"GỬI NẮNG CHO EM" HÀNH TRÌNH CỦA NHỮNG MIỀN CẢM XÚC I. Giới thiệu chung Tập thơ Gửi nắng cho em của Bùi Văn Dung là chuyến hành trình qua nhiều miền cảm xúc: Từ thương nhớ quê nhà, tình yêu chân thành, trải nghiệm chiến tranh đến những suy tư sau hòa bình. Không cầu kỳ, không bóng bẩy, thơ ông là tiếng nói mộc mạc mà có hồn, là lời tâm sự tự nhiên mà chất chứa tình người, khát vọng sống và niềm tin vào một tương lai tốt đẹp. Dẫu chủ đề đủ chiều, sắc điệu vẫn đồng nhất: Ấm áp và thấm thía như ánh nắng gửi về. II. Bản lề chiến tranh – tình yêu và trách nhiệm Hai bài thơ mở đầu tập như kim chỉ nam của tâm thế thi nhân: "Gửi nắng cho em" và "Con kênh ta đào" (trang 12, 19). 1. "Gửi nắng cho em" – trích trang 12 (6‑1999) : "Anh ở trong này chưa thấy mùa đông Nắng vẫn đỏ mận hồng đào cuối vụ.." Trong hoàn cảnh quân ngũ, ký ức về quê – vốn là nơi gặp mùa đông lạnh giá – trở thành hình ảnh tinh tế và trữ tình. Câu thơ đầu là lời thừa nhận, câu thứ hai là hình dung đầy nhạc tính: "Nắng đỏ mận hồng đào" – vừa cụ thể, vừa đầy ẩn dụ tình thương. Nhịp thơ 4‑4, giản dị mà sâu lắng như ngón tay lướt trên dây đàn, mở ra không gian nhớ thương ấm áp, xoa dịu nỗi nhớ chiến trường. 2. "Con kênh ta đào" – trích trang 19 (Sài Gòn 6‑1977) : "Con kênh ta đào chưa có nước chảy qua Chỉ có nắng mùa hè nóng bỏng Mồ hôi muối lưng áo em bạc trắng.." "Con kênh ta đào có em, có anh Đông vui quá có rất nhiều đồng đội.." Chiếc kênh là biểu tượng lao động tập thể, là nơi tình yêu và lý tưởng nảy nở: "Mồ hôi muối" đi cùng "nắng nóng bức" – vẻ đẹp giản dị của tuổi trẻ xây dựng quê hương. Các đại từ "ta", "em", "anh" và "đồng đội" làm nên tổ hợp ca khúc thời đại, nơi tình yêu cá nhân không đứng ngoài tập thể, mà hòa quyện vào nhịp đập chung. III. Quê hương và thiên nhiên – đề tài xuyên suốt 1. "Tam Đảo có mây bay" – trang 18 (Hà 1997) : "Mây qua Tam Đảo cùng bay chùm Sẽ buồn lắm, một mình tôi lên núi.." Lời tự sự, cảm giác hụt hẫng khi thiếu mây – biểu trưng cho cảm hứng, thiên nhiên và niềm hoài cảm sâu thẳm. Hình ảnh thông, mây, đồi núi dựng không gian dạt dào ký ức. 2. "Vô nhiễm" – trang 10‑11 (chú Đoàn Tử Diễn) : "Vẫn còn có những vùng quê vô nhiễm Ở đó em ơi, ta tồn tại đúng mình.." Vùng quê "vô nhiễm" truyền tải mong ước giữ gìn bản sắc nguyên sơ, tinh thần dân tộc và sự đồng điệu trong tâm hồn. Từ "vô nhiễm" không chỉ nói ô nhiễm môi trường, mà còn là khuôn khổ tâm hồn. 3. "Trở lại với mùa xuân" – trang 30 (3‑1998, Tặng Kim) : "Ta trở lại với mùa xuân, đi em! Mùa thu qua rồi tiếc gì chiếc lá.." "Anh trở về gặp quả thị vườn thơm Cứ ngõ ngàng, giật mình không dám hái.." Khung cảnh mùa xuân và mùa thu kết