Minh Hòa – rực sáng tình thơ miền đất Phủ Tác giả bài viết: Lê Gia Hoài Trong vùng đất Vĩnh Tường linh thiên, nơi đã sinh ra nhiều nhân tài văn chương nghệ thuật, nhà thơ Minh Hòa là một tên tuổi để lại dấu ấn đặc biệt bằng một phong cách sáng tác đậm đà bản sắc Việt, chan hòa gữa trữ tình và tự sự, kết tinh giữa hồi ức đất đai và những trải nghiệm hiện đại. Bà không chỉ là một nhà thơ có sáng tác phong phú, mà còn là một đôi mắt nhìn thấu hồn quê hương, là một trái tim luôn đập nhịp với đất nước, với dân tộc. Tên tuổi Minh Hòa đã trở nên quen thuộc với giới yêu thơ, nhất là ở Vĩnh Phúc. Thơ Minh Hòa mang trong mình chất trữ tình, giàu cảm xúc, đồng thời đượm nồng vẻ đơn sơ, mộc mạc từ hình tượng đất nước, biển đảo, lịch sử và con người Việt Nam. Bà có khả năng dùng ngôn ngữ như một loại nhựa sống, đẻ uốn nắn những vẻ đẹp của tình cảm và lý tưởng. Các tác phẩm và đóng góp của Minh Hòa với thi ca Vĩnh Phúc: Quê quán: Thượng Trưng, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc Chỗ ở hiện nay: Phố Đội Cấn, thị trấn Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc Hội viên: Hội VHNT Vĩnh Phúc Tổng biên tập: Đặc san Văn nghệ – VHNT Vĩnh Tường. Đã in các tập thơ: - Hương cỏ – NXB Lao động, 2008 - Chiều không hẹn – NXB Hội Nhà văn, 2009 - Những mùa không tên – NXB Hội Nhà văn, 2011 - Sau những khoảng lặng – NXB Hội Nhà văn, 2012 - Một thờ xa biếc lá – NXB Hội Nhà văn, 2015 - Đôi bờ nhân gian – NXB Hội Nhà văn, 2016 - Tiếng vọng đồng chiều – NXB Hội Nhà văn, 2018 - Lời trong mắt – NXB Hội Nhà văn, 2021 - Ru trăng – NXB Hội Nhà văn, 2024 Giải thưởng: -Giải thưởng Thơ 2002 – Báo Vĩnh Phúc - Giải thưởng Bình văn toàn quốc "HND" – năm 2007 - Giải thưởng Thơ 2014 – Khuyến học Vĩnh Phúc - Giải B – Cuộc thi đài tiếng nói Việt Nam - Giải Tác phẩm Văn học 5 năm 2011–2015 (Hội VHNT Vĩnh Phúc), (Không có giải A) - Giải Nhất cuộc thi thơ về đề tài phụ nữ, thời kỳ đổi mới (do Hội LHPN tỉnh phối hợp với Hội VHNT Vĩnh Phúc tổ chức), năm 2016 - Giải Khuyến khích viết về 120 năm thành phố Vĩnh Yên lên đô thị, 2019 - Giải C năm 2023 – Kỷ niệm 60 năm Bác Hồ về Vĩnh Phúc - Và nhiều tác phẩm đạt giải cấp huyện, tỉnh ở Vĩnh Phúc và các tỉnh bạn. Trong bài thơ "Sức sống của mùa Xuân", Minh Hòa không chỉ dừng lại ở việc miêu tả cảnh vật hay không khí tiết trời mùa xuân, mà đi xa hơn: Đó là mùa xuân của tinh thần dân tộc, mùa xuân phục sinh, của sự sống và đồng hành. "Múc bình nước sông Hồng dạt dào/ Mang ra Trường Sa hòa vào biển cả/ Giữa trùng khơi xanh có những giọt sắc hoa đào đỏ/ Lặn xuống đại dương mọc đá giữa chủ quyền" . Hình tượng "những giọt sắc hoa đào đỏ" được nhà thơ giải thích là biểu tượng của 64 chiến sĩ đã ngã xuống ở Gạc Ma, trở thành điểm nhấn cảm động và thiên liên. Câu thơ như đánh thức