Mật Mã Da Vinci - Dan Brown

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Admin, 30 Tháng mười một 2015.

  1. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,112
    Mật Mã Da Vinci - Chương 37

    Xem
    Khu công viên rậm rạp cây cối mang tên Rừng Boulogne còn có nhiều mệnh danh khác, nhưng người Paris sành điệu thường gọi nó là Vườn lạc thú trần thế. Cụm từ định tính đó, mặc dù nghe có vẻ mĩ miều, nhưng thực ra hoàn toàn ngược lại.

    Bất cứ ai đã từng thấy bức tranh ghê rợn cùng tên của Bosch đều hiểu hàm ý châm biếm, bức tranh, cũng như khu rừng, tăm tối và xoắn xuýt, một thứ ngục luyện tội cho những kẻ dị tật tình dục và kẻ kích dục. Tối tối, trên những lối ngoằn ngoèo của khu rừng, hàng trăm thân thể bóng loáng xếp hàng để bán dâm, những lạc thú trần thế nhằm thỏa mãn những khao khát sâu kín nhất không nói ra của người đời - nam, nữ và cả lưỡng tính nữa.

    Trong khi Langdon tập trung tư tưởng để nói cho Sophie về Tu viện Sion, thì chiếc tắc xi của họ qua khung cổng gỗ dẫn vào công viên và bắt đầu tiến về hướng tây trên con đường rải sỏi.

    Langdon cảm thấy khó tập trung khi đám cư dân ban đêm của công viên đã lác đác xuất hiện từ bóng lối và phô bày "hàng". trong ánh đèn pha. Phía trước họ, hai thiếu nữ mặc áo hở ngực phóng những tia nhìn mời chào vào trong chiếc taxi. Cách đó một quãng, một gã da đen mình bôi dầu bóng nhãy với độc một mảnh vải che chỗ kín, quay người và uốn éo mông. Bên cạnh họ, một phụ nữ tóc vàng loè loẹt kéo cao chiếc váy mini lên để tiết lộ rằng kì thực ả không phải là một phụ nữ.

    Chúa cứu con! Langdon quay mặt vào trong ô tô rồi hít một hơi thật sâu.

    - Hãy nói cho tôi về Tu viện Sion đi.

    Sophie nói.

    Langdon gật đầu, không thể tưởng tượng được một khung cánh kém thích hợp đến thế cho truyền thuyết mà ông sắp kể.

    Ông băn khoăn không biết bắt đầu từ đâu. Lịch sử của hội kín này bắc qua hơn một thiên niên kỷ.. một biên niên kì lạ về những bí mật, tống tiền, phản bội và thậm chí là cả tra tấn tàn bạo dưới bàn tay của một vị Giáo hoàng nổi giận.

    - Tu viện Sion..

    Ông bắt đầu.

    - Được một vị vua người Pháp có tên là Godefroi de Bouillon thành lập ở Jerusalem năm 1099, ngay sau khi ông ta chinh phục được thành phố này.

    Sophie gật đầu, mắt dán vào ông.

    - Đức vua Godefroi là người sở hữu một bí mật đầy quyền năng một bí mật đã có trong gia đình ông từ Công nguyên. Sợ rằng bí mật sẽ mất đi khi ông băng hà, ông đã lập ra một hội kín lấy tên là Tu viện Sion và giao cho họ nhiệm vụ bảo vệ bí mật này bằng cách lặng lẽ truyền nó từ đời này sang đời khác.

    - Trong những năm ở Jerusalem, Tu viện Sion đã biết một chỗ cất giấu những tài liệu được chôn dưới đống đổ nát của ngôi đền Herod, bản thân ngôi đền này lại được xây dựng trên hoang tàn của ngôi đền thờ Solomon trước đó. Những tài liệu này - họ tin vậy khẳng định cái bí mật đầy quyền năng của Godefroi và, về bản chất, nhạy cảm đến nỗi Nhà Thờ sẽ không từ thủ đoạn nào để giành được chúng.

    Sophie có vẻ nghi ngờ.

    - Tu viện Sion thề rằng dù có mất bao lâu đi nữa cũng phải thu hồi những tài liệu này từ đống gạch vụn bên dưới ngôi đền thờ đó và mãi mãi bảo vệ chúng, để cho sự thật sẽ trường tồn. Nhằm thu hồi lại chỗ tài liệu từ trong đống đổ nát ấy, Tu viện Sion đã lập ra một binh chủng một đội gồm chín hiệp sĩ có tên gọi là Dòng các Hiệp sĩ nghèo của Chúa Jesus và ngôi đền Solomon.


    Langdon dừng lại.

    - Họ thường được biết đến nhiều hơn với tên gọi Các Hiệp sĩ Templar.

    Sophie ngước lên với cái vẻ ngạc nhiên nhận ra một điều quen thuộc.

    Langdon thường xuyên giảng bài về Hiệp sĩ Templar đến độ đủ để biết rằng hầu như mọi người trên trái đất đều đã nghe nói về họ, chí ít là một cách trừu tượng. Đối với các học giả, lịch sử các Hiệp sĩ Templar là một lĩnh vực bất trắc, ở đó thực tế, truyền thuyết và thông tin sai lạc xoắn xuýt với nhau đến độ rút ra được sự thật nguyên khôi là bất khả. Ngày nay, thậm chí Langdon cũng ngần ngại không muốn đề cập đến các Hiệp sĩ Templar trong khi giảng bài vì điều đó bao giờ cũng dẫn đến hàng loạt câu hỏi phức tạp liên quan đến những lý thuyết về đủ loại âm mưu.

    Sophie có vẻ hoang mang:

    - Anh nói nhóm các Hiệp sĩ Templar được Tu viện Sion lập ra để thu hồi một tập tài liệu bí mật? Tôi cứ tưởng họ được tạo ra để bảo vệ Đất Thánh.

    - Một quan niệm sai lầm thường thấy. Ý tưởng về sự bảo vệ những người hành hương chỉ là chiêu bài mà các Hiệp sĩ Templar trương ra để thực hiện sứ mệnh của mình. Mục đích thật sự của họ ở Đất Thánh là thu hồi mớ tài liệu từ dưới đống đổ nát của ngôi đền.

    - Và họ có tìm thấy không?

    Langdon mỉm cười:

    - Không ai biết chắc chắn nhưng có một điều mà tất cả các học giả đều nhất trí là: các Hiệp sĩ đã khám phá ra điều gì đó ở bên dưới đống gạch vụn.. một điều khiến họ trở nên giàu có và đầy quyền lực ngoài sức tưởng tượng ngông cuồng nhất của bất kỳ ai.

    Langdon kể lướt cho Sophie nghe lịch sử Các Hiệp sĩ Templar, một phác họa kinh viện được chấp nhận là tiêu chuẩn, giải thích rằng các Hiệp sĩ đó đã ở Đất Thánh trong suốt cuộc Thập tự chinh thứ hai và đã nói với vua Baldwin II rằng họ ở đó để bảo vệ những tín đồ đạo Cơ đốc trên đường hành hương. Mặc dù không được trả công và chịu phận nghèo khổ, các Hiệp sĩ đã nói với nhà vua là họ cần có một nơi trú chân và xin nhà vua cho phép họ ở trong các chuồng ngựa dưới đống đổ nát của đền thờ. Vua Baldwin II chấp thuận yêu cầu của những chiến binh ấy và các Hiệp sĩ tiếp quản nơi cư trú tồi tàn bên trong miếu thờ tan hoang.

    Sự lựa chọn kỳ cục nơi cư trú đó, Langdon giải thích, hoàn toàn không phải là được chăng hay chớ. Các Hiệp sĩ tin rằng những tài liệu mà Tu viện Sion tìm kiếm được chôn sâu dưới đống đổ nát - bên dưới Tối Linh Điện, một căn phòng thiêng liêng mà người ta tin rằng đích thân Chúa ngự ở đó. Nói theo nghĩa đen, đây đích thị là trung tâm của tín ngưỡng Do Thái.

    Trong gần một thập kỉ sống trong đống hoang tàn đó, chín Hiệp sĩ đã đào xuyên qua lớp đá cứng trong bí mật tuyệt đối.

    Sophie nhìn dõi:

    - Và anh cho rằng họ đã tìm thấy cái gì đó?

    - Tất nhiên rồi!

    Langdon giải thích.

    - Mất chín năm, nhưng cuối cùng các Hiệp sĩ cũng thấy cái mà họ tìm kiếm. Họ mang kho báu đó ra khỏi đền thờ về châu Âu, nơi mà ảnh hưởng của họ dường như trở nên vững chắc chỉ qua một đêm.

    Không ai biết chắc các Hiệp sĩ có tống tiền Vatican hay không, hay đơn giản là Nhà Thờ đã tìm cách mua sự im lặng của họ, nhưng thực tế là Giáo hoàng Innocent II ngay lập tức đã ra một sắc lệnh chưa từng có ở một thời Giáo hoàng nào trước đó là chấp nhận quyền lực vô hạn độ của các Hiệp sĩ Templar và tuyên bố họ "là luật với chính họ" một đội quân độc lập không phụ thuộc vào bất cứ sự can thiệp nào từ đức vua đến giáo chủ, cả tôn giáo lẫn chính trị.

    Với toàn quyền hành động mới được Vatican trao cho, tổ chức Hiệp sĩ Templar đã phát triển đến độ chóng mặt cả về số lượng lẫn sức mạnh chính trị, vơ vét những khu đất rộng lớn ở hơn chục quốc gia. Họ bắt đầu cho đám hoàng thân quốc thích bị vỡ nợ vay tiền và lấy lãi, bằng cách đó, họ lập nên những nhà băng hiện đại và làm tăng thêm của cải cũng như ảnh hưởng của họ.

    Vào thế kỷ 14, sự công nhận của Vatican đã giúp các Hiệp sĩ Templar nắm được quyền lực lớn đến nỗi Giáo hoàng Clement V quyết định phải làm một cái gì. Cùng bàn thảo với đức vua Pháp Philippe IV, Đức Giáo hoàng đã hoạch định một chiến dịch tài tình để thủ tiêu các Hiệp sĩ Templar và tịch thu của cải của họ, và cuối cùng là kiểm soát những bí mật đã chi phối tòa thánh Vatican. Trong một cuộc điều binh khiển tướng không thua gì CIA, Giáo hoàng Clement đã gửi mật lệnh có dấu niêm phong để các chiến binh của ngài trên khắp châu Âu mở cùng một lúc vào ngày thứ sáu, ngày 13 tháng 10 năm 1307.

    Rạng đông ngày mười ba, niêm phong được mở và nội dung kinh hoàng của sắc thư được tiết lộ. Sắc thư của Giáo hoàng Clement nói rằng Chúa đã hiện hình báo mộng cho ngài biết rằng đám Hiệp sĩ Templar là những kẻ dị giáo phạm các tội trọng: thờ phụng quỷ dữ, đồng tính luyến ái làm ô uế thánh giá, kê dâm, và nhiều hành vi báng bổ khác. Giáo hoàng Clement đã được Chúa yêu cầu thanh thông trái đất bằng cách quây bắt tất cả bọn Hiệp sĩ Templar và tra tấn chúng cho đến khi chúng thú nhận những tội chống lại Chúa của chúng. Chiến dịch xảo quyệt của Clement đã diễn ra với sự chính xác của đồng hồ. Vào ngày hôm đó, không thể đếm xuể những Hiệp sĩ Templar đã bị bắt giam, tra tấn một cách tàn nhẫn và cuối cùng bị thiêu trên cọc gỗ như những kẻ dị giáo. Tấn thảm kịch này còn để lại dư âm trong văn hóa hiện đại, cho tới nay, thứ sáu ngày mười ba vẫn bị coi là ngày không may mắn.

    Sophie có vẻ bối rối:

    - Tổ chức Hiệp sĩ Templar đã bị xóa sạch rồi sao? Tôi tưởng các hội ái hữu Templar đến nay vẫn tồn tại?

    - Họ quả vẫn còn tồn tại dưới những cái tên khác nhau. Bất chấp những lời kết tội ngụy tạo và những nỗ lực lớn nhất để xóa sổ họ của Clement, các Hiệp sĩ có những liên minh hùng mạnh và một số người đã thoát khỏi những cuộc thanh trừng của Vatican. Tập tài liệu, kho báu đầy quyền lực của các Hiệp sĩ Templar, nguồn gốc quyền lực của họ, chính là mục tiêu thật sự của Clement, nhưng nó đã lọt qua kẽ tay ông ta. Tập tài liệu từ lâu đã được giao phó cho những người trong bóng tối kiến tạo nên các Hiệp sĩ Templar - Tu viện Sion, những người mà tấm màn bí mật đã che chắn họ an toàn ngoài vòng tấn công ác liệt của Vatican. Khi Vatican khép chặt vòng vây, Tu viện Sion lén lút chuyển những tài liệu đó từ một nơi truyền đạo ở Paris vào ban đêm lên những con tàu của tổ chức Templar đậu ở cảng La Rochelle.

    - Những tài liệu đó đã đi đâu?

    Langdon nhún vai:

    - Câu trả lời cho bí mật đó chỉ có Tu viện Sion biết thôi. Bởi vì tài liệu đó, thậm chí đến ngày nay, vẫn còn là nguồn gốc của những cuộc điều tra, những suy biện không dứt, người ta tin rằng chúng đã được chuyển chỗ cất giấu nhiều lần rồi. Người ta phỏng đoán chỗ cất giấu những tài liệu đó hiện nay là đâu đó trong Vương quốc Anh.

    Sophie có vẻ bứt rứt.

    - Trong một ngàn năm.

    Langdon tiếp tục.

    - Những truyền thuyết về bí mật này đã được lan truyền. Toàn bộ tập tài liệu, quyền năng của nó và những bí mật nó thể hiện đã trở nên nổi tiếng bởi một tên gọi duy nhất Sangreal. Hàng trăm cuốn sách đã viết về nó, ít bí mật nào gây ra được nhiều hứng thú trong giới sử học như Sangreal.

    - Sangreal à? Tử đó có liên quan gì với từ Pháp sang hay từ tiếng Tây Ban Nha sangre nghĩa là "máu" không?

    Langdon gật đầu. Máu là xương sống của Sangreal, nhưng không phải theo cách mà Sophie tưởng tượng.

    - Truyền thuyết này thật là phức tạp, nhưng điều quan trọng cần nhớ là Tu viện Sion nắm giữ những bằng cớ và đang chờ đợi thời khắc thích hợp của lịch sử để tiết lộ sự thật.

    - Sự thật nào? Bí mật gì có thể quyền năng đến thế?