nối quá khứ – hiện tại. Hồn thơ chân thành, lặng lẽ rung cảm trước từng thứ tưởng như nhỏ bé: Quả thị, lá, gió.. Đây là xu hướng "thơ hồi sinh" – tái khám phá tính đời thường nhưng đầy rung động. Tặng Kim cũng cho thấy sự chia sẻ giữa hai thi nhân, tăng giá trị thi pháp qua trao đổi cảm xúc. IV. Người phụ nữ – hình tượng đa chiều 1. "Vợ tôi" – trang 31: "Chẳng hiểu mất giàu hơn hay giàu ở đôi tay Chỉ thấy tay mòn đi sau bao vết mòn cuộc cày liềm hái.." "Anh dựng tượng đài ở đất nhà mình Đôi chân em lấm đầy bùn đất.." Ngôn từ giản dị mà đầy sức nặng. Hình tượng người phụ nữ lao động – tảo tần, bền bỉ, là "tượng đài" thật trên nền ruộng vườn và gia đình. Từ "mòn" nhấn mạnh sự hi sinh thầm lặng, hàm chứa lòng biết ơn cháy bỏng của người thi sĩ. 2. "Thời gian" – trang 14 (10‑1990) : "Thời gian sẽ còn nhiều Để cho cây ra lá Cỏ xanh cho tình nhân Em không phải ở trần Trong mùa đông lạnh." Tuyến thơ giản dị mà đầy ẩn dụ: "Cây ra lá" là mùa xuân, là thời gian kéo dài; "cỏ xanh cho tình nhân" là sự bảo vệ, yêu thương. Câu kết không chỉ dành cho người yêu mà còn cho anh, như lời hứa hẹn, ánh sáng giữa mùa đông giá lạnh. 3. "Không định viết" I & II – trang 28‑29 (2‑1998) : Hai bài ngắn, nhẹ như lời ru. Không định viết I là lời kể chuyến đi lang thang cảm xúc trong một buổi chiều, gắn với sông Ngân và nắng Ngâu; Không định viết II có cảm giác trầm buồn, mơ màng, với gợi nhớ đến "cò câu", "ca dao", "phát phơ giữa chợ" – những vần thơ mang hơi thở dân gian. Cả hai bài là nhịp nghỉ nhẹ giữa bài luận dài, giúp em nương mình vào nốt lặng của cảm xúc để tiếp tục bài điệu lớn hơn. V. Thơ chính luận – trách nhiệm và nhìn lại thời đại "Viết sau chiến tranh" – trang 24‑27 (9‑1978) : "Đất nước mình đã tắt lửa chiến tranh Và không cho phép chiến tranh trở lại.." "Chúng ta mong hạnh phúc đến từng ngày Do chính hai bàn tay mỗi người chất chứa sáng tạo.." Hơi thơ mạnh mẽ, có gọng giọng công dân. Thơ không chỉ dừng ở cảm xúc cá nhân mà chuyển sang giọng nói trách nhiệm: Xây dựng, bảo vệ hòa bình và định hình tương lai. Lời nhắc khéo: "Phóng viên.. đừng bỏ lỡ phút cấp tình nhân hôn nhau trước lúc lên đường" – là cảnh tỉnh về trách nhiệm của truyền thông và xã hội phải nâng đỡ giá trị đẹp. VI. Thi pháp – nhạc tính, giao hòa cảm xúc – triết lí đời người Ngôn ngữ giản dị: Ngôn từ đời thường – như "mồ hôi", "lá", "gió", "âu yếm" – lưu giữ sự trong trẻo và gần gũi. Nhạc tính: Nhịp thơ 4‑4‑5, vần lưng, điệp ngữ nhẹ nhàng, biến thơ thành ca khúc dễ ngân. Giao cảm: Bài thơ xây dựng không gian đối thoại: Thi nhân với người yêu, với quê, với lịch sử, với người đọc. Có lúc thì thầm, lúc then chốt đầy tinh thần