chân tình của mỗi người con đất Việt về sự hi sinh vì Tổ quốc, nhắc nhở chúng ta về sự biến động linh thiêng và những bản sác văn hóa bền vững. Thơ Minh Hòa là một vườn hoa đủ sắc màu, trong đó cái tình là trung tâm và là nguồn cội. Tình ở đây không chỉ là tình yêu đôi lứa, mà là tình mẹ, tình quê, tình người với người. Bài thơ "Thư gửi con" là một trong những thi phẩm gây nhiều xúc động bằng góc nhìn người mẹ hậu phương có con ra tuyến đầu chống dịch: "Chiều lại chiều mẹ ra ngõ ngóng/ Thương con nhiều xa hơi ấm vòng tay." Chỉ với một vài dòng thơ ngắn, Minh Hòa đã khắc họa được hình ảnh người mẹ Việt Nam - vừng vàng, kiên cường nhưng vẫn đong đầy mềm mại và tình thân. Hình ảnh này càng được khẳng định rõ trong những vần thơ: "Biết" quân lệnh như sơn "tình nước non/ Giúp dân làm nương, cày cấy/ Sứ mệnh thiên liên Đảng trao, dân cậy/ Tổ quốc đỉnh cao - con là biên giới" . Đóng vai người mẹ, nhà thơ còn đang làm nhịp cầu giữa thấu cảm nhân loại và thông điếp văn hóa đạo lý – cái lõi đi trên đường thơ trực diện mà tinh tế. Trong chùm thơ về quê hương, Minh Hòa thường khai thác các biểu tượng thi nhiên, lịch sử, địa danh như sông Hồng, Tam Đảo, Vũ Di, Thổ Tang.. Như trong bài thơ "Ở ngưỡng cửa mùa xuân", bà viết: "Mùa xuân cho sự sống muôn loài." Chỉ một câu ngắn, nhưng là tổng kết cả một triết lý: Đế giá trị sống và sự phục sinh của tự nhiên, và con người chỉ thực sự sống đúng nghĩa khi đồng điệu cùng đất trời, lết nổ tình yêu thành những hành động chân thành và hợp đạo. Tên tuổi Minh Hòa không chỉ định vị bởi tình thơ quê hương, mà còn lan xa với những vần thơ sâu nặng về biển đảo, đất nước, dân tộc và khát vọng hội nhập, đổi mới. Tình yêu Tổ quốc trong bà được đề cao một cách thiêng liêng, được thể hiện qua những hình tượng đồng điệu với lí tưởng, như : "Tổ quốc cần những anh minh trung, dũng, đức, tài/ Thiết lập hải trình chắc trèo, vững lái". Thơ của Minh Hòa không chỉ phản ánh vẻ đẹp của thiên nhiên, con người Vĩnh Phúc mà còn thể hiện những suy nghĩ, trăn trở về sự phát triển và đổi thay của quê hương. Bà luôn mong muốn giữ gìn những giá trị truyền thống, đồng thời hòa nhập với sự phát triển của xã hội hiện đại. Minh Hòa không chỉ là nhà thơ của những câu chuyện đẹp, mà còn là một nhà thơ của tinh thần người giữ gìn ánh lửa thiêng từ quá khứ để truyền đi niềm tin cho hiện tại và tương lai. Thơ bà không chạy theo trào lưu thời thượng, mà chọn con đường nhân văn bền vững, lấy văn hóa dân tộc làm gốc rễ, lấy yêu thương làm điểm tựa. Giữa thời đại của những biến động, của tốc độ và công nghệ, thơ Minh Hòa là một khoảng lặng đầy trong, là tiếng gọi của quê hương từ cội nguồn sâu thẳm vọng về. Đó là lý do vì sao, thơ bà không chỉ được bạn đọc lớn tuổi yêu quý, mà còn chạm đến trái tim của những