

Chọn vợ chồng theo "Thập Thiên Can" và "Thập Nhị Địa Chi" là phương pháp lấy Thiên Can của người đàn ông ghép với Địa Chi của người phụ nữ để nhận định, phán đoán tương lai khi kết hôn. Can – Chi hạp thì tốt, Can-Chi không hạp thì kỵ.
Trong đó, "Thập Thiên Can" gồm Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. "Thập Nhị Địa Chi" gồm Tú, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Trong bài chỉ đề cập đến sự kết hợp giữa chồng can Ất và 12 địa chi hay còn gọi là ẤT THỦ THẬP NHỊ ĐỊA CHI:
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi TÝ
(Rất xứng đôi vừa lứa)
Vợ chồng hợp nhau, cuộc sống an vui hạnh phúc, có con, có của.
Công danh thuận lợi, vinh hiển gia đình
Nghiêng vai tựa cửa thơ song
Gió xuân thoang thoảng hương lòng nở nang
Bóng nàng dưới ánh trăng vàng
Chập chờn ẩn hiện như hình tiên nga
Dịu dàng bóng liễu thướt tha
Mùi hương ngây ngất dễ say lòng người
Vợ chồng xứng lứa vừa đôi
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi SỬU và tuổi DẦN
(Duyên niên tác hợp)
Là sự kết hợp của duyên lành, cũng như trăng thu sáng tỏ.
Phú quý giàu sang, sinh con trai đầu lòng thì tốt hơn sinh con gái đầu lòng.
Thuận vợ thuận chồng, vợ chồng sống vui vầy đến đầu bạc răng long
Biển tình sóng vẫn yên gió lặng
Đã yêu nhau nên nghĩa vợ chồng
Trăm năm sắt đá tâm đồng
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa
Sum vinh con cháu đầy nhà
Trở về vận cuối, cửa nhà yên vui
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi MẸO
(Lận đận tơ duyên nhưng tuổi già vinh hiển)
Vợ chồng sống với nhau thường bất hòa, khi hiệp khi tan.
Là nợ duyên từ kiếp trước
Nếu vượt qua được thì về già sung túc
Có những lúc buồn sa nước mắt
Có những hồi son sắt yêu thương
Chẳng qua là nợ trái oan
Lấy thân mà trả nợ tình cho xong
Ai ơi giữ chí cho bền
Xin đừng than oán trách trời sao nên
Kiếp này trả nợ cho xong
Đừng làm cho nặng nợ chồng kiếp sau
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi THÌN và tuổi TỴ
(Mái lều tranh đôi quả tim vàng)
Cũng như Lưu Lang vào động Thiên thai gặp vợ tiên, như Vương Song Phước gặp nàng Huệ Khôi trăm năm gắn bó.
Vợ chồng sống với nhau chứa chứa chan chan, đồng tâm đồng lòng nên mọi việc đều hanh thông
Lam điền gieo ngược đã thành sông
Loan phụng nên duyên đẹp chữ đồng
Thiên lý tương phùng do nguyệt taoh
Bá niên thanh khí hiệp mày rồng
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi NGỌ
(Căn duyên tiền định)
Cũng như người đi đêm có lúc gặp trăng mờ
Công danh lận đận, cơ nghiệp sụp đổ.
Vợ chồng không li tán thì cũng nguy cơ kẻ còn người mất
Cảnh góa bụa nỗi sầu chất ngất
Kẻ khuất người còn, dạ thắt chia phôi
Lắm cơn khi tủi khi hờn
Lòng thương chỉ có bóng đèn âm u
Từ đâu hai nẻo cách xa
Gần nhau chỉ có những hồi chiêm bao
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi THÂN
(Tùng nhất nhì chung)
Vợ chồng toại nguyện, danh phận rõ ràng.
Có nhiều người ganh ghét đố kị, vợ chồng có bất hòa nhưng cũng được bình an
Vợ chồng hay tranh cãi nhưng chung sống đến già
Con cái tuy có tài song thường trắc trở khoa danh
Câu khô nghe sấm nứt chồi
Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương
Trăm năm vẹn đạo can trường
Tuy không xướng họa nhưng thông cảm nhiều
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi DẬU
(Bình tan gương vỡ)
Như thuyền đi ngược gió, tuy làm ăn chăm chỉ cố gắng nhưng không có kết quả.
Chừng nửa đời sẽ phân li.
Dương cầm sớm đứt đường tơ
Đứt dây lỡ dở khó khăn mạc sầu
Vóc mai gầy võ tuyết sương
Ngàn thu như chiếc cánh buồm bơ vơ
Bước đi đâu cũng ngại ngùng
Đừng chân đứng lại, ngẫm mình lẻ loi
* * *
Trách ai làm bát bể, hạt cơm rơi
Đĩa nghiêng cà đổ, rã rời duyên ta
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi TUẤT và tuổi HỢI
(Số trời định vậy)
Làm ăn vất vả, công việc không như ý, công danh chẳng toại
Vợ chồng yêu thương nhau nhưng nửa chừng người vợ sẽ chết trước
Từ đây vắng bóng vợ hiền
Người thì đủ cặp, anh thì lẻ đôi
Chợ đời tan hợp không chừng
Đã buồn chợ sớm, vui chi chợ chiều
Thương nhau xin chứng lòng thành
Sầu vương ghi mãi trong lòng tâm tang
Trong đó, "Thập Thiên Can" gồm Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. "Thập Nhị Địa Chi" gồm Tú, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Trong bài chỉ đề cập đến sự kết hợp giữa chồng can Ất và 12 địa chi hay còn gọi là ẤT THỦ THẬP NHỊ ĐỊA CHI:
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi TÝ
(Rất xứng đôi vừa lứa)
Vợ chồng hợp nhau, cuộc sống an vui hạnh phúc, có con, có của.