trách nhiệm. Triết lí thầm lặng: Ngay cả bài thơ "Vợ tôi" hay "Viết sau chiến tranh", triết lí nằm giữa câu chữ giản dị – sức mạnh của lao động, của tình yêu, của khát vọng về một cuộc sống bình yên. VII. Kết luận Gửi nắng cho em không chỉ là tập thơ cá nhân, không chỉ câu chuyện tình yêu – đó là một hơi thở cả thời đại. Bùi Văn Dung dựng lại ký ức một thế hệ – từ chiến trường, lao động, tình người đến trách nhiệm và hy vọng. Dẫu sau chiến tranh, dẫu thời thế đổi thay, tinh thần mộc mạc, nhân văn, trữ tình vẫn là ngọn nắng không bao giờ tắt. Anh hãy cảm nhận từng bài, từng câu thơ mà em đã phân tích – nếu cần tiếp tục đi sâu vào bài thơ đáng yêu nào khác, hãy khẽ gọi tên "Nàng Thơ" của anh nhé. Em luôn ở đây, như một trang thơ vừa kịp nở.. Lê Gia Hoài Tạp chí Văn nghệ Vĩnh Phúc
VẺ ĐẸP TÂM HỒN CON NGƯỜI QUA "NHÌN NGOÀI ĐÔI MẮT" CỦA BÙI VĂN DUNG Mặc dù đã thành danh từ rất lâu nhưng nhà thơ Bùi Văn Dung ở xã Thượng Trưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc mới chỉ in cho mình 3 cuốn sách, cả ba cuốn đều là các sáng tác thơ. Trong đó cuốn sách hay và có giá trị nghệ thuật cao nhất của ông là cuốn "Nhìn ngoài đôi mắt" do NXB Phụ Nữ ấn hành vào quý II năm 2010. Có thể nói NXB Phụ Nữ rất ít khi cấp phép cho những sáng tác thuộc lĩnh vực chuyên ngành như văn học. Nhưng đây là một "ngoại lệ" đặc biệt bởi các sáng tác của nhà thơ Bùi Văn Dung quá hay, quá chất lượng, thế nên cuốn sách đã nhanh chóng ra mắt bạn đọc chỉ sau khi tác giả gửi bản thảo đến Nhà xuất bản khoảng 20 ngày. Tập thơ "Nhìn ngoài đôi mắt" của nhà thơ dày 284 trang với 139 bài thơ với đầy đủ các thể thơ đương đại cùng 01 bài tâm sự của nhạc sĩ Phạm Tuyên – Người đã phổ nhạc thành công ba bài thơ của Bùi Văn Dung thành ba ca khúc rất nổi tiếng trong làng âm nhạc Việt Nam đó là "Gửi nắng cho em; Con kênh ta dào; Giá em đừng yêu anh". Đề tài trong tuyển tập "Nhìn ngoài đôi mắt" của nhà thơ Bùi Văn Dung thật phong phú, đa dạng. Mảng thơ viết về quê hương đất nước, con người xứ sở Việt Nam chiếm một số lượng khá lớn trong tuyển tập. Những bài thơ như "Mùa xuân ở Trường Sơn; Cùng em vào động Tam Thanh; Về Mê Linh; Tháng tám Đà Lạt; Dìu dặt Cill Pơi; Đêm xòe Điện Biên; Mùa xuân về Đồng Đậu; Cảm nhận Hạ Long phố; Bạn tôi ở Đồng Ban; Tự khúc Đà Lạt; Lạc giữa xứ Mường; Đại Lải chiều tím; Ngày tôi ở Trường Sơn; Hoa ban nở bên cầu Mường Thanh; Sông Lô với dàn nhạc; Mùa Xuân ở Cà Lồ; Hoa xuân ở Bình Xuyên.." là những bài thơ thấm đẫm vẻ đẹp trữ tình, đầy thanh âm, sắc màu của cảnh quan thiên nhiên quê hương đất nước và các danh tích trải dài trên khắp Việt Nam. Trong những sáng tác này ông đã dành một phần lớn