê.
Mãi đến khi nắng chiều đã ngả vàng, vết thương vẫn nhói buốt theo từng cơn sốt ruột và lo lắng, thì bỗng xa xa vang lên tiếng âm thanh quen thuộc. Tiếng cánh quạt trực thăng xé toạc bầu trời. Ban đầu còn rất nhỏ, lẫn trong tiếng gió nhưng dần dần rõ rệt hơn, mạnh mẽ hơn. Tất cả chúng tôi đều gắng gượng ngồi dậy ánh mắt hướng ra phía cửa hang.
" Trực thăng! "– Minh Khoa khàn giọng thốt lên.
Một thoáng sau, chiếc máy bay xuất hiện giữa nền trời đỏ rực hoàng hôn, cánh quạt tỏa xuống những luồng gió mạnh đến mức bụi đất tung bay. Trong khoảnh khắc ấy, một cảm giác nhẹ nhõm tràn ngập – như được giải thoát khỏi bóng đêm tử thần.
Chiếc trực thăng xoay vòng vài lần rồi tìm chỗ đáp, cuối cùng hạ cánh nơi bãi cỏ trước cửa hang không xa, cửa trực thăng bật mở. Bước xuống trước tiên là năm chiến sĩ đặc nhiệm, ánh mắt hiện rõ sự lo lắng cho tình hình của chúng tôi. Có lẽ trên đường tới đây hai thợ săn đã kể vắn tắt về tình trạng thê thảm của chúng tôi hiện nay, tiếp đến là hai người thợ săn chỉ đường, cuối cùng là hai quân y mang theo hai túi cứu thương và phi công gần như cùng xuống một lượt.
Một quân y chạy đến bên tôi, vừa kiểm tra mạch vừa xót xa xúc động:
" Trời ơi.. Sao nhiều vết thương sâu và chí mạng thế này! "
" Nằm im đừng cử động nhé chỉ huy! "
Diệp Lam, Quốc Vinh, Minh Khoa, chuyên gia động vật Đỗ Hồng Quang và Voi Còi tất cả lần lượt đều được hai quân y băng bó và sát trùng vết thương lại. Hai chú chó trung thành cũng được kiểm tra kỹ lưỡng các vết thương trên khắp cơ thể chúng và được sơ cứu cẩn thận.
Sau khi kiểm tra tất cả những người dân có mặt tại hang động, đảm bảo không ai có vấn đề nghiêm trọng nào, tôi đề nghị đưa Mẫn Nhi, hai em nhỏ năm tuổi cùng toàn bộ dân làng về nhà bằng trực thăng trước, nhân tiện cảnh cáo tên trưởng làng, nếu hắn còn dám nghĩ đến chuyện lấy người vô tội ra hiến tế thì quân đội nhất định sẽ không tha hắn. Nếu có chuyện nguy hiểm, hãy báo lên quân đội. Quân đội của chúng ta cho dù chỉ còn có một người cũng quyết không để người dân vào cảnh nguy hiểm.
Năm chiến sĩ cùng hai phi công lập tức hô to nhận lệnh. Trương Thế Lâm – đội trưởng của năm người nghiến răng cậu ta có vẻ tức giận khi vừa nghe đến hai từ" hiến tế "đáp lời bằng giọng vang dội:
" Báo cáo chỉ huy! Nhất định chúng em sẽ khiến hắn sợ đến tận xương tủy, để cả đời không dám tái phạm!"
Người dân chưa từng thấy cánh quạt quay vù vù, từng người một bỡ ngỡ, e dè bước lên trực thăng, riêng Mẫn Nhi cứ ngập ngừng, cứ bước một bước lại rụt một bước, quay đầu về phía tôi như có vẻ không yên tâm. Tôi hiểu ý, làm ra vẻ tôi khỏe rồi, giục cô gái trẻ mau quay về kéo người dì lo lắng. Tiếng cánh quạt càng lúc càng to như giục giã, cuối cùng Mẫn Nhi cũng bước lên trực thăng, tôi quay lại nói chuyện với Voi Còi mà không hề biết cô ấy vẫn nhìn tôi đến phút cuối.
Còn tiếp..
Chỉnh sửa cuối:

