Bạn được Root mời tham gia diễn đàn viết bài kiếm tiền VNO, bấm vào đây để đăng ký.
1 người đang xem
251 ❤︎ Bài viết: 59 Tìm chủ đề
55 0
Suốt thời thơ ấu của mình, triết gia John Stuart Mill không đến trường như các bạn cùng trang lứa, bởi cha ông cho rằng trường học lúc đó chỉ làm nhiệm vụ gọt đẽo, đúc khuôn tư duy của con trẻ cho phù hợp với thị trường lao động chứ không cho chúng không gian để trưởng thành. Và đó là quyết định sáng xuất một người cha khi mà sau này, John Stuart Mill đã nối gót Socrates trở thành một triết gia, một "con ruồi trâu" chất vấn những khuôn mẫu xã hội, tìm kiếm sự tự do cho con người. Mill từng viết: "Bản chất con người không phải là cái máy được chế tạo ra theo một khuôn mẫu và nhằm làm đúng một công việc định trước, mà nó giống như là một cái cây cần được lớn lên và phát triển ra mọi phía tuỳ theo khuynh hướng của sức mạnh bên trong nó.

Thắc phẩm" Bàn về tự do "của Mill nói về tự do dân sự- liberty, khác với sự tự do tiên thiên, sẵn có trong mỗi con người- freedom. Tự do dân sự là thứ chỉ có thể có được trong mối quan hệ với người khác. Người khác là cây cầu dẫn đến tự do của tôi. Ông luôn đặt ra vấn đề về mối quan hệ giữa con người cá nhân với xã hội và làm sao mỗi cá nhân có được tự do và hạnh phúc. Trong mối quan hệ với người khác, theo ý tưởng của Mill, mỗi cá nhân và toàn xã hội phải thấu hiểu và tôn trọng bản chất của con người. Đó là đặc điểm cơ bản, nền tảng của mọi hoạt động sinh tồn, mọi giao tiếp xã hội. Bản chất đó là sự đối nghịch với những khuôn mẫu, là sự đòi hỏi được lớn lên và phát triển trong bầu không khí tự do. Tự do của tôi đòi phải tạo điều kiện cho sự tự do của người khác để tất cả cùng chung sống và phát triển. Nhấn mạnh xu hướng phát triển của con người, John Stuart Mill cũng đặt niềm tin và khả năng vô hạn và cái độc đáo, riêng biệt của mỗi cá thể người.

Tổ tiên loài người đã làm một cuộc trao đổi mạo hiểm với tự nhiên, bộ não con người phát triển hơn hẳn các sinh vật khác, nhưng con người cũng trở nên mong manh yếu đuối hơn, cần nhiều sợ chăm sóc, nuôi dưỡng hơn. Những đứa trẻ loài người cần nhiều năm để trưởng thành trong khi con cái của hầu hết các loài động vật khác có thể tự kiếm ăn sau vài ngày tuổi. Nhưng đổi lại, con người có khả năng vô hạn trong suy nghĩ và chọn lựa. Các hoạt động xã hội của chúng ta không phụ thuộc vào di truyền, tức cái thuộc về tự nhiên, mà vận hành bởi lý trí. Chúng ta có khả năng học hỏi bất kì điều gì nhờ tính linh hoạt của não bộ. Chúng ta có những khao khát cá nhân mạnh mẽ hơn là thiên hướng đi theo bầy đàn. Đó là bản chất thiêng liêng của con người bắt đầu từ cuộc trao đổi thời xa xưa. Mỗi cá nhân có tiềm năng vô hạn để học hỏi và phát triển nên thật phi lý khi cố gắng đóng khung khuynh hướng phát triển tự nhiên ấy để tạo những con người chuẩn mực," đồng phục "về tư tương và cách sống. Trong khi những con tinh tinh bận bịu một đời với việc kiếm ăn tranh đấu, nuôi con, thì con người có khả năng thoát hỏi sự lập trình ấy để trở thảnh sát, luật sư, bác sĩ hay giáo viên để mang lại giá trị cho người khác và thủ hưởng giá trị từ người khác.

Nỗ lực biến con người thành những cái máy vô tri của trật tự xã hội là một động thái tàn bạo, phản nhân văn và phản tự nhiên tương tự như bắt một chú chim vào lồng. Mỗi cá thể người không chỉ là sự kết hợp cơ học giữa thể xác và tâm thức mà còn hòa trộn biết bao điều phức tạp- những cảm xúc, ước vọng, nỗi sợ hãi.. Con người chỉ là con người trong sợ trăn trở thường trực về ý nghĩa cuộc sống của chính mình, trong sự chênh vênh giữa vô vàn lựa chọn. Khi nô lệ hóa một con người, ta đang thui chột cảm xúc, lý trí và khát vọng của con người đó, tước đoạt ý thức cá nhân và khả năng độc lập suy nghĩ của con người. Tiềm lực dồi dào và sinh động bên trong bị kìm hãm, giam giữ, lụi tàn. Như thế khác nào tước đi sự sống của con người. Khi xã hội mất đi sự đa dạng của các tiếng nói, mất đi tư duy độc lập của mỗi cá nhân, thì xã hội đó sớm muộn cũng đến chỗ diệt vong, buộc phải biến đổi sang hình thái khác. Xã hội Trung Hoa đã trải qua hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến- nơi tiếng nói của Thiên tử là quyền uy nhất, nơi con người bị trói buộc bởi" tam cương, ngũ thường, nơi số phận con người được định đoạt bởi địa vị và tài sản. Để rồi khi làn sóng xâm được của phương Tây đổ đến, những bức tường được hạ xuống, người dân mới ngỡ ngàng trước một thế giới mà quốc gia mình không còn là trung tâm. Bao uất ức dồn nén bùng vỡ ra trong những cuộc cách mạng đẫm máu, những cuộc xuất dương hay thậm chí đánh đắm trong cơn thuốc viện. Con người có thể thích nghi để tồn tại trong khuân mẫu, những định kiến xã hội, những dây chuyền nhàm chán bất tận của công việc, những lối đi vẽ sẵn, nhưng không thể "sống" trong khuôn mẫu- không thể có được hạnh phúc và khả năng phát triển tận cùng mong ước và khả năng của mình. Vật cùng tất phản, có lúc con người đã đổ máu vì những khuôn mẫu ấy, để thoát và khỏi những khuôn mẫu ấy.

So với các triết gia đi trước, như Machiavelli hay Thomas Hobbes, John Stuart Mill có cách nhìn lạc qaun hơn về bản chất của con người. Con người không hẳn là những kẻ tham lam, ít kỷ, ngu ngốc từ trong bản chất mà có thể chỉ là những hạt bụi khao khát tự do đến tuyệt vọng trong cuộc sống mong manh ngắn ngủi của riêng mình. Con người là những cá nhân riêng biệt có ý chí độc lập và sức mạnh riêng, có khả năng đổi thay tạo dựng cuộc đời riêng cho mình. Nếu xã hội mà con người lớn lên không ngừng tước đoạt quyền được nói, quyền suy tư của cá nhân thì dần dà tiếng nói bên trong sẽ trở nên yếu ớt. Con người cúi đầu trong sợ hãi và tự ti để rồi lại sẵn sàng dùng bạo lực để ức hiếp kẻ yếu thế hơn, nhằm chứng tỏ sức mạnh còn hiệu hữu trong mình. Xã hội cần có luật pháp để cõi sống không trở nên "hung hiểm, tàn bạo và ngắn ngủi", nhưng luật pháp phải thực sự tạo điều kiện cho tự do dân sự, cho phép mỗi cá nhân cất tiếng nếu không xã hội sẽ tự hủy diệt chính nó trong sự máy móc, độc tài. Thế giới cần tiếng nói riêng của mỗi cá nhân để phát triển chứ không thể vùi mình trong sự u tối của tiếng nói tập thể. Ngày nay ta còn thừa hưởng những phát minh của Tesla, học thuyết của Darwin và những công thức của Einstein. Nếu tất cả những phát kiến ấy bị vùi trong lửa, nếu các cá nhân bị tù vì phát kiến của mình thì đêm trường Trung cổ còn dài.

Con người cần sự tự do dân chủ người thể cần không khí và ánh sáng. Hiểu được bản chất của con người, ta phải học cách cởi trói cho chính mình và cởi trói cho người khác. Bản thân ta không nên đóng khung mình trong những đặc điểm cụ thể, hạn định, gò bó mình trong những lý thuyết, quy chuẩn để rồi tự giới hạn khả năng của mình. Thế kỉ 17, kiếm sĩ Miyamoto Musashi đã đi ngược lại chiến thuật thông thường của kiếm đạo để xác lập tinh thần hoàn toàn mới của riêng mình. Ông đi ngược lại những tham vọng của cha, khước từ cách chiến đấu dùng sức mạnh và ý chí để kết hợp thiền và kiếm đạo. Ông đã mang cả mạng sống mình ra mà thử nghiệm khi sử dụng kiếm gỗ trong những cuộc chiến sinh tử. Musashi đã chiến đấu bằng tự do và sự buông thư để phát huy hết tiềm lực. Cởi trói cho người khác nghĩ là không ràng buộc họ vào những kỳ vọng của riêng mình, mà phải nhường chỗ cho không gian của những quyết định cá nhân, cho phép tiếng nói độc đáo và chân thật của con người khác cất lên. Cha mẹ nuôi dưỡng con nhưng phải để con tự suy nghĩ và quyết định và một nhà giáo nên lắng nghe ý kiến dù đúng dù sai của học trò, vì cái sai cũng là một đóng góp. Bằng cách thấu hiểu chính mình, tôn trọng lẫn nhau ta mới mở đường cho sự phát triển.

Mỗi cuộc đời là duy nhất, không có diễn tập, không tái lặp. Chúng ta bị quăng lên sân khấu của cuộc đời, và bởi vì sự hữu hạn và duy nhất ấy, ta phải làm những điều mong muốn, tự phát thảo nên bức tranh cuộc đời mình, dù vụng về nhưng chân thật hơn là chính xác mà vô hồn. Ta sống và hãy để người khác sống vì sự tự do và hạnh phúc của người khác cũng là sự tự do và hạnh phúc của chúng ta.
 

Những người đang xem chủ đề này

Back