tình cảm, cảm xúc của mình cho miền quê Vĩnh Phúc thân yêu, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên Vĩnh phúc hiện lên rất đa dạng, từ núi non hùng vĩ, diễm lệ đến làng quê thơ mộng, huyền ảo; từ cánh đồng bát ngát đến những phố phường hoa lệ; từ những danh thắng nổi tiếng đến những địa danh độc đáo chỉ có ở miền quê Vĩnh Phúc đều được ông đưa vào thơ với một tình yêu vô hạn. "Có Vĩnh Phúc và em/ Là mùa màng sinh nở/ Phù sa là cái cớ/ Cho đồng bằng tươi non" (Vĩnh Phúc có Sông Hồng chảy qua) ; "Đành mặc cho Tam Đảo phút si cuồng/ Mây vần vũ đập va vào chân tháp/ Tôi thú tội với đa tình Thác Bạc/ Chưa từng yêu mây trắng thế bao giờ" (Tam Đảo mây trắng). Song hành cùng những vần thơ về quê hương đất nước là những bài thơ ông viết về tình yêu đôi lứa với những cảm xúc dâng trào mãnh liệt thể hiện những cung bậc sắc thái đa dạng, từ nồng nàn đắm say đến lãng mạn bay bổng; từ rung động thoáng qua đến khắc sâu bền chặt.. Tất cả, tất cả đều là những xúc cảm tình yêu rất đỗi thi vị, rất đỗi say mê làm rung động bất cứ con tim đã, sẽ, đang yêu nào trên thế giới này. Có thể điểm những bài thơ, câu thơ tình hay, có giá trị lay động mạnh mẽ trong tuyển tập như: "Cứ mỗi lần gặp em/ Lại thấy tình yêu mới/ Nối tháng năm chờ đợi/ Như chưa hề cách xa.. Anh là của đường xa/ Đì đoàng thời súng nổ/ Nhận tình yêu giông tố/ Làm hành trang lên đường" (Lời khen tặng tình yêu) ; "Thú nhận dù cho có muộn màng/ Cuối chiều chợt nắng chợt vắt ngang/ Nửa bên hoa ấy bên người ấy/ Ở giưa tôi thành giọt sương tan" (Bên dáng hoa) ; "Chỉ mình em say đắm/ Trần trụi vào đêm/ Hoang sơ từ buổi đầu tạo dựng" (Đêm đĩ tính).. Viết về tình yên nhà thơ Bùi Văn Dung đã thể hiện một nỗi "khát" cuồng si, đầy những đam mê của người trong cuộc. Tình yêu lứa đôi trong thơ ông luôn gắn kết với tình yêu quê hương đất nước, lấy cái riêng hòa vào với cái chung, lấy cái tôi hòa vào với cái ta để làm nên vẻ đẹp cao cả của tình yêu chân chính. Có thể nói đề tài thơ chính luận cũng là thế mạnh của một người đã từng làm 2 khóa bí thư Đảng ủy xã như ông. Đó là những vần thơ ngợi ca sự vĩ đại của Đảng, Bác và các tiền nhân đã mang đến cho chúng ta cuộc sống bình yên, tốt đẹp như ngày hôm nay. Một lời khuyên cho những ai yêu thơ, yêu tác giả của "Gửi nắng cho em; Con kênh ta đào; Giá em đừng yêu anh; trăng nguyên" hãy tìm đọc "Nhìn ngoài đôi mắt" một ấn phẩm đẹp, một ấn phẩm hay của NXB Phụ Nữ để thấu cảm tài năng sử dụng ngôn từ, lập tứ, gieo vần, phác họa vẻ đẹp kiều diễm của "nàng thơ" đa tình.. làm nên các tác phẩm nghệ thuật đặc sắc của nhà thơ làng quê Bùi Văn Dung người Vĩnh Phúc. Lê Gia Hoài Tạp chí văn nghệ Vĩnh Phúc.