Công danh thuận lợi, vinh hiển gia đình
Nghiêng vai tựa cửa thơ song
Gió xuân thoang thoảng hương lòng nở nang
Bóng nàng dưới ánh trăng vàng
Chập chờn ẩn hiện như hình tiên nga
Dịu dàng bóng liễu thướt tha
Mùi hương ngây ngất dễ say lòng người
Vợ chồng xứng lứa vừa đôi
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi SỬU và tuổi DẦN
(Duyên niên tác hợp)
Là sự kết hợp của duyên lành, cũng như trăng thu sáng tỏ.
Phú quý giàu sang, sinh con trai đầu lòng thì tốt hơn sinh con gái đầu lòng.
Thuận vợ thuận chồng, vợ chồng sống vui vầy đến đầu bạc răng long
Biển tình sóng vẫn yên gió lặng
Đã yêu nhau nên nghĩa vợ chồng
Trăm năm sắt đá tâm đồng
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa
Sum vinh con cháu đầy nhà
Trở về vận cuối, cửa nhà yên vui
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi MẸO
(Lận đận tơ duyên nhưng tuổi già vinh hiển)
Vợ chồng sống với nhau thường bất hòa, khi hiệp khi tan.
Là nợ duyên từ kiếp trước
Nếu vượt qua được thì về già sung túc
Có những lúc buồn sa nước mắt
Có những hồi son sắt yêu thương
Chẳng qua là nợ trái oan
Lấy thân mà trả nợ tình cho xong
Ai ơi giữ chí cho bền
Xin đừng than oán trách trời sao nên
Kiếp này trả nợ cho xong
Đừng làm cho nặng nợ chồng kiếp sau
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi THÌN và tuổi TỴ
(Mái lều tranh đôi quả tim vàng)
Cũng như Lưu Lang vào động Thiên thai gặp vợ tiên, như Vương Song Phước gặp nàng Huệ Khôi trăm năm gắn bó.
Vợ chồng sống với nhau chứa chứa chan chan, đồng tâm đồng lòng nên mọi việc đều hanh thông
Lam điền gieo ngược đã thành sông
Loan phụng nên duyên đẹp chữ đồng
Thiên lý tương phùng do nguyệt taoh
Bá niên thanh khí hiệp mày rồng
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi NGỌ
(Căn duyên tiền định)
Cũng như người đi đêm có lúc gặp trăng mờ
Công danh lận đận, cơ nghiệp sụp đổ.
Vợ chồng không li tán thì cũng nguy cơ kẻ còn người mất
Cảnh góa bụa nỗi sầu chất ngất
Kẻ khuất người còn, dạ thắt chia phôi
Lắm cơn khi tủi khi hờn
Lòng thương chỉ có bóng đèn âm u
Từ đâu hai nẻo cách xa
Gần nhau chỉ có những hồi chiêm bao
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi THÂN
(Tùng nhất nhì chung)
Vợ chồng toại nguyện, danh phận rõ ràng.
Có nhiều người ganh ghét đố kị, vợ chồng có bất hòa nhưng cũng được bình an
Vợ chồng hay tranh cãi nhưng chung sống đến già
Con cái tuy có tài song thường trắc trở khoa danh
Câu khô nghe sấm nứt chồi
Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương
Trăm năm vẹn đạo can trường
Tuy không xướng họa nhưng thông cảm nhiều
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi DẬU
(Bình tan gương vỡ)
Như thuyền đi ngược gió, tuy làm ăn chăm chỉ cố gắng nhưng không có kết quả.
Chừng nửa đời sẽ phân li.
Dương cầm sớm đứt đường tơ
Đứt dây lỡ dở khó khăn mạc sầu
Vóc mai gầy võ tuyết sương
Ngàn thu như chiếc cánh buồm bơ vơ
Bước đi đâu cũng ngại ngùng
Đừng chân đứng lại, ngẫm mình lẻ loi
* * *
Trách ai làm bát bể, hạt cơm rơi
Đĩa nghiêng cà đổ, rã rời duyên ta
Chồng chữ ẤT cưới vợ tuổi TUẤT và tuổi HỢI
(Số trời định vậy)
Làm ăn vất vả, công việc không như ý, công danh chẳng toại
Vợ chồng yêu thương nhau nhưng nửa chừng người vợ sẽ chết trước
Từ đây vắng bóng vợ hiền
Người thì đủ cặp, anh thì lẻ đôi
Chợ đời tan hợp không chừng
Đã buồn chợ sớm, vui chi chợ chiều
Thương nhau xin chứng lòng thành
Sầu vương ghi mãi trong lòng tâm tang
Last edited by a moderator: