Xuyến chi hoa Em về xuyến áo lung linh mộng Mảnh mai nắng, uyển uyển chi hoa. ˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳ 1. Tơ nhện gọi sắc trắng bay.. Sớm Tam Đảo chập chùng sương. Phố núi cựa mình ngái ngủ trong cái lạnh trời đông xứ Bắc. Sương như tấm chăn bông, như mây trời gom nắng, ủ mông lung, phủ trắng núi rừng, giăng ngập triền đồi, và long lanh ngọc đọng giọt trên màn tơ nhện, nở đóa Xuyến chi. Xuyến chi nở trong sương, phủ triền đồi, bồi hồi trắng. Màu trắng của sự giản đơn, gắn liền với ánh sáng, sự cân bằng và là biểu tượng của sự khởi đầu. Xuyến chi là sự khởi đầu ấy trong cái ranh giới mong manh giữa trời và đất, cái khoảng cách mơ hồ hư thực nối liền giữa hoài niệm và thực tại, giữa tàn phai và tái sinh, giữa đêm và ngày. Đêm u ẩn màu đen – biểu trưng cho sự thâm u huyền bí, của cái kì, cái hư, vô minh ảo thức, biểu tượng cho thời gian hay những ẩn mật nội tâm sâu kín. Ngày chiêu dung màu trắng – màu của sự khai minh, thức ngộ, biểu tượng cho cái phi thời gian hay những hiển lộ tâm tư, khai triển. Màu đen là môi trường của mọi mầm mống – như C. G. Jung đã nhiều lần nhấn mạnh – nơi đó dung chứa những sự khởi thủy chờ ngày bùng nổ khai sinh tiến về ánh sáng của màu trắng – màu của ánh sáng mặt trời để lại trên nền đất, ám chỉ bình minh trong văn hóa của người Navaho. Xuyến chi trắng ― trắng màu của đất1, màu huyền bí tâm linh và ảo mộng. Xuyến chi sớm nở tối tàn chớp mắt như một giấc mộng, giấc mộng điêu linh minh mộ khởi phát triêu nhan. Sớm sáng trắng bảng lảng mây trời. Chiều khép mắt thâm trầm đất. Sinh từ đất, trắng huyền hồ, tròn giấc trở về đất, xuyến chi kiến tạo một vòng trắng bất tử theo thời gian, có mặt trên khắp mọi miền từ sơn cùng hiểm trở đến bình nguyên đồng cỏ hay triền lộ dọc dài, cả phương Tây và phương Đông. Sắc trắng lặng lẽ cùng mưa gió tháng năm. Lấy dưỡng chất từ đất và nước, thu linh khí từ trời, hoa kết tinh hình hài vũ trụ – đài hoa như chiếc cốc có chân, nơi tiếp nhận hoạt động của trời, ngậm sương, phơi nắng, đón mưa. Giữa phố núi này, đồi tiếp đồi, xuyến chi trải trắng kết thành một thiên đường hoa trong trạng thái yên lặng tuyệt đối – "một dạng hư vô đi trước mọi sự đời, trước mọi cuộc khởi thủy". Là điểm kết của cuộc sống thường nhật, của vũ trụ bao la vô cùng vô tận, đồng thời cũng là điểm khánh chung của thế giới – điểm chuyển tiếp giữa cái hữu hình và cái vô hình, màu trắng được cho là "màu của phương Đông và phương Tây, tức là của hai đầu mút huyền bí, nơi Mặt Trời, thiên thể của tư duy thuộc ban ngày, mọc lên và lặn đi (coi như sinh ra và chết đi) hằng ngày". 2 Đêm, màu trắng bàng bạc rơi giữa núi rừng điểm nguyệt dạ hương sương. Ươm đọt nắng, xuyến chi là nắng, là sương mà cũng là nguyệt. Bóng nguyệt lạnh mơ hồ. Bồng bềnh uyên chi mộng, mà xao xuyến bóng nguyệt mờ. Cái ảo mờ mơ hồ của gió. Cái mơ hồ của mây, của vạn trùng thanh lai, của sắc điệp hoa ngơ ngác giữa rừng xưa hoang dại gọi về sắc đông trắng lạnh màu trắng trên cánh xuyến chi khởi cuộc tái sinh từ nắng. Hoa ươm màu nắng. Nắng như hoa.. ngậm hàm tiếu – rung rinh cười, ửng vành môi – nơi bắt đầu và cũng là đích đến của bao khát khao cho một tình yêu toàn bích mà con người hướng tìm về nhau trong cuộc hiện sinh này, trong hành trình khước vọng tương cầu Chân真– Thiện善 – Mỹ 美. Màu trắng là Chân. Cái giản chân của sự tinh khiết, trinh nguyên. Trắng là màu vô sắc (giá trị sắc màu bằng 0) nhưng gồm thâu trong nó toàn bộ sắc màu của phổ quang. Là vô nhưng thực còn hơn cái thực, cái hiện hữu của muôn màu quang phổ khác. Bạch Từ ư chí thiện. Thoát thai từ một tấm lòng Từ (慈), màu trắng ― bản chất của sự trong sạch, là cái trắng của một tấm lòng hiền lương làm nên giá trị cái Thiện. Cái thiện của xuyến chi trước hết ở tính dược bình đạm, thanh nhiệt, giải độc, khu phong, hoạt huyết, tan máu tụ; cho nên, xuyến chi được xem như một thứ kim đơn thần dược cứu người. Và những cái tên Đơn kim thảo, Cương hoa thảo, Tiểu quỷ châm, Thích châm thảo hay Quỷ châm thảo được đặt cho xuyến chi là vì vậy. Cái thiện của xuyến chi còn ở sắc trắng lặng thầm không kiêu sa như các loài mai, lan, hồng, huệ, không rực rỡ như đào, phô sắc như ly. Xuyến chi trắng bảng lảng thẻ thầm tan trong sắc nắng, hòa vào màu mây, cùng tuyết và sương giá thu về trong vạn mắt biếc thơ ngây ― cái đẹp nguyên sơ giữa núi rừng Tam Đảo còn vương sương giấc tình đêm thu lạnh. 2. Đêm nở trăng sương Lạnh cái lạnh trong bạt ngàn gió lay, trong mênh mang sương khói núi rừng, xuyến chi kết bụi, thân nối thân, cành nối cành, hoa nối hoa. Cánh hoa xâu chuỗi thành đóa trên đài. Mỗi cánh hoa cứ "như những tia sáng phát ra từ một tâm, biến hoa này chủ yếu thành biểu tượng của mặt trời, liên kết từ đó với những ý niệm về sự trường thọ và thậm chí sự bất tử", lặng lẽ tồn sinh "vô vi nhi vô bất vi" (無為而無不為) ― sinh sinh diệt diệt trong trạng thái im lặng nội tâm. Không xen vào mọi sự của đời, mà lại có mặt ở khắp nơi, hòa lòng vào vũ trụ, đơm hoa, kết lá, trải sắc bốn mùa, để rồi từ đó người đời biết đến xuyến chi là Hàm Phong Thảo (咸豐草) ― trong văn hóa người Hoa ― loài cỏ quanh năm tốt tươi với dáng hình tỏa thành nhiều tia như tia sáng của ngọn cây làm cho "nó giao tiếp với mọi giá trị khác, thông qua sự liên hệ với sự tỏa tia của ánh sáng", của mặt trời, mặt trăng, của người và muôn vì tinh tú. Trăng sao là tinh tú của trời. Xuyến chi là tinh tú của đất. Mỗi đóa hoa là mỗi ánh-mắt-nhấp-nháy biết cười, mắt-ướt hát khúc hoan ca, lặng thắp nguồn vui cho hàng triệu giọt sáng giữa trời. Đêm qua đêm, ngày qua ngày, mê mải thì thầm giai điệu sao sương. "Có một nhà thơ – của Trái Đất – Đó là tôi – Những điệu Ly tao của Đất – Vọng vào ống sáo tôi chơi" (thơ Tagore) – đó là xuyến chi (串芝 ), loài hoa cỏ khiêm nhường, là thảo (草― cỏ), mà cũng là chi (芝 ― cỏ thơm), giản dị, gần gũi với đất, gắn liền với sự sống. Lá xanh hoa trắng. Màu xanh của lá làm nền cho màu trắng của hoa bước vào – đó là hình dung đích thực mà đất trời bao dung ban cho loài hoa bé nhỏ sắc màu chân thực về cái vô cùng. Hoa thuộc họ cúc dại (aster) ― loài hoa biểu trưng của mùa thu ― mùa thanh bình, là một chi thực vật có hoa trong họ cúc (asteraceae). Aster trong tiếng Latin mang hàm nghĩa loài hoa thuộc thể sao, thể sao không nhiễm sắc, chỉ trắng một màu tinh khôi. Mỗi đóa hoa nhỏ thắp lên trong gió những đọt nắng, những nụ cười trắng huyền thoại của nữ thần Muse lộng lẫy. Màu trắng vang động những thanh âm vọng từ cõi lặng, như sự thinh lặng hốt nhiên bừng ngộ ― "White resonates, like a silence that can suddenly be understood." (Wassily Kandinsky, 1866 - 1944 ) ― giá trị làm nên sự bất tử của bức tranh White on white của Kazimir Severinovich Malevich( 1878 – 1935) với tuyên ngôn: "Tôi đã tóm được lớp vải lót của thiên đường, tôi đã kéo nó xuống, xé toang ra, biến nó thành chiếc túi, đựng màu sắc vào trong đó, buộc nó lại. Nào, bay thôi! Màu trắng, hố thẳm tự do, cái vô cùng trước mắt ta đó." 3 White on white của Malevich trong hội họa như là sự đối ngẫu tương chiếu với Eye for eye ― tuyên ngôn thơ cụ thể, trong tác phẩm Olho por Olho (Eye for Eye, 1964) của Augusto de Campos (sinh năm1931). Nhưng dù là white on white hay eye for eye thì đó đều là sự dụng công đầy chủ đích của nhà nghệ sĩ nhằm phụng sự cho cái đẹp. Nó gắn với ý thức cá nhân và những mong muốn chủ quan của con người, những hỉ-nộ-ái-ố, những tham-sân-si.. Tuy nhiên, với sự dụng công này, dù sắc màu của white on white có được đẩy đến tuyệt đích hay sự tiếp xúc với thế giới giữa người và người, giữa người và vũ trụ qua lăng kính eye for eye có đạt đến đỉnh điểm của sự thăng hoa thì tất cả cũng không nằm ngoài tâm thức hướng về cái đẹp tự nhiên, cố gắng thoát khỏi những ràng buộc cố hữu, trả cái đẹp về với bản chất tự-nó-là, như-nó-là. Xuyến chi chân như mà đa hợp, sắc đơn nhưng không đơn điệu, đẹp khiêm cung "hữu xạ tự nhiên hương" thanh thoát ẩn ― tú (隱 ― 秀) ― "ngậm không nhả, nhả không lộ", như lời Chu Đôn Hy rằng "giữa muôn hoa có một loài hoa ẩn mình lẩn tránh thế gian". Sự ẩn mình của xuyến chi chính ở sự xuất hiện khắp nơi trong cuộc sống của người. Quá gần gũi và quá quen thuộc, quen thuộc đến nỗi xuyến chi vô hình trung trở thành xa lạ trong mắt những người lại qua. Xa lạ để có thể níu giữ những cái nhìn bâng quơ. Xa lạ để đón bao thị phi rơi rớt. Vẫn mỉm cười ― những nụ cười đầy màu xanh và sắc trắng thả bay theo gió cùng bụi thời gian, tự nhiên như nhiên, xuyến chi nhận rỗng để mà đầy (empty to full) chọn cho mình một thế giới riêng giữa bao la hoang dại ― "một cõi không vô hạn, tuyệt đối tĩnh lặng" ― bên lề cuộc sống vật chất đầy xô bồ tấp nập của người với bao "sự chuyển động, hình và sắc".. Xuyến chi là hình mà cũng là sắc. Hình và Sắc được gợi lên ngay ở tên khoa học của nó là Bidens pilosa . Bidens là hình. Pilosa là sắc. Xuyến chi hoa thuộc họ "lá răng kép". Truy nguyên về nguồn gốc tiếng Latin của tên gọi này, ta thấy bidens pilosa gồm 2 bộ: bidens và pilosa . Trong đó bidens xuất phát từ gốc Bis nghĩa là Two (số 2), double (kép) và Dens nghĩa là Tooth (răng). Còn Pilosa là một hình dung từ có nghĩa là softly hairy (giống tóc/lông nhẹ). Điều đó cho thấy cánh hoa xuyến chi nhỏ mịn màng nhẹ như tóc bay. Nhưng hơn cả nét nghĩa này, pilosa còn ngụ ý diễn tả nét mong manh, tính hư sắc của màu trắng. Pilosa không phải là sắc trắng đơn điệu của white mà đậm chất nữ tính đầy mê hoặc, trắng mi mảnh và buông lơi, tinh khiết và trong suốt đến vô ngần. Pilosa, đó chỉ có thể là transparency, là Blanco ― trong bản trường ca Màu trắng của Octavio Paz (1957 - 1987) : "Transparency is all that remains" ― sự tinh khiết là tất cả những gì còn lại "more than air / more than water /more than lips / Lighter lighter" 4 ― hơn cả không khí / hơn cả nước / hơn cả làn môi / nhẹ tênh nhẹ tênh. Màu trắng với điệp khúc lặp khởi nguyên - more than - đầy ám thị thể hiện sự tiếp nối tâng cấp nhưng hết sức tự nhiên đi từ cái vô cùng - air, water - đến cái cụ thể - lips trong trạng thái lighter - nhẹ tênh trôi bồng bềnh trong cảm giác mà cảm giác, như lời Octavio Paz, là sự hoài thai: perception is conception. Khi ta đang thụ cảm cái gì thì cũng có nghĩa là đang hoài thai sinh tạo ảnh tượng của cái đó trong tâm trí của mình, mà đồng thời ảnh tượng của chính ta cũng đang được sinh ra trong chiều ngược lại, hay nói khác hơn Ta là sự sáng tạo của chính cái ta ngắm nhìn ―I am the creation of what I see. Cho nên, giữa tiết trời sương giá, trên đỉnh Rùng Rình, trong khoảnh khắc đất trời giao thoa giữa đêm và ngày, giữa ánh sáng và bóng tối, người và xuyến chi ngơ ngẩn ngắm nhìn nhau [như một lần Thôi Hộ chiêm ngắm nhân diện đào hoa tương ánh hồng 人 面 桃 花 相 映 紅 5] quên đi cái lạnh đang ngấm vào từng thớ thịt, nằm trải mình trên hoa. Người và hoa cùng ngửa mắt nhìn trời. 3. Đón ngày đơm nắng Trời buông lụa, từng sợi vàng điểm đóa xuyến chi. Sắc đông bỡ ngỡ.. thu về trên màn tơ nhện. Một chú nhện nhỏ bé cô liêu đang tròn xoe đôi mắt. Chú như một dấu nối thời gian đầy chênh vênh giữa mênh mông đất trời. Tấm thân gầy đung đưa búng mình trong gió miệt mài đan tơ, khơi bình minh đánh thức màn đêm trở giấc. Đêm lạnh, bừng mở mắt, run run ngày mới, tinh khôi và mơ màng mộng ― thực. Tơ nhỏ mảnh mai, không ngừng đung đưa trong gió và lặng thầm đọng sương, như xuyến chi, tự mình biết riêng mình ― giữa càn khôn ― thao tiết nhân duyên mà ngộ nhập tương cầu cùng hoa giữ màu cho nắng. Từng sợi tơ bạc đan trên những cánh hoa dệt thảm trắng phủ đỉnh Rùng Rình. Kì lạ thay, đỉnh núi tên Rùng Rình! Nghe tên cơ hồ như núi cũng biết xao động trước hoa mà rùng rình, cựa mình lắng nghe làn hơi thanh khiết ban mai mà lả lơi buông bỏ hồn hoa phi hoa - hoành chỉ thiên nha.. . Lạc vào thế giới của tinh sương, thời gian không gian như chùng lại. Phố núi Tam Đảo như thể khép mình nhỏ lại để nhường thế giới cho muôn loài hoa dại và sương mai rủ bỏ xiêm y còn vương giọt đêm tình, gọi nhau bừng mở mắt, hé môi đón nắng. Bẽn lẽn trắng. Màu trắng cứ bay bay ― phi hoa phi diệp lạc. Từng dải nghiêng đầu hướng về phía bình minh đung đưa thụ hưởng hơi ấm của nắng, sinh tạo nắng và bao sắc phố trắng long lanh trong thế giới của hoa và cỏ dại ― một thế giới của cảm giác tan trong nhục cảm khát khao hoang lạc, thế giới của cái nhìn, của sự chiêm ngắm. Ở nơi đó, chảy trên những lối đi đầy đá nhọn, từng bước chân cứ tan ra trong hư không theo sương rơi từ hoa hòa vào lòng đất. Trong dòng chảy vô thường, đời trôi, hoa rơi ― nước chảy, vạn sự thủy lưu thủy, tay người khép mở, để ngửa lòng nâng cánh xuyến chi đang bung chồi đơm lộc biếc, nghekhông trung dâng vũ điệu vô hình - Những giọt nắng lung linh màu sắc. Vén rèm mi nhìn xuống lòng thung. Từng cánh bướm tung tăng bay lên hoa. Hoa bay lên cùng bướm. Gió rung rung nhịp thở, chợt nhận ra bao điều trong một sớm bỗng nhiên.. ˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳˳ Chú thích: 1. Từ điển biểu tượng Văn Hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng; 2002: "Theo Philon ở Alexandrie, bốn màu thâu tóm toàn bộ vũ trụ, biểu trưng cho bốn nguyên tố cấu thành: Đất – trắng; nước – xanh; không khí – tím; lửa đỏ."; Tr. 563. 2. Từ điển biểu tượng Văn Hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng; 2002; Tr. 942. 3. Twentieth–Century Artists on Arts, ed. By Dore Ashton, NY: Pantheon Books, 1985, tr. 36-38 4. Blanco là danh từ trong tiếng Tây Ban Nha đồng nghĩa với từ white trong tiếng Anh, có nghĩa là màu trắng . Đây là tên của một bài thơ của nhà thơ Octavio Paz (Tây Ban Nha, 1957 - 1987). 5. Một câu trong bài thơ Đề đô thành nam trang củaThôi Hộ . Dưới đây là Nguyên tác bằng chữ Hán: 題 都 城 南 莊 去 年 今 日 此 門 中, 人 面 桃 花 相 映 紅 . 人 面 不 知 何 處 去 ? 桃 花 依 舊 笑 春 風 .