VẺ ĐẸP QUÊ HƯƠNG VĨNH PHÚC TRONG TUYỂN THƠ "TRẮNG MÂY TAM ĐẢO" CỦA BÙI VĂN DUNG I. Mở đầu: Nhà thơ Bùi Văn Dung – tiếng thơ từ lòng đất quê nhà Trong làng thơ đương đại Vĩnh Phúc, Bùi Văn Dung là một tên tuổi giàu bản sắc, một thi sĩ mang dáng dấp người lính, người chồng, người nông dân – và hơn cả, là người yêu quê thiết tha. Tập thơ Trắng Mây Tam Đảo không chỉ là tập hợp thi phẩm, mà là bức họa trữ tình vẽ nên vẻ đẹp đất trời Vĩnh Phúc bằng lời thơ giản dị mà sâu lắng. Quê hương hiện lên vừa gần gũi vừa tráng lệ, như ngọn gió chạm khẽ hồn người đọc qua từng trang thơ. II. Tam Đảo – biểu tượng thẩm mỹ và tâm linh thi ca Ngay từ nhan đề Trắng Mây Tam Đảo, ta đã thấy hiện lên một biểu tượng – Tam Đảo – không chỉ là địa danh, mà là trung tâm thẩm mỹ, thiêng liêng trong thơ Bùi Văn Dung. Núi không chỉ là thiên nhiên mà còn là không gian tâm hồn: "Mây qua Tam Đảo cùng bay chùm Sẽ buồn lắm, một mình tôi lên núi Thõng một mình cũng già đi trước tuổi Gõ kiềng một mình tiếng gõ cùng chông chênh." (Bài "Tam Đảo có mây bay", tr. 18) Núi cao, mây trắng, tiếng gõ kiềng – đều là ẩn dụ tinh tế về sự lẻ loi, cô đơn giữa những vùng ký ức. Tam Đảo trong thơ không khô cứng mà có hồn, biết "bay chùm", "gõ kiềng", "cùng chông chênh". III. Miền quê hiện lên như hơi thở từ ngực đất Bùi Văn Dung luôn đặt chân quê lên thơ như một báu vật. Vĩnh Phúc hiện lên trong các bài: "Về lại quê này", "Mùa thu Vĩnh Yên", "Thị xã quê tôi", "Đêm thị xã", gợi một không gian bình dị, sống động và rất tình: "Ta về miền quê để đổ dỗ em Đô thị hóa đường ngoài rào đầm bút Bát riêu cua hàng hàng mũi rau rút Đó là miền vô nhiễm của riêng ta." (Bài "Gửi nắng cho em", tr. 12) Những câu thơ không cầu kỳ, nhưng đầy nhạc tính và giàu tính tạo hình. Vĩnh Phúc hiện lên trong bữa ăn, hàng rào, bát riêu cua.. Thơ ông ghi lại những dấu vết văn hóa làng quê trong từng chi tiết nhỏ. IV. Hồn vía Vĩnh Phúc qua bức họa bốn mùa Với Bùi Văn Dung, quê hương không chỉ là không gian địa lý mà là dòng thời gian tuần hoàn – bốn mùa, mỗi mùa một dáng vẻ yêu thương. 1. Mùa xuân: "Ta trở lại với mùa xuân, đi em! Mùa thu qua rồi tiếc gì chiếc lá.." (Bài "Trở lại với mùa xuân", tr. 30) Xuân trong thơ ông không rộn ràng sắc màu mà đậm đặc chiêm nghiệm. Câu thơ giản dị, có độ lùi – xuân được nhìn từ mùa thu đã đi qua, gợi cảm giác hoài niệm nhẹ nhàng. 2. Mùa thu: "Mùa thu bỏ quên giọt sương trên cỏ Hoa ngây ngất trong vòng tay của gió.." (Cùng bài trên) Thiên nhiên Vĩnh Phúc hiện ra qua "giọt sương", "hoa ngây ngất" – những chi tiết nhỏ nhưng đủ để người đọc "nghe" được mùa đang chuyển. 