Mật Mã Da Vinci - Dan Brown

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Admin, 30 Tháng mười một 2015.

  1. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,094
    Mật Mã Da Vinci - Chương 27

    Xem
    Ngồi ở bàn của Sauniere, trung úy Collet áp chặt điiện thoại vào tai, bán tín bán nghi. Mình có nghe đúng ý Fache không nhỉ? Một bánh xà phòng? Nhưng làm thế nào mà Langdon có thể biết được về thiết bị GPS?

    - Sophie Neveu.

    Fache đáp.

    - Cô ta đã nói cho ông ta.

    - Cái gì? Tại sao?

    - Câu hỏi hay đấy, nhưng tôi vừa mới nghe một đoạn ghi âm chứng tỏ cô ta đã mách nước cho ông ta.

    Collet im lặng. Neveu nghĩ gì mà hành động kì thế nhỉ? Fache đã có bằng chứng rằng Sophie đã can thiệp vào một đặc vụ của DCPJ? Sophie Neveu sẽ không chỉ bị sa thải, cô ta sẽ phải vào tù.

    - Nhưng thưa đại úy.. vậy thì Langdon bây giờ ở đâu?

    - Có chuông báo động nào ở đó kêu không?

    - Không. Thưa đại úy.

    - Và không có ai đi ra từ dưới cổng Hành Lang Lớn?

    - Không. Chúng tôi đã cử một nhân viên an ninh của bảo tàng Louvre giám sát ở cổng chính như sếp yêu cầu.

    - Được Langdon chắc vẫn còn ở trong Hành Lang Lớn.

    - Trong đó ạ? Nhưng ông ta đang làm gì?

    - Cậu nhân viên bảo vệ bảo tàng Lourve có được trang bị vũ khí không đấy?

    -Có, thưa ngài. Anh ta là đội trưởng đội bảo vệ.

    - Cử anh ta vào trong đó.

    Fache ra lệnh.

    - Tôi không thể đưa quân đến đó trong vài phút được, và tôi không muốn Langdon mở được một đường ra.

    Fache ngừng lại.

    - Và anh nên nói với cậu bảo vệ là nhân viên Neveu có lẽ vẫn còn ở trong đó với ông ta.

    - Tôi nghĩ nhân viên Neveu đã rời khỏi đó rồi.

    - Anh thật sự trông thấy cô ta đi khỏi hả?

    - Không, thưa đại úy, nhưng..

    - Vậy đó cũng không ai ở đó nhìn thấy cô ta đi khỏi. Họ chỉ nhìn thấy cô ta đi vào thôi.

    Sự táo tợn của Sophie làm cho Collet sửng sốt. Cô ấy vẫn còn ở trong tòa nhà này ư?

    - Giải quyết chuyện đó đi.

    Fache ra lệnh.

    - Tôi muốn Langdon và Neveu bị bắt khi tôi quay trở lại.

    Khi chiếc xe tải Trailor chuyển bánh đi khỏi, Đại úy Fache tập hợp quân. Robert Langdon tối nay đã chứng tỏ mình là một con mồi thoắt ẩn thoắt hiện, và với sự giúp đỡ của nhân viên Neveu, ông ta sẽ càng khó dồn bắt hơn dự kiến.

    Fache quyết định sẽ không khinh suất.

    Bắt cá hai tay, ông ta ra lệnh cho nửa số quân quay lại khu vực của bảo tàng Louvre. Nửa còn lại đi đến nơi duy nhất của Paris mà Robert Langdon có thể tìm thấy chỗ trú chân an toàn.
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2015
  2. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,094
    Mật Mã Da Vinci - Chương 28

    Xem
    Trong Sall des Etats, Langdon kinh ngạc nhìn chằm chằm vào dòng chữ phát sáng trên mặt kính Plexiglas. Dòng chữ như rập rờn trong không gian, hắt một vệt bóng lô xô cắt ngang nụ cười bí ẩn của Mona Lisa.

    - Tu viện Sion.

    Langdon thì thầm.

    - Điều này chứng tỏ ông cô là một thành viên của hội này!

    Sophie nhìn ông hoang mang:

    - Ông hiểu điều này?

    - Bằng chứng rõ ràng.

    Langdon nói, gật đầu trong khi những ý nghĩ chộn rộn trong đầu ông.

    - Đây là tuyên ngôn của một trong những triết lý cơ bản nhất của Tu viện Sion!

    Sophie nom bối rối ra mặt trong ánh phát quang của lời nhắn nguệch ngoạc ngang mặt Mona Lisa.

    TRÒ LỪA BỊP ĐEN TỐI CỦA CON NGƯỜI

    - Sophie!

    Langdon nói.

    - Truyền thống duy trì sự tôn thờ các nữ thần của Tu viện Sion dựa trên lòng tin là những người có thế lực của Nhà Thờ Thiên chúa giáo thời xa xưa đã" lừa bịp "cả thế giới, bằng cách truyền bá những lời nói dối hạ phẩm giá của nữ giới, khiến cán cân nghiêng về phía nam giới.

    Sophie vẫn đứng im lặng, nhìn chằm chằm vào dòng chữ.

    - Tu viện Sion tin rằng Constantine và những người nam kế tục ông ta đã cải giáo thành công thế giới từ chế độ mẫu hệ ngoại giáo sang chế độ Cơ đốc giáo phụ hệ bằng cách phát động một chiến dịch tuyên truyền, biến những tính nữ linh thiêng thành ma quỷ, xóa sạch vĩnh viễn những nữ thần khỏi tôn giáo hiện đại.

    Sophie phân vân ra mặt:

    - Ông tôi bảo tôi đến đây để tìm kiếm thứ này. Hẳn là ông tôi đang cố nói với tôi hơn thế!

    Langdon hiểu cô muốn nói gì. Cô nghĩ rằng đây là một mật mã khác. Liệu có một ý nghĩa ẩn giấu hay không, Langdon không thể ngay lập tức trả lời câu hỏi đó. Đầu óc ông vẫn đang đánh vật với sự rõ ràng táo tợn nơi bề ngoài lời nhắn của ông Saunière.

    Trò bịp đen tối của con người, ông nghĩ. Quả thật là đen tối.

    Không ai có thể phủ nhận điều tốt lành lớn lao mà Nhà Thờ hiện đại đã làm được

    trong thế giới hỗn độn ngày nay, nhưng chính Nhà Thờ ấy lại có một lịch sử đầy bạo lực và dối trá.

    Cuộc thập tự chinh tàn bạo của họ để "cải tạo" những ngoại giáo và những tôn giáo thờ nữ thần đã xuyên qua ba thế kỉ, sử dụng những phương pháp đầy sáng tạo nhưng không kém phần Tòa án Dị giáo Cơ đốc đã xuất bản một cuốn sách có thể gọi là ấn phẩm đẫm máu nhất trong lịch sử loài người. "Malleus maleficarum" hay Búa của bọn nữ thù thủy thuyết giáo thế giới về những mối nguy hiểm của đám phụ nữ tự do tư tưởng và chỉ thị cho giới tu sĩ phải tìm cho ra, tra tấn và tiêu diệt họ. Những người bị Nhà Thờ coi là "phù thủy" bao gồm tất cả các nữ học giả, các nữ tu, đám di-gan, đám thần bí, những kẻ tôn thờ thiên nhiên, tìm hái dược thảo và bất kỳ phụ nữ nào "hòa hợp một cách đáng ngờ với thế giới tự nhiên".

    Các bà đỡ cũng bị giết vì tội thực hành dị giáo khi sử dụng những hiểu biết y học để làm dịu những cơn đau đớn khi sinh nở một sự đau đớn mà Nhà Thờ khẳng định là hình phạt thích đáng của Chúa về việc Eva ăn vụng trái cấm, sinh ra ý niệm Tội Tổ Tông Truyền. Trong suốt ba trăm năm săn tìm phù thủy, Nhà Thờ đã xử trên dàn thiêu một con số kinh hoàng là năm triệu phụ nữ.

    Tuyên truyền và biển máu đã có hiệu quả. Thế giới ngày nay là bằng chứng sống.

    Nữ giới, xưa đã từng được tôn vinh như là một phần nửa chủ yếu của linh tuệ, giờ bị trục xuất khỏi những đền thờ của cả thế giới. Không hề có một giáo sĩ Do Thái dòng chính thống là nữ không có nữ tu Thiên Chúa giáo La Mã, không có cả những nữ giáo sĩ đạo Hồi. Hành động Hiaros Gamos - sự giao hợp tự nhiên giữa đàn ông và dàn bà, qua đó mỗi người trở nên toàn vẹn về tinh thần - trước kia từng là thiêng liêng nay bị bóp méo thành một hành động ô nhục. Những con người thánh thiện xưa từng coi việc hợp cẩn với người nữ của họ như một yêu cầu để hiệp thông với Chúa, giờ lại sợ những xung động tình dục tự nhiên của mình như là tác động của quỷ dữ hiệp đồng với kẻ đồng lõa hoàn hảo của nó.. đàn bà.

    Cả đến tính nữ gắn liền với bên trái cũng không thoát khỏi sự phỉ báng của Nhà Thờ. Ở Pháp và Ý, những từ để chỉ bên trái như gauche và sinistra đều mang những hàm nghĩa tiêu cực sâu sắc trong khi những phần tương ứng bên phải lại gợi lên hàm ý về lẽ phải, sự khéo léo và đúng đắn. Đến tận ngày nay, tư tưởng cấp tiến vẫn còn bị coi là cánh tả và bất cứ thứ gì xấu xa đều bi gọi là sinistrer.

    Thời đại của nữ thần đã chấm dứt. Quả lắc đã đu đưa. Mẹ Đất đã trở thành một thế giới của đàn ông, thần phá hủy và thần chiến tranh đang làm công việc của họ. Bản ngã nam đã qua hai thiên niên kỷ liền không bị phái nữ kiềm chế. Tu viện Sion tin rằng chính sự xóa bỏ tính nữ linh thiêng này trong cuộc sống hiện đại đã gây ra cái mà thổ dân Hopi tại Mỹ gọi là koy-anisquasti - "đời sống mất cân bằng" một tình trạng không ổn định với những đặc điểm: chiến tranh đầy nam tính, quá nhiều xã hội căm ghét phụ nữ và sự bất kính ngày càng tăng đối với Mẹ Đất.

    - Robert!

    Sophie nói, tiếng thì thầm của cô kéo ông trở lại với thực tại.

    - Có ai đó đang đến!

    Ông nghe thấy tiếng bước chân đang tiến lại gần ngoài hành lang.

    - Lại đây!

    Sophie tắt đèn tử ngoại và dường như bốc hơi trước mắt Langdon.

    Trong một khoảnh khắc, ông hoàn toàn không thấy gì. Lại đâu? Khi quen mắt dần, ông nhìn thấy bóng Sophie chạy vụt về giữa căn phòng và cúi xuống khuất tầm nhìn sau chiếc đi văng hình bát giác. Ông đang định lao tới đằng sau cô thì một giọng vang lên làm ông sững lại.

    - Arrêtez.

    Một người đàn ông từ cửa ra vào ra lệnh.

    Nhân viên an ninh bảo tàng Louvre bước qua cửa phòng Salle des Etats, súng lục giương thẳng, ngắm đúng ngực Langdon.

    Langdon cảm thấy cánh tay ông giơ lên trần nhà theo bản năng.

    - Couchez-vous.

    Người bảo vệ ra lệnh:

    - Nằm xuống!

    Trong vài giây, Langdon đã úp xấp mặt xuống sàn. Người bảo vệ chạy đến, đá mạnh làm chân Langdon dạng ra.

    - Mausvaise idée, ông Langdon.

    Anh ta nói, dí mạnh khẩu súng vào lưng Langdon.

    - Mauvaise idée.

    Úp mặt trên sàn gỗ, tay chân dang thẳng, Langdon cảm thấy một chút khôi hài trong cái tư thế mỉa mai của mình. Người Vitruvian, ông nghĩ. Nằm sấp.
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2015
  3. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,094
    Mật Mã Da Vinci - Chương 29

    Xem
    Bên trong nhà thờ Sant-Sulpice, Pilas lấy một cái chân nến thờ bằng sắt, khá nặng từ trên ban thờ, rồi quay về chỗ đài tưởng niệm. Cái này dùng như kiểu trụ phá thành sẽ tốt đây. Quan sát viên đá hoa cương màu xám che phủ cái hố dưới sàn, hắn nhận ra rằng chắc chắn không thể phá vỡ nó mà không gây tiếng động ầm ĩ.