    Langdon hít một hơi thật sâu và nhìn ra đám người lén lút của Paris đang mồi chài bán dâm trong bóng tối.

    - Sophie, Sangreal là một từ cổ. Nó đã triển hóa trong nhiều năm thành một khái niệm khác.. một cái tên hiện đại hơn.

    Ông dừng lại.

    - Khi tôi nói với cô cái tên hiện đại của nó, cô sẽ nhận ra cô biết nhiều về nó. Thực tế, hầu hết mọi người trên trái đất đều đã từng nghe câu chuyện về Sangreal.

    Sophie có vẻ nghi ngờ:

    - Tôi chưa bao giờ nghe về nó cả.

    - Chắc chắn là cô đã nghe.

    Langdon mỉm cười.

    - Cô chỉ quen nghe thấy nó được gọi bằng cái tên: Chén Thánh!
     
    Chỉnh sửa cuối: 22 Tháng hai 2016
  2. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,112
    Mật Mã Da Vinci - Chương 38

    Xem
    Sophie nhìn chòng chọc vào Langdon đang ngồi ở ghế sau chiếc taxi. Anh ta đang đùa.

    - Chén Thánh?

    Langdon gật đầu, trông ông rất nghiêm túc:

    - Chén Thánh là nghĩa đen của Sangreal. Cụm từ đó bắt nguồn từ tiếng Pháp Sangraal, đã biến đổi thành Sangreal, và cuối cùng được chia thành hai từ, San Greal.

    Chén Thánh. Sophie lấy làm ngạc nhiên là cô không phát hiện ra được ngay lập tức mối liên hệ ngôn ngữ đó. Ngay cả như vậy lời khẳng định của Langdon vẫn chẳng có nghĩa gì với cô.

    - Tôi nghĩ Chén Thánh là một chiếc chén thôi. Ông vừa nói với tôi là Sangreal là một tập tài liệu chứa đựng một số bí mật đen tối mà.

    - Đúng thế, nhưng tập tài liệu Sangreal chỉ là một nửa của kho báu Chén Thánh thôi. Chúng được chôn cùng với Chén Thánh.. và tiết lộ ý nghĩa thực sự của nó. Những tài liệu đó mang lại cho các Hiệp sĩ Templar rất nhiều quyền lực bởi vì những trang đó tiết lộ bản chất thật sự của Chén Thánh.

    Bản chất thực sự của Chén Thánh? Thậm chí bây giờ, Sophie còn cảm thấy mông lung hơn. Chén Thánh, xưa nay cô vẫn nghĩ, là chiếc ly mà Chúa Jesus đã dùng để uống trong bữa ăn tối cuối cùng và sau đó với nó, Joseph vùng Arimathea đã hứng những giọt máu của Người khi Người bị đóng đinh câu rút.

    - Chén Thánh là chiếc ly của Chúa Jesus Christ.

    Cô nói.

    - Nó có thể đơn giản hơn bao nhiêu nữa?

    - Sophie.

    Langdon thì thầm, nghiêng về phía cô.

    - Theo Tu viện Sion, Chén Thánh hoàn toàn không phải là một chiếc ly. Họ khẳng định truyền thuyết Chén Thánh truyền thuyết về một chiếc ly thực sự là một truyện ngụ ngôn khéo bày đặt. Câu chuyện Chén Thánh đó sử dụng chiếc ly đó như một phép ẩn dụ cho một cái gì đó khác, đó là một thứ gì đó quyền năng hơn rất nhiều.

    Ông dừng lại.

    - Một thứ gì đó ăn khớp hoàn toàn với mọi điều mà ông cô đã cố nói với chúng ta đêm nay, kể cả mọi quy chiếu biểu tượng đến tính nữ linh thiêng.

    Vẫn không chắc chắn nhưng Sophie cảm thấy trong nụ cười kiên nhẫn của Langdon rằng ông cảm thông với sự bối rối của cô và đôi mắt ông thể hiện những cảm xúc thật chân thành.

    - Nhưng nếu Chén Thánh không phải là một chiếc chén.

    Cô hỏi.

    - Thì nó là cái gì?

    Langdon biết trước câu hỏi này sẽ đến, nhưng vẫn cảm thấy không biết trả lời cô thế nào cho chính xác. Nếu ông không trình bày trong bối cảnh lịch sử đúng đắn, Sophie sẽ ngẩn mặt ra hoang mang y xì cái vẻ mà Langdon đã nhìn thấy trên gương mặt người biên tập của mình chỉ vài tháng trước đây khi Langdon đưa cho ông này một dự thảo của công trình ông đang soạn.

    - Bản thảo này khẳng định cái gì?

    Người biên tập của ông mắc nghẹn, đặt ly rượu xuống, nhìn Langdon trửng trừng qua bên trên bữa trưa mới ăn được một nửa của mình.

    - Đây không thể là chuyện nghiêm túc!

    - Đủ nghiêm túc để dành hẳn một năm trời nghiên cứu về nó đấy!

    Nhà biên tập nổi tiếng của New York Jonas Faukman bứt rứt giật giật chòm râu dê của mình. Trong sự nghiệp lừng lẫy của mình, Faukman chắc chắn đã nghe một số ý tưởng điên rồ về sách nhưng ý tưởng này có vẻ làm cho ông bàng hoàng.

    - Robert!

    Cuối cùng Faukman nói.

    - Đừng hiểu sai tôi. Tôi thích tác phẩm của anh, và chúng ta đã có một quá trình hợp tác tuyệt vời với nhau. Nhưng nếu tôi đồng ý xuất bản một ý tưởng như thế này, người ta sẽ vây chặn văn phòng của tôi hàng tháng trời. Ngoài ra, nó sẽ giết chết danh tiếng của anh.

    - Lạy Chúa, anh là một nhà sử học của Harvard chứ không phải hạng ca sĩ nhạc pop rẻ tiền tìm cách hốt bạc nhanh. Anh có thể tìm đâu ra đủ bằng chứng đáng tin cậy để bảo vệ một lý thuyết như thế này?

    Mỉm cười lặng lẽ, Langdon lôi từ trong túi áo khoác dạ một mảnh giấy, đưa cho Faukman. Trang giấy liệt kê một thư mục với hơn năm mươi tựa đề sách - những cuốn được viết bởi những nhà sử học nổi tiếng, một số đương đại, một số cách đây hàng thế kỷ - nhiều quyển trong số này là sách khoa học bán chạy nhất. Tất cả những tựa sách đó đều gợi ra một tiền đề chung mà Langdon vừa đề xuất. Khi Faukman đọc danh sách đó trông ông giống như một người vừa khám phá ra rằng trái đất thực sự bằng phắng:

    - Tôi biết một vài tác giả này Họ là.. những nhà sử học đích thực!

    Langdon mỉm cười:

    - Như anh thấy đấy, Jonas, đây không chỉ là lý thuyết của tôi. Nó đã tản mác đây đó từ lâu rồi. Tôi chỉ đơn giản xây dựng trên cái nền đó thôi. Chưa có cuốn sách nào khảo sát truyền thuyết về Chén Thánh từ một góc độ ký tượng học. Chứng cứ bằng tranh, tượng minh họa mà tôi tìm được để củng cố lý thuyết của mình là vô cùng thuyết phục.

    Faukman vẫn nhìn chằm chằm vào tờ danh sách:

    - Chúa ơi, một trong những cuốn sách này được viết bởi ngài Leigh Teabing - nhà sử học hoàng gia của Vương quốc Anh.

    - Teabing đã dành nhiều thời gian trong cuộc đời ông để nghiên cứu Chén Thánh. Tôi đã được gặp ông ấy. Ông ấy thực sự là một phần lớn nguồn cảm hứng của tôi. Ông ấy là một người tin vào thuyết này, Jonas ạ, cùng với tất cả những người khác trong danh sách đó.

    - Anh đang nói với tôi là tất cả những nhà sử học này đều thực sự tin..

    Faukman nuốt đánh ực, rõ ràng là không thốt ra được những từ đó.

    Langdon lại mỉm cười:

    - Có thể nói Chén Thánh là kho báu được tìm kiếm nhiều nhất trong lịch sử loài người. Chén Thánh đẻ ra những truyền thuyết, những cuộc chiến, những cuộc tìm kiếm kéo dài cả đời người. Bảo nó chỉ đơn thuần là một chiếc chén thì còn có nghĩa gì nữa? Nếu vậy thì chắc chắn những thánh tích khác - Mũ Gai, Thánh Giá đích thực trên đó Chúa Jesus bị đóng đinh câu rút, Titulus - phải gây ra mối quan tâm tương tự hoặc lớn hơn chứ, tuy nhiên, lại không hề như thế. Suốt chiều dài lịch sử, Chén Thánh là thánh tích đặc biệt nhất.

    Langdon mỉm cười:

    - Bây giờ thì ông đã biết tại sao rồi chứ?

    Faukman vẫn lắc đầu:

    - Nhưng với tất cả những cuốn sách viết về chủ đề đó, tại sao lý thuyết này vẫn không được biết đến một cách rộng rãi hơn?

    - Những cuốn sách này không thể đấu lại được với hàng bao thế kỷ lịch sử đã thiết định, nhất là khi lịch sử được xác nhận bởi cuốn sách bán chạy nhất tối hậu của mọi thời.

    Faukman tròn xoe mắt:

    - Đừng nói với tôi là Harry Porter cũng thực sự viết về Chén Thánh đấy nhé.

    - Tôi đang nói đến Kinh Thánh cơ mà!

    Faukman rụt lại:

    - Tôi biết rồi!

    - Laissezle!

    Tiếng quát của Sophie xé không khí bên trong chiếc taxi.

    - Đặt nó xuống!

    Langdon nhảy dựng lên khi Sophie cúi người về phía trước và hét lên với người lái xe tẩc xi. Langdon có thể nhìn thấy người lái xe đang nắm chặt chiếc máy bộ đàm và nói vào đó.

    Lúc này Sophie quay lại và thọc tay vào túi áo khoác của Langdon. Trước khi Langdon kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra, cô đã lôi khẩu súng lục ra, dí vào phía sau đầu người lái xe. Người lái xe lập tức buông máy bộ đàm và giơ tay lên.

    - Sophie!

    Langdon như bị mắc nghẹn.

    - Cái quái quỉ gì..

    - Arretez!

    Sophie ra lệnh cho người lái xe.

    Run rẩy, người lái xe phục tùng, dừng xe và đưa vào chỗ đậu.

    Đến lúc này thì Langdon mới nghe thấy những âm thanh sắc đanh phát ra từ bản thông báo của công ty taxi: "..qui s'appelle Agent Sophie Neveu.." - chiếc radio nổ lách tách.

    - Et un Americain, Robert Langdon..

    Cơ bắp của Langdon như cứng ngắc lại. Họ đã tìm thấy chúng ta tồi sao?

    - Descendez!

    Sophie yêu cầu.

    Người lái xe run rẩy vẫn giữ hai tay cao quá đầu khi rời khỏi chiếc xe và lùi vài bước về phía sau.

    Sophie hạ kính cửa xe bên phía cô xuống và chĩa súng ra ngoài về phía người tài xế ngơ ngác:

    - Robert!

    Cô nói khẽ.

    - Cầm lấy tay lái, anh sẽ lái xe.

    Langdon không muốn cãi lại một phụ nữ đang lăm lăm trong tay một khẩu súng. Ông ra khỏi xe rồi lại nhảy vào sau tay lái.

    Người lái xe chửi rủa toáng lên, tay vẫn giơ trên đầu.

    - Robert!

    Sophie nói vọng từ ghế sau.

    - Tôi tin anh đã ngắm đủ khu rừng kỳ diệu của chúng tôi rồi phải không?

    Ông gật đầu. Quá đủ là đằng khác.

    - Tốt. Hãy lái xe đưa chúng ta ra khỏi đây.

    Langdon nhìn xuống bảng điều khiển và ngần ngại. Chết tiệt. Ông rờ rẫm tìm cần số và khớp li hợp.

    - Sophie. Có lẽ cô..

    - Đi thôi!

    Cô kêu lên.

    Bên ngoài, mấy ả gái điếm đang tiến lại để xem chuyện gì đang diễn ra. Một phụ nữ đang gọi điện thoại di động. Langdon ấn khớp li hợp và xô mạnh cần số vào số một. Ông sờ vào hộp gia tốc, kiểm tra xăng.

    Langdon giật mạnh cần số. Tiếng lốp xe kêu rít lên khi chiếc tắc xi chồm lên phía trước, vọt lên điên dại khiến cho đám đông vội toé ra tìm chỗ trốn. Người phụ nữ đang dùng điện thoại di động vội vọt vào rừng, vừa kịp tránh bị chẹt phải.

    - Doucement!

    Sophie nói, khi chiếc xe chao đảo trên đường.

    - Anh đang làm gì vậy?

    - Tôi đã cố cảnh báo cô.

    Langdon hét to để át tiếng răng cưa chà xát!

    - Tôi đang lái một chiếc xe tự động.
     
    Chỉnh sửa cuối: 20 Tháng mười hai 2015
  3. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,112
    Mật Mã Da Vinci - Chương 39

    Xem
    Mặc dù căn phòng khắc khổ bằng đá nâu trên phố La Bruyère đã từng chứng kiến nhiều nỗi thống khổ, nhưng Silas vẫn không tin là có gì sánh tầy nỗi đau đang xiết chặt lấy cơ thể trắng bệch của hắn ta. Mình đã bị lừa. Tất cả đi tong rồi.

    Silas đã bị lừa. Những thành viên hội kín đó đã nói dối, thà chết chứ không tiết lộ bí mật thật sự của họ. Silas không còn sức lực để gọi cho Thầy Giáo nữa. Silas không chỉ giết bốn người duy nhất biết nơi cất giấu viên đá đỉnh vòm mà còn giết cả một nữ tu trong nhà thờ Saint-Sulpice nữa.

    Bà ta chống lại Chúa! Bà ta coi thường Opus Dei!

    Một tội ác trong cơn bồng bột, cái chết của người phụ nữ làm cho sự việc trở nên rắc rối tệ hại. Giám mục Aringarosa đã gọi điện thoại yêu cầu cho Silas đến thăm nhà thờ Saint-Sulpice, cha tu viện trưởng sẽ nghĩ gì khi ông phát hiện ra nữ tu đã chết.

    Mặc dù Silas đã đặt bà nằm lại trên giường, thế nhưng vết thương trên đầu bà thật là lộ liễu. Silas đã cố gắng xếp lại những viên gạch vỡ dưới sàn nhà, nhưng sự hư hại quá rõ ràng. Họ sẽ biết là có người đã ở đó.

    Silas đã dự tính sẽ ẩn náu trong Opus Dei khi nhiệm vụ ở đây của hắn hoàn thành. Giám mục Aringarosa sẽ bảo vệ mình. Silas không thể tưởng tượng ra cuộc sinh tồn nào đầy diễm phúc hơn một cuộc sống tu hành và cầu nguyện ở trong cùng những bức tường trụ sở chính của Opus Dei ở New York. Hắn sẽ không bao giờ bước chân ra ngoài nữa. Tất cả những gì hắn cần là được ờ trong thánh đường đó. Sẽ không ai nhớ mình nữa.

    Rủi thay, Slias biết, một người xuất sắc như giám mục Aringarosa không thể biến mất một cách dễ dàng thế.

    Mình đã gây nguy hiểm cho giám mục. Silas đờ dẫn nhìn xuống sàn nhà và suy tính chuyện tự kết liễu đới mình. Xét cho cùng, trước nhất, chính Aringarosa là người đã mang lại cho Slias cuộc sống.. trong căn nhà thờ của xứ đạo ở Tây Ban Nha, dạy dỗ hắn, cho hắn mục đích.

    - Bạn thân mến!

    Aringarosa đã nói với hắn.

    - Con sinh ra đã là một người bạch tạng, đừng để những kẻ khác xúc phạm con vì điều đó. Con không hiểu điều đó làm cho con đặc biệt đến mức nào ư? Con không biết chính Noê cũng là một người bạch tạng ư?

    - Noê chủ con Tàu ấy ư?

    Silas chưa bao giờ nghe thấy điều này.

    Aringarosa mỉm cười:

    - Đúng thế, Noê chủ con Tàu cứu các dòng giống trong cơn Đại Hồng Thủy ấy. Một người bạch tạng giống như con vậy, ông có làn da trắng như thiên thần vậy. Hãy suy xét điều này. Noê đã cứu tất cả sự sống trên hành tinh này. Vậy nên con cũng có sứ mệnh làm những việc lớn, Silas ạ. Chúa Trời đã giải thoát cho con vì một lý do. Con có nghiệp của mình. Chúa cần sự giúp đỡ của con để hoàn tất sự nghiệp của Người.

    Qua thời gian, Silas học cách tự nhìn nhận mình dưới một ánh sáng mới. Mình tinh khiết, trắng đẹp đẽ như một thiên thần.

    Tuy nhiên, lúc này đây, trong căn phòng của hắn tại tu viện, chính là cái giọng thất vọng của cha hắn đang thì thầm với hắn từ quá khứ.

    Tu es un désastre. Un spectre.

    Quỳ trên sàn gỗ, Silas cầu xin sự tha lỗi. Sau đó trút bỏ áo chùng, hắn tự trừng phạt mình.
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2015
  4. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,112
    Mật Mã Da Vinci - Chương 40

    Xem
    Vật lộn với cần số, Langdon vất vả lắm mới điều khiển được chiếc xe tắc xi cưỡng đoạt ra xa khỏi Rừng Boulogne mà chỉ bị chết máy có hai lần. Tệ thay, sự hài hước tự nhiên của tình huống lại bị trùm lấp bởi tiếng người điều phối của hãng tắc xi cứ liên hồi gọi đến chiếc xe qua radio.

    - Voiture cinq-six-trois. Oil etcs-vous? Repondez!

    Khi Langdon ra đến cổng khu công viên, ông nhấn phanh, nuốt cái kiêu hãnh của kẻ mày râu mà rằng:

    - Cô nên lái thì hơn.

    Trông Sophie có vẻ nhẹ nhõm hẳn khi ngồi vào sau tay lái.

    Trong vòng vài giây, cô đã điều khiển được chiếc xe chạy êm ru về phía Tây, dọc theo con đường Allée de Longchamp, bỏ Vườn lạc thú trần thế lại đằng sau.

    - Đến phố Haxo đi đường nào?

    Langdon hỏi, nhìn Sophie tăng tốc với hơn một trăm kilômet/giờ.

    Mắt Sophie vẫn tập trung vào mặt đường:

    - Tay lái xe bảo nó kề với sân tennis Roland Garros. Tôi biết khu đó.

    Langdon lại lôi từ túi ra chiếc chìa khóa, cảm thấy sức nặng trong lòng bàn tay. Ông cảm thấy nó là một vật có tầm quan trọng lớn lao. Rất có thể là chìa khóa dẫn đến tự do của ông.

    Ban nãy, khi nói cho Sophie nghe về tổ chức Hiệp sĩ Templar, Langdon nhận ra rằng chiếc chìa khóa này, ngoài con triện khắc nổi của Tu viện Sion, còn có một liên quan tinh tế hơn với Tu viện đó. Chữ thập bốn nhánh bằng nhau là biểu tượng của cân bằng và hài hòa nhưng cũng là biểu tượng của Hiệp sĩ Templar.

    Ai nấy đều đã thấy những bức tranh vẽ các Hiệp sĩ Templar mặc áo trắng với hình chữ thập đỏ bốn nhánh bằng nhau. Dành rằng bốn nhánh của chữ thập Templar có hơi loe ra ở cuối nhưng chúng vẫn dài bằng nhau.

    Một dấu thập vuông nhánh. Y hệt dấu thập trên chiếc chìa khóa này.

    Langdon cảm thấy trí tưởng tượng của mình bắt đầu tung bay khi ông mơ đến những gì họ có thể tìm thấy. Chén Thánh.

    Ông suýt phá lên cười về sự phi lý của điều mơ tướng đó.

    Người ta tin rằng Chén Thánh ở đâu đó trong nước Anh, chôn trong một căn phòng bí mật bên dưới một trong những nhà thờ của các Hiệp sĩ Templar, nơi nó được cất giấu ít nhất là từ năm 1500.

    Thời kỳ của đại danh họa Da Vinci.

    Tu viện Sion, để giữ an toàn cho xấp tài liệu đầy quyền năng của mình, đã bắt buộc phải di chuyển chúng nhiều lần trong những thế kỷ trước đây. Các nhà sử học ngày nay đoán rằng có sáu địa điểm khác nhau cất giữ Chén Thánh từ khi nó đến châu Âu từ mảnh đất Jerusalem. Lần "hiển thị" cuối cùng của Chén Thánh là vào năm 1147, khi nhiều chứng nhân miêu tả rằng một ngọn lửa bùng ra và suýt nuốt chửng những tài liệu đó trước khi chúng được chuyển đến nơi an toàn trong bốn chiếc rương lớn, mỗi cái phải sáu người khiêng. Sau đó, không ai dám khoe là đã nhìn thấy Chén Thánh nữa. Tất cả những gì sót lại là thi thoảng có những lời xì xào rằng nó được cất giấu ở Anh, vùng đất của Vua Arthur và các Hiệp sĩ Bàn Tròn.

    Bất kể nó ở đâu, thì vẫn tồn tại hai thực tế quan trọng:

    Trong suốt cuộc đời của mình Lconardo biết Chén Thánh ở đâu. Chỗ cất giấu đó có lẽ không thay đổi cho đến ngày nay.

    Vì lí do này, những kẻ nhiệt thành với Chén Thánh vẫn nghiền ngẫm nhật ký và các tác phẩm nghệ thuật của Da Vinci với hy vọng phát hiện được một bằng cớ ẩn giấu giúp họ đi đến nơi hiện tại cất giấu Chén Thánh. Một số người khẳng định khung cảnh núi non trong bức tranh Madonna of the Rocks phù hợp với địa hình của hàng loạt những quả núi có hang động ở Scotland. Một số khác lại khăng khăng rằng cách sắp xếp đáng ngờ những tông đồ của Chúa Jesus trong bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng là một loại mã số. Lại có những người khác quả quyết rằng chiếu tia X qua bức Mona Lisa cho thấy ban đầu nàng được vẽ với một chiếc vòng ngọc bích của Isis đeo quanh cổ một chi tiết mà có lẽ sau này Da Vinci đã quyết định xóa đi. Langdon chưa từng nhìn thấy bất cứ bằng chứng nào về chiếc vòng đó, ông cũng không thể tưởng tượng được làm cách nào mà nó có thể chỉ ra Chén Thánh, thế nhưng những người say mê Chén Thánh vẫn bàn luận về nó đến phát buồn nôn trên những bản tin Internet và trong những phòng chat trên mạng toàn cầu.

    Ai cũng thích chuyện âm mưu.

    Và những chuyện âm mưu tiếp tục đến. Cần đây nhất, tất nhiên, là sự khám phá gây chấn động rằng bức Tôn sùng ba Vua trứ danh của Da Vinci giấu một bí mật đen tối dưới những lớp sơn của nó. Nhà giám định nghệ thuật người Ý Mauvizio Seracini đã vén bức màn bí ẩn về sự thật gây khuấy động mà tờ Thời báo New York đã đăng nổi bật trong một bài nhan đề Bí mật bị che phủ của Leonardo.

    Seracim đã vạch ra rành rành không thể nghi ngờ rằng mặc dù phần vẽ phác thảo màu xanh xám bên dưới của bức Tôn sùng ba Vua đích thực là tác phẩm của Da Vinci nhưng bản thân bức tranh lại không phải. Sự thật là một họa sĩ vô danh nào đó đã điền thêm vào phác ha của Da Vinci như một sáng tác tập thể nhiều năm sau khi Da Vinci chết. Tuy nhiên, rắc rối hơn nữa là cái nằm bên dưới lớp sơn của kẻ mạo danh. Các bức ảnh được chụp với bức xạ hồng ngoại và tia X đã gợi mở rằng, tay ha sĩ lừa đảo này, trong khi bổ sung vào bản phác thảo của Da Vinci, đã tạo những nét đáng nghi ngờ khác với bức phác ha.. như thể là để biến đổi ý đồ thật sự của Da Vinci. Cho dù bản chất thực sự của bức phác thảo là gì, thì nó cũng cần được công bố. Thậm chí như vậy, những người điều hành của Bảo tàng Ufizi ở Florence bị câu chuyện làm cho lúng túng đã xếp xó bức tranh này vào một nhà kho bên kia đường ngay lập tức.

    Các khách tham quan gian phòng Leonardo của bảo tàng giờ thấy ở chỗ đã từng treo bức Tôn sùng Ba Vua một tấm bảng đánh lạc hướng mà chẳng hề ngỏ ý cáo lỗi.

    Trong cái thế giới ngầm kì quái của những người hiện đại tìm kiếm Chén Thánh, Leonardo Da Vinci vẫn là bí ẩn lớn nhất trong cuộc tìm kiếm. Các tác phẩm nghệ thuật của ông dường như bức xúc muốn nói ra một bí mật, thế nhưng bất kể bí mật đó là gì thì nó vẫn bị giấu kín, có thể ở bên dưới một lớp sơn, có thể được mã hóa ngay trước mắt, hoặc có thể chẳng ở đâu cả. Có thể quá nhiều manh mối trêu ngươi từ Da Vinci chẳng là gì khác ngoài một lời hứa suông ông để lại nhằm làm tẽn tò những kẻ hiếu kỳ và mang lại nụ cười tự mãn ra-điều-ta-đây- biết-thừa trên gương mặt nàng Mona Lisa của ông.

    - Có thể nào..

    Sophie hỏi, kéo Langdon trở về thực tế.

    - Chiếc chìa khóa ông cầm là để mở cửa nơi cất giấu Chén Thánh không?

    Tiếng cười của Langdon nghe gượng gạo, kể cả đối với chính ông:

    - Tôi thực sự không tưởng tượng được. Hơn nữa, người ta tin rằng Chén Thánh được giấu đâu đó ở Vương quốc Anh, không phải ở Pháp.

    Ông kể ngắn gọn cho cô nghe về lịch sử.

    - Nhưng Chén Thánh dường như là kết luận hợp lý duy nhất.

    Sophie khăng khăng.

    - Chúng ta có một chiếc chìa khóa cực kỳ đảm bảo, khắc con dấu của Tu viện Sion, đến tay chúng ta từ một thành viên của Tu viện Sion một hội kín mà ông đã nói với tôi là những người bảo vệ Chén Thánh.

    Langdon biết lời phản bác của cô là logic, nhưng bằng trực giác, ông không thể chấp nhận nó. Những lời đồn đại nói rằng Tu viện Sion đã thề một ngày nào đó sẽ mang Chén Thánh trở về Pháp như nơi an nghỉ cuối cùng, nhưng chắn chắn là không hề có bằng chứng lịch sử nào cho thấy rằng điều này đã thực sự xảy ra. Thậm chí nếu Tu viện Sion đã cố gắng mang được Chén Thánh về Pháp thì địa chỉ 24 Phố Haxo gần sân tennis nghe không có vẻ giống như chốn dừng chân cuối cùng cao quý cho lắm.

    - Sophie, tôi thực sự không hiểu chiếc chìa khóa này có liên quan gì đến Chén Thánh.

    - Bởi vì Chén Thánh được cho rằng đang ở Anh hay sao?

    - Không chỉ có thể. Chỗ cất giấu Chén Thánh là một trong những bí mật được giữ kín nhất trong lịch sử. Các thành viên của Tu viện Sion phải trải qua hàng thập kỷ để chứng tỏ mình đáng tin cậy trước khi được thăng lên những cấp cao nhất của hội và được biết Chén Thánh ở đâu. Bí mật đó được bảo vệ bởi một hệ thống nhằng nhịt những thông tin phân tầng phân cấp và mặc dù số lượng thành viên của Tu viện Sion rất lớn, nhưng ở bất cứ thời điểm nào cũng chỉ có bốn người biết được Chén Thánh được cất giấu ở đâu. Người đứng đầu tối cao và ba cộng sự của ông ta. Khả năng ông của cô là một trong bốn người đứng đầu đó là rất nhỏ.

    Ông mình là một trong bốn người đó, Sophie nghĩ chân nhấn ga. Có một hình ảnh in đậm trong kí ức cô xác nhận cương vị quan trọng của ông cô trong hội một cách chắc chắn không thể nghi ngờ.

    - Và ngay cả nếu ông cô có thuộc cấp cao nhất, ông cũng không bao giờ được phép tiết lộ bất cứ thứ gì cho bất kỳ ai ngoài hội. Thật không thể quan niệm được rằng ông đưa cô vào trong nội bộ hội.

    Mình đã ở đó, Sophie nghĩ, hình dung lại buổi lễ trong tầng hầm. Cô tự hỏi liệu bây giờ có phải là lúc nói cho Langdon biết những gì cô chứng kiến đêm hôm đó tại tòa lâu đài ở Normandy không. Mười năm rồi, chỉ đơn giản là sự xấu hổ đã kiềm giữ không cho cô nói ra điều đó với một ai. Chỉ nghĩ đến nó thôi, cô đã rùng mình. Tiếng còi xe cảnh sát hú đâu đó đằng xa, cô cảm thấy một cơn mệt mỏi tăng dần như tấm chăn trùm lên mình.