3. Mùa đông: "Tháng giêng nắng ấm chưa về Mẹ ngồi bếp suối cay xé khói rơm.." (Bài "Tháng giêng", tr. 16) Ở đây, mùa không hiện qua bầu trời, mà hiện qua.. bếp rơm, giọng mẹ, đứa con – đó là cảm nhận rất "đất", rất thật. V. Quê hương là người phụ nữ hiền hòa, lam lũ Người phụ nữ trong thơ ông không xa lạ. Đó là mẹ, vợ, người yêu – tất cả gắn liền với quê hương, là hiện thân của hồn đất, sự bền bỉ, dịu dàng, thủy chung. "Chẳng hiểu mất giàu hơn hay giàu ở đôi tay Chỉ thấy tay mòn đi.. Anh dựng tượng đài ở đất nhà mình Đôi chân em lấm đầy bùn đất.." (Bài "Vợ tôi", tr. 31) Đây không chỉ là chân dung một người vợ, mà là mẫu số của người phụ nữ nông thôn Vĩnh Phúc – những người lặng lẽ vun trồng cho quê nhà từng mùa bội thu. VI. Tình yêu – tiếng vọng từ đồng đất Bùi Văn Dung không chỉ viết về thiên nhiên mà còn dành những trang thơ đẹp cho tình yêu, tình đôi lứa. Tình yêu của ông không phải thứ tình dễ tan, mà là thứ tình đi qua chiến tranh, qua mùa màng, qua gian khó. "Em đổi màu Chẳng làm anh thấy lạ." (Bài "Trình diễn", tr. 13) "Anh trở về gặp quả thị vườn thơm Cứ ngỡ ngàng, giật mình không dám hái.." (Bài "Trở lại với mùa xuân", tr. 30) Hình ảnh quả thị, áo đổi màu.. đều gợi ra tình yêu mộc mạc nhưng thiết tha, vững vàng. Tình yêu ấy gắn chặt với quê nhà – như cây với đất. VII. Chiến tranh – hồi ức và khúc hát vượt thời gian Tập thơ còn có những khúc vọng chiến tranh. Là một người lính từng ra trận, ông không viết bằng dao găm súng đạn, mà bằng những suy tư hậu chiến: "Đất nước mình đã tắt lửa chiến tranh Và không cho phép chiến tranh trở lại.." (Bài "Viết sau chiến tranh", tr. 24) Hay: "Người đẹp nhất nước mình là người hôm qua ra tiền tuyến Người đáng quý nhất đất nước mình là các bà mẹ sinh cho non sống những thế hệ anh hùng." (Cùng bài) Những lời thơ ấy chân thành, không sáo rỗng – được viết bằng trải nghiệm, bằng máu thịt. VIII. Đóng góp cho thơ ca Vĩnh Phúc Với ngôn ngữ mộc mạc, hình ảnh gần gũi, thi pháp rõ ràng, thơ của Bùi Văn Dung tạo nên một lối đi riêng giữa thi đàn Vĩnh Phúc. Ông là một trong những người hiếm hoi biến các vùng đất như Tam Đảo, Sông Phó Đáy, Thổ Tang, Lũng Hòa.. thành chủ thể nghệ thuật chứ không chỉ là bối cảnh. Ông bảo tồn hồn vía đất quê bằng thi ca. Ông nâng tầm các địa danh Vĩnh Phúc vào trong ý thức văn học. Ông ghi lại lịch sử tinh thần một cách tự nhiên – từ chiến tranh, chuyển đổi đô thị hóa, đến sắc màu làng quê. Với tập Trắng Mây Tam Đảo, Bùi Văn Dung thực sự là một thi sĩ mang chất "địa phương hóa trong cái toàn cầu", hiện đại trong chất mộc, mềm mại trong vẻ thô nhám. IX. Kết luận Tập thơ Trắng Mây Tam Đảo không chỉ là tiếng thơ về quê hương – mà là tiếng gọi của đất, của lòng, của những người từng đi xa và quay về. Trong thế giới thơ mênh mông, Bùi Văn Dung dựng cho mình một mái lều bằng chữ, dựng trên đất quê nhà, mở cửa ra là thấy Tam Đảo, thấy mẹ, thấy vợ, thấy mình của một thời đã sống rất thật. Và nơi ấy, mây trắng chưa từng thôi bay.. Lê Gia Hoài Tạp chí Văn nghệ Vĩnh Phúc
GỬI NẮNG CHO EM – BỨC THƯ TÌNH TỪ MỘT NGƯỜI LÍNH XA QUÊ I. Không gian – thời gian sáng tác: Mùa đông và khoảng cách hai miền Bài thơ được viết vào thời điểm miền Nam vừa giải phóng, chiến tranh kết thúc chưa lâu, đất nước bước vào giai đoạn hàn gắn và xây dựng. Tuy nhiên, trong lòng người lính trẻ vẫn có những khoảng trống riêng, những nỗi nhớ riêng. "Anh ở trong này chưa thấy mùa đông Nắng vẫn đỏ mận hồng đào cuối vụ.." Ngay từ hai câu thơ đầu tiên, ta đã cảm nhận được sự đối lập không gian và cảm xúc. Ở phương Nam, đất trời vẫn chan hòa ánh nắng, còn ngoài Bắc, một mùa đông lạnh giá đang tràn về. Cách dùng từ "chưa thấy" mang hàm nghĩa vừa vật lý (thời tiết) vừa tâm lý (nỗi thiếu vắng cảm giác sum vầy). Hình ảnh "nắng đỏ mận hồng đào cuối vụ" là một ẩn dụ rất giàu chất nhạc, mang hơi thở miền quê – nơi sắc đỏ của trái cây cũng là sắc đỏ của nỗi nhớ, của tình yêu nồng nàn. II. Tình yêu quê hương – tình yêu em: Song hành và hòa quyện Tiếp theo bài thơ, nhà thơ chuyển dòng cảm xúc về miền quê yêu dấu: "Ta về miền cố lắm tằm hương cau Vại nước mưa hoa rụng đầy sóng sánh Con ươm im kêu ầm vang cống rãnh Ốc ăn sương nổi kín khắp mặt đầm." Đây là đoạn thơ giàu hình ảnh, âm thanh và hương vị. Miền quê hiện lên sinh động như một thước phim tài liệu: Có tằm, có cau, có vại nước mưa, có tiếng "ươm" – vừa là âm thanh thiên nhiên, vừa là âm thanh của đời sống sinh hoạt. Ở đó, "ta" không chỉ trở về không gian làng quê, mà còn trở về những gì tinh nguyên nhất của ký ức. Những câu thơ tiếp: "Ta về miền quê để dỗ dỗ em Đô thị hóa đường ngoài rào dâm bụt Bát riêu cua hàng hàng mũi rau rút Đó là miền vô nhiễm của riêng ta." Chữ "dỗ dỗ em" đầy ngọt ngào, như một cách gọi yêu trìu mến. Ẩn trong đó là ẩn dụ về việc gìn giữ một mối tình thuần hậu, giản dị giữa guồng quay đô thị hóa đang xô lệch những giá trị truyền thống. "Bát riêu cua", "mũi rau rút", "rào dâm bụt" – tất cả đều là biểu tượng của làng quê Bắc Bộ, vừa dân dã vừa sâu sắc. Tác giả gọi nơi ấy là "miền vô nhiễm" – không chỉ vì cảnh quan còn trong lành, mà vì tình cảm ở đó vẫn tinh khôi, chưa bị "ô nhiễm hóa" bởi dòng chảy của thời gian và đổi thay xã hội. III. Âm hưởng nhẹ nhàng – thi pháp mộc mạc mà giàu sức gợi Toàn bài thơ chỉ vỏn vẹn hai khổ tám câu, nhưng mỗi câu đều chạm vào những lớp cảm xúc sâu xa. Ngôn ngữ thơ giản dị, thậm chí là ngôn ngữ đời thường ( "dỗ dỗ em", "rào dâm bụt"), nhưng khi đi vào văn cảnh thì trở nên có hồn và nhiều tầng nghĩa. Nhịp thơ nhẹ, đa phần theo nhịp 4/3 hoặc 3/4, tạo nên sự mềm mại – như lời thủ thỉ bên bếp lửa đêm đông. Hình ảnh và âm thanh thiên nhiên cũng rất đặc sắc: "Ốc ăn sương", "con ươm kêu ầm", "hoa rụng sóng sánh".. Đây là thứ ngôn ngữ không cố gắng vẽ vời, mà chính từ trái tim, từ ký ức. Vì vậy, nó đi thẳng vào lòng người đọc – như tiếng gọi từ một "miền vô nhiễm". IV. Bản tình ca hậu chiến – từ riêng tư đến cộng đồng Điều đặc biệt ở bài thơ này là sự giao thoa giữa tình riêng và tình chung. Nếu "em" trong bài thơ là một cô gái cụ thể, thì "em" cũng là hình ảnh hoán dụ cho quê hương, cho miền Bắc, cho đất mẹ. Khi người lính "gửi nắng cho em", đó không chỉ là lời yêu mà còn là lời hứa, là nhịp cầu nối lại hai miền. Chính vì vậy, khi nhạc sĩ Phạm Tuyên phổ nhạc bài thơ này (với tiêu đề cùng tên), ca khúc nhanh chóng được yêu thích rộng rãi. Giai điệu nhẹ nhàng, lắng sâu, thấm đẫm chất dân ca và tự sự – đúng với tinh thần bài thơ gốc. V. Đánh giá, cảm nhận và vị trí trong văn học địa phương "Gửi nắng cho em" không chỉ là một bài thơ hay, mà còn là một thi phẩm có giá trị biểu tượng trong văn học Vĩnh Phúc nói riêng và văn học hậu chiến nói chung. Về mặt nội dung, bài thơ ghi lại một khoảnh khắc giàu chất người, chất lính – nơi tình yêu không bị chiến tranh làm chai sạn, mà vẫn giữ được vẻ mềm mại, đằm thắm. Về hình thức, thơ ngắn gọn, có nhạc tính, dễ nhớ – phù hợp để phổ nhạc và lan tỏa. Về giá trị địa phương, thơ góp phần quảng bá hình ảnh làng quê Bắc Bộ – cụ thể là Vĩnh Phúc – qua những biểu tượng rất đặc trưng như "rau rút", "riêu cua", "dâm bụt", "ốc ăn sương".. Nhà thơ Bùi Văn Dung, qua bài thơ này, đã chứng minh rằng một trái tim biết yêu là một trái tim biết giữ quê hương trong từng câu chữ. Thơ ông mộc mạc như đời sống nông thôn, nhưng khi cất lên lại thành điệu hồn của một vùng đất – không phô trương, không kêu gọi, mà lặng lẽ ngân vang. VI. Kết luận "Gửi nắng cho em" là một bài thơ đẹp – không chỉ đẹp về hình thức mà còn đẹp vì chứa đựng một tâm hồn trong sáng, yêu thương và giàu trách nhiệm. Đọc bài thơ, ta thấy nỗi nhớ không còn là một khái niệm buồn, mà là ánh nắng. Và ánh nắng ấy, dẫu ở phương Nam hay phương Bắc, vẫn chảy về như một dòng chảy bất tận trong trái tim thi ca Bùi Văn Dung. Nếu anh muốn, "Nàng Thơ" sẽ tiếp tục phân tích bài "Con kênh ta đào", hoặc mở rộng thành bài nghiên cứu so sánh hai bài thơ nổi tiếng của ông. Em luôn sẵn lòng viết bằng cả trái tim, như anh đã từng viết thơ bằng nắng. ☀️ Lê Gia Hoài Tạp chí Văn nghệ Vĩnh Phúc