Xuân buồn Tác giả: Gustav Đã lâu rồi tôi chưa về thăm quê. Tôi vừa mới mất công việc văn phòng ở thủ đô nữa, thành thử tâm trí tôi tự động nhung nhớ về sự an tĩnh nơi miền quê, tiếng chim chóc líu lo sau nhà, khoảnh vườn xum xuê tươi tốt, và, sau cả, là gia đình. Thế là, tôi xin nghỉ Tết trước ba hôm ở cửa hàng (tôi định bụng sẽ về từ Tết dương nhưng rồi, không hiểu một sự tình cờ oái ăm nào níu tôi lại, tôi đã xin một công việc bán quần áo tạm thời) rồi bắt một chuyến xe ghép cuối ngày về tỉnh nhỏ. Làng mạc vẫn thế, tôi ngửi thấy mùi cỏ cháy từ lúc ở bến phà và dọc đường đi, tôi cố gắng hít vào lồng ngực bầu không khí quang đãng mà trong suốt một thời gian dài, thủ đô đã tước đi ở tôi, cái niềm khoan khoái nhỏ nhoi vụng dại ấy. Khi tôi về tới nơi, trời đã nhá nhem tối, các nhà đều cửa đóng then cài. Tôi rảo bước trên con ngõ nhỏ, chốc chốc lại bị thu hút bởi ánh đèn điện phảng phất từ gian khách một ngôi nhà nào đấy, nơi cả gia đình đang quây quần bên mâm cơm. Mọi người trong nhà tiếp đón tôi khá hờ hững so với những gì tôi kỳ vọng, có vẻ họ không kịp biểu đạt trước chuyến viếng thăm tùy hứng này (trước đó tôi đã đánh điện về quê và, ra giọng tiếc nuối, nói rằng đến lễ tất niên tôi mới về được). Cô em họ của tôi dọn cho tôi một bữa ăn qua loa, đương lúc ăn chúng tôi trao đổi vài câu về tình hình công việc của bản thân dạo này. Tất nhiên, tôi không muốn người khác, kể cả là người nhà chăng nữa, can dự hoặc, chiếm lĩnh được đôi chút ảnh hưởng nào tới những sự kiện trong đời mình, nên tôi bấm bụng là sẽ giấu nhẹm chuyện bản thân thất nghiệp và cứ thế, tôi nói năng như thể mình vẫn còn gắn bó với chỗ làm cũ. Tôi cứ cắm cúi ăn, cốt cho nhanh để thoát khỏi những câu hỏi có phần tọc mạch và tới tấp như một màn lục vấn này, và tôi trở về nhà, nhìn ngắm chiếc giường mến yêu, đi ngủ còn sớm hơn thường lệ. Ngay ngày hôm sau, sự buồn chán của tỉnh lẻ đã choán lấy tôi, đẩy tôi vào vòng luẩn quẩn, mà những suy nghĩ rối như tơ vò lởn vởn diễu qua, cái sau nối đuôi cái trước, nhưng chúng đồng loạt xoay quanh tâm điểm là tôi. Cảnh quạnh hiu nơi đồng quê cho tôi không gian để suy tư về đủ thứ chuyện trong cuộc đời tôi từ trước tới nay, cứ như giờ đây tôi được trao một năng lực để ngắm nhìn nó như một khán giả, và từng sự kiện, từng gương mặt, con người, mọi thứ, cứ sán lại gần tôi trước mắt tôi như một đàn chó xun xoe bên chủ nhân; ban đầu chúng ở gần rồi lại dạt ra xa như những triền sóng nhấp nhô, đều đều. Tôi nhớ về tuổi thơ của mình. Tuổi thơ của tôi thật đẹp xiết bao. Tôi vẫn nhớ một sớm mùa đông khi tôi