    Sắt nện lên đá hoa cương, tiếng sẽ dội lên trần mái vòm.

    Liệu bà xơ có nghe thấy không nhỉ? Lúc này bà ta nên ngủ say mới phải. Thậm chí nếu đúng thế, đó cũng là một cú may rủi mà Silas không muốn đánh liều. Nhìn quanh để kiếm một mảnh vải bọc đầu thanh sắt, hắn chẳng thấy gì ngoài tấm vải lanh phủ bàn thờ mà hắn không muốn làm ô uế. Áo tu sĩ của mình, hắn nghĩ. Biết rằng có một mình hắn trong tòa nhà thờ đồ sộ Silas cới áo chùng cho nó rơi tuột xuống đất. Khi cởi bỏ áo, hắn cảm thấy nhói một cái vì lần lót bằng len dính vào những vết thương mới trên lưng hắn.

    Lúc này chẳng mặc gì ngoài chiếc khố quanh thắt lưng, Silas quấn chiếc áo chùng vào đầu thanh sắt. Rồi nhắm chính giữa viên đá lát sàn, hắn thục cái đầu quấn vải vào đó. Một tiếng bịch. Viên đá chưa vỡ. Hắn làm lại lần nữa. Lại một tiếng bịch, nhưng lần này kèm theo một tiếng nứt ran. Lần đập thứ ba, cái nắp đậy ấy rốt cuộc cũng vỡ tan, và những mảnh đá vụn rơi xuơng một khoảng trống dưới sàn.

    Một khoang rỗng!

    Nhanh chóng cậy nốt những mảnh còn lại khỏi lỗ hổng, Silas nhìn sâu vào trong khoảng trống. Máu hắn giần giật khi hắn quỳ xuống trước nó. Hắn đưa cánh tay trần trắng nhợt với vào bên trong.

    Thoạt đầu, hắn chẳng sờ thấy gì cả. Đáy khoang là đá nhẵn trống trơn. Rồi, mần mò sâu hơn, vươn cánh tay xuống dưới Đường Hoa Hồng, hắn chạm vào vật gì đó. Một phiến đá dầy dặn. Vòng những ngón tay quanh rìa phiến đá, hắn nắm lấy nó và nhẹ nhàng nâng nó ra ngoài. Khi đứng lên và kiểm tra vật tìm thấy, hắn nhận thấy mình đang cầm trên tay một phiến đá được đẽo gọt thô sơ với mấy chữ khắc. Trong một khoảnh khắc, hắn cảm thấy như mình là Moses thời hiện đại. *

    Khi Silas đọc những chữ trên phiến đá, hắn cảm thấy bất ngờ. Hắn đã chờ đợi viên đá đỉnh vòm là một tấm bản đồ, hay một chuỗi chỉ dẫn phức tạp, thậm chí được mã hóa. Vậy mà viên đá đỉnh vòm lại chỉ mang những kí tự đơn giản nhất.



    Job 38: 11

    Một câu trong Kinh Thánh? Silas ngớ ra với sự đơn giản quỷ quyệt này. Vị trí bí mật của vật họ tìm kiếm được hé lộ trong một câu Kinh Thánh sao? Cái hội kín này không từ bất cứ điều gì để giễu cợt những người chính trực!

    Sách Job. Chương ba mươi tám. Câu mười một.

    Mặc dầu Silas không nhớ chính xác nội dung câu kinh mười một, nhưng hắn biết Sách Job có kể một câu chuyện về một người đàn ông vẫn giữ nguyên vẹn lòng tin vào Chúa sau những thứ thách liên miên. Thật phù hợp, hắn hầu như không thể kiềm chế nổi sự háo hức.

    Ngoái qua vai mình, hắn nhìn theo Đường Hoa Hồng lung linh và không nén nổi một nụ cười. Trên bàn thờ chính, dựa vào một giá sách mạ vàng, là một cuốn Kinh Thánh to tướng đóng bìa da để mở.

    Đứng trên ban công, Xơ Sandnne run lên. Vài phút trước đó, bà đã toan chạy đi và thi hành lệnh thì gã đàn ông dưới kia đột nhiên cởi chiếc áo chùng. Nhìn thấy da thịt trắng bệch như thạch cao của gã, bà bỗng bị ngợp trong một cảm giác hoang mang kinh hãi. Tấm lưng trắng bệch của gã đầy những vết rách rỉ máu. Ngay cả từ đây, bà cũng có thể thấy là những vết thương đó còn mới.

    Người này đã bị quất bằng roi một cách tàn nhẫn!

    Bà cũng thấy chiếc dây lưng hành xác đẫm máu quấn quanh dùi gã, vết thương bên dưới nó còn đang nhỏ máu. Chía Trời nào cũng muốn một thân thể bị trèng phạp cách này chứ. Xơ Sandrine biết, những nghi lễ Opus Dei không phải là điều mà bà có thể hiểu được. Nhưng lúc này, bà chả mấy quan tâm đến điều đó.

    Opus Dei đang tìm viên đá đỉnh vòm. Làm thế nào mà họ biết về nó, Xơ Sandrine không thể hình dung được, mặc dù bà biết mình không còn thời gian để suy nghĩ nữa.

    Lúc này, gã thầy tu người đầy máu lặng lẽ khoác áo chùng trở lại, nắm chặt vật báu vừa lấy được, hắn tiến về phía bàn thờ, phía cuốn Kinh Thánh.

    Trong sự im lặng đến nghẹt thở, Xơ Sandrine rới ban công và chạy nhanh xuôi hành lang về phòng mình. Bò trên nền nhà, bà với tay vào dưới gầm giường ngủ bằng gỗ, lôi ra một phong bì vẫn còn nguyên dấu xi mà bà đã giấu kín cách đây ba năm.

    Xé nó ra, bà thấy bốn số điện thoại ở Paris. Run rẩy, bà bắt đầu quay số.



    Ở dưới nhà, Silas đặt tấm đá lên bàn thờ và hướng những ngón tay hăm hở của hắn ta về phía cuốn Kinh Thánh bìa da. Những ngón tay dài trắng nhợt toát mồ hôi khi hắn lần giờ các trang Kinh Thánh. Lật phần kinh Cựu ước, hắn tìm thấy Sách Job.

    Hắn tìm đến chương ba mươi tám. Khi đưa ngón tay chạy dọc theo cột chữ, hắn tiên cảm trước những từ mà hắn sắp đọc. Chúng sẽ dẫn đường.

    Tìm thấy câu mười một, Silas đọc. Chỉ có độc bẩy tử. Bối rối, hắn đọc lại, cảm thấy có một cái gì đó sai thật khủng khiếp.

    Câu kinh vẻn vẹn có thể này.

    NGƯƠI SẼ CHỈ TỚI ĐƯỢC ĐÂY THÔI.



    Chú thích

    Moses: Theo kinh thánh Moses là người lãnh đạo và giải cứu dân Israel khỏi ách nô lệ tại Ai Cập.
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2015
  4. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,094
    Mật Mã Da Vinci - Chương 30

    Xem
    Nhân viên an ninh Clause Grouard giận sôi lên khi đứng nhìn xuống tên tù binh nằm sõng xoài phía trước bức Mona Lisa. Tên khốn kiếp này đã giết ông Jacque Saunière! Saunière giống như một người cha vô cùng thân yêu với Grouard và đội bảo vệ của anh.

    Grouard không muốn gì hơn là xiết cò súng và bắn một viên đạn vào lưng Robert Langdon. Với tư cách là đội trưởng đội bảo vệ, Grouard là một trong số ít những bảo vệ thực sự được trang bị vũ khí. Tuy nhiên, Grouard tự nhắc mình rằng giết Langdon sẽ là một ân huệ lớn của số phận so với sự khốn khổ mà Bezu Fache và hệ thống nhà tù Pháp ban tặng cho hắn ta.

    Grouard rút chiếc máy bộ đàm ra khỏi thắt lưng và cố gắng liên lạc để tìm sự hỗ trợ. Nhưng tất cả những gì anh nghe được chỉ là tiếng nhiếu sóng tạp âm. Hệ thống an ninh điện tử bổ trợ của phòng này luôn làm cho những phương tiện liên lạc của cánh bảo vệ nhiễu sóng. Mình phải ra cửa thôi. Vẫn chĩa súng về phía Langdon, Grouard bắt đầu lùi chầm chậm về phía lối ra. Lùi đến bước thứ ba, anh chợt thấy một cái gì khiến anh dừng phắt lại.

    Cái quái quỷ gì thế này!

    Một ảo ảnh không thể giải thích được hiện ra ở gần phần trung tâm của căn phòng. Một bóng người. Có ai đó nữa trong căn phòng này? Một phụ nữ đang di chuyển trong bóng tối, bước rất nhanh về bức tường bên trái phía xa. Phía trước cô ta, một ánh sáng màu tím nhạt lướt qua lướt lại trên sàn, như thể cô đang tìm một cái gì đó với cái đèn tín hiệu ấy.

    - Qui est là?

    Grouard hỏi, cảm thấy khích động lần thứ hai. Chỉ trong ba mươi giây vừa qua thôi. Đột nhiên anh không biết phải nhằm súng vào đâu hay phải di chuyển theo hướng nào.

    - PTS đây!

    Người phụ nữ bình tĩnh đáp, vẫn cầm đèn dò tìm trên sàn nhà.

    Cảnh sát khoa học công nghệ. Bây giờ thì Grouard đang toát mồ hôi. Mình tưởng tất cả các nhân viên cảnh sát đều rời khỏi đây rồi chứ. Lúc này, anh nhận ra ánh sáng màu tía kia là tia cực tím, gắn liền với đội PTS, nhưng anh không hiểu tại sao DCPJ lại tìm chứng cứ ở đây.

    - Votre nom!

    Grouard kêu lên, linh tính nói cho anh biết có cái gì đó trật lấc.

    - Repondez!

    - Cest moi!

    Giọng nói đáp trả bằng một thứ tiếng Pháp bình tĩnh.

    - Sophie Neveu!

    Ở nơi nào đó trong sâu thắm tiềm thức của Grouard, cái tên này đã được ghi nhớ. Sophie Neveu à? Đó là cái tên cô cháu gái của ông Saunière, phải không nhỉ? Cô ấy từng đến đây khi còn bé xíu, nhưng đã bao năm rồi. Đây không thể là cô ấy được! Và thậm chí nếu đúng là Sophie Neveu thì cũng khó mà coi đó là một lý do để tin cô ta được. Grouard đã nghe những tin đồn về cuộc xung đột đau buồn giữa ông Saunière và cô cháu gái.

    - Anh biết tôi mà!

    Người phụ nữ lên tiếng.

    - Còn Robert Langdon thì không giết ông tôi. Xin hãy tin tôi!

    Cảnh vệ Grouard không sẵn sàng lấy đó làm tin.

    - Mình phải hỗ trợ!

    Cố gắng liên lạc qua bộ đàm một lần nữa, anh vẫn chỉ thấy tiếng nhiễu sóng. Cửa ra vào còn cách cả hai chục mét về phía sau và Grouard bắt đầu lùi dần, chọn cách chĩa họng súng vào người đàn ông nằm dưới sàn. Khi Grouard nhích từng phân một về phía sau, anh có thể thấy người phụ nữ ở đầu kia phòng, đang giơ chiếc đèn chiếu tia tử ngoại xem xét rất kỹ bức tranh lớn treo trên bức tường đối diện với bức Mona Lisa.

    Grouard há hốc mồm, nhận ra nó là bức tranh nào. Lạy Chúa, cô ta đang làm gì vậy?

    Ở đầu kia phòng, Sophie Neveu cảm thấy những giọt mồ hôi lạnh ròng ròng trên trán. Langdon vẫn nằm dang chân dang tay trên sàn. Đợi một chút, Robert. Sắp xong rồi. Biết người bảo vệ, trên thực tế ắt không nổ súng vào cô cũng như Langdon, nên lúc này Sophie chuyển sự chú ý vào vấn đề đang làm cô bận tâm, rà soát toàn bộ khu vực xung quanh một kiệt tác cụ thể - một kiệt tác khác của Da Vinci. Nhưng chiếc đèn chiếu tia cực tím này chẳng phát hiện ra điều gì bất bình thường. Cả ở trên sàn, trên tường, hay thậm chí trên chính bức tranh, đều chắng thấy gì.

    Hẳn phải có một cái gì đó ở đây chứ!

    Sophie cảm thấy hoàn toàn chắc chắn rằng cô đã đọc đúng ý định của ông cô. Ông còn có thể có ý định gì khác?

    Kiệt tác mà cô đang xem xét là một tấm toan cao khoảng mét rưỡi. Quang cảnh lạ lùng mà Da Vinci tạo ra bao gồm Đức Mẹ đồng trinh Mary ngồi với Chúa hài đồng Jesus, John Người rửa tội và thiên thần Uriel trên một rìa đá chênh vênh. Khi Sophie còn nhỏ, không một chuyến viếng thăm Mona Lisa nào được hoàn tất mà ông cô không kéo cô ngang qua căn phòng để xem bức tranh thứ hai này.

    - Ông ơi, cháu đang ở đây! Nhưng cháu không nhìn thấy nó!

    Phía sau cô, Sophie thấy người gác đang cố gọi điện đài xin chi viện. Hãy nghĩ đi!

    Cô hình dung lại lời nhắn viết nguệch ngoạc trên tấm kính bảo vệ của bức Mona Lisa. Trò lừa bịp đen tối của con người! Bức ha trước cô không có kính bảo vệ để có thể viết tin nhắn lên đó và Sophie biết ông cô ắt không đời nào nỡ làm hỏng bức kiệt tác này bằng cách viết thẳng lên mặt tranh. Cô dừng lại.

    Chí ít cũng không phải ở mặt trước. Cô lia mắt lên, nhìn dọc sợi dây cáp dùng để treo bức ha.

    Liệu có thể là cái này không? Nắm lấy cạnh trái của khung tranh bằng gỗ, cô kéo về phía mình. Bức ha có khổ lớn và mặt sau kênh ra khi cô giựt nó khỏi tường. Sophie luồn đầu và cả vai vào phía sau của bức ha và dùng chiếc đèn tia cực tím đế kiểm tra mặt sau.

    Chỉ mất vài giây để Sophie nhận ra là bản năng của mình đã lầm. Mặt sau bức ha trống trơn. Chẳng thấy chữ tím hiện dưới tia tử ngoại, chỉ có nền nâu loang lổ của vải toan dãi dầu qua năm tháng và..

    Khoan.

    Mắt Sophie dán chặt vào một tia lấp lánh của kim loại lạc lõng ở gần mép dưới của khung tranh bằng gỗ. Vật đó rất nhỏ, được nhét một phần vào cái khe giữa vải toan với khung. Một sợi dây bằng vàng được gắn với nó.

    Sophie cực kỳ kinh ngạc khi thấy sợi dây được gắn với một chiếc chìa khóa bằng vàng trông rất quen. Đầu chìa chạm khắc, to bản có hình cây thánh giá và mang dấu triện khắc chìm mà cô đã không thấy lại từ hồi chín tuổi. Một bông hoa huệ với chữ viết tắt P. S. Lúc này, Sophie cảm thấy như vong hồn của người ông đang nói thầm vào tai cô. Đến thì đến lúc, chiếc chìa khóa sẽ là của cháu. Cổ họng cô nghẹn lại khi nhận ra rằng ông mình ngay cả trong cái chết vẫn gắng giữ lời hứa với cô. Chiếc chìa khóa này là để mở một cái hộp, giọng ông đang vang lên, nơi ông giữ nhiều bí mật.

    Giờ đây, Sophie đã nhận ra rằng toàn bộ mục đích của trò đố chứ tối nay chính là chiếc chìa khóa này. Ông cô đã mang nó theo mình khi ông bị giết. Vì không muốn nó rơi vào tay cảnh sát, ông đã giấu nó sau bức ha này. Rồi ông bày ra trò săn tìm kho báu tài tình này để đảm bảo chỉ Sophie có thể tìm ra nó.

    - Au secours!

    Giọng người gác la lên.

    Sophie giật chiếc chìa khóa từ sau bức ha và luồn nó vào sâu trong túi áo cùng với chiếc đèn tia cực tím. Nhìn từ sau bức ha, cô có thể thấy người bảo vệ vẫn đang cố gắng một cách tuyệt vọng để bắt liên lạc với ai đó thông qua bộ đàm. Anh đang lùi dần về phía lối ra, vẫn kiên quyết chĩa mũi súng vào Langdon.

    - Au secours!

    Anh ta lại hét vào máy bộ đàm. Vẫn chỉ lạo xạo tạp âm.

    Anh ta không liên lạc được, Sophie nhận ra, cô nhớ rằng các khách tham quan có điện thoại di động ở đây thường tức phát điên lên khi họ muốn gọi điện về nhà để khoe rằng họ đang chiêm ngưỡng Mona Lisa. Đường dây giám sát tăng cường bên trong các bức tường đã làm cho căn phòng hoàn toàn không thể truyền tin nếu không bước ra khỏi cửa. Lúc này, người bảo vệ đang lùi nhanh về phía cửa ra vào, và Sophie biết rằng cô phải hành động ngay lập tức.

    Nhìn lên bức tranh lớn mà cô đang nép nửa người sau nó, Sophie nhận ra rằng Leonardo Da Vinci, lần thứ hai trong buổi tối hôm nay, lại giúp đỡ cô.


    ***

    Chỉ còn vài mét nữa thôi. Grouard tự nói với mình, vẫn giữ chắc.

    - Arrêtez! Ou je la détruis.

    Giọng người phụ nữ vang lên khắp căn phòng.

    Grouard liếc về phía cô và dừng phắt lại:

    -Mon dieu, non!

    Qua vầng sáng đo đỏ mờ ảo, anh có thể nhìn thấy người phụ nữ đang thực sự nhấc bức tranh khỏi cáp treo và dựng đứng nó trên sàn trước mặt cô. Với chiều cao mét rưỡi, bức vẽ hầu như hoàn toàn che lấp thân hình cô. Ý nghĩ đầu tiên của Grouard là thắc mắc tại sao, dây treo tranh không khởi động hệ thống báo động, nhưng tất nhiên tối nay những thiết bị cảm biến chưa được mở lại. Cô ta đang làm gì vậy?

    Khi nhìn thấy điều đó, anh lạnh cả máu.

    Tấm toan bắt đầu phồng lên ở giữa và đường viền mỏng manh của hình Đức Mẹ đồng trinh Maria, Chúa hài đồng Jesus và John Người rửa tội bắt đầu méo mó.

    -Không!

    Grouard thét lên, cứng người vì kinh hãi khi nhìn bức tranh vô giá của Da Vinci dãn ra. Từ phía sau, người phụ nữ thúc đầu gối vào giữa tấm toan!

    - NON!

    Grouard cuống cuồng chạy đến và nhằm khẩu súng trên tay về phía cô nhưng ngay lập tức nhận ra rằng đó là một sự đe da suông. Tấm toan chỉ là vải bố, nhưng lại hoàn toàn bất khả xâm phạm. Một áo giáp sáu triệu dollar.

    Mình không thể bắn xuyên qua một tác phẩm của Da Vinci được!

    - Đặt súng và máy bộ đàm xuống!

    Người phụ nữ nói bằng một thứ tiếng Pháp bình tĩnh.

    - Kẻo tôi sẽ thúc đầu gối xuyên thủng bức tranh đấy. Tôi nghĩ anh biết ông tôi sẽ cảm thấy thế nào về điều này.

    Grouard cảm thấy choáng váng:

    - Làm ơn.. đừng. Đó là bức Đức Mẹ trên núi đá!

    Anh đặt khẩu súng và máy bộ đàm xuống, giơ hai tay lên đầu.

    - Cảm ơn!

    Người phụ nữ nói.

    - Bây giờ hãy làm đúng như tôi nói, rồi mọi thứ sẽ tốt đẹp thôi.



    ***

    Một lúc sau, mạch máu Langdon vẫn còn đập dồn dập khi ông chạy bên cạnh Sophie xuống cầu thang thoát hiểm về phía tầng hầm. Không ai nói một lời nào kể từ lúc bỏ người bảo vệ run rẩy nằm lại trong Salle des Etats của bảo tàng Louvre. Khẩu súng lục của người bảo vệ này đang nằm trong bàn tay riết chặt của Langdon và ông rất nóng lòng muốn vứt bỏ nó. Thứ vũ khí này sao mà nặng nề và xa lạ một cách nguy hiểm.

    Nhảy hai bậc một xuống cầu thang, Langdon tự hỏi liệu Sophie có biết mình đã suýt hủy hoại một bức tranh quý đến thế nào không. Sự chọn lựa của cô về nghệ thuật có vẻ phù hợp một cách dễ sợ với cuộc phiêu lưu đêm nay. Cũng như Mona Lisa, tác phẩm của Da Vinci mà cô vừa túm lấy rất nổi tiếng trong giới lịch sử nghệ thuật về sự tràn ngập những biểu tượng ngoại giáo được ẩn giấu trong đó.

    - Cô đã chọn một con tin vô cùng giá trị đấy.

    Ông vừa nói vừa chạy.

    - Madonna of the Rocks!

    Cô đáp lại.

    - Nhưng tôi không chọn nó mà ông tôi đã chọn nó. Ông để lại cho tôi một thứ gì đó đằng sau bức tranh.

    Langdon giật mình nhìn vào cô:

    - Cái gì cơ? Nhưng làm sao cô biết bức tranh nào, tại sao lại là Madonna of the Rocks?

    - So dark the con of man! - Trò lừa bịp đen tối của con người.

    Cô nở một nụ cười đắc thắng.

    - Tôi đã không đoán được hai anagram đầu tiên, Robert. Và tôi không muốn trượt nốt câu thứ ba.
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2015
  5. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,094
    Mật Mã Da Vinci - Chương 31

    Xem

    - Họ chết cả rồi!

    Xơ Sandarine nói lắp bắp vào điện thoại trong căn phòng ở nhà thờ Saint - Sulpice. Bà để lại một lời nhắn ở một máy trả lời tự động:

    - Làm ơn cầm máy! Họ chết cả rồi!

    Ba số điện thoại đầu tiên trong danh sách đều mang đến những kết quả hãi hùng một quả phụ lên cơn thần kinh, một thám tử làm việc muộn tại hiện trường vụ giết người và một linh mục buồn bã đang an ủi một gia đình mất mát. Cả ba người cần liên hệ đều đã chết. Và giờ đây, khi bà gọi số điện thoại thứ tư, số cuối cùng bà không được phép gọi số này trừ phi không thể liên lạc được với ba người đầu tiên kia bà nghe thấy máy trả lời tự động. Người đi vắng không nêu tên, chỉ đơn giản yêu cầu người gọi điện để tin nhắn lại.

    - Ô đá nền nhà đó đã bị đập vỡ!

    Bà phân bua khi để lại tin nhắn.

    - Ba người kia đã chết!

    Xơ Sandrine không biết gì về nhân thân của bốn người đàn ông mà bà bảo vệ, nhưng những số điện thoại nhà riêng của họ được bà cất giấu dưới giường ngủ chỉ để sử dụng trong một trường hợp duy nhất.

    Nếu ô đá nền nhà đó bị đập vỡ, người liên lạc vô diện mạo đã nói với bà qua điện thoại, điều đó có nghĩa là trên cấp cao đã vỡ một mảng. Một người trong chúng tôi bị cái chết đe dọa và buộc phải thốt ra một lời nói dối tuyệt vọng. Hãy gọi những số điện thoại này. Cảnh báo những người khác. Đừng quên gọi chúng tôi.

    Đó là một hồi chuông báo động câm lặng. Rõ rành không thể hiểu sai trong sự đơn giản của nó. Kế hoạch đó đã làm bà ngạc nhiên khi lần đầu tiên bà nghe thấy nó. Nếu nhân thân của một thành viên có nguy cơ bị hại, ông ta có thể nói dối, điều đó sẽ khới động một cơ chế cảnh báo những người khác.

    Tuy nhiên đêm nay, hình như có hơn một người bị hại.

    - Làm ơn hãy trả lời!

    Bà thì thầm sợ hãi.

    - Ông ở đâu?

    - Gác điện thoại lên!

    Một giọng trầm vang lên từ cửa ra vào.

    Quay lại kinh hãi, bà nhìn thấy gã thầy tu to lớn. Hắn đang nắm chặt cái chân cắm nến bằng sắt nặng. Run rẩy, bà đặt lại ống nghe.

    - Họ chết rồi!

    Gã thầy tu nói.

    - Cả bốn người. Và bọn họ đã chơi ta như một thằng ngốc. Hãy nói cho ta biết viên đá đỉnh vòm ở đâu?

    - Tôi không biết!

    Xơ Sandrine nói thành thực.

    - Bí mật đó do những người khác canh giữ.

    Những người khác đã chết.

    Gã kia tiến đến, hai bàn tay trắng bệch vẫn nắm chặt chân nến bằng sắt:

    - Ngươi là một nữ tu của Nhà Thờ, vậy mà ngươi lại phục vụ bọn chúng?

    - Chúa Jesus chỉ có một thông điệp chân chính duy nhất.

    Xơ Sandrine thách thức.

    - Ta không thể thấy thông điệp ấy nơi Opus Dei.

    Một cơn cuồng nộ đột ngột bùng nổ sau mắt gã tu sĩ. Hắn lao tới, quật cái chân cắm nến xuống giống như quật một chiếc gậy đánh gôn. Khi Xơ Sandrine gục xuống, cảm giác cuối cùng của bà là một thứ linh tính choán ngợp báo trước điều chẳng lành.

    Tất cả bốn người đều đã chết.

    Sự thật quý giá thế là vĩnh viễn mất.
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2015
  6. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,094
    Mật Mã Da Vinci - Chương 32

    Xem
    Chuông báo động ở đầu đằng đông Cánh Denon đã làm những con bồ câu ở Vườn Tuileries gần đó bay tán loạn khi Langdon và Sophie lao khỏi tường ngăn hòa vào đêm Paris. Khi họ chạy qua quảng trường đến chỗ ôtô của Sophie, Langdon có thể nghe thấy còi xe cảnh sát rú ở đằng xa.

    - Nó kia!

    Sophie nói, chỉ tay về phía một chiếc xe hai chỗ mui bẹt màu đỏ đậu ở quảng trường.

    Cô ấy đùa, đúng không? Đó có lẽ là chiếc ô tô bé nhất mà Langdon từng thấy.

    - Một chiếc SmartCar đấy!

    Cô nói.

    - Một trăm kilômét mới tốn một lít xăng.

    Langdon vừa gieo mình xuống ghế hành khách thì Sophie đã phóng chiếc SmartCar vào một con đường rải sỏi. Ông níu chặt lấy bảng điều khiển khi chiếc xe lao qua vỉa hè rồi chồm lên ngoặt vào bùng binh nhỏ ở chỗ Carrousel du Louvre.

    Trong khoảnh khắc, Sophie dường như định đi tắt, cắt ngang bùng binh bằng cách phi thẳng xe qua hàng rào quanh bùng binh trung tâm, rồi cắt ngang thảm cỏ lớn ờ giữa.

    -Không!

    Langdon hét lên, biết rằng những hàng rào xung quanh Carrousel du Louvre được dựng lên để che cái khoảng trống nguy hiểm ở trung tâm - La Pyramide Inversée cửa trời của Kim tự tháp đảo ngược mà trước đó ông nhìn thấy từ bên trong bảo tàng. Nó đủ rộng để nuốt chửng chiếc xe SmartCar của họ chỉ trong một ngoạm. May mắn thay, Sophie quyết định đi theo một tuyến thông thường hơn, đánh riết tay lái về bên phải, cua đúng cách cho đến khi cô ra khỏi đó, rẽ trái, rồi lao vào làn đường phía bắc, tăng tốc về phía phố Rivoli.

    Những hồi còi nhị thanh của xe cảnh sát réo càng ngày càng to sau lưng họ, lúc này Langdon có thể thấy ánh đèn xe cảnh sát trong chiếc gương chiếu hậu phía ghế ngồi của ông. Động cơ chiếc SmartCar rít lên phản đối khi Sophie thúc nó đi khỏi bảo tàng Louvre nhanh hơn. Khoảng năm mươi mét trước mặt, đèn giao thông chuyển sang đỏ ờ phố Rivoli. Sophie rủa thầm và tiếp tục lao về phía đó. Langdon cảm thấy các cơ co chặt lại.

    - Sophie!

    Chiếc xe hơi chậm lại chút xíu lúc đến ngã tư, Sophie bật đèn pha rồi liếc nhanh một cái về cả hai ngả trước khi lại dận ga và rẽ trái cắt ngọt qua ngã tư trống trải để đi vào phố Rivoli. Tăng tốc đi theo hướng tây thêm một phần tư dặm nữa, Sophie rẽ phải quành một bùng binh rộng. Chắng mấy chốc họ đã lao nhanh qua phía bên kia trên đại lộ Champs-Elysées thênh thang.

    Khi xe chạy thẳng rồi, Langdon mới xoay người trên ghế, nghển cổ nhìn qua cửa sau về phía bảo tàng Louvre. Cảnh sát hình như không săn đuổi họ nữa. Cả một biển nhấp nháy những ánh đèn xanh tập trung ở bảo tàng.

    Cuối cùng, nhịp tim của Langdon chậm lại, ông quay về tư thế cũ:

    - Thật thú vị!

    Dường như Sophie không nghe thấy. Mắt cô vẫn dán về phía trước, vào đại lộ Champs-Elysées dài hun hút dãy cửa hàng sang trọng trên suốt hai dặm thường được mệnh danh là Đại lộ Thứ Năm của Paris. Đại sứ quán Mỹ chỉ cách đây khoảng một dặm, và Langdon ngồi ngay ngắn lại trong chiếc ghế của mình.

    So dack the con of man - Trò lừa bịp đen tối của con người. Sự nhanh trí của Sophie thật đáng kinh ngạc.

    Madonna of the Rocks.

    Sophie đã nói rằng ông cô để lại một cái gì đó sau bức tranh.

    Một lời nhắn tối hậu? Langdon không khỏi ngạc nhiên thán phục chỗ cất giấu xuất sắc của Saunière, bức Madonna of the Rocks là một khâu khác ăn khớp trong chuỗi biểu tượng tương liên đêm nay. Saunière dường như từng bườc một khẳng định niềm say mê của ông đối vởi khía cạnh bí ẩn và tinh quái của Leonardo Da Vinci.

    Đơn đặt hàng ban đầu cho bức Madonna of the Rockscủa Da Vinci đến từ một tổ chức gọi là Hội Trinh Khiết Hoài Thai, họ cần một bức giữa cho bộ tranh ba tấm đặt ở ban thờ trong nhà thờ San Francesco của họ tại Milan. Các nữ tu sĩ đưa ra cho Leonardo kích thước cụ thể và chủ đề họ mong muốn dành cho bức tranh - Đức Mẹ đồng trinh Mary, thánh John Người rửa tội * sơ sinh, Uriel và Chúa hài đồng Jesus nằm trong hang.

    Mặc dù Da Vinci đã làm như họ yêu cầu, nhưng khi ông hoàn trả tác phẩm, bọn họ lại phản ứng một cách sợ hãi. Ông đã đưa vào bức tranh đầy những chi tiết bùng nổ và xáo động.

    Bức tranh vẽ Đức Mẹ đồng trinh mặc áo choàng xanh ngồi ôm một đứa bé mới sinh, được cho là Chúa hài đồng. Uriel ngồi đối diện với Đức Mẹ đồng trinh, cũng ôm một đứa trẻ, được cho là John - Người rửa tội thủa hài nhi. Thật kỳ lạ, thay vì theo kịch bản Chúa Jesu ban phước cho John như thông thường, ở đây chính John lại là người ban phước cho Jesus.. và Chúa Jesus thì đang chịu phép của John! Rắc rối hơn nữa, Đức Mẹ lại giơ cao một tay trên đầu John và thể hiện một cử chỉ da nạt rõ ràng - những ngón tay bà trông như móng một con đại bàng đang quắp một cái đầu vô hình. Cuối cùng là hình ảnh đáng sợ nhất và rõ ràng nhất: ngay phía dưới những ngón tay quắp chặt của Đức Mẹ, Uriel đang vung tay làm một động tác cắt - như thể cắt cổ cái đầu vô hình bị quắp bởi những ngón tay giống móng đại bàng của Đức Mẹ.

    Những sinh viên của Langdon luôn luôn hứng thú khi biết rằng cuối cùng Da Vinci đã xoa dịu Hội Trinh Khiết Hoài Thai bằng cách vẽ cho họ một phiên bản thứ hai có giảm "đô" của bức Madonna of the Rocks, trong đó mọi nhân vật đều được sắp xếp một cách chính thống hơn. Hiện nay, phiên bản thứ hai này được treo tại Bảo tàng Mỹ thuật quốc gia London dưới cái tên Virgin of the Rocks - Đức Mẹ đồng trinh trên núi đá, mặc dầu Langdon vẫn thích bản gốc ở bảo tàng Louvre hơn với tính khác lạ hấp dẫn của nó.

    Khi Sophie cho xe phóng trên đại lộ Champs-Elysées, Langdon hỏi:

    - Bức tranh ấy. Có cái gì đằng sau nó vậy?

    Mắt cô không rời khỏi con đường:

    - Tôi sẽ cho anh xem khi chúng ta thật sự an toàn trong đại sứ quán.

    - Cô sẽ cho tôi xem?

    Langdon ngạc nhiên.

    - Ông ấy để lại cho cô một vật thể?

    Sophie gật đầu:

    - Với một bông hoa loa kèn và kí tự P. S. chạm nổi.

    Langdon không thể tin vào tai mình.


    ***

    Chúng ta sắp thành công, Sophie nghĩ khi lái ngoặt chiếc SmartCar sang phải, xoẹt qua khách sạn Crillon sang trọng, đi vào khu vực ngoại giao của Paris với những hàng cây ven đường. Đại sứ quán còn cách chỗ này chưa đầy một dặm. Cuối cùng, cô cũng cảm thấy như mình có thể hít thở bình thường trở lại.

    Cả trong khi lái xe, đầu óc Sophie vẫn không dứt khỏi chiếc chìa khóa trong túi, hồi ức về chuyện thấy nó bao năm về trước - đầu chìa bằng vàng hình thánh giá bốn cánh bằng nhau, thân chìa hình trụ tam giác, những khía răng cưa, con dấu hình hoa khắc nổi và hai kí tự P. S.

    Mặc dầu Sophie hiếm khi nghĩ về chiếc chìa khóa trong bao nhiêu năm qua, nhưng công việc trong một cộng đồng tình báo đã dạy cô nhiều về bảo đảm an toàn, và giờ đây hình chạm khắc lạ thường của chiếc chìa khóa không còn quá huyền bí nữa. Một khuôn đúc biến hóa được gia công bằng tia laze, không thể sao lại được. Thay vì những khía răng cưa xoay lẫy khóa, cái mớ nhằng nhịt những lỗ nhỏ được tạo bởi tia laze của chiếc chìa khóa này sẽ được kiểm tra bằng một mắt thần điện tử. Nếu mắt thần này xác nhận những lỗ hình lục giác đó chuẩn xác về cự ly cách sắp xếp và độ quay vòng thì khóa sẽ được mở.

    Sophie không hình dung nổi một chiếc chìa khóa như thế này dùng để mở cái gì, nhưng cô cảm thấy Robert có thể nói cho cô biết. Dù thế nào đi nữa, ông ta đã miêu tả chính xác hình khắc nổi của chiếc chìa khóa mà chưa một lần nhìn thấy nó. Hình thánh giá của đầu chìa chứng tỏ nó thuộc về một tổ chức Thiên chúa giáo nào đó, nhưng Sophie không biết một nhà thờ nào dùng loại chìa khóa với khuôn biến hóa gia công bằng laze.

    Với lại, ông mình không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo.

    Sophie đã thấy bằng chứng về điều đó cách đây mười năm. Thật mỉa mai, chính là một chiếc chìa khóa khác một chiếc chìa khóa bình thường hơn nhiều đã hé lộ bản chất thực sự của ông cô.

    Buổi chiều hôm đó thật ấm áp khi cô hạ cánh xuống sân bay Charles de Claulle và vẫy một chiếc taxi về nhà. Nhìn thấy mình, chắc ông sẽ rất ngạc nhiên, cô nghĩ.. Từ trường cao học bên Anh trở về nghỉ xuân sớm hơn thường lệ, Sophie mong đợi gặp ông và kể cho ông tất cả về các phương pháp giải mã mà cô đang học.

    Tuy nhiên, khi cô về đến ngôi nhà ở Paris, ông cô không có ở đó. Thất vọng, cô biết ông không ngờ cô về sớm thế và có lẽ đang làm việc ở bảo tàng Louvre. Nhưng bây giờ là chiều thứ bảy, cô chợt nhận ra. Ông hiếm khi làm việc vào những ngày cuối tuần. Vào cuối tuần, ông thường..

    Mỉm cười, Sophie chạy thẳng đến gara. Chắc chắn là không có xe ở đó. Bây giờ là cuối tuần. Ông Jacque Saunière không thích lái xe trong thành phố và ông có một chiếc xe chỉ để đến một nơi duy nhất nhà nghỉ của ông ở Normandy, phía Bắc Paris. Sophie sau nhiều tháng ngột ngạt London, đang háo hức được hít thở những mùi hương của thiên nhiên và muốn bắt đầu kỳ nghỉ ngay tức khắc. Trời mới ngả chiều, và cô quyết định đi ngay lập tức để khiến ông bị bất ngờ. Mượn một chiếc ôtô của bạn, Sophie lái về phía Bắc, phóng thẳng vào khu đồi vắng lặng tràn ngập ánh trăng gần Creully. Cô tới nơi chỉ sau mười giờ một chút, lái xe theo con đường riêng dẫn đến nơi nghỉ ngơi của ông. Lối vào dài hơn một dặm, và cô đã đi được một nửa đường trước khi có thể nhìn thấy ngôi nhà qua những hàng cây một tòa biệt thự bằng đá to đùng và cũ kỹ ta lạc trong rừng trên sườn đồi.

    Sophie nửa hy vọng thấy ông cô đang ngủ vào giờ này, nửa lại háo hức muốn được thấy ngôi nhà sáng trưng ánh đèn. Tuy nhiên, niềm vui sướng của cô chuyển thành sự ngạc nhiên, khi đến nơi cô nhìn thấy lối đi có đầy ô tô đang đậu - những chiếc Mercedes, BMW, Audis và cả một chiếc Rolls-Royce.

    Sophie nhìn chằm chằm một lúc rồi bật cười lớn. Ông mình người ẩn dật trứ danh! Xem ra Jacque Saunière ít ẩn dật hơn nhiều so với cách mà ông thể hiện bề ngoài. Rõ ràng là ông đang tổ chức tiệc tùng trong khi Sophie đi học xa, và bằng vào bề ngoài của những chiếc ô tô, thì một số trong những người có ảnh hưởng nhất của Paris cũng đang tham dự.

    Háo hức muốn làm ông mình ngạc nhiên, Sophie hối hả chạy đến cửa trước. Khi cô đến nơi, cô thấy cửa bị khóa. Cô gõ cửa.

    Không ai trả lời. Lúng túng, cô đi quanh ngôi nhà và thử xem Cửa sau. Nó cũng bị khóa. Chẳng có lời nào đáp lại cả.

    Bối rối, cô đứng một lúc và lắng nghe. âm thanh duy nhất mà cô nghe được là tiếng gió lạnh vùng Normandy đang rền rĩ xoáy qua thung lũng.

    Không âm nhạc. Không tiếng người. Chắng có gì cả.

    Trong im lặng của khu rừng, Sophie vội vàng chạy sang bên sườn nhà, leo lên một đống củi, áp sát vào cửa sổ phòng khách.

    Điều cô nhìn thấy bên trong thật vô lý. Không có ai ở đây!

    Toàn bộ tầng một của tòa nhà vắng ngắt. Mọi người ở đâu được nhỉ?

    Tim đập dồn, Sophie chạy vào nhà chứa củi để lấy chiếc chìa khóa dự phòng mà ông cô giấu kín dưới thùng đựng que mồi lửa. Cô chạy ra đằng trước mở cửa bước vào. Khi cô bước vào căn phòng chờ vắng vẻ, bảng kiểm soát của hệ thống an ninh bắt đầu nháy đèn đỏ một hiệu báo rằng người đi vào có mười giây để nhập đúng mã số trước khi chuông báo động kêu.

    Ông để hệ thông báo động hoạt động trong suốt một bữa tiệc. Sophie nhanh chóng nhập mã số và làm hệ thống ngưng phản ứng.

    Vào hắn bên trong, Sophie thấy toàn bộ ngôi nhà vắng tanh.

    Cả tầng trên cũng vậy. Trở xuống phòng khách trống trơn đó, cô đứng một lúc trong yên lặng, tự hỏi điều gì có thể đang xảy ra đây.

    Chính lúc đó Sophie nghe thấy nó.

    Những giọng nói rì rầm. Và hình như chúng vắng đến tử phía dưới cô. Sophie không thể tướng tượng được. Cúi xuống, cô áp tai xuống sàn nhà và lắng nghe. Phải, dứt khoát là âm thanh vọng từ dưới lên. Các giọng đó dường như đang hát, hay.. đang cầu kinh chăng? Cô sợ. Nhưng có một điều còn kỳ bí hơn cả bản thân âm thanh đó: Cô biết ngôi nhà thậm chí không có tầng hầm?

    Ít nhất thì mình cũng chưa bao giờ thấy.

    Quay lại và rà soát phòng khách, mắt Sophie bắt gặp một vật duy nhất trong toàn bộ ngôi nhà không ở vị trí cũ một món đồ cổ yêu thích của ông - tấm thảm Anbusson. Nó thường được treo ở bức tường phía đông cạnh lò sưởi, nhưng đêm nay, nó đã bị kéo về một phía, để lộ bức vách phía sau.

    Bước về phía bức vách gỗ trần trụi, Sophie cảm thấy tiếng đọc kinh càng lớn dần. Do dự, cô áp tai vào vách gỗ. Những âm thanh lúc nãy rõ ràng hơn. Rõ ràng là người ta đang cầu kinh.. ngâm nga những từ mà Sophie không thể nào hiểu được.

    Không gian đằng sau bức vách là một khoảng trống!

    Sờ xung quanh gờ những miếng ván, Sophie thấy một quả đấm cửa thụt vào trong.

    Nó được chế tác rất kín đáo. Một cánh cửa trượt. Tim đập thình thịch, cô đặt ngón tay vào khe và kéo ra. Chính xác và êm ru, tấm vách nặng trượt sang một bên. Từ bóng tối phía bên kia, những giọng nói vang lên.

    Sophie lách qua cánh cửa và thấy mình đứng trên một cầu thang bằng đá đục thô xoáy theo hình trôn ốc xuống dưới. Cô đã đến ngôi nhà này từ lúc còn bé, mà không hề biết là có chiếc cầu thang này.

    Càng xuống, không khí càng mát lạnh. Những giọng nói mỗi lúc một rõ hơn. Lúc này, cô nghe thấy cả giọng nam lẫn giọng nữ. Tầm nhìn của cô bị vòng xoáy của cầu thang hạn chế, nhưng lúc này, bậc cuối cùng đã hiện ra. Bên kia bậc này, cô có thể nhìn thấy một mảnh nhỏ của sàn tầng hầm - một khoảng sàn đá bập bùng ánh lửa màu da cam.

    Nín thở, Sophie nhích xuống một vài bậc nữa và cúi xuống để nhìn. Phải mất vài giây, cô mới nhận ra cái mà cô đang nhìn.

    Căn phòng là một hang đá một khoang thô nhám dường như được đục từ khối đá granit của sườn đồi này. Nguồn ánh sáng duy nhất đến từ những cây đuốc cắm trên tường. Trong ánh lửa, trên dưới ba mươi người đứng thành vòng tròn giữa phòng.

    Mình đang mơ, Sophie tự nhủ. Một giấc mơ. Còn có thể là gì khác được chứ?

    Mọi người trong phòng đều đeo mặt nạ, phụ nữ mặc áo thụng mỏng tang màu trắng, đi giầy vàng óng. Mặt nạ của họ màu trắng, họ cầm một quả cầu vàng trong lòng bàn tay. Đàn ông mặc áo chùng đen dài, và mặt nạ của họ màu đen. Trông họ giống những quân cờ vua trên một bàn cờ vua khổng lồ. Mọi người đứng trong vòng tròn đều lắc lư người từ trước ra sau và kính cẩn cầu khấn một vật gì trên sàn trước mặt họ.. một vật gì đó mà Sophie không thể nhìn thấy.

    Tiếng đọc kinh to dần. Nhanh dần. Đến giờ thì vang rền như sấm. Những người tham gia tiến lên một bước rồi quỳ xuống. Trong khoảnh khắc đó, cuối cùng thì Sophie cũng có thể nhìn thấy thứ mà tất cả bọn họ đang nhìn.

    Ngay khi loạng choạng lùi lại vì kinh hoàng, cô đã cảm thấy hình ảnh đó khắc dấu lửa mãi mãi vào kí ức cô. Lên cơn buồn nôn, Sophie quay người, bám chặt vào bức tường đá khi leo lên cầu thang. Kéo cánh cửa đóng lại, cô chạy trốn khỏi ngôi nhà hoang vắng và lái xe trở về Paris trong một trạng thái mò mẫm đầy nước mắt.

    Đêm đó, cảm thấy đời tan nát vì vỡ mộng và bị phản bội, cô đóng gói đồ đạc rồi rới khỏi nhà. Cô để lại một lời nhắn trên bàn ăn.

    CHÁU ĐÃ Ở ĐÓ. ĐỪNG CỐ TÌM CHÁU!

    Cạnh lời nhắn, cô đặt chiếc chìa khóa dự phòng lấy từ nhà chứa củi của nhà nghỉ.


    ***

    - Sophie!

    Giọng Langdon bất chợt xen vào.

    - Dừng lại! Dừng lại!

    Bứt ra khỏi dòng hồi ức, Sophie dận phanh cho xe dừng đánh kít:

    - Cái gì? Cái gì xảy ra thế?

    Langdon chỉ con phố dài trước mặt họ.

    Nhìn thấy quang cảnh đó, Sophie lạnh cả máu. Khoáng một trăm mét phía trước thôi, ngã tư đã bị chặn bởi hai xe cảnh sát DCPJ đậu xiên xẹo, với mục đích hiển nhiên: Phong tỏa đại lộ Gabriel!

    Langdon thở dài rầu rĩ:

    - Nghĩa là dêm nay đại sứ quán nằm ngoài tầm của tôi?

    Phía cuối phố, hai nhân viên DCPJ đứng cạnh xe của mình đang nhìn chằm chằm về phía hai người, rõ ràng là rất tò mò về ánh đèn pha vừa đột ngột dừng ở đầu phố.

    Được, Sophie quay xe lại rất từ từ đi.

    Quay đầu chiếc SmartCar, Sophie thực hiện một cú vòng táo bạo và đổi ngược hướng đi. Khi lái vụt đi, cô nghe thấy tiếng lốp xe rít lên đằng sau. Tiếng còi xe cảnh sát ré lên.

    Vừa nguyền rủa, Sophie vửa nhấn ga tăng tốc.
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2015
  7. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,094
    Mật Mã Da Vinci - Chương 33

    Xem
    Chiếc SmartCar của Sophie cắt ngang khu vực ngoại giao, vòng vèo qua các đại sứ quán rồi lãnh sự quán, cuối cùng ra khỏi một con phố nhánh, rẽ phải để trở lại đại lộ Champs-Elysées to rộng Langdon ngồi trên ghế hành khách, tay nắm chặt đến trắng bệch khớp ngón, vặn mình ngoái nhìn đằng sau xem cảnh sát còn bám theo không. Ông chợt ước giá mình đừng quyết định trốn chạy. Nhưng mày có quyết định đâu, ông tự nhắc mình. Sophie đã quyết định thay ông khi cô ném đĩa GPS qua cửa sổ phòng tắm. Bây giờ, khi họ phóng nhanh khỏi đại sứ quán, luồn lách qua dòng xe cộ thưa thớt trên đại lộ Champs-Flysées, Langdon cảm thấy những phương án của mình đều hỏng. Mặc dù Sophie có vẻ như đã bỏ xa cảnh sát, chí ít là trong lúc này, Langdon vẫn hoài nghi không biết vận may của họ có kéo dài được lâu không.

    Ngồi sau tay lái, Sophie thò tay vào túi áo len, lôi ra một vật nhỏ bằng kim loại rồi chìa cho Langdon:

    - Robert, anh nên xem thứ này đi. Đây là thứ ông tôi để lại phía sau bức Madonna of the Rocks đấy.

    Run lên vì dự cảm, Langdon cầm vật đó và xem xét. Nó khá nặng và giống như hình thập giá. Linh tính đầu tiên bảo là ông đang cầm một pieu tang một dạng thu nhỏ của cây cọc tưởng niệm để cắm trên những ngôi mộ ở nghĩa trang. Nhưng rồi ông để ý thấy thân của thánh giá có hình lăng trụ tam giác. Và còn có hàng trăm lỗ nhỏ tí xíu lục giác, có vẻ được gia công rất tinh vi và không theo hàng lối ngay ngắn.

    - Đó là một chiếc chìa khóa được cắt bằng tia laze.

    Sophie nói với ông.

    - Những hình lục giác đó sẽ được đọc bởi một mắt thần điện tử.

    Một chiếc chìa khóa ư? Langdon chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì giống thứ này.

    - Hãy nhìn phía bên kia đi!

    Cô nói trong khi chuyển làn đường rồi băng qua ngã tư.

    Khi Langdon xoay chiếc chìa khóa, ông cảm thấy quai hàm trễ xuống vì kinh ngạc. Khắc nổi ở trung tâm chữ thập là một bông hoa loa kèn cách điệu và kí tự P. S.

    - Sophie - ông nói.

    - Đây chính là dấu hiệu mà tôi đã nói với cô! Biểu tượng chính thức của Tu viện Sion.

    Cô gật đầu:

    - Như tôi đã nói với anh, tôi đã nhìn thấy chiếc chìa khóa này rất lâu rồi. Ông tôi bảo tôi không bao giờ được nói đến nó nữa.

    Mắt Langdon vẫn dán vào chiếc chìa khóa có hình khắc nổi đó. Cách chế tác bằng công nghệ cao và biểu tượng cổ xưa quyện vào nhau thành một thứ hỗn hợp kỳ bí của thế giới hiện đại và thế giới cổ xưa.

    - Ông tôi nói với tôi chiếc chìa khóa này là để mở một chiếc hộp trong đó ông cất giữ nhiều bí mật.

    Langdon cảm thấy ớn lạnh khi tưởng tượng đến loại bí mật mà một người như Jacque Saunière có thể cất giấu. Một hội kín cổ xưa làm gì với một chiếc chìa khóa vị lai chủ nghĩa, Langdon không sao hiểu nổi. Tu viện Sion tồn tại vì một mục đích duy nhất là bảo vệ một bí mật. Một bí mật chứa quyền năng to lớn không thể tưởng tượng nổi. Chiếc chìa khóa này có thể có gì liên quan đến bí mật đó? Ý nghĩ đó trùm lấp không sao cưỡng nổi:

    - Cô có biết nó mở thứ gì không?

    Sophie có vẻ thất vọng:

    - Tôi đã hi vọng là anh biết.

    Langdon yên lặng xoay xoay chiếc chìa khóa chữ thập trong tay, xem xét nó.

    - Trông nó có vẻ thuộc về đạo Thiên Chúa.

    Sophie nhấn mạnh.

    Langdon không dám chắc về điều đó. Đầu chìa không phải kiểu thánh giá Thiên chúa truyền thống có thân dài mà là một chữ thập bình phương nghĩa là bốn nhánh dài bằng nhau có trước đạo Thiên Chúa một ngàn rưởi năm. Loại chữ thập này không mang một hàm nghĩa Thiên chúa giáo nào về sự đóng đinh câu rút gắn liền thập giá La tinh thân dài do người La mã tạo ra làm dụng cụ tra tấn. Langdon bao giờ cũng ngạc nhiên khi thấy rất ít tín đô Cơ đốc giáo, những người tôn thờ cây thánh giá, hiểu ra rằng lịch sử đầy bạo lực của biểu tượng này được phản ánh ngay trong tên gọi của nó: "chữ thập - cross" và "thập giá - crucifix" đều từ động từ La tinh "cruciare - tra tấn" mà ra.

    - Sophie - Langdon nói.

    - Tôi chỉ có thể nói với cô là những chữ thập nhánh dài bằng nhau như cái này được cho là những chữ thập hòa bình. Hình dạng bình phương của nó khiến nó không sử dụng được vào việc đóng đinh câu rút, và các yếu tố dọc - ngang cân bằng của nó thể hiện sự kết hợp tự nhiên giữa nam và nữ, khiến nó trở thành biểu tượng phù hợp với triết lý của Tu viện Sion.

    Cô mệt mỏi nhìn ông:

    - Anh không biết, phải không?

    Langdon cau mày:

    - Không một manh mối nào.

    - Thôi được, chúng ta phải ra khỏi con đường này thôi.

    Sophie kiểm tra gương chiếu hậu.

    - Chúng ta cần một nơi an toàn để tìm ra thứ mà chiếc chìa khóa này mở.

    Langdon thèm thuồng nghĩ đến căn phòng tiện nghi của mình ở khách sạn Ritz. Rõ ràng, đó không phải là một sự lựa chọn lúc này:

    - Những chủ nhân mời tôi đến giảng ở Đại học Mỹ tại Paris thì sao?

    - Quá lộ liễu. Fache sẽ kiểm vấn họ!

    - Cô hẳn phải quen biết nhiều người chứ. Cô sống ở đây mà?

    - Fache sẽ kiểm tra điện thoại, hòm thư điện tử của tôi, nói chuyện với những đồng nghiệp của tôi. Các mối liên hệ của tôi đều bị rà soát, còn như tìm một khách sạn cũng không phải là một ý hay vì tất cả khách sạn đều yêu cầu xuất trình giấy tờ căn cước.

    Một lần nữa, Langdon lại tự hỏi giá cứ để cho Fache bắt giữ ông tại bảo tàng Louvre có tốt hơn không.

    - Ta hãy gọi đại sứ quán xem. Tôi có thể giải thích về tình cảnh của chúng ta và đề nghị đại sứ quán cử ai đó đến gặp chúng ta ở đâu đó.

    - Gặp chúng ta?

    Sophie quay sang nhìn chằm chằm vào ông như thể ông bị điên vậy.

    - Robert, anh đang nằm mơ. Đại sứ quán không hề có quyền pháp lý ngoại trừ trong phần đất của chính họ. Cử ai đó đến đưa chúng ta về sẽ bị coi là hành động trợ giúp kẻ trốn tránh chính phủ Pháp. Điều đó sẽ không xảy ra đâu. Nếu anh tự đi vào đại sứ quán và đề nghị một chỗ trú ẩn tạm thời, thì đó lại là một chuyện khác, nhưng đề nghị họ hành động chống lại việc thi hành luật pháp Pháp trong lĩnh vực này ư?

    Cô lắc đầu.

    - Cứ thử gọi tởi đại sứ quán của anh ngay đi, và họ sẽ bảo với anh là hãy tránh xa việc phạm pháp và hãy đến tự thú với Fache. Rồi họ hứa hẹn sẽ theo các kênh ngoại giao để anh nhận được một sự xét xử công bằng.

    Cô quay ra nhìn dãy cửa hàng sang trọng trên đại lộ Champs-Flysées.

    - Anh có bao nhiêu tiền mặt ở đây?

    Langdon xem lại ví:

    - Một trăm đô la. Một vài euro. Thế thì sao?

    - Thẻ tín dụng?

    - Tất nhiên!

    Khi Sophie tăng tốc, Langdon cảm thấy cô đang vạch ra một kế hoạch. Ngay phía trước, cuối đại lộ Champs - Elysées, Khải hoàn môn đứng sừng sững - đài kỉ niệm cao 50m do Napoleon dựng để tôn vinh quyền lực quân sự của chính mình được bao quanh bởi bùng binh lớn nhất nước Pháp, một con lộ ngoại cỡ chín làn đường.

    Khi đến gần bùng binh, Sophie lại nhìn gương chiếu hậu:

    - Tạm thời chúng ta đã bứt khỏi họ!

    Cô nói.

    - Nhưng sẽ không kéo dài thêm được năm phút nữa đâu nếu vẫn ngồi trong chiếc xe này.

    Vậy hãy ăn cắp một chiếc xe khác đi, Langdon suy diễn, đằng nào tay cũng đã nhúng chàm rồi mà.

    - Cô định làm gì bây giờ?

    Sophie cho xe chạy quanh bùng binh:

    - Hãy tin ở tôi.

    Langdon không phản ứng gì. Đêm nay, lòng tin chẳng đưa ông đi được bao xa. Vén tay áo lên, ông nhìn đồng hồ, một chiếc đồng hồ đeo tay thuộc loại đồ cổ nhãn hiệu Chuột Mickey vốn là món quà bố mẹ tặng ông hôm sinh nhật lần thứ mười. Mặc dù cái mặt đồng hồ trẻ con đó lắm khi thu hút những cái nhìn kì lạ, nhưng Langdon chưa bao giờ đeo một chiếc đồng hồ nào khác. Những phim hoạt hình của Disney là bài học vỡ lòng đưa Langdon vào sự huyền diệu của hình khối và màu sắc, và Mickey giờ đây làm nhiệm vụ hằng ngày nhắc nhở Langdon phải giữ cho con tim trẻ mãi. Tuy nhiên, lúc này, đôi kim của Mickey đang xoạc ra một góc bất tiện, chỉ một giờ giấc cũng bất tiện: 2 giờ 51 sáng.

    - Chiếc đồng hồ hay nhỉ?

    Sophie vừa nói vừa liếc nhìn cổ tay ông rồi lái chiếc SmartCar quanh cái bùng binh rộng mênh mông, ngược chiều kim đồng hồ.

    - Đó là một câu chuyện dài.

    Ông nói, rồi kéo ống tay áo xuống.

    - Tôi nghĩ ắt là thế.

    Cô thoáng cười với ông rồi ra khỏi bùng binh, hướng về phía bắc, rới xa trung tâm thành phố. Vừa kịp qua hai đèn xanh, cô tới ngã tư thứ ba và rẽ phải vào Đại lộ Malesherbes. Họ rời những con phố giàu có, có hàng cây hai bên đường của khu ngoại giao để đi sâu vào một khu vực Công nghiệp tối hơn. Sophie rẽ gấp sang trái, và một lúc sau, Langdon nhận ra họ đang ở đâu.

    Ga Saint-Lazare.

    Trước mặt họ, cái ga xe lửa mái lợp kính giống như bản sao vụng về của một nhà để máy bay hoặc một nhà kính trồng cây.

    Những ga xe lửa ở châu Âu không bao giờ ngủ. Thậm chí vào giờ này, nửa tá tắc xi vẫn nằm gần lối vào chính. Những người bán hàng đẩy những chiếc xe bánh mì kẹp và nước khoáng trong khi đám thanh niên bụi bặm, ba lô trên lưng, vừa ra khỏi ga vừa rụi mắt, nhìn xung quanh như thể cố nhớ xem mình đang ở thành phố nào. Trên phố trước mặt, hai cảnh sát thành phố đứng trên vỉa hè chỉ lối cho mấy vị khách lạc đường.

    Sophie lái chiếc SmartCar vào sau dãy tắc xi và đậu xe trong một khu đỏ mặc dù còn rất nhiều chỗ đậu xe đúng luật bên kia đường. Trước khi Langdon kịp hỏi chuyện gì đang diễn ra, cô đã ra khỏi xe. Cô hối hả đến bên cửa chiếc tắc xi phía trước họ và bắt đầu nói với người lái xe.

    Khi Langdon ra khỏi chiếc SmartCar, ông nhìn thấy Sophie trao cho người lái xe tắc xi một xấp tiền mặt. Người lái xe tắc xi gật đầu rồi, trước sự ngỡ ngàng của Langdon, phóng xe đi để họ ở lại.

    - Chuyện gì xảy ra vậy?

    Langdon hỏi, đến bên Sophie trên vỉa hè trong khi chiếc xe taxi biến mất.

    Sophie đã hướng về phía cửa chính của ga:

    - Đi nào. Ta mua hai vé lên chuyến tàu sau ra khỏi Paris.

    Langdon vội vã chạy theo cô. Cái điều khởi đầu là cuộc bỏ nhào một dặm tới sứ quán Mỹ nay đã trở thành cuộc bỏ chạy hoàn toàn khỏi Paris. Langdon càng lúc càng không thích cái ý này.
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2015
  8. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,094
    Mật Mã Da Vinci - Chương 34

    Xem
    Người lái xe đón giám mục Aringarosa tại sân bay quốc tế Leonardo de Vinci lái đến một chiếc Fiat nhỏ, màu đen không lấy gì làm oách lắm. Aringarosa nhớ lại cái thời mà tất cả phương tiện đi lại của Vatican đều là những chiếc ô tô lớn, sang trọng, trưng lên nào huy hiệu, nào là cờ có in con dấu của Tòa Thánh Vatican. Những ngày ấy đã qua rồi. Xe của Vatican bây giờ ít phô trương hơn và hầu như không bao giờ mang dấu đặc trưng gì.

    Vatican nói rằng đó là cách cắt giảm chi phí để phục vụ tốt hơn cho giáo phận của họ, nhưng Aringarosa ngờ rằng điều đó nặng về biện pháp an ninh hơn. Thế giới đã trở nên điên loạn, ở nhiều nơi của châu Âu, phô trương tình yêu Chúa Jesus Christ cũng giống như vẽ một mục tiêu ngắm bắn lên mui xe của mình.

    Xốc lại chiếc áo thụng, Aringarosa leo lên ghế sau, an tọa chuẩn bị cho chuyến đi dài đến lâu dài Gandolfo. Nó hẳn cũng giống như chuyến đi cách đây năm tháng của ông.

    Chuyến đi Rôma năm ngoái, ông thở dài. Cái đêm dài nhất trong đời mình.

    Năm tháng trước đây, Vatican đã gọi điện yêu cầu Aringarosa có mặt ngay tại Rôma. Họ không giải thích gì cả. Vé của ông đã được đặt ở sân bay. Tòa Thánh Vatican ráng hết sức duy trì một màn bí mật, ngay cả với những giáo chức cao nhất.

    Những cuộc triệu tập bí mật, Aringarosa đoán, có lẽ là một dịp chụp ảnh Giáo hoàng và các quan chức Vatican khác để quảng cáo cho thành công mới đây của Opus Dei hoàn thành Trụ sở Quốc gia của bọn họ ở thành phố New York. Tờ Architecrural Digest gọi tòa nhà của Opus Dei là "một ngọn hải đăng rực sáng của Chính giáo Thiên Chúa được hội nhập một cách siêu tuyệt vào cảnh quan hiện đại", và gần đây, dường như Vatican bị hấp dẫn bởi bất cứ thứ gì có chứa từ "hiện đại"

    Aringarosa không có chọn lựa nào ngoài việc chấp nhận lời mời, mặc dù miễn cưỡng. Không phải là người ngưỡng mộ sự điều hành của Giáo hoàng hiện tại, Aringarosa, như đa phần giới tu sĩ bảo thủ, đã rất quan ngại theo dõi vị Giáo hoàng thụ nhiệm trong năm đầu tiên của ngài. Là người tự do tư tưởng chưa từng thấy, Đức Cha đã giành được chức Giáo hoàng thông qua một trong những phiên họp Hồng y bất thường nhất và gây tranh cãi nhất trong lịch sử tòa thánh Vatican. Bây giờ, thay vì khiêm nhường về sự đăng quang bất ngờ của mình, Giáo hoàng đã không lãng phí thời gian vào việc phô trương uy lực gắn với cơ quan tối cao trong cộng đồng Cơ đốc giáo toàn thế giới. Lợi dụng một làn sóng náo động ủng hộ tự do chính trị trong trường đại học của các Hồng y giáo chủ, Đức Giáo hoàng giờ đây tuyên bố thiên chức Giáo hoàng của mình là "làm trẻ lại học thuyết của Tòa thánh Vatican và cập nhật Ki tô giáo vào thiên niên kỉ thứ ba."

    Aringarosa sợ rằng sự chuyển đổi là ở chỗ con người này thực sự kiêu kì đến mức nghĩ rằng mình có thể viết lại những giới luật của Chúa và giành lại trái tim của những người cảm thấy yêu cầu của Ki tô giáo đã trở nên quá bất tiện trong một thế giới hiện đại.

    Anngarosa đã sử dụng mọi ảnh hưởng chính trị của mình - khá lớn do quy mô của Opus Dei và ngân sách của họ để thuyết phục Giáo hoàng và các cố vấn của Ngài rằng: nới lỏng giáo luật của Giáo hội không chỉ là thiếu lòng tin, hèn nhát mà còn là tự sát chính trị. Ông còn nhắc nhở họ rằng biện pháp giảm nhẹ giới luật Giáo hội trước đây - thảm bại của Vatican II đã để lại một di hại nặng nề: số người đi lễ nhà thờ giảm xuống mức thấp hơn bất kỳ thời điểm nào, những nguồn quyên tặng cạn kiệt và thậm chí không có đủ linh mục để quản lý các nhà thờ.

    Gíao dân cần sự sắp xếp và hướng dẫn phía nhà thờ, Aringarosa nhấn mạnh, chứ không phải sự nâng niu hay chiều chuộng!

    Tối hôm đó, cách đây mấy tháng, khi chiếc Fiat rời sân bay Aringarosa đã ngạc nhiên khi thấy xe không đi về phía Tòa Thánh Vatican mà về phía đông, lên một dốc núi ngoằn ngoèo.

    - Chúng ta đang đi đâu đây?

    Ông hỏi người tài xế.

    - Khu đồi Alban!

    Gã đáp.

    - Nơi gặp là ở lâu đài Gandolfo.

    Dinh mùa hè của Giáo hoàng? Aringarosa chưa bao giờ đến, hay thậm chí muốn thấy nó. Ngoài chức năng là nhà nghỉ mùa hè của Giáo hoàng, cái tòa thành xây hồi thế kỷ 16 này đã từng là Specula Vatican - đài thiên văn của Tòa Thánh Vatican một trong những đài quan sát thiên văn hiện đại nhất châu Âu.

    Aringarosa xưa nay vẫn khó chịu với cái nhu cầu từ trong lịch sử của Vatican là học đòi làm khoa học. Căn cớ gì mà phải hòa quyện khoa học với đức tin? Khoa học khách quan không thể thực hành bởi một người có đức tin ở Chúa. Mà đức tin cũng chẳng cần đến khoa học để xác nhận một cách vật thể những tín ngưỡng của nó.

    Mặc dù vậy, nó vẫn đó, ông nghĩ khi lâu đài Gandolfo hiện ra, sừng sững trên nền trời tháng mười một đầy sao. Từ con đường vào, Glandolfo trông giống một con quái vật bằng đá khổng lồ đang tính làm một cú nhảy tự sát. Chon von ngay trên gờ một vách đá, tòa lâu đài ngả mình ra bên trên cái nôi của nền văn minh Ý cái thung lũng từng chứng kiến cuộc chiến giữa những thị tộc Orazi và Curiazi, từ rất lâu trước khi lập ra đế quốc La Mã.

    Ngay cả ở dạng bóng in trên nền trời, lâu đài Gandolfo cũng là một cảnh tượng đáng ngắm nhìn một điển hình đầy ấn tượng của kiến trúc phòng thủ nhiều tầng, phản ánh sự đắc dụng của khung cảnh bên vách đá cheo leo này. Đáng buồn thay - giờ đây Aringarosa thấy rõ - Vatican đã làm hỏng tòa lâu đài bằng cách xây dựng hai cái vòm nhôm to tướng chứa kính viễn vọng trên mái, khiến cho tòa kiến trúc từng một thời uy nghi tựa một chiến binh lẫm liệt này trông như đội hai chiếc mũ chóp.

    Khi Aringarosa bước ra khỏi xe, một tu sĩ Dòng Tên trẻ tuổi chạy ra chào ông:

    - Chào mừng giám mục. Tôi là Cha Mangano. Một nhà thiên văn ở đây.

    - Chúc cha tốt lành!

    Aringarosa lầm bầm chào rồi đi theo người đón tiếp mình đến phòng đợi của tòa lâu đài một không gian rộng mở với cách bài trí pha trộn vô duyên giữa nghệ thuật Phục hưng và những hình ảnh thiên văn học. Theo sau người hộ tống lên một chiếc cầu thang đá hoa cương rộng lớn, Aringarosa nhìn thấy những kí hiệu của những trung tâm hội nghị, giảng đường khoa học, và các dịch vụ thông tin du lịch. Ông lấy làm ngạc nhiên khi nghĩ rằng Vatican chẳng bao giờ đem lại được những hướng dẫn mạch lạc và nghiêm ngặt cho sự phát triển tâm linh, nhưng bằng cách nào đó vẫn kiếm ra thời gian để tổ chức những buổi thuyết trình về thiên văn học cho du khách.

    - Hãy nói cho tôi biết..

    Aringarosa nói với vị thầy tu trẻ tuổi.

    - Khi nào thì cái đuôi bắt đầu vẫy con chó?

    Vị thầy tu nhìn ông lạ lùng:

    - Thưa ngài?

    Aringarosa phẩy tay, quyết định không tung ra lời công kích cụ thể nào nữa trong buổi tối hôm nay. Vatican điên mất rồi! Giống như một bậc phụ huynh lười biếng cảm thấy thà chấp nhận những trái thói của đứa con được nuông chiều còn hơn là cương quyết dạy bảo nó về những giá trị, Nhà Thờ chỉ một mực nới lỏng, mọi lúc mọi nơi, cố gắng thay đổi chính mình để thích nghi với một nền văn hóa lầm đường, lạc lối.

    Hành lang của tầng trên cùng rộng rãi, sang trọng, và dẫn về một hướng duy nhất một loạt cưa gỗ sồi lớn với tấm biển đồng:

    BIBLIOTECA ASTRONOMICA

    Aringarosa đã được nghe nói nơi này thư viện thiên văn của Tòa thánh Vatican. Người ta đồn rằng nó chứa tới hơn 25. 000 tài liệu gồm cả những công trình quý hiếm của Copernicus, Galileo, Kepler, Newton, và Sechi. Người ta cho rằng đây cũng là nơi các quan chức cấp cao nhất của Giáo hoàng sắp xếp những cuộc gặp riêng tư.. những cuộc gặp mà họ không muốn diễn ra trong khuôn viên Tòa Thánh Vatican.

    Hẳn lúc đến gần cửa, giám mục Aringarosa không sao tưởng tượng nổi cái tin choáng người ông sắp nhận được bên trong căn phòng ấy, hoặc chuỗi sự kiện chết chóc nó sẽ khởi động.

    Phải một giờ sau, khi loạng choạng bước ra sau cuộc gặp gỡ, ông mới thấm những ngụ ý ghê gớm. Sáu tháng tính từ bây giờ! Ông đã nghĩ. Chúa giúp đỡ chúng con!

    Giờ đây, ngồi trong chiếc Fiat, giám mục Aringarosa nhận ra là mình đã nắm chặt tay lại tử lúc nghĩ đến cuộc gặp gỡ đầu tiên đó ông thả lỏng bàn tay, cố gắng hít sâu, thư giãn cơ bắp.

    Mọi thứ rồi sẽ êm đẹp, ông tự nhủ khi chiếc Fiat đi sâu hơn vào trong núi. Tuy nhiên ông vẫn mong điện thoại di động đổ chuông. Tại sao Thầy Giáo chưa gọi cho mình nhỉ? Lúc này chắc hẳn ở Paris, Silas đã có được viên đá đỉnh vòm.

    Cố gắng thư giãn thần kinh, giám mục suy ngẫm về viên thạch anh tím trên chiếc nhẫn của mình. Sờ thớ dệt của miếng vải trang trí bọc đầu gậy giám mục và các mặt của những viên kim cương, ông tự nhắc mình rằng, chiếc nhẫn này là biểu tượng của quyền lực nhưng còn kém xa thứ quyền lực mà chẳng bao lâu ông sẽ đạt tới.
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2015
  9. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,094
    Mật Mã Da Vinci - Chương 35

    Xem
    Bên trong nhà ga Saint-Laraze cũng giống như mọi nhà ga khác ở châu Âu: một khoảng rộng hoác lác đác những kẻ đáng ngờ thường gặp những người vô gia cư cầm những tấm biển các tông, những sinh viên mắt lờ đờ gối trên ba lô ngủ hoặc đang "phê" theo tiếng nhạc từ những chiếc cát sét xách tay MP3 và những đám phu khuân vác mặc áo xanh phì phèo thuốc lá.

    Sophie nhìn bảng giờ tàu to tướng trên đầu. Những dòng chữ trắng đen chạy qua chạy lại, đảo xuống khi thông tin thay mới.

    Khi quá trình cập nhật kết thúc, Langdon nhìn lên chuỗi thông báo. Hàng đầu tiên là:

    LILLE RAPIDE - 3 giờ 06.

    - Tôi ước gì nó khởi hành sớm hơn!

    Sophie nói.

    - Nhưng bây giờ chúng ta buộc phải chấp nhận bất cứ cái gì.

    Sớm hơn. Langdon nhìn đồng hồ 2 giờ 59 sáng. Chuyến tàu sẽ rời đi sau bẩy phút nữa mà bây giờ họ còn chưa có vé?

    Sophie đưa Langdon về phía cửa bán vé và nói:

    - Hãy mua hai vé bằng thẻ tín dụng của ông.

    - Tôi nghĩ thẻ tín dụng có thể bị truy ra bởi..

    - Chính xác!

    Langdon quyết định thôi không cố gắng đoán trước ý định của Sophie Neveu. Sử dụng thẻ visa của mình, ông mua hai vé đi Lille rồi đưa cho Sophie.

    Sophie dẫn ông đi về phía đường tàu khi một âm thanh quen thuộc vang lên trên đầu họ và hệ thống phóng thanh thông báo lần cuối nhắc hành khách đi Lille lên tàu. Mười sáu đường tàu riêng rẽ trải ra trước mắt họ. Cách một quãng phía bên phải, trên ke số ba, chuyến tàu đi Lille đang phì phò chuấn bị xuất phát nhưng Sophie lại khoác tay Langdon kéo đi về hướng ngược lại. Họ hối hả theo một hành lang nhỏ, vượt qua một tiệm cà phê mở thâu đêm, rồi cuối cùng qua một cửa ngách ra một khu phố vắng lặng phía Tây nhà ga.

    Có độc một chiếc tắc xi đậu cạnh cửa ra vào. Người tài xế nhìn thấy Sophie và bật đèn xe.

    Sophie nhảy vào ghế sau. Langdon vào theo.

    Khi chiếc tắc xi rời khỏi ga, Sophie lấy những chiếc vé tàu mới mua ra, xé nát. Langdon thở dài. Bẩy mươi đô la tiêu được việc đấy.

    Phải đến lúc chiếc tắc xi vút đi về phía bắc trên phố De Gichy trong tiếng động cơ ro ro, Langdon mới cảm thấy họ thực sự thoát hiểm. Ngoài cửa phía tay phải, ông có thể nhìn thấy đồi Montmartre và mái vòm mĩ lệ của nhà thờ Sacre-Coeur. Hình ảnh ấy bị đứt quãng bởi ánh đèn xe cảnh sát vượt qua họ từ hướng ngược lại.

    Langdon và Sophie cùng thụt đầu xuống cho đến khi tiếng còi nhỏ dần.

    Sophie mới chỉ dặn người tài xế tắc xi hướng ra ngoài thành phố thôi và bằng cái quai hàm nghiến chặt của cô, Langdon cảm thấy cô đang cố hình dung ra bước tiếp theo.

    Langdon xem xét lại chiếc chìa khóa hình thánh giá, giơ ra phía cửa xe, đưa lên gần mắt để cố gắng tìm bất kỳ một dấu hiệu nào khả dĩ chỉ ra nơi chế tạo. Trong ánh sáng cách quãng của đèn đường, ông chẳng thấy gì ngoài con dấu của Tu viện Sion.

    - Thật phi lý!

    Cuối cùng ông nói.

    - Cái gì phi lý?

    - Việc ông cô mất bao công phu nhằm để lại cho cô một chiếc chìa khóa mà cô sẽ không biết làm gì với nó.

    - Tôi đồng ý!

    - Cô chắc chắn ông ấy không viết bất kỳ thứ gì nữa đằng sau bức tranh chứ?

    - Tôi đã lục soát toàn bộ chỗ đó rồi. Chỉ có chừng nấy thôi. Chiếc chìa khóa được nhét vào phía sau bức tranh. Tôi nhìn thấy con dấu của Tu viện Sion, đút chiếc chìa khóa vào túi rồi chúng ta rời khỏi đó.

    Langdon cau mày, nhìn kỹ phần cuối hơi bẹt của hình lăng trụ tam giác. Chẳng có gì cả. Nheo mắt, ông đưa chiếc chìa khóa lại gần mắt và xem xét gờ của đầu chìa. Ở đó cũng chẳng có gì cả.

    - Tôi nghĩ chiếc chìa khóa này vừa mới được lau chùi gần đây.

    - Tại sao?

    - Có gì như mùi cồn chà sát.

    Cô quay sang:

    - Tôi chưa hiểu?

    - Nó có mùi như là ai đó đã chà sạch nó bằng thuốc tẩy.

    Langdon đưa chiếc chìa khóa lên mũi và ngửi.

    - Mùi ở phần bên kia mạnh hơn.

    Ông bỏ xuống.

    - Đúng vậy, thuốc tẩy làm từ cồn, giống như được chà bóng bằng một loại thuốc tẩy hoặc..

    Langdon ngừng lại.

    - Cái gì cơ?

    Ông giơ nghiêng chiếc chìa khóa ra ánh sáng rồi nhìn vào mặt nhẵn trên thanh ngang của chữ thập. Nó dường như lấp lánh ở vài chỗ.. như thể bị ướt.

    - Cô có nhìn phía sau chiếc chìa khóa kỹ không trước khi cô bỏ nó vào túi?

    - Cái gì cơ? Không kĩ lắm. Tôi đang vội mà.

    Langdon quay sang cô:

    - Cô vẫn mang chiếc đèn tia cực tím theo chứ?

    Sophie thò tay vào túi và lấy ra cây bút chiếu tia cực tím.

    Langdon cầm lấy, bật lên, chiếu tia sáng vào mặt sau chiếc chìa khóa. Chiếc chìa khóa phát quang ngay lập tức. Ở đó có chữ viết.

    Cách viết vội nhưng đọc được.

    - Ồ!

    Langdon nói, mỉm cười.

    - Tôi đoán chúng ta biết cái mùi cồn là gì rồi.

    Sophie ngạc nhiên nhìn chầm chầm vào dòng chữ màu tím trên lưng chiếc chìa khóa.

    24 Phố Haxo.

    Một địa chỉ! Ông mình viết ra một địa chỉ!

    - Địa chỉ này ở đâu?

    Langdon hỏi.

    Sophie không biết. Quay lại cúi về phía trước, cô phấn khích hỏi người tài xế:

    - Connassez-vous la rue Haxo.

    Người tài xế nghĩ một lúc rồi gật đầu. Ông bảo Sophie là nó ở gần một sân tennis vùng ngoại ô phía tây của Paris. Cô bảo ông đưa họ đến đó ngay lập tức.

    - Đường nhanh nhất là đi qua Rừng Boulogne.

    Người tài xế nói với cô bằng tiếng Pháp.

    - Được chứ?

    Sophie cau mày. Cô có thể nghĩ ra được con đường nào đỡ rắc rối hơn, nhưng tối nay cô không muốn tỏ ra khó tính.

    - Được rồi. Chúng ta có thể làm vị khách người Mỹ này ngạc nhiên.

    Sophie nhìn lại chiếc chìa khóa và tự hỏi họ có thể tìm thấy gì ở 24 phố Haxo. Một nhà thờ? Một thứ tổng hành dinh của Tu viện Sion?

    Đầu cô lại tràn đầy hình ảnh về nghi lễ bí mật mà cô đã từng chứng kiến trong tầng hầm cách đây mười năm, rồi cô thở dài:

    - Robert, tôi có rất nhiều chuyện để kể cho ông nghe.

    Cô ngừng lại nhìn ông chăm chăm khi chiếc tắc xi phóng về phía tây.

    - Nhưng trước hết, tôi muốn ông cho tôi hay mọi điều ông biết về Tu viện Sion này.
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2015
  10. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,094
    Mật Mã Da Vinci - Chương 36

    Xem
    Bên ngoài Salle de Etats, Bezu Fache đang nổi trận lôi đình khi nhân viên bảo vệ bảo tàng Louvre Grouard phân trần việc Sophie và Langdon đã tước vũ khí của anh ta như thế nào. Tại sao cậu không bắn vào bức tranh chết tiệt ấy?

    - Đại úy?

    Trung úy Collet phóng thẳng đến chỗ họ từ đồn chỉ huy.

    - Thưa đại úy, tôi vừa nghe tin. Họ đã định vị được chiếc xe của nhân viên Neveu.

    - Cô ta đến đại sứ quán?

    - Không ạ. Ga xe lửa. Mua hai vé. Tàu vừa khởi hành.

    Fache vẫy tay ra hiệu cho nhân viên bảo vệ Grouard lui ra và dẫn Collet tới một góc tường gần đó, thầm thì:

    - Tàu đi đâu?

    - Lille.

    - Rất có thể đó chỉ là một cái bẫy.

    Fache thở hắt ra, vạch một kế hoạch.

    - Được rồi, trong trường hợp này, hãy canh phòng ở ga tiếp theo, hãy ngăn đoàn tàu lại và lục soát, chỉ là đề phòng thôi. Hãy để xe của cô ta nguyên chỗ cũ và cử các nhân viên mặc thường phục giám sát nó phòng trường hợp bọn họ cô gắng lấy lại chiếc xe đó. Hãy cử một số nhân viên đi rà soát những khu phố xung quanh nhà ga phòng trường hợp bọn họ chạy trốn bằng đường bộ. Xe buýt vẫn chạy từ ga đấy chứ?

    - Giờ này thì không có, thưa đại úy. Chỉ có taxi thôi.

    - Tốt. Hãy đi dò la những người lái taxi. Xem họ có nhìn thấy gì không. Rồi liên hệ với các công ty taxi, kèm theo thông tin miêu tả. Tôi sẽ gọi Interpol.

    Collet có vẻ ngạc nhiên:

    - Đại úy định đưa chuvện này lên mạng đấy ạ?

    Fache biết có thể xẩy ra rắc rối đáng tiếc, nhưng ông ta không còn lựa chọn nào khác.

    Xiết vòng vây thật nhanh và thật chặt.

    Giờ đầu tiên có tầm quan trọng quyết định. Hành xử của những kẻ đào tẩu trong giờ đầu tiên sau khi trốn thoát là điều có thể đoán trước được. Bao giờ chúng cũng cần một thứ giống nhau: Phương tiện đi lại - Chỗ tạm trú - Tiền mặt. Đức Chúa Ba Ngôi. Interpol có đủ quyền năng để làm cho cả ba ngôi đó biến mất trong nháy mắt. Bằng cách gửi những bản fax ảnh của Langdon và Sophie tới ban điều hành giao thông, các khách sạn, nhà băng ở Paris, Interpol sẽ không bỏ sót một hướng lựa chọn nào - không có cách nào rời khỏi thành phố, không có nơi nào để ẩn náu và không có nơi nào để rút tiền mà không bị nhận diện. Bọn đào tẩu thường hoảng sợ trên đường phố, sẽ đi đến chỗ làm điều ngu ngốc. ăn trộm ô tô. Cướp cửa hàng. Sử dụng thẻ tín dụng một cách tuyệt vọng. Bất kỳ một sơ xuất nhỏ nào mà bọn chúng phạm phải cũng sẽ nhanh chóng giúp nhà cầm quyền địa phương tìm ra nơi chúng lẩn trốn.

    - Chỉ nhằm Langdon thôi, phải không ạ?

    Collet nói.

    - Đại úy sẽ không bắt Sophie Neveu chứ. Cô ta là nhân viên của chúng ta mà.

    - Tất nhiên là tôi sẽ bắt cả cô ta!

    Fache gắt.

    - Bắt Langdon còn có ích gì nếu như cô ta có thể làm mọi công việc bẩn thỉu hộ hắn ta? Tôi định rà soát hồ sơ làm việc của Neveu - bạn bè, gia đình, các mối quan hệ cá nhân, bất cứ ai mà cô ta có thể đến nhờ vả giúp đỡ. Tôi không biết cô ta nghĩ gì khi cô ta làm điều đó nhưng nó sẽ làm cho cô ta mất nhiều thứ, không chỉ riêng công ăn việc làm thôi đâu!

    - Đại úy muốn tôi điều hành qua điện thoại hay trực tiếp đến hiện trường?

    - Trực tiếp. Hãy tới ga xe lửa và điều phối hoạt động của cả đội. Cậu nắm quyền chỉ huy nhưng chớ làm điều gì mà không nói cho tôi biết.

    - Rõ, thưa Đại úy!

    Collet chạy ra ngoài.

    Fache cảm thấy cứng ngắc khi đứng trong hốc tường. Bên ngoài cửa sổ, kim tự tháp thủy tinh lấp lánh, phản chiếu lăn tăn trên mặt nước. Bọn chúng đã lọt qua kẽ ngón tay mình. Ông ta tự nhủ.

    Ngay cả một cảnh sát dã chiến được huấn luyện tử tế ắt cũng tự coi là may mắn nếu chịu đựng nổi áp lực mà Interpol sắp thực thi.

    Một nữ nhân viên mật mã và một thày giáo? Họ sẽ không cầm cự được đến lúc bình minh.
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2015
Trả lời qua Facebook
Đang tải...