người trẻ – những ai đang tìm về bản sắc, cội nguồn và những giá trị bất biến. Không chỉ là một nhà thơ, Minh Hòa còn là người tích cực tham gia vào các hoạt động văn hóa nghệ thuật của tỉnh Vĩnh Phúc. Bà đã đóng góp nhiều bài thơ cho các chương trình, sự kiện văn hóa, góp phần quảng bá hình ảnh quê hương Vĩnh Phúc đến với bạn bè trong và ngoài nước. Giữa dòng chảy thi ca hiện đại, Minh Hòa như một nhành lan rừng tỏa hương từ miền đất cổ, nâng niu từng tiếng vọng của lịch sử, từng bước chân của người Việt trên hành trình giữ gìn và dựng xây cơ đồ. Thơ bà là nốt ngân đẹp trong bản hòa ca của quê hương – một bản hòa ca vừa trầm mặc, vừa rạng rỡ, và luôn bừng sáng bởi ánh sáng của niềm tin, của tình người, tình đất. Minh Hòa, cái tên ấy giờ đây đã vượt khỏi biên giới vùng đất Vĩnh Tường thân thương, để trở thành ngọn gió mát lành mang hương sắc quê hương thổi vào tâm hồn bao thế hệ. Và hơn cả một nhà thơ, bà chính là người kể chuyện bằng trái tim, thắp lên trong mỗi chúng ta ngọn lửa tình yêu với đất nước, với con người, với những điều bình dị mà thiêng liêng nhất. Lê Gia Hoài. (Tạp chí Văn nghệ Vĩnh Phúc)
TẬP THƠ CHIỀU KHÔNG HẸN – DẤU ẤN LẶNG THẦM CỦA MỘT HỒN THƠ NHÂN HẬU I. Mở đầu: Tiếng vọng từ một chiều không hẹn Trong khoảnh khắc một buổi chiều thấm đẫm ánh nắng nhạt và hoài niệm, người đọc chạm phải tập thơ "Chiều không hẹn" của nhà thơ Minh Hòa như chạm phải một nhịp thở nhẹ của ký ức, nơi những hoài niệm không hẹn mà trở về. Là người con của Thượng Trưng – Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc, Minh Hòa chọn con đường thơ ca như một lối sống, một sự lựa chọn tinh tế giữa dòng đời hối hả. Và "Chiều không hẹn" – như tên gọi – không hẹn mà đến, không cầu mà vẫn làm lòng người dịu lại, dừng chân, chiêm nghiệm. II. Nội dung thơ: Từ quê hương đến con người – một hành trình lặng lẽ và nhân văn 1. Quê hương – nơi để về trong thơ Một điểm nổi bật dễ nhận thấy trong tập thơ là tình yêu thiết tha dành cho quê hương. Minh Hòa không vẽ quê hương bằng những từ ngữ sáo rỗng, mà chạm vào từng chi tiết bình dị nhất, như "Bến đò quê cũ" (tr. 5), "Mùa thu làng" hay "Giếng làng xưa" – nơi hồi tưởng và hiện thực quyện hòa vào nhau: "Chiều về giếng cũ ai hay Bóng mẹ ngồi gánh vai gầy mỏi lưng." (Giếng làng xưa – tr. 7) Chỉ hai câu thơ, Minh Hòa dựng nên cả một không gian và thời gian gói gọn trong một hình ảnh người mẹ. Bóng dáng "vai gầy" ấy không chỉ mang dáng dấp của cá nhân mà như biểu tượng của một thế hệ – lam lũ, tảo tần, bền gan bỉ chí. Dưới ngòi bút của Minh Hòa, quê hương không hiện lên như một khái niệm trừu tượng mà là một miền ký ức sống động, đậm mùi khói bếp, tiếng gà trưa, và hồn vía của bao thế hệ . Những câu thơ như "Bếp tro mẹ giữ bao năm / Ủ trong ký ức thăng trầm đời con" (Bếp tro mẹ giữ – tr. 11) không chỉ là lời tri ân mẹ mà còn là sự lưu giữ của cả một thời nghèo khó, đầy yêu thương và trắc ẩn. Quê hương trong thơ Minh Hòa không phô diễn vẻ đẹp lộng lẫy mà thấm đẫm trong cái cũ kỹ, trong từng chiếc cầu tre, mái đình cong, vạt lúa rủ bóng hoàng hôn . Có những bài thơ như thể bước ra từ một giấc mơ quá khứ – như "Mùa thu làng" : "Hương cốm thơm qua ngõ Con đường nhỏ trăng lên Bầy chim về bên giậu Lúa gặt rồi, mùa êm." (Mùa thu làng – tr. 9) Từng chi tiết thơ là từng lát cắt nhỏ của làng quê Việt: Giản dị, mềm mại, gợi cảm xúc mà không cần triết lý rườm rà. Cũng chính bởi vậy, thơ chị dễ đi vào lòng người – như một khúc hát ru từ đất, từ mẹ, từ những ngày tháng không thể nào quên. Ở Minh Hòa, quê hương không chỉ là không gian địa lý – đó là không gian tâm linh, nơi mọi cảm xúc tìm về, nơi mọi lắng đọng được cất giữ như những "hũ mắm muối đời người", âm thầm mà dai dẳng. Chính sự gắn bó chân thành, dung dị với làng quê đã khiến thơ chị có được vị mặn mà, vị "quê" không pha loãng, khiến độc giả – dù ở nơi đâu – cũng thấy mình trong đó, cũng thấy một "quê nhà" trong lòng ngực mình. 2. Gia đình – những mảnh ghép yêu thương Không ồn ào với lý tưởng cao siêu, thơ Minh Hòa gần như "thủ thỉ" những điều đời thường. Tình cha mẹ, nghĩa vợ chồng, nỗi lo của người mẹ, nỗi day dứt của người con xa quê – tất cả hiện diện như hơi thở trong từng trang thơ. Trong bài "Gửi mẹ" (tr. 13), tác giả không giấu được nỗi day dứt: "Con đã đi bao năm rồi Mà mắt mẹ vẫn hướng về cuối ngõ" (Gửi mẹ – tr. 13) Hình ảnh "mắt mẹ" và "cuối ngõ" không mới, nhưng ở đây, cái mới nằm ở sự chân thành. Mỗi từ như dính bụi đất quê nhà, như chưa từng rời xa mái tranh xưa. Minh Hòa không cố gắng "thi vị hóa" gia đình bằng những ngôn từ hoa mỹ hay những tuyên ngôn đạo đức, mà để chính những chi tiết nhỏ bé trong đời sống thường nhật lên tiếng. Đó là ánh mắt mẹ chờ con cuối ngõ, là nỗi lòng người vợ trong chiều buông lạnh gió, là những giọt mồ hôi âm thầm của cha – tất cả được đặt vào thơ bằng sự trân trọng và thấu cảm sâu xa. Trong bài thơ "Bữa cơm chiều" (tr. 16), người đọc như thấy lại chính gia đình mình qua hình ảnh giản dị nhưng thấm đẫm yêu thương: "Chén canh rau mẹ nấu Vẫn đậm vị năm xưa Cha lặng lẽ ăn cơm Không lời nào trách móc." Ở đây, sự yên lặng của cha không phải là vô tâm, mà là sự thấu hiểu của một tình thương không cần diễn đạt, một thứ ngôn ngữ không lời mà chỉ trái tim trong mái ấm mới đọc được. Cũng như người vợ trong bài "Chiều của vợ" (tr. 18), dù công việc chất chồng nhưng vẫn không quên chăm lo từng bữa cơm, giấc ngủ cho chồng con – cái "tình" ấy, như tác giả đã viết, "lặng mà sâu như lòng giếng cũ". Gia đình trong thơ Minh Hòa không hoàn hảo, nhưng luôn ấm. Đó là nơi có sự giận hờn, có những phút yếu lòng, có cả những khoảng lặng không nói – nhưng vẫn là chốn quay về của những tâm hồn mỏi mệt. Như trong bài "Chồng tôi" (tr. 20), chị viết: "Anh không nói lời yêu Nhưng mỗi sáng dậy sớm Pha cho tôi tách trà Và đội nón trước khi tôi ra khỏi cửa." Chỉ bấy nhiêu cũng đủ để hiểu rằng, tình yêu không phải là hoa hồng hay lời tán tụng, mà là những hành động nhỏ nhoi lặp lại mỗi ngày, lặng lẽ mà vững bền. Có thể nói, Minh Hòa không vẽ nên gia đình bằng những gam màu rực rỡ, mà bằng những nét chấm phá dịu dàng, nhẹ nhàng như một bản nhạc đồng quê – nơi mỗi người là một nốt nhạc trầm bổng hòa quyện thành giai điệu yêu thương bền bỉ theo năm tháng . Chính vì vậy, thơ chị không chỉ khiến người đọc xúc động, mà còn làm họ thấy mình trong đó, thấy những mảnh ghép yêu thương tưởng đã quên bỗng dưng hiện về như một khúc ca thân thuộc từ thuở nào. 3. Những mảnh đời: Số phận, thầm lặng, kiên cường Một điểm nổi bật khác là tinh thần nhân văn xuyên suốt – những bài thơ viết cho người nông dân, cho các nhân vật nhỏ bé, cho chiến sĩ, thương binh.. tất cả đều hiện lên trong lặng thầm, kiên cường. Trong "Đêm không ngủ", hình ảnh chiến sĩ giữa đêm mưa lạnh không phải là sự ca tụng sáo rỗng, mà là sự trân trọng thật tâm: "Anh gác đêm lạnh lắm Nhưng lòng lại rất ấm Khi nghĩ về ngày mai" (Đêm không ngủ – tr. 29) Chính những câu thơ như vậy tạo nên chiều sâu cho tập thơ – chiều sâu không nằm ở thủ pháp, mà ở lòng nhân ái và ánh nhìn từ bên trong. Không chọn những hình ảnh hùng tráng hay biểu tượng hóa nhân vật kiểu sử thi, thơ Minh Hòa lặng lẽ đi vào từng lát cắt của đời sống – nơi con người hiện lên trần trụi, thậm chí đầy những vết xước, nhưng vẫn sáng lên bởi một thứ ánh sáng bên trong: ánh sáng của sự tử tế, của lòng kiên cường, của cái "tôi" không chịu gục ngã . Trong bài thơ "Người thợ xây" (tr. 31), tác giả phác họa hình ảnh người đàn ông với đôi bàn tay chai sạn, dáng lưng còng vì nắng gió, nhưng giấc mơ thì vẫn thẳng đứng và trong lành như mảng trời cao: "Tôi xếp từng viên gạch Như xếp lại đời mình Để dựng lên mái ấm Dù chẳng phải của mình." (Người thợ xây – tr. 31) Câu thơ cuối là một cú xoáy nhẹ nhưng sâu: Người lao động âm thầm tạo dựng cuộc sống cho người khác, còn bản thân thì vẫn chấp nhận phần thiệt thòi không oán trách. Đây là kiểu nhân vật mà Minh Hòa luôn dành cho sự trìu mến đặc biệt – những người vô danh nhưng không vô nghĩa. Tương tự, trong bài "Mẹ thương binh" (tr. 34), hình ảnh người mẹ già chăm con liệt cả đời không chỉ khiến người đọc rưng rưng vì tình mẫu tử, mà còn khiến ta thán phục một tinh thần chịu đựng và yêu thương bền bỉ: "Tay mẹ run vẫn đút cháo cho con Mắt mờ vẫn nhận ra từng tiếng ú ớ Người lính nằm một chỗ Nhưng mẹ chưa bao giờ rời." (Mẹ thương binh – tr. 34) Không bi lụy, không làm quá – thơ Minh Hòa giản dị trong ngôn từ, nhưng sâu sắc trong tầng nghĩa. Tác giả như không viết bằng bút mà viết bằng tim, bằng chính đời sống của những người chị từng gặp, từng chứng kiến. Cái nhìn không từ trên cao xuống, mà từ lòng ra – vì thế, từng câu chữ đều thấm vị mặn của nước mắt và cũng rực màu nắng của niềm tin. Thậm chí trong bài "Người đàn bà câm bán vé số" (tr. 37), một nhân vật tưởng chừng bé mọn trong xã hội lại được nhìn với sự kính trọng thầm lặng: "Chị không nói, nhưng ánh mắt kể nhiều Mỗi tờ vé như nhành hy vọng Đưa cho đời, và lặng lẽ đi qua." Thơ của Minh Hòa như một chuyến đi dọc chiều sâu thân phận. Không ồn ào, không tranh cãi, không giành giật sự thương hại – mà chỉ có sự lắng nghe, thấu hiểu, và một chút nghiêng mình. Tập thơ Chiều không hẹn vì thế không chỉ để đọc, mà còn để sống chậm lại, để soi mình vào từng số phận lặng thầm quanh ta – những con người đã đi qua cuộc đời bằng đôi chân trần và trái tim nguyên vẹn. III. Giá trị nghệ thuật: Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giàu nhạc tính và biểu tượng 1. Ngôn ngữ giản dị mà giàu sức gợi Ngôn từ trong "Chiều không hẹn" không mang màu sắc phô diễn. Ngược lại, Minh Hòa dùng những từ rất đời – những từ người nông dân, người mẹ, người thôn nữ có thể hiểu, nhưng lại lay động sâu sắc tâm hồn người đọc. Từ "giếng làng", "khói lam", "cây cau đầu ngõ", "chiếc áo nâu sờn" trở thành những biểu tượng của ký ức tập thể, gợi nhắc bao thế hệ về nguồn cội. Đặc biệt, nhiều hình ảnh có tính ám gợi cao như "nắng nghiêng", "mưa muộn", "cây cầu cong", "chiếc võng không người đong đưa".. 2. Nhạc tính nhẹ nhàng – thơ như lời ru Minh Hòa sở hữu một nhạc cảm rất riêng. Nhiều bài thơ như được viết để hát lên – nhịp thơ đều, mềm mại, thường sử dụng vần lưng, vần liền, tạo nên tiết điệu trôi chảy, êm ái như: "Chiều rơi trên mái ngói nâu Cây rơm thơm mùi nắng đậu Trẻ con chạy nhặt ngọn rau Ngoài đồng mẹ vẫn cấy sâu." (Chiều quê – tr. 9) Đây là điểm giúp thơ chị "ngấm" từ từ vào người đọc – như một khúc hát quê hương nhẹ nhàng mà sâu thẳm. 3. Cấu trúc bài thơ linh hoạt – thiên về cảm xúc hơn quy tắc Phần lớn thơ trong tập không bị gò vào thể thơ cố định. Có bài 4 chữ, 5 chữ, lục bát, song thất hoặc tự do, nhưng điểm chung là đều tuân theo một trục cảm xúc liền mạch . Đây chính là lựa chọn nghệ thuật đáng giá: Không theo khuôn mà vẫn đầy chất thơ. IV. Tư tưởng xuyên suốt: Lòng yêu quê và nỗi thao thức làm người "Chiều không hẹn" không phải là tập thơ mang tính triết luận, nhưng lại là một dòng tư tưởng mềm – xuyên suốt là tình yêu quê hương, sự thủy chung với nguồn cội, và ý thức sống tốt, sống đẹp trong thời đại biến chuyển. Bài "Câu thơ còn lại" (tr. 34) là một ví dụ, nơi tác giả chiêm nghiệm về sự mất – còn, về điều mình để lại sau đời sống. Không cần cao giọng, chỉ nhẹ nhàng: "Khi tôi không còn nữa Câu thơ sẽ ở lại Như chiếc lá cuối mùa Cũng muốn xanh lần cuối." (Câu thơ còn lại – tr. 34) Trong thời đại hỗn mang của thông tin và cái tôi phình nở, thơ Minh Hòa là một lời mời gọi quay về với cái "chân – thiện – tĩnh" . Đó là một giá trị nhân bản quý hiếm trong thơ đương đại. V. Kết luận: Một chiều không hẹn nhưng không thể quên "Chiều không hẹn" là một tập thơ không ồn ào nhưng có sức lay động sâu sắc. Minh Hòa không làm thơ để ghi danh, mà làm thơ như một cách sống, một cách lưu giữ và sẻ chia ký ức, yêu thương, nỗi niềm. Đọc xong "Chiều không hẹn", ta như vừa sống lại một phần đời đã xa – có thể là tuổi thơ, là mẹ, là người cũ, là con đường làng hun hút gió.. Và rồi lặng lẽ cất lại tập thơ như cất một kỷ vật, để một ngày nào đó, trong một "chiều không hẹn", lòng ta lại ngân lên một câu thơ của chị. "Không ai hẹn mà chiều vẫn đến Như em về với nỗi nhớ không tên." (Chiều không hẹn – tr. 1) Tập thơ Chiều không hẹn không hứa hẹn những bứt phá hình thức hay những cách tân thi pháp táo bạo. Nhưng điều nó mang lại là sự chân thành không phô trương, một vẻ đẹp thầm thì như hoa dại nở bên lối quê – ai bước chậm, ai cúi xuống, ai thật lòng.. mới có thể cảm nhận được hết. Trong thời đại mà thơ ca nhiều khi trở thành nơi thể nghiệm ngôn ngữ hoặc đánh đố thị hiếu độc giả, thơ Minh Hòa như một dòng suối mát, chảy về phía người đọc phổ thông – những con người từng trải, đã sống, đã mất mát, đã hy vọng. Không cần thông điệp gắt gao, không cần kỹ xảo chói lóa – chỉ cần một hình ảnh mẹ đứng nơi cuối ngõ, một buổi chiều mơ hồ gió, một ánh mắt biết cười sau bão giông – cũng đủ làm trái tim ta lặng đi vì đồng cảm. Minh Hòa viết như người giữ kho báu của đời sống – những khoảnh khắc tưởng như nhỏ bé, vụn vặt, nhưng nếu không ai ghi lại, chúng sẽ vĩnh viễn bị quên lãng. Và cũng chính bởi thế, thơ chị giống như một lời nhắc: hãy sống chậm lại, hãy yêu thương nhiều hơn, hãy nhớ về nơi ta đã bắt đầu. Tựa đề Chiều không hẹn là một ẩn dụ đẹp. Nó gợi lên cảm giác mong manh, bất ngờ, và không thể nắm bắt. Nhưng với tập thơ này, đó không còn là một "chiều không hẹn" vô định, mà là một chiều ta được hẹn – với thơ, với ký ức, với chính phần người sâu nhất trong mỗi chúng ta. "Chiều nghiêng bóng nỗi niềm không nói Gió thì thầm một chuyện đã qua Em đi về giữa lòng ta bỏ ngỏ Như chưa từng xa." (Chiều không hẹn – tr. 1) Bài thơ mở đầu tập thơ – cũng là bài thơ đặt tên cho toàn tập – vừa như một cánh cửa khép hờ, vừa như một bàn tay đưa ra lặng lẽ. Người đọc nào bước qua cánh cửa ấy, chạm vào bàn tay ấy.. hẳn sẽ không thể nào quên. Và thế là, một buổi chiều không hẹn.. đã ở lại mãi trong lòng người. Lê Gia Hoài