    - Kia rồi!

    Langdon nói, cảm thấy phấn khích khi nhìn thấy quần thể sân tennis Roland Caros đồ sộ hiện ra phía trước.

    Sophie lách xe ngoằn ngoèo về phía sân vận động. Sau mấy chỗ rẽ, họ tìm thấy ngã tư phố Haxo, và rẽ vào đó, đi theo hướng những nhà mang số nhỏ dần. Con phố mang vẻ công nghiệp hơn với những hãng kinh doanh hai bên đường.

    Chúng ta tìm số hai mươi tư cơ mà, Langdon tự nhắc khi nhận ra mình đang kín đáo rà tìm chóp tháp của một nhà thờ. Đừng có kỳ cục thế, một nhà thờ bị lãng quên của tổ chức Hiệp sĩ Templar ở khu này?

    - Kia rồi!

    Sophie vừa kêu vừa chỉ tay.

    Langdon đưa mắt nhìn theo tới một kiến trúc phía trước. Cái quái gì thế này?

    Tòa nhà thật hiện đại. Một tòa thành thấp với một chữ thập vuông nhánh khổng lồ bằng đèn neon trên đỉnh mặt tiền. Bên dưới chữ thập là dòng chữ:

    Langdon thầm cảm ơn vì đã không ngỏ với Sophie rằng ông đã hy vọng tìm tấy một nhà thờ của các Hiệp sĩ Templar. Một trong những rủi ro nghề nghiệp của các nhà kí tượng học là có xu hướng rút ra ẩn ý từ những tình huống không hàm chứa ẩn ý đó. Trong trường hợp này, Langdon đã quên khuấy rằng chữ thập vuông nhánh hòa bình đã được chọn làm biểu tượng hoàn hảo trên quốc kỳ của nước Thuy Sĩ trung lập. Chí ít, bí ẩn cũng đã được giải quyết.

    Sophie và Langdon cầm chìa khóa tới một két sắt trong một ngân hàng Thuỵ Sĩ.
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2015
  5. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,112
    Mật Mã Da Vinci - Chương 41

    Xem
    Bên ngoài Castel Gandolfo, một luồng gió núi thổi thốc lên, tràn qua đỉnh vách đá làm giám mục Anngarosa rùng mình ớn lạnh khi ông bước ra từ chiếc Fiat. Lẽ ra ta nên mặc thêm gì đó ngoài chiếc áo chùng này, ông nghĩ vậy, cố dẹp cơn run theo phản xạ. Điều tối kị đối với ông tối nay là tỏ ra yếu đuối hay sợ hãi.

    Tòa lâu đài tối om ngoại trừ những cửa sổ trên cùng, nơi hắt ra một thứ ánh sáng đáng ngại. Đó là thư viện. Giám mục Aringarosa nghĩ bụng. Họ còn thức và đang đợi. Ông cúi đầu tránh gió và tiếp tục bước, thậm chí không buồn liếc mắt về phía đài thiên văn.

    Vị tu sĩ đón ông ở cửa trông có vẻ buồn ngủ. Đó cũng chính là người đã nghênh đón Aringarosa cách đây năm tháng, tuy nhiên tối nay, ông ta làm nhiệm vụ đó kém nồng hậu hơn nhiều.

    - Chúng con rất lo cho cha, thưa cha Giám mục.

    Người tu sĩ vừa nói vừa nhìn đồng hồ, trông có vẻ bối rối hơn là lo lắng.

    - Tôi xin lỗi. Thời buổi này, hàng không chẳng mấy đáng tin cậy.

    Người tu sĩ lí nhí câu gì đó nghe không rõ rồi nói:

    - Mọi người đang đợi cha trên tầng. Con xin đưa cha lên.

    Thư viện là một phòng rộng vuông vắn được lát và ốp bằng một loại gỗ màu sẫm từ sàn cho đến tận trần. Ở mọi phía, những giá cao ngất chất đầy sách. Sàn lát đá cẩm thạch có trang trí các họa tiết bằng đá bazan, một nét đẹp nhắc ta hay rằng tòa nhà này có thời đã từng là cung điện.

    - Hoan nghênh Đức Giám mục.

    Một giọng đàn ông vọng ra từ phía trong căn phòng.

    Aringarosa cố để ý xem ai vừa nói nhưng đèn mờ tối một cách kỳ cục, tối hơn nhiều so vởi lần đầu tiên ông đến đây khi đó mọi thứ đều rực sáng. Đêm thức tỉnh hoàn toàn. Còn đêm nay, những người này ngồi trong bóng tối, như thể cách nào đó, họ cảm thấy xấu hổ vì những điều sắp sửa lộ ra.

    Aringarosa chậm rãi bưởc vào, thậm chí còn có vẻ vương giả là đằng khác. Ông thấy ba người đàn ông ngồi tại chiếc bàn dài ở phía xa của căn phòng. Người ngồi giữa chỉ nhìn dáng cũng nhận ra ngay - vị Thư ký béo phệ của Tòa Thánh Vatican, người cai quản tất cả các vấn đề có liên quan đến luật pháp trong phạm vi thành phố Vatican. Hai người kia đều là những Hồng y giáo chủ cao cấp của Ý.

    Aringarosa đi ngang qua thư viện về phía họ:

    - Tôi xin cúi đầu cáo lỗi vì đã đến vào cái giờ muộn mằn này. Múi giờ của chúng ta khác nhau. Chắc các ngài rất mệt.

    - Không hề, vị thư kí nói, hai tay chắp trên cái bụng phệ vĩ đại." Đội ơn ngài đã từ xa đến đây. Điều tối thiểu chúng tôi có thể làm là thức để gặp ngài. Ngài có muốn dùng một tách cà phê hay nước giải khát không?

    - Tôi muốn chúng ta đừng coi đây là một cuộc thăm viếng xã giao. Tôi còn phải đáp một chuyến bay nữa. Liệu chúng ta có thể đi thẳng vào công việc được không?

    - Tất nhiên.

    Người thư kí nói.

    - Ngài hành động nhanh hơn chúng tôi tưởng đấy.

    - Ngài vẫn còn những một tháng nữa.

    - Các ngài đã cho biết những điều các ngài quan tâm từ năm tháng trước.

    Aringarosa nói.

    - Vậy thì tại sao tôi lại phải đợi?

    - Thật vậy. Chúng tôi rất hài lòng với kế hoạch của ngài.

    Aringarosa đưa mắt dọc theo chiều dài của chiếc bàn tới một chiếc cặp đen.

    - Đây có phải là thứ tôi đã yêu cầu không?

    - Nó đấy!

    Giọng người thư kí nghe có vẻ bồn chồn.

    - Mặc dù tôi phải thừa nhận rằng chúng tôi có phần lo lắng vì yêu cầu đó. Nó có vẻ khá..

    - Nguy hiểm!

    Một trong số các vị hồng y giáo chủ nói nốt.

    - Ngài có chắc là chúng tôi không thể chuyển ngân cho ngài tới một địa điểm nào đó sao? Khoản tiền này thật quá lớn.

    - Tự do là đắt giá. Tôi không hề lo ngại gì cho sự an toàn của chính mình. Chúa luôn ở bên tôi.

    Các vị chủ nhân thực sự có vẻ nghi ngờ.

    - Số tiền này đúng như tôi đã yêu cầu chứ?

    Người thư kí gật đầu:

    - Đó là những trái phiếu có mệnh giá cao rút từ Ngân hàng Vatican. Có thể chuyển thành tiền mặt ở bất kì nơi nào trên thế giới.

    Aringarosa bước về phía cuối bàn và mở chiếc cặp. Bên trong là hai tập dày trái phiếu, mỗi tờ đều in hình con dấu của Vatican và chữ PORTATOR khiến tớ trái phiếu có thể giải ngân cho bất kì ai mang nó.

    Người thư kí có vẻ căng thẳng:

    - Tôi phải nói với ngài, thưa Đức Giám mục, tất cả chúng tôi sẽ cảm thấy đỡ lo hơn nếu như khoản này ở dạng tiền mặt.

    Nếu bằng tiền mặt làm sao ta có thể nhấc nổi. Aringarose nghĩ bụng rồi đóng chiếc cặp số lại.

    - Trái phiếu cũng có thể sử dụng như tiền mặt. Chính ngài đã nói với tôi như vậy mà.

    Các vị Hồng y giáo chủ nhìn nhau ngại ngùng, và cuối cùng một người lên tiếng:

    - Phải, nhưng những tờ trái phiếu này đều có thể truy xuất xứ trực tiếp về Vatican.

    Aringarosa cười thầm. Đó đích thị là lí do khiến Thày giáo đã gợi ý cho ông nên nhận tiền dưới dạng trái phiếu của Ngân hàng Vatican. Điều đó coi như bảo hiểm. Tất cả chúng ta giờ đây là cùng hội cùng thuyền.

    - Đây là một cuộc giao dịch hoàn toàn hợp pháp.

    Aringarosa trấn an.

    - Opus Dei là một giám mục đoàn riêng của thành phố Vatican, và Đức Giáo hoàng có thê giải ngân được bất cứ lúc nào mà ngài thấy thích hợp. Ở đây hoàn toàn không hề có gì phạm pháp cả.

    - Đúng vậy, nhưng..

    Vị thư kí cúi về phía trước và chiếc ghế kêu ken két dưới sức nặng.

    - Chúng tôi không hề biết ngài định làm gì với khoản tiền này, và nếu như nó bị sử dụng bất hợp pháp..

    - Xét những gì các ngài yêu cầu ở tôi..

    Aringarose đối đáp.

    - Thì việc tôi làm gì với khoản tiền này không can hệ gì đến ngài.

    Im lặng kéo dài.

    Họ biết là ta có lý. Aringarosa nghĩ thầm.

    - Tôi đoán bây giờ chắc các ngài có thứ gì đó cho tôi kí vào chứ?

    Tất cả bật dậy, sốt sắng đẩy tờ giấy về phía giám mục, như thể họ muốn ông cuốn xéo đi cho mau.

    Aringarosa đưa mắt nhìn tờ giấy trước mặt mình, có đóng triện của Giáo hoàng:

    - Bản này hệt với bản mà các ngài đã gửi cho tôi chứ?

    - Chính xác!

    Aringarosa ngạc nhiên thấy mình chẳng mấy xúc động khi kí vào văn bản đó. Nhưng hình như ba người kia lại thở phào nhẹ nhõm.

    - Cảm ơn, ngài Giám mục.

    Vị thư kí nói.

    - Công lao của ngài đối với Giáo hội sẽ không bao giờ bị lãng quên.

    Aringarosa nhấc chiếc cặp lên, cảm nhận rõ triển vọng tốt đẹp cũng như uy quyền trong sức nặng của nó. Trong khoảnh khắc bốn người nhìn nhau như thể họ còn điều gì muốn nói song có lẽ chẳng còn gì để nói. Aringarosa quay người và đi về phía cửa.

    - Ngài Giám mục?

    Một trong hai vị Hồng y giáo chủ gọi to khi Aringarosa đã đi với ngưỡng cửa.

    Aringarosa dừng bước, quay lại:

    - Dạ?

    - Ngài sẽ đi đâu từ đây?

    Aringarosa cảm thấy câu hỏi này thuộc lĩnh vự tâm linh hơn là địa lý, nhưng ông không mảy may có ý định bàn về đạo lý trong giờ phút này.

    - Đến Paris!

    Ông đáp rồi bước ra khỏi cửa.
     
    Chỉnh sửa cuối: 20 Tháng mười hai 2015
  6. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,112
    Mật Mã Da Vinci - Chương 42

    Xem
    Ngân hàng ký thác Zurich là một ngân hàng Geld-schrank phục vụ 24/24 giờ, đem lại cho khách hàng cả loạt đầy đủ các dịch vụ nặc danh hiện đại theo truyền thống tài khoản đánh số của Thụy Sỹ. Trong những năm gần đây, bằng việc duy trì các trụ sở ở Zurich, Kuala Lumpur, New York và Paris, ngân hàng đã mở rộng các dịch vụ của mình nhằm sử dụng các mã thông tin từ máy tính mang tính chất nặc danh và cả đĩa sao lưu số hóa cũng nặc danh.

    Nguyên tắc hoạt động chủ yếu của ngân hàng vẫn là cách phục vụ cổ nhất và đơn giản nhất - bảo đảm nặc danh - dịch vụ "mù" gọi cách khác là những hộp kí thác an toàn nặc danh.

    Khách hàng muốn cất giữ bất cứ thứ gì, từ giấy chứng nhận mua cổ phiếu cho đến những bức ha đáng giá đều có thể ký thác nặc danh tài sản của họ, thông qua một loạt những phương tiện công nghệ cao đảm bảo bí mật riêng tư, có thể rút về bất kì lúc nào, cũng theo phương thức hoàn toàn nặc danh.

    Khi Sophie dừng chiếc tắc xi trước nơi họ định đến, Langdon đưa mắt quan sát lối kiến trúc cứng nhắc của tòa nhà và cảm thấy Ngân hàng ký thác Zurich là một hãng chẳng mấy có khiếu hài hước. Tòa nhà là một khối chữ nhật kín mít không có lấy một ô cửa sổ, như thể đúc toàn bằng thép xỉn. Tựa một viên gạch kim loại khổng lồ, tòa nhà nằm thụt lùi khỏi mặt đường với một chiếc thập vuông nhánh bằng đèn nêông cao năm mét, tỏa sáng rực rỡ khắp mặt tiền.

    Danh tiếng của Thụy Sĩ về tôn trọng bí mật trong lĩnh vực ngân hàng đã khiến ngành này trở thành một trong số những hoạt động xuất khẩu mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho quốc gia này. Những cơ sớ như thế này đã thành đầu đề tranh cãi trong cộng đồng nghệ thuật vì chúng cung cấp một nơi lí tưởng cho bọn trộm nghệ thuật cất giấu đồ ăn cắp, trong hàng năm trời nếu cần thiết, cho tới khi sự xôn xao lắng đi.

    Hàng ký thác được bảo vệ an toàn, tránh khỏi sự điều tra của Cảnh sát do những điều luật bảo vệ sự riêng tư cá nhân, chúng gắn với tài khoản đánh số chứ không phải tên của người gửi, nên những tên trộm có thể ngủ yên khi biết chắc rằng của cải ăn trộm vẫn an toàn mà cảnh sát không bao giờ truy ra chúng.

    Sophie dừng xe tại chiếc cổng bề thế chắn ngang đường lái xe vào ngân hàng - một đoạn dốc lát ximăng đi xuống dưới tòa nhà. Một chiếc camera phía trên chĩa thẳng vào họ, Langdon có cảm giác chiếc này là thật chứ không để làm vì như ở Louvre.

    Sophie hạ kính cửa xe xuống và quan sát cái bục điện tử về mé bên tay lái. Đó là một màn hình tinh thể lỏng có những lời chỉ dẫn được viết bằng bảy thứ tiếng. Trên đầu danh sách là tiếng Anh.

    INSERT KEY (TRA CHÌA VÀO)

    Sophie rút từ túi áo ra chiếc chìa khóa vàng, rồi hướng sự chú ý trở lại chiếc bục. Bên dưới màn hình là một ổ có hình tam giác.

    - Linh tính báo với tôi là sẽ vừa khít.

    Langdon nói.

    Sophie tra chiếc chìa khóa vào ổ, từ từ ấn cho tới khi cái thân chìa hình trụ tam giác lút hết vào trong. Rõ ràng chìa này không cần xoay. Lập tức cánh cổng bắt đầu mở ra. Sophie nhả phanh chân rồi cho xe trôi xuống tới một cái cổng kèm theo bục thứ hai. Phía sau cô, cổng đầu tiên đóng sập, nhốt họ lại như một con thuyền mắc cạn.

    Langdon ghét cái cảm giác bị bó hẹp này. Hy vọng rằng cổng thứ hai này cũng mở ngon nhu thế.

    Chiếc bục thứ hai cũng mang ngần ấy lời hướng dẫn.

    INSERT KEY (TRA CHÌA VÀO)

    Khi Sophie tra chìa vào, ngay lập tức cổng thứ hai mở ra. Vài phút sau, xe ngoằn ngoèo xuống nốt đoạn dốc, chui vào trong bụng tòa nhà.

    Khu đậu xe riêng nhỏ hẹp và mờ tối, đủ chỗ cho khoảng một tá xe. Ở đầu đằng kia, Langdon phát hiện thấy lối chính vào tòa nhà. Một tấm thảm đỏ trải khắp mặt sàn ximăng đón khách vào một cánh cửa to tướng, vẻ như đúc bằng kim loại cứng.

    Chà những thông điệp hỗn độn nước đôi, Langdon nghĩ thầm. Hoan nghênh, nhưng hãy đứng ngoài.

    Sophie lái chiếc tắc xi vào chỗ đậu gần với lối vào, rồi tắt máy:

    - Anh nên để súng lại trong xe thì hơn.

    Rất vui lòng, Langdon nghĩ bụng, nhét khẩu súng lục xuống dưới ghế ngồi.

    Sophie và Langdon ra khỏi xe rồi bước trên tấm thảm đỏ về phía tấm thép khổng lồ. Cửa không có tay kéo, nhưng trên tường bên cạnh, có một lỗ khóa hình tam giác. Lần này không kèm theo lời chỉ dẫn nào.

    - Cho bọn chậm hiểu đứng ngoài.

    Langdon nói.

    Sophie cười, vẻ bồn chồn:

    - Nào ta đi.

    Cô ấn chìa vào lỗ khóa và cánh cửa mở vào phía trong với một tiếng ì ì nhẹ. Đưa mắt nhìn nhau, cả hai cùng bước vào. Cánh cửa đóng dánh thịch sau lưng họ.

    Phòng chờ của Ngân hàng Ký thác Zurich có kiểu trang trí dữ dằn nhất mà Langdon từng thấy. Ở những chỗ mà phần lớn các ngân hàng chỉ dùng đá hoa và granite nhẵn bóng thì ngân hàng này chọn kim loại và đinh tán chạy suốt từ tường này sang tường kia.

    Ai trang trí cho họ vậy? Langdon tự hỏi. Hợp kim thép. Sophie cũng có vẻ e ngại khi đảo mắt nhìn khắp sảnh.

    Kim loại xám hiện diện khắp nơi - sàn trần, các quầy, cửa ra vào, thậm chí ghế ngồi ở sảnh cũng có vẻ như đúc bằng sắt.

    Mặc dù vậy, hiệu quả vẫn gây ấn tượng. Thông điệp là rõ ràng: Quý khách đang đi vào khu cất giữ đồ ký thác.

    Một người cao lớn ở phía sau bàn ghi sê ngước mắt nhìn khi họ bước vào. Anh ta vội tắt chiếc ti vi cá nhân đang xem rồi chào đón họ bằng một nụ cười niềm nở. Mặc dù cơ bắp cuồn cuộn và khẩu súng bên sườn gồ lên lồ lộ, giọng anh ta rất phù hợp với phong thái lịch thiệp của một gã bồi khách sạn Thụy Sĩ.

    - Bosoir.

    Anh ta nói.

    - Tôi có thể giúp được gì quý khách không?

    Lời chào bằng hai thứ tiếng Anh, Pháp là nghệ thuật giao tiếp mới nhất hiện nay của các ông chủ ở châu Âu. Nó không mặc định gì hết và để ngỏ cho khách thoải mái trả lời bằng thứ tiếng nào tiện hơn cho họ.

    Sophie không đáp lại bằng thứ tiếng nào. Cô chỉ đặt chiếc chìa khóa bằng vàng lên chiếc bàn ghi sê phía trước mặt người đàn ông.

    Người này nhìn xuống rồi ngay lập tức đứng thẳng lên:

    - Tất nhiên rồi. Thang máy của quý khách ở phía cuối sảnh này. Tôi sẽ báo cho họ biết là quý khách đang đến.

    Sophie gật đầu rồi lấy lại chiếc chìa khóa:

    - Tầng mấy?

    Người phục vụ nhìn cô với ánh mắt kì lạ:

    - Chính chìa khóa của quí khách chỉ dẫn cho thang máy đến tầng nào.

    Cô cười:

    - À phải!

    Người bảo vệ dõi theo hai người khách mới tới đang đi về phía thang máy, tra chìa vào ổ, bước vào thang máy và khuất dạng.

    Ngay sau khi cửa thang máy đóng lại, anh ta chộp lấy điện thoại. Anh ta không gọi để báo cho ai đó biết họ đang đến, điều đó không cần thiết. Người trông giữ hầm két đã được cảnh báo ngay sau khi khách hàng tra chìa ở cổng vào.

    Thay vào đó, người bảo vệ gọi cho người quản trị trực đêm.

    Khi chuông điện thoại rung lên, người bảo vệ lại tiếp tục bật màn hình lên rồi nhìn chằm chằm vào đó. Bản tin anh ta xem dở dang trước đó vừa mới kết thúc. Không sao. Anh ta nhìn một lần nữa vào hai gương mặt kia trên màn hình ti vi.

    Người quản trị trực đêm trả lời:

    - Gì thế?

    - Tình huống đặc biệt dưới này.

    - Chuyện gì đang diễn ra vậy?

    Người quản lí hỏi.

    - Đêm nay, cảnh sát Pháp đang truy tìm hai kẻ đào tẩu.

    - Thì sao?

    - Cả hai tên đó vừa đi vào nhà băng của chúng ta.

    Người quản trị trực đêm khẽ chửi thề:

    - Được. Tôi sẽ liên lạc ngay với ông Vernet.

    Người bảo vệ gác máy rồi lại gọi thêm một cuộc nữa. Lần này cho Interpol.


    ***

    Langdon ngạc nhiên cảm thấy thang máy đang đi xuống chứ không phải đi lên. Ông không biết họ đã đi sâu xuống phía dưới Ngân hàng Ký thác Zurich bao nhiêu tầng trước khi cửa thang máy, rốt cuộc, mở ra. Ông bất cần. Ông cảm thấy sung sướng được ra khỏi thang máy.

    Tỏ ra hết sức sốt sắng, một vị chủ nhân đã đứng sẵn đó để chào đón họ. Đó là một ông già hòa nhã, mặc một bộ com-lê flannel là phẳng phiu khiến ông trông thật lạc lõng - một ông chủ ngân hàng thuộc thế giới cũ trong một thế giới công nghệ cao.

    - Bonsoir.

    Ông già nói.

    - Xin chào, xin vui lòng đi theo tôi, S'il vous plait.

    Không chờ trả lời, ông ta đã quay gót rồi sải bước nhanh theo một hành lang hẹp bằng kim loại.

    Langdon cùng, Sophie đi xuôi một loạt hàng lang, qua mấy căn phòng rộng đầy máy tính màn hình lớn đang nhấp nháy.

    - Voici.

    Vị chủ nhân nói khi tới một cánh cửa thép, và mở cửa ra cho họ.

    - Các vị đã đến nơi.

    Langdon và Sophie bước vào một thế giới khác. Căn phòng nhỏ trước mặt họ trông giống như một phòng khách xa hoa trong một khách sạn đẹp. Kim loại và đinh tán biến mất, thay thế bằng những tấm thảm phương Đông, đồ nội thất bằng gỗ sồi màu đen tuyền và ghế đệm. Trên chiếc bàn rộng ở giữa phòng, hai chiếc cốc pha lê xếp bên một chai rượu Perrier mở sẵn, còn sủi bọt. Một bình cà phê đang bốc hơi nghi ngút cạnh đó xác như đông hồ vậy, Langdon nghĩ thầm. Về điểm này thì phải chịu người Thụy Sĩ.

    Ông già mỉm cười tinh tế:

    - Tôi có cảm giác đây là lần đầu các vị đến ngân hàng chúng tôi?

    Sophie do dự rồi gật đầu.

    - Dễ hiểu thôi. Chìa khóa thường được truyền lại như tài sản thừa kế, và những vị khách lần đầu tiên đến đây tất yếu là bỡ ngỡ về thủ tục.

    Ông chỉ về phía chiếc bàn để đồ uống.

    - Căn phòng này là của quý khách chừng nào quý khách cần dùng.

    - Ngài nói chìa khóa đôi khi là vật thừa kế?

    Sophie hỏi lại.

    - Thực vậy. Chiếc chìa khóa của quý khách giống như một tài khoản đánh số của Thuỵ Sĩ, thường khi được truyền lại qua nhiều thế hệ. Trên các tài khoản bằng vàng của chúng tôi đều có hợp đồng ký thác an toàn trong thời hạn ít nhất là năm mươi năm. Phí trả trước. Cho nên chúng tôi từng chứng kiến nhiều sự chuyển giao trong nội bộ gia đình.

    Langdon đăm đăm nhìn:

    - Ngài vừa nói năm mươi năm.

    - Đấy là thời hạn tối thiểu.

    Vị chủ nhân đáp.

    - Tất nhiên quý khách ó thể mua những hợp đồng dài hạn hơn, nhưng nếu không gia hạn thêm mà trên tài khoản năm mươi năm lại không có hoạt động gì thì những thứ trong hộp ký thác hoàn toàn oàn sẽ tự động bị phá hủy. Có cần tôi nói sơ lược về quá trình truy nhập hộp kí thác của quý khách không?

    Sophie gật đầu:

    - Xin ngài cho biết!

    Vị chủ nhân khoát tay về phía phòng khách sang trọng:

    - Đây là phòng kiểm tra riêng của quý khách. Một khi tôi rời khỏi căn phòng này, quý khách có thể sử dụng toàn bộ thời gian cần thiết để kiểm tra cũng như thay đổi nội dung hộp ký thác an toàn của mình, nó sẽ đến.. qua đây.

    Ông dẫn họ tới bức tường phía xa, nơi có một băng vận chuyển chạy vào phòng theo một đường cong thanh thoát, hơi giống băng chuyển hành lí ở các sân bay vậy.

    - Quý khách hãy tra chìa vào ổ khóa chỗ kia..

    Ông chỉ tay về phía bục điện tứ khá rộng đối diện với băng chuyền. Bục này cũng có một lỗ khóa hình tam giác trông quen thuộc.

    - Một khi máy tính đã xác nhận dấu trên chìa khóa của quý vị, quý vị nhập số tài khoản của mình, và hộp ký thác an toàn của quý vị sẽ được rô-bốt chuyển đến từ hầm két bên dưới để quý khách kiểm tra. Khi quý khách kiểm tra hộp xong, hãy đặt nó trên băng chuyền, rồi lại tra chìa vào quá trình đó lại được đảo ngược. Vì mọi công đoạn đều tự động cả, sự riêng tư của khách hàng được đảm bảo, thậm chí ngay cả ban điều hành của ngân hàng cũng không hề hay biết. Nếu quý khách cần bất kì cái gì, xin hãy ấn nút gọi tại chiếc bàn kê ở giữa phòng.

    Sophie đang định hỏi thêm một câu nửa thì chuông điện thoại reo. Ông già có vẻ bối rối và lúng túng:

    - Cho tôi xin lỗi.

    Ông đi vội đến phía bàn điện thoại nằm ngay sát bàn để cà phê và chai Perrier.

    - Oui!

    Ông trả lời.

    Lông mày ông cau lại khi nghe người ở đầu dây đằng kia.

    - Oui, oui.. d' accord.

    Ông gác máy, rồi cười gượng gạo:

    - Rất tiếc tôi phải để quý khách ở lại đây. Xin quý khách cứ tự nhiên như ở nhà.

    Ông nhanh chóng đi về phía cửa.

    - Xin lỗi ngài.

    Sophie gọi to.

    - Ngài có thể làm rõ một vài điều trước khi đi được không? Ngài vừa nhắc chúng tôi nhập số vào khóa?

    Ông dừng lại ở cửa, vẻ mặt tái nhợt.

    - Tất nhiên rồi. Như ở hầu hết các ngân hàng ở Thụy Sĩ, những chiếc hộp ký thác an toàn của chúng tôi gắn với một con số chứ không phải là một cái tên. Khách hàng có một chìa khóa và một số tài khoản riêng chỉ họ biết thôi. Chiếc chìa khóa của quý khách mới chỉ là một nửa phần nhận dạng của quý khách mà thôi, nửa kia là số tài khoản của quý khách. Bằng không, nếu quý khách đánh mất chìa khóa, thì bất kì ai nhặt được cũng có thể sử dụng nó.

    Sophie ngần ngại:

    - Thế nếu người chuyển giao chìa khóa cho tôi không cho tôi số tài khoản thì sao?

    Tim của người làm ngân hàng đập thình thịch. Thế thì hiển nhiên là các người chẳng có việc gì ở đây cả! Ông mỉm cười bình thản:

    - Tôi sẽ yêu cầu một người giúp quý khách. Anh ta sẽ đến ngay bây giờ thôi.

    Rời khỏi căn phòng, ông đóng cửa lại sau lưng, bấm một chiếc khóa lớn nhốt hai người khách ở bên trong.

    Đầu đằng kia thành phố, Collet đang đứng trong ga phía Bắc thì điện thoại của anh ta đổ chuông.

    Người gọi là Fache.

    - Interpol đã nhận được một tin báo.

    Ông ta nói.

    - Quên chuyến tàu ấy đi. Langdon và Sophie vừa vào chi nhánh Ngân hàng Ký thác Zurich tại Paris. Tôi muốn quân của anh đến đó ngay lập tức.

    - Đã có manh mối gì về điều Saunière muốn truyền đạt cho Neveu và Robert Langdon chưa ạ?

    Giọng Fache thật lạnh lùng:

    - Nếu anh tóm cổ được họ, trung úy Collet, tôi sẽ đích thân hỏi họ.

    Collet hiểu hàm ý của ông ta:

    - Số hai mươi tư phố Haxo.

    - Ngay bây giờ thưa đại úy.

    Anh tắt máy rồi điện đàm với người của mình.
     
    Chỉnh sửa cuối: 20 Tháng mười hai 2015
  7. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,112
    Mật Mã Da Vinci - Chương 43

    Xem
    André Vernet, chủ tịch của chi nhánh Ngân hàng Ký thác Zurich đặt tại Paris - sống trong một căn hộ xa hoa phía trên ngân hàng. Mặc dù có đầy đủ tiện nghi sang trọng, ông vẫn mơ được sớ hữu một căn hộ bên sông trên đảo Saint-Louis, nơi ông có thể chen vai thích cánh với những người sành điệu đích thực chứ chẳng như ở đây chỉ toàn gặp bọn trọc phú.

    Vernet tự nhủ, khi nào về hưu, mình sẽ chất đầy hầm rượu toàn vang Bordeaux quý hiếm, trang trí salon bằng một bức Fragonard và có lẽ một bức Boucher, và suốt ngày mình sẽ săn lùng đồ cổ và sách quý hiếm ở Quartier Latin.

    Đêm nay, Vernet mới chỉ thức giấc được có sáu phút rưỡi. Mặc dù vậy, khi ông hối hả đi qua hành lang ngầm của ngân hàng, trông ông như vừa được người thợ may và húi tóc riêng điểm tô cho một mẽ ngoài bóng bẩy. Chỉnh tề trong bộ com-lê lụa, Vernet xịt một ít nước thơm vào miệng, thắt chặt ca vát lại rồi mới bước ra ngoài. Không hề lạ lẫm với việc bị đánh thức giữa đêm khuya để phục vụ những khách hàng quốc tế đến từ những vùng có múi giờ khác nhau, Vernet đã tạo cho mình thói quen ngủ theo cách những chiến binh Maasai - một bộ lạc châu Phi nổi tiếng với khả năng chỉ trong vòng vài ba giây đã có thể từ giấc ngủ say sưa nhất chuyển sang tư thế sẵn sàng chiến đấu.

    Sẵn sàng chiến đấu, Vernet nghĩ thầm, sợ rằng sự ví von ấy có thể ứng vào đêm nay một cách bạo liệt lạ thường. Sự hiện diện của một khách hàng có chiếc chìa khóa vàng bao giờ cũng đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn thường nhật, nhưng người khách hàng mang chiếc chìa khóa vàng này lại đang bị Cảnh sát tư pháp truy nã thì càng là vấn đề cực kì tế nhị.

    Ngân hàng này đã có đủ những cuộc chiến chống lại việc thực thi luật pháp để bảo vệ quyền bí mật riêng tư của khách hàng mà không có bằng chứ ng rằng một số trong bọn họ là những tên tội phạm.

    Năm phút thôi. Mình cần hai kẻ đó ra khỏi ngân hàng trước khi cảnh sát đến.

    Nếu ông hành động nhanh chóng, thì có thể khéo léo tránh được thảm ha sắp xảy ra. Vernet có thể nói với cảnh sát rằng quả thật những tên đào tẩu ấy có vào ngân hàng như đã báo cáo nhưng vì chúng không phải là khách hàng của họ và không có số tài khoản nên đã bị khước từ. Giá như gã bảo vệ chết tiệt kia đừng gọi cho Interpol, thì đỡ biết mấy. Rõ ràng kín đáo không nằm trong vốn từ của người bảo vệ được trả lương mười lăm Euro/giờ này.

    Dừng lại ở ngưỡng cửa, ông hít một hơi thật sâu và thả lỏng cơ bắp. Sau đó cố nhoẻn một nụ cưởi dịu dàng, ông mở khóa và đẩy cửa bước vào phòng như một làn gió ấm.

    - Xin chào!

    Ông nói, mắt đảo tìm những người khách hàng của mình.

    - Tôi là André Vernet. Tôi có thể phục..

    Phần còn lại của câu nói bị tắc ở đâu đó dưới yết hầu. Người phụ nữ trước mặt ông không phải là một người khách bất ngờ như ông nghĩ.

    - Xin lỗi, có phải chúng ta đã quen nhau không?

    Sophie hỏi. Cô không nhận ra ông chủ ngân hàng, nhưng ông thì trong khoảnh khắc nom như vừa thấy ma hiện hình.

    - Không..

    Ông chủ tịch ngân hàng lúng búng.

    - Tôi không nghĩ vậy. Dịch vụ của chúng tôi là nặc danh.

    Ông ta thở hắt ra và cố nặn ra một nụ cười bình tĩnh.

    - Người trợ lí của tôi nói rằng quý cô có một chiếc chìa khóa vàng nhưng lại không có số tài khoản, đúng không? Tôi có thể mạn phép hỏi, làm sao quý cô lại có được chiếc chìa khóa ấy?

    - Ông tôi đã đưa nó cho tôi!

    Sophie trả lời và nhìn kĩ hơn Ông chủ tịch. Sự lúng túng của ông ta lúc này càng rõ rệt.

    - Thực vậy sao? Cụ nhà đã đưa cho quý cô chiếc chìa khóa này mà lại quên không cho số tài khoản sao?

    - Tôi không nghĩ là ông tôi còn đủ thời gian để làm việc ấy.

    Sophie nói.

    - Ông tôi vừa bị giết hại đêm nay!

    Lời nói của Sophie khiến ông la loạng choạng lùi lại:

    - Jacques Saunière chết rồi ư?

    Ông hỏi lại, mắt đầy vẻ kinh hãi.

    - Nhưng.. như thế nào?

    Lúc này đến lượt Sophie lui lại:

    - Ngài biết ông tôi?

    Ông chủ ngân hàng André Vernet có vẻ cũng kinh ngạc, dựa vào thành bàn để đứng cho vững:

    - Jacques và tôi là bạn thân. Chuyện xảy ra khi nào?

    - Đầu buổi tối nay. Bên trong bảo tàng Louvre.

    Vernet bước đến một chiếc ghế da và gieo mình xuống đó:

    - Tôi cần hỏi cả hai người một câu vô cùng quan trọng.

    Ông ngước nhìn Langdon rồi lại quay sang Sophie:

    - Ai trong số hai người có dính líu tới cái chết của ông ấy?

    - Không ai cả!

    Sophie tuyên bố.

    - Hoàn toàn không!

    Mặt Vernet lầm lầm, ông dừng lại ngẫm nghĩ.

    - Interpol cho truyền ảnh hai người khắp mọi nơi. Nhờ vậy mà tôi nhận ra cô. Các người đang bị truy nã vì tội sát nhân.

    Sophie ngồi phịch xuống. Fache đã kịp cho phát thông báo của Interpol rồi sao? Dường như tay đại úy ấy có động cơ mạnh mẽ hơn Sophie dự kiến. Cô kể nhanh cho Vernet biết Langdon là ai và chuyện gì đã xảy ra trong bảo tàng Louvre tối nay.

    Vernet có vẻ kinh ngạc:

    - Lúc hấp hối, ông ấy đã để lại một tin nhắn yêu cầu cô tìm ông Langdon?

    - Vâng. Và chiếc chìa khóa này nữa.

    Sophie đặt chiếc chìa khóa vàng lên mặt bàn cà phê trước mặt Vernet, úp mặt có hình con dấu của Tu viện Sion xuống.

    Vernet liếc nhìn chiếc chìa khóa, nhưng không làm cử chỉ nào để chạm vào nó:

    - Ông ấy chỉ để lại cho cô chiếc chìa khóa này thôi ư? Không còn gì khác nữa? Một mẩu giấy chẳng hạn?

    Sophie biết cô rất vội khi ở trong bảo tàng Louvre, nhưng cô dám chắc không hề nhìn thấy một cái gì khác ẩn giấu đằng sau tác phẩm Madonna of the Rocks.

    - Không có gì khác đâu. Chỉ có mỗi chiếc chìa khóa này thôi.

    Vernet thở dài ngao ngán:

    - Tôi e rằng mỗi chiếc chìa khóa đều đi kèm với một tài khoản mười chữ số, có chức năng như một mật khẩu. Nếu như không có số tài khoản ấy, chiếc chìa khóa của cô cũng chẳng có giá trị gì.

    Mười chữ số. Sophie miễn cưỡng tính toán các khả năng giải mã. Mười tỷ phương án cả thể. Ngay cả mang vào những chiếc máy tính có cài đặt chương trình tính toán hoàn hảo nhất của DCPJ thì cô cũng cần nhiều tuần mới mong giải được mật mã ấy.

    - Xét hoàn cảnh đặc biệt, chắc chắn ngài có thể giúp đỡ chúng tôi.

    - Ôi xin lỗi. Thực sự tôi không thể làm gì được. Các khách hàng đều tự lựa chọn lấy số tài khoản thông qua mạng máy tính rất an toàn, điều đó có nghĩa là chỉ có khách hàng và máy tính mới biết được số tài khoản mà thôi. Đây là cách duy nhất để chúng tôi có thể duy trì hình thức nặc danh và cả sự an toàn cho nhân viên trong ngân hàng.

    Sophie hiểu. Các kho giữ đồ cũng làm điều tương tự.

    NHÂN VIÊN TRONG NGÂN HÀNG KHÔNG ĐƯỢC CÓ CHÌA KHOÁ KÉT.

    Rõ ràng, ngân hàng này không dám liều để cho một kẻ gian nào đó ăn trộm một chiếc chìa khóa rồi sau đó giữ nhân viên của họ làm con tin để có được số tài khoản.

    Sophie ngồi xuống bên cạnh Langdon, nhìn xuống chiếc chìa khóa rồi lại ngước nhìn Vernet:

    - Ngài có biết gì về cái mà ông tôi đang cất giữ trong ngân hàng này không?

    - Hoàn toàn không. Đó chính là định nghĩa của một ngân hàng Geldschralk.

    - Thưa ngài Vernet..

    Sophie thúc hối.

    - Đêm nay, thời gian của chúng tôi rất hạn hẹp. Tôi sẽ nói thắng toẹt không vòng vo.

    Cô với tay cầm lấy chiếc chìa khóa vàng và lật mặt kia lên, quan sát ánh mắt của Vernet trong khi phô ra con dấu của Tu Viện Sion.

    Dấu hiệu này trên chiếc chìa khóa có ý nghĩa gì đối với ngài không?

    Vernet liếc nhìn con dấu có hình bông hoa loa kèn mà không hề có phản ứng gì:

    - Không, nhưng nhiều khách hàng của chúng tôi cũng cho khắc nổi logo hãng của mình hoặc những chữ cái đầu tiên lên chìa khóa của mình.

    Sophie thở dài, mắt vẫn quan sát ông chủ tịch rất kỹ:

    - Con dấu này là biểu tượng của một hội kín được gọi là Tu viện Sion.

    Vernet vẫn không có phản ứng gì:

    - Tôi không hề hay biết về điều này. Ông cô là bạn tôi, nhưng chúng tôi chủ yếu bàn về chuyện làm ăn.

    Ông chỉnh lại cái ca vát, trông ông lúc này có vẻ bồn chồn.

    - Thưa ngài Vernet..

    Sophie lại thúc hối, giọng cương quyết.

    - Tối nay, ông tôi gọi điện cho tôi, nói rằng cả hai ông cháu đang ở trong tình thế nguy hiểm. Ông nói cần phải trao cho tôi vật gì đó. Vật đó chính là chiếc chìa khóa này. Giờ thì ông đã mất. Bất kì điều gì ngài có thể cho chúng tôi biết đều rất có ích.

    Vernet toát mồ hôi:

    - Chúng ta cần phải thoát ra khỏi tòa nhà này. Tôi sợ là cảnh sát sẽ đến trong chốc lát. Người bảo vệ của chúng tôi cảm thấy buộc phải gọi cho Interpol.

    Sophie đã sợ là sẽ như vậy. Cô dấn một chiêu cuối:

    - Ông tôi nói cần phải kể cho tôi biết sự thật về gia đình tôi. Điều này có ý nghĩa gì đối với ngài hay không?

    - Cô ạ gia đình cô đã thiệt mạng trong một vụ tai nạn ô tô khi cô còn nhỏ. Tôi rất tiếc. Tôi biết ông cô yêu cô lắm. Mấy lần ông thổ lộ với tôi là ông xiết bao đau khổ về chuyện hai ông cháu cắt đứt liên lạc với nhau.

    Sophie không biết nên trả lời ra sao.

    Langdon chợt hỏi:

    - Liệu tài khoản ấy có liên quan gì đến Sangreal hay không?

    Vernet nhìn Langdon ngỡ ngàng:

    - Tôi không biết đó là cái gì.

    Đúng lúc đó điện thoại di động của Vernet reo, ông giật nó ra khỏi thắt lưng.

    - Oui?

    Ông nghe một lúc, mặt lộ vẻ ngạc nhiên và càng lúc càng lo lắng:

    - La police? Si rapidement.

    Ông chửi thề, chỉ dẫn ngắn gọn vài lời bằng tiếng Pháp, và nói ông sẽ có mặt ở sảnh sau một phút nữa.

    Cúp điện thoại, ông quay về phía Sophie.

    - Cảnh sát phản ứng mau lẹ hơn thường lệ nhiều. Trong lúc chúng ta nói chuyện, họ đã sắp tới rồi.

    Sophie không hề có ý định rời khỏi ngân hàng với đôi bàn tay trắng:

    - Xin hãy nói với họ rằng chúng tôi đã đến và đã đi khỏi ngân hàng rồi. Nếu họ muốn lục soát nhà băng, hãy yêu cầu họ xuất trình lệnh lục soát điều đó sẽ làm họ tốn thời gian đấy!

    - Nghe này!

    Vernet nói:

    - Jacques là bạn tôi và ngân hàng chúng tôi chẳng cần loại tin trên báo chí kiểu này, vì hai lí do đó tôi không có ý định để cho cuộc bắt giữ này diễn ra trên địa phận của tôi. Hãy cho tôi một phút và tôi sẽ lo liệu xem có thể làm gì để giúp các bạn rời khỏi đây mà không bị phát hiện. Ngoài ra, tôi không thề bị liên can.

    Ông đứng dậy và vội vã bước ra phía cửa.

    - Cứ ở đây. Tôi sẽ dàn xếp ổn thỏa rồi quay lại ngay thôi!

    - Còn hộp ký thác an toàn kia thì sao?

    Sophie nói.

    - Chúng tôi không thể bỏ đi như thế này được.

    - Tôi chẳng thể làm được gì.

    Vernet nói vậy rồi vội vàng bước ra khỏi cứa.

    - Tôi rất tiếc.

    Sophie nhìn theo ông một lúc rồi tự hỏi liệu số tài khoản ấy có thể bị vùi giữa một trong vô số thư từ, bưu kiện ông cô đã gửi cho cô trong bao năm mà cô đã không hề mở ra?

    Langdon đột ngột đứng dậy, và Sophie cảm thấy một ánh mãn nguyện bất ngờ long lanh trong mắt ông.

    - Robert, anh đang mỉm cười?

    - Ông cô đúng là một thiên tài!

    - Anh nói gì vậy?

    - Mười con số, phải không?

    Sophie chẳng biết Langdon đang nói gì.

    - Số tài khoản!

    Ông nói, một nụ cười quen thuộc hơi lệch về một bên hiện trên gương mặt ông.

    - Rốt cuộc tôi dám chắc ông ấy có để lại nó cho chúng ta.

    - Ở chỗ nào?

    Langdon chìa một bản sao in tấm ảnh hiện trường vụ án rồi rải nó lên chìếc bàn uống cà phê. Chỉ cần đọc dòng đầu tiên, Sophie biết Langdon đã đúng.

    13-3-2-21-1-1-8-5

    Ôi, quỷ hà khắc!

    Ôi thánh yếu đuối!

    P.S. Hãy tìm Robert Langdon
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2015
  8. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,112
    Mật Mã Da Vinci - Chương 44

    Xem

    - Mười chữ số.

    Sophie nói, quan năng mật mã học ran ran trong cô khi nhìn chăm chú vào bản in ấy.

    13-3-2-21-1-1-8-5

    Ông mình đã viết số tài khoản lên sàn bảo tàng Louvre!

    Lần đầu tiên khi Sophie nhìn thấy dãy số Fibonacci ghi lộn xộn trên sàn gỗ, cô đã đoán chừng mục đích duy nhất của nó là gợi ý cho DCPJ gọi các nhân viên giải mã và khiến Sophie tham gia vào. Nhưng sau đó cô đã nhận ra rằng những con số đó cũng là đầu mối để giải mã những dòng chứ khác - một dãy số hỗn độn, một anagram bằng số. Giờ đây Sophie ngạc nhiên tột độ nhận ra rằng những con số đó còn mang một ý nghĩa quan trọng hơn nhiều. Cần như chắc chắn chúng chính là chìa khóa cuối cùng để mở hộp ký thác an toàn đầy bí ẩn của ông cô.

    - Ông là bậc thầy về trò đặt câu mang nghĩa nước đôi.

    Nói rồi Sophie quay về phía Langdon.

    - Ông thích bất kì thứ gì nhiều tầng nghĩa. Mật mã trong mật mã.

    Langdon đã tiến về phía chiếc bục điện tử gần băng chuyền. Sophie vớ lấy bản in từ máy tính và đi theo.

    Bục điện tử có một bàn phím cỡ nhỏ giống như bàn phím của máy rút tiền tự động ATM. Màn hình hiển thị logo chữ thập của ngân hàng. Bên cạnh bàn phím là một lỗ hình tam giác.

    Sophie lập tức tra chìa vào ổ khóa. Màn hình khởi động tức thì:

    SỐ TÀI KHOẢN: con trỏ chuột nhấp nháy, báo đợi.

    Mười chữ số. Sophie đọc số từ bản in cho Langdon đánh vào màn hình:

    SỐ TÀI KHOẢN: 13-3-2-21-1-1-8-5

    Khi ông đánh xong chứ số cuối cùng, màn hình khởi động lại. Một tin ngắn viết bằng nhiều thứ tiếng xuất hiện. Tiếng Anh ở trên cùng.

    CHÚ Ý:

    Trước khi đánh phím ENTER, xin kiểm tra xem số tài khoản đã chính xác chưa. Vì sự an toàn của quý khách.

    Nếu máy tính không công nhận số tài khoản này, hệ thống sẽ tự động đóng.

    - Fontion Terminer?

    Sophie cau mày.

    - Có vẻ như chúng ta chỉ có thể thử một lần thôi.

    Những máy chi trả tự động ATM tiêu chuẩn cho phép người sử dụng thử ba lần số nhận dạng trước khi thu hồi thẻ ngân hàng của họ. Rõ ràng, đây không phải là máy chi trả tự động thông thường.

    - Số này có vẻ đúng đấy.

    Langdon xác nhận rồi cẩn thận kiểm tra những chữ số họ đã dánh so với bản in. Ông chỉ vào phím ENTER:

    - Ấn đi!

    Sophie đưa ngón trỏ về phía bàn phím, nhưng rồi lại ngần ngừ, một ý nghĩ kì lạ chợt đến với cô.

    - Bấm đi.

    Langdon giục.

    - Vernet quay trở lại bây giờ!

    - Không được!

    Cô rụt tay lại.

    - Đây không phải là số tài khoản chính xác đâu.

    - Tất nhiên là đúng nó! Mười chứ số đấy thôi. Làm sao có thể khác được?

    - Con số này quá ngẫu nhiên!

    Quá ngẫu nhiên? Langdon tuyệt dối không đồng ý. Mọi ngân hàng đều khuyên khách hàng lựa chọn số nhận dạng một cách ngẫu nhiên để không ai có thể đoán được chúng. Chắc chắn khách hàng ở đây cũng được khuyên nên chọn lựa số tài khoản một cách ngẫu nhiên.

    Sophie xóa sạch những gì họ vừa đánh vào và ngước nhìn Langdon, cái nhìn đầy tự tin:

    - Nếu cái số tài khoản được yêu cầu là ngẫu nhiên này có thể sắp xếp lại thành dãy số Fibonacci thì thật quá ư là trùng hợp.

    Langdon nhận ra rằng cô có lý. Vừa nãy Sophie đã sắp xếp tài khoản này thành dãy số Fibonaccỉ. Khả năng tốt, xấu là thế nào để khiến cô có thể làm điều đó?

    Sophie lại ấn tay vào bàn phím, nhập một con số khác như thể từ trí nhớ:

    - Hơn nữa, ông tôi vốn thích các biểu tượng và mật mã, do đó có lẽ ông đã lựa chọn một số tài khoản mang một ý nghĩa đối với ông, một con số có thể nhớ dễ dàng.

    Cô đã đánh xong số nhập, và mỉm cười ranh mãnh:

    - Một cái gì có vẻ ngẫu nhiên.. nhưng lại không ngẫu nhiên!

    Langdon nhìn vào màn hình.

    SỐ TÀI KHOẢN: 123581321

    Phải mất một lúc Langdon mới nhận ra nhưng khi định vị được thì ông biết là cô đúng.

    Cấp số Fibonacci 123581321

    Khi cấp số Fibonacci quyện lại thành một số duy nhất gồm mười chữ số, thì hầu như không thể nhận ra được. Dễ nhớ, và có vẻ như là ngẫu nhiên. Một mật mã tài tình gồm mười chữ số mà Saunìere không thể quên được. Hơn nữa, nó gỉải thích một cách hoàn hảo lí do tại sao những con số lộn xộn trên sàn của bảo tàng Louvre lại có thể sắp xếp lại thành cấp số trứ danh ấy.

    Sophie với tay và ấn vào phím ENTER trên bàn phím. Chẳng có gì xẩy ra.

    Chí ít chẳng có gì họ có thể thấy được.

    Cùng lúc đó, ở bên dưới họ, trong hầm ngầm sâu thăm thẳm của ngân hàng, một chiếc càng máy bỗng nhiên khởi động.

    Trượt trên hệ thống vận chuyển có trục kép gắn với trần hầm, chiếc càng lao đi tìm ta độ chính xác. Trên sàn ximăng phía dưới, hàng trăm hòm plastic giống hệt nhau nằm thành hàng trên một tấm lưới sắt khổng lồ.. tựa những dãy quan tài nằm trong một khu hầm mộ dưới lòng đất.

    Dừng lại trong tiếng ro ro đúng bên trên chỗ cần tìm trên sàn hầm, chiếc càng hạ xuống, một con mắt điện tử xác nhận mã vạch trên chiếc hòm. Rồi, với sự chính xác của máy tính, chiếc càng quắp lấy quai xách và nhấc bổng chiếc hòm lên theo chiều thẳng đứng. Bộ bánh răng mới vào khấc, và chiếc càng chuyển chiếc hòm sang đầu kia hầm, dừng lại trên một băng chuyền đang đứng im.

    Lúc này, cánh tay càng nhẹ nhàng đặt chiếc hòm xuống và rút về. Chiếc càng vừa rút khỏi, băng chuyền liền khởi động..

    Ở tầng trên, Sophie và Langdon thở phào nhẹ nhõm khi trông thấy chiếc băng chuyền khởi động. Đứng bên băng chuyền, họ cảm thấy mình giống như những lữ khách mệt mỏi ở chỗ lấy đồ đang chờ một hành lý bí ẩn mà họ hoàn toàn không biết có gì ở bên trong.

    Băng chuyền trôi vào phòng từ phía bên tay phải họ qua một khe hẹp bên dưới một cánh cửa đẩy ra kéo vào được. Cánh cửa kim loại kéo lên rồi một chiếc hòm plastic lớn xuất hiện, từ dưới sâu nhô lên trên mặt phắng nghiêng của băng chuyền. Chiếc hòm màu đen, khuôn plastic dày, lớn hơn nhiều so với tưởng tượng của Sophie. Trông nó như một chiếc hòm chở thú vật kiểng trên máy bay chỉ khác cái là không có lỗ thông khí.

    Chiếc hòm dừng ngay trước mặt họ.

    Langdon và Sophie đứng đó, im lặng và nhìn chằm chằm vào chiếc hòm bí ẩn ấy.

    Giống như mọi thứ khác trong ngân hàng này, chiếc hòm này cũng mang đậm tính công nghiệp - móc cài bằng kim loại, một mã vạch dán trên nắp và một quai xách rất dày. Sophie nghĩ nó giống như một hòm đồ nghề khống lồ.

    Không để tốn thời gian, Sophie tháo hai chiếc móc cài trước mặt cô. Rồi cô đưa mắt ra hiệu cho Langdon. Họ cùng nhấc nắp hòm, lật ra phía sau. Bước lên phía trước, họ ngó vào trong.

    Thoạt nhìn, Sophie tưởng hòm rỗng không. Rồi, cô nhìn thấy cái gì đó. Dưới đáy hòm. Độc một thứ.

    Đó là một chiếc hộp gỗ đánh bóng, to bằng hộp đựng giầy với những bản lề hoa mĩ. Loại gỗ này có màu tím sẫm óng ánh dưới đường vân thô. Gỗ hồng mộc. Sophie nhận ra. Loại gỗ ông cô ưa thích. Nắp đậy có khảm hình một bông hoa hồng. Cô và Langdon bỗng nhiên nhìn nhau bối rối. Sophie cúi xuống cầm chiếc hộp, nhấc ra khỏi hòm.

    Lạy Chúa, nặng thế!

    Cô thận trọng bê chiếc hộp đến đặt lên chiếc bàn rộng.

    Langdon đứng bên cạnh cô, cả hai người nhìn chằm chằm vào cái kho báu nhỏ bé mà rõ ràng là ông Saunière đã phái họ đến đây để thu hồi lại.

    Langdon ngỡ ngàng nhìn hình khắc bằng tay khảm trên nắp hộp - một bông hoa hồng có năm cánh. Ông đã từng nhìn thấy loại hoa hồng này nhiều lần.

    - Một bông hồng năm cánh..

    Ông thì thầm.

    - Là thứ mà Tu viện Sion dùng làm biểu tượng cho Chén Thánh.

    Sophie quay lại nhìn Langdon. Langdon biết cô đang nghĩ gì, và ông cũng nghĩ giống như cô. Kích thước của chiếc hộp, trọng lượng hiển nhiên của vật chứa trong đó, và một biểu tượng của Tu viện Sion hàm chỉ Chén Thánh, tất cả dường như bao hàm một kết luận khó hiểu khôn dò nổi. Chén của Chúa Kirixitô ở trong chiếc hộp này. Chuyện này là bất khả, Langdon lại tự nhủ thầm.

    - Chiếc hộp này có kích thước hoàn hảo..

    Sophie thì thầm.

    - Để đựng.. một chiếc ly.

    Đây không thế là chiếc ly được.

    Sophie kéo chiếc hộp về phía mình, chuẩn bị mở ra. Tuy nhiên, khi cô di chuyển chiếc hộp, một điều bất ngờ đã xảy ra.

    Chiếc hộp phát ra một âm thanh ùng ục kì lạ. Langdon ậm ừ. Hình như có chất lỏng ở bên trong?

    Sophie cũng có vẻ bối rối:

    - Anh có nghe thấy không?


    Langdon gật đầu, hoang mang:

    - Chất lỏng!

    Vươn tay ra, Sophie từ từ tháo móc cài và nhấc nắp lên.

    Vật ở bên trong hộp không hề giống với bất kì thứ gì Langdon đã từng nhìn thấy trước đó. Tuy nhiên, với cả hai người, một điều đã sáng tỏ ngay tức khắc:

    Rõ ràng đây không phải là Chén Thánh.
     
    Chỉnh sửa cuối: 20 Tháng mười hai 2015
  9. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,112
    Mật Mã Da Vinci - Chương 45

    Xem

    -Cảnh sát đang chặn đường phố!

    André Vernet vừa nói vừa bước vào phòng đợi.

    - Đưa cô cậu ra khỏi nơi này cũng khó khăn đây.

    Khi đóng cửa lại sau lưng, Vernet nhìn thấy chiếc hòm plastic trên băng chuyền, ông dừng sững lại. Lạy Chúa! Họ vào được tài khoản của Saunière rồi sao?

    Sophie và Langdon đang ngồi ờ bàn, lúi húi trên một vật gì tựa như một hộp gỗ lớn đựng đồ nữ trang. Ngay lập tức Sophie đậy nắp hộp lại rồi ngước lên nhìn:

    - Rút cuộc thì chúng tôi cũng có được số tài khoản.

    Cô nói.

    Vernet không nói nên lời. Điều này đã làm thay đổi mọi thứ.

    Ông kính cẩn rời mắt khỏi chiếc hộp và cố hình dung ra bước tiếp theo cần tiến hành. Mình phải đưa họ ra khỏi ngân hàng thôi.

    Nhưng cảnh sát đã chặn các ngả đường, Vernet chỉ có thể nghĩ ra một cách duy nhất để làm điều ấy:

    - Thưa cô Neveu, nếu như tôi đưa cô thoát ra khỏi ngân hàng một cách an toàn, thì cô sẽ mang thứ này theo hoặc là gửi trả nó về hầm két trước khi đi?

    Sophie liếc mắt sang Langdon rồi nhìn Vernet:

    - Chúng tôi cần phải mang nó theo.

    Vernet gật đầu:

    - Được. Vậy thì bất kể vật đó là gì, tôi cũng khuyên cô nên bọc nó vào áo ngoài khi chúng ta đi qua hành lang. Tôi không muốn bất kì ai nhìn thấy nó.

    Khi Langdon cởi áo khoác ra, Vernet vội vàng đến chỗ băng chuyền, đóng chiếc hòm giờ đây đã rỗng không, rồi đánh vào máy tính vài lệnh đơn giản. Băng chuyền bắt đầu khởi động, đưa chiếc hòm plastic xuống hầm két. Rút chìa khóa ra khỏi ổ, Ông trao cho Sophie.

    - Xin mời đi theo lối này. Khẩn trương lên!

    Khi tới bãi đỗ xe ở phía sau, Vernet có thể thấy ánh đèn pha của cảnh sát rọi xuyên xuống cả gara dưới đất. Ông cau mày. Có thể họ chặn cả đoạn dốc vào ngân hàng. Liệu mình có thực sự giở chiêu này không? Ông toát mồ hôi.

    Vernet ra hiệu về phía một trong những xe tải nhỏ bọc thép của ngân hàng. Transport sur cũng là một khâu khác trong dịch vụ của ngân hàng ký thác Zurich.

    - Chui vào thùng chứa hàng đi!

    Ông vừa nói vừa nâng cánh cửa sau to đùng và chỉ vào khoang bằng thép sáng loáng.

    - Tôi sẽ quay lại ngay!

    Trong khi Sophie và Langdon leo vào, Vernet hối hả băng qua bến chất hàng tới phòng người đốc công, lẻn vào, lấy chùm chìa khóa của chiếc xe tải và tìm thấy một chiếc áo đồng phục và mũ tài xế. Ông cởi áo vét - tông cùng cavát của mình ra, rồi mặc bộ đồng phục tài xế vào. Suy đi tính lại, ông đeo luôn cả bao súng lục dưới bộ đồng phục. Trên đường trở ra, ông vớ lấy khẩu súng lục của người tài xế trên giá, nạp đạn và ấn nó vào bao, rồi cài khuy áo. Quay trở lại chiếc xe tải, Vernet kéo xụp chiếc mũ xuống, ngó nhìn Sophie và Langdon đang đứng trong khoang chứa đồ trống không.

    - Hai vị sẽ cần đèn sáng.

    Verne nói và với tay vào trong bấm công tắc điện trên thành khoang để bật chiếc bóng đèn trơ trọi trên trần xe.

    - Tốt hơn là hai vị hãy ngồi xuống. Đừng nói một lời nào trên đường ra cống đấy.

    Sophie và Langdon ngồi bệt xuống sàn xe bằng kim loại.

    Langdon ôm khư khư vật báu bọc trong chiếc áo khoác bằng vải tuýt.

    Đóng chiếc cửa nặng trịch lại, Vernet nhốt hai người ở bên trong khoang chứa hàng. Rồi ngồi vào sau tay lái và rồ ga khởi động máy.

    Khi chiếc xe tải bọc thép ì ạch leo lên đầu dốc, Vernet cảm thấy mồ hôi đầm đìa bên dưới chiếc mũ tài xế. Ông nhìn thấy phía trước có nhiều đèn của cảnh sát hơn cả tưởng tượng. Khi chiếc xe tải leo đến đỉnh dốc, cổng bên trong mở ra cho chiếc xe đi qua. Vernet lái xe tiến lên và đợi cho tới khi cổng khép lại đằng sau mình rồi mới đi tiếp và khởi động máy cảm biến tiếp theo. Chiếc cổng thứ hai mở ra, và lối thoát vẫy gọi.

    Ngoại trừ xe của cảnh sát vẫn chặn ở trên đỉnh dốc. Vernet thấm mồ hôi trán rồi lái xe tiến về phía trước.

    Một sĩ quan cảnh sát cao lêu đêu bước ra và vẫy tay ra hiệu cho ông dừng xe cách rào chắn vài mét. Bốn xe của tuần tra đỗ ở phía trước.

    Vernet dừng xe. Kéo chiếc mũ tài xế xụp xuống thấp hơn nữa, ông cố cư xử cục cằn tới mức mà sự giáo dưỡng văn hóa ông đã được hưởng cho phép. Không nhúc nhích một ly khỏi đằng sau tay lái, ông mở cửa xe và nhìn xuống viên cảnh sát có vẻ mặt nghiêm nghị và vàng bủng.

    - Qu' est-ce quise passe?

    Vernet hỏi, giọng thô lỗ.

    - Je suis Jerome Collet!

    Viên cảnh sát trả lời.

    - Lieutenant Police Judiciere.

    Anh ta chỉ thùng chứa hàng:

    - Qu'est-ce quily a la-dedans?

    - Tôi biết đếch đâu được!

    Vernet trả lời bằng thứ tiếng Pháp sống sượng.

    - Tôi chỉ là một thằng tài xế quèn!

    Collet có vẻ không hề lung lạc:

    - Chúng tôi đang truy lùng hai tên tội phạm!

    Vernet cười lớn:

    - Thế thì các ông đến đúng chỗ rồi đấy. Một vài thằng cha mà tôi lái xe cho nhiều tiền lắm, nhất định chúng phải là tội phạm.

    Tay cảnh sát giơ một tấm ảnh hộ chiếu của Robert Langdon:

    - Người đàn ông này tối nay có đến ngân hàng các ông không?

    Vernet nhún vai:

    - Mù tịt. Tôi chỉ làm ở bến bốc dỡ. Họ đâu có để tôi đến gần khách hàng. Ông cần vào trong kia hỏi thường trực ấy.

    - Ngân hàng yêu cầu xuất trình lệnh khám xét mới được vào.

    Vernet làm ra vẻ ghê tởm:

    - Cái bọn hành chính ấy mà. Chỉ cản trở người ta.

    - Mở cửa xe của ông ra!

    Collet chỉ về phía thùng chứa hàng.

    Vernet chằm chằm nhìn viên cảnh sát, rồt dặn ra một tiếng cười rất chướng tai.

    - Mớ cửa xe ra ư? Thế ông nghĩ là tôi có chìa khóa à? Thế ông nghĩ họ tin tưởng tôi đến vậy hay sao? Ông nên biết đến đồng lương còm mà họ trả cho tôi chứ.

    Viên cảnh sát nghiêng nghé đầu ngờ vực ra mặt:

    - Ông vừa nói không có chìa khóa cho chính chiếc xe của mình hay sao?

    Vernet lắc đầu:

    - Tôi không có chìa mở thùng chứa hàng. Chỉ có chìa khởi động xe thôi. Những xe tải này do đốc công khóa ngay tại bến bốc dỡ. Rồi xe cứ phải nằm tại bến trong khi một người mang chìa khóa thùng chứa hàng đến điểm nhận hàng. Một khi có điện thoại báo là chìa đã đến tay người nhận rồi, chúng tôi mới được phép xuất phát. Không được sớm hơn một giây. Tôi chẳng bao giờ biết mình đang chở cái của nợ gì đâu.

    - Thế xe này bị khóa thùng hàng lúc nào?

    - Chắc cũng phải hàng tiếng đồng hồ trước đây rồi. Đêm nay, tôi phải lái đến St. Thurial. Chìa khóa thùng hàng đã ở đó rồi.

    Viên cảnh sát không phản ứng gì, đôi mắt dò xét như thể cố đọc ý nghĩ của Vernet.

    Một giọt mồ hôi sắp chảy xuống sống mũi Vernet:

    - Ông cho phép chứ?

    Vernet nói, quệt mũi bằng ống tay áo và ra hiệu đề chiếc xe cảnh sát đang cản đường ông.

    - Lịch trình của tôi chặt chẽ lắm.

    - Tất cả tài xế đều đeo đồng hồ hiệu Rolex ư?

    Viên cảnh sát chỉ cố tay của Vernet hỏi.

    Vernet liếc xuống và nhìn thấy chiếc dây sáng lấp lánh của chiếc đồng hồ đắt tiền ló ra từ dưới ống tay áo.

    - Merde. Cái cục cứt này ấy á? Tôi mua nó hai mươi Euro từ một gã bán rong người Đài Loan ở St. Germain des Prés đấy. Có thích đưa bốn mươi Euro tôi để lại cho.

    Viên cảnh sát dừng việc tra xét và cuối cùng, đứng dẹp sang bên:

    - Không, cảm ơn. Chúc thượng lộ bình an.

    Vernet nín thở cho đến tận khi chiếc xe tải đi xuống con phố được chừng năm mươi mét. Giờ đây ông phải đối mặt với một vấn đề khác. Món hàng ông đang chở.

    Mình sẽ đưa họ đi đâu?
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2015
  10. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,112
    Mật Mã Da Vinci - Chương 46

    Xem
    Silas nằm úp sấp trên tấm vải bạt trong phòng riêng, phơi lưng ra không khí cho máu từ những vết quất vón cục lại. Đêm nay khổ hình lần thứ hai khiến hắn chóng mặt và yếu lả. Hắn còn phải tháo chiếc dây lưng hành xác, và hắn có thể cảm thấy máu đang rỉ xuống mé trong bắp đùi. Tuy nhiên hắn không có lí do chính đáng để tháo chiếc đai lưng ra.

    Mình đã không hoàn thành nghĩa vụ với Nhà Thờ. Tồi tệ hơn, mình còn phụ lòng Giám mục nữa.

    Đêm nay lẽ ra là đêm cứu rỗi của giám mục Aringarosa.

    Năm tháng trước đây, giám mục trở về từ một cuộc gặp mặt tại Đài thiên văn Vatican, ông biết được điều gì đó khiến ông thay đổi sâu sắc. Buồn rũ trong nhiều tuần liền, giám mục Aringrosa cuối cùng đã quyết định chia sẻ tin tức cho Silas.

    - Nhưng điều này là bất khả?

    Silas gào ầm lên.

    - Con không thể chấp nhận điều này được!

    - Đó là sự thật đấy!

    Aringarosa khẳng định.

    Không thể tưởng tượng được, nhưng chuyện này là sự thật. Chỉ trong vòng sáu tháng nữa thôi.

    Lời nói của vị giám mục khiến Silas hoảng sợ. Hắn cầu nguyện xin được giải thoát, thậm chí trong những ngày tăm tối ấy đức tin của hắn vào Chúa cũng như vào Đạo chưa bao giờ lung lay. Chỉ một tháng sau, mây mù bỗng tan một cách kì diệu và ánh sáng của khả năng thành công bừng lên chói lọi.

    Giám mục gọi điều đó là sự Can thiệp Thần thánh.

    Lần đầu tiên, Giám mục lại có vẻ tràn trề hi vọng:

    - Silas này.

    Ông thì thầm.

    - Chúa đã ban tặng cho chúng ta cơ hội để bảo vệ Đạo. Cuộc chiến của chúng ta, cũng như mọi cuộc chiến khác, sẽ đòi hỏi hi sinh. Con sẽ là một người lính của Chúa chứ?

    Silas quỳ xuống trước mặt giám mục Anngarosa - người đã ban cho hắn một cuộc sống mới - và nói:

    - Con là con chiên của Chúa. Hãy dẫn dắt con như lời trái tim Cha mách bảo.

    Khi Aringarosa mô tả cơ hội đã tự đến như thế nào, Silas biết rằng đó chỉ có thể là do bàn tay của Chúa. Ôi số phận nhiệm màu. Giám mục Aringarosa sắp xếp cho Silas tiếp xúc với người đề ra kế hoạch - một người tự xưng là Thầy Giáo. Mặc dù Thầy Giáo và Silas chưa từng mặt đối mặt, mỗi lần họ nói chuyện điện thoại với nhau, Silas đều kính nể cả sự uyên thâm trong đức tin của Thầy Giáo lẫn phạm vi quyền năng rộng lớn của ông. Dường như Thầy Giáo biết tất cả mọi điều, là một người có tai mắt ở khắp mọi nơi. Làm thế nào mà Thầy Giáo lại có thể thu thập được thông tin của mình thì Silas cũng không biết, nhưng giám mục Aringarose đã đặt một niềm tin lớn lao vào Thầy Giáo, và ông cũng yêu cầu Silas như thế:

    - Hãy làm như Thầy Giáo sai khiến.

    Vị giám mục nói với Silas.

    - Và chúng ta sẽ chiến thắng!

    Chiến thắng. Silas nhìn sàn nhà trống trơn và sợ rằng chiến thắng đã né tránh họ. Thầy Giáo đã mắc lừa. Viên đá đỉnh vòm là một cái ngõ cụt quanh co. Và với việc bị lừa, mọi hy vọng đã tiêu tan.

    Silas ước mình có thể gọi điện và cảnh báo cho giám mục Aringarosa, nhưng đêm nay Thầy Giáo đã tắt hết các phương tiện liên lạc trực tiếp. Vì sự an toàn của chúng ta.

    Cuối cùng, cố dẹp cơn run rẩy, Silas lồm cồm bò dậy, tìm thấy chiếc áo chùng của hắn nằm trên sàn nhà. Hắn rút chiếc điện thoại di động ra từ trong túi áo. Gục đầu tủi nhục, hắn bấm số.

    - Thầy Giáo đấy ạ?

    Hắn thì thầm.

    - Đi đứt cả rồi.

    Silas thành thực kể hết cho Thầy Giáo chuyện hắn đã bị lừa như thế nào.

    - Anh đã đánh mất niềm tin quá nhanh đấy.

    Thầy Giáo trả lời phía đầu dây bên kia.

    - Ta vừa mới nhận được thông tin thôi. Hết sức bất ngờ và đáng mừng. Điều bí mật vẫn chưa mất. Jacques Saumère đã truyền đạt thông tin trước khi chết. Ta sẽ sớm gọi lại cho anh. Công việc của chúng ta đêm nay đã xong đâu!
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2015
Trả lời qua Facebook
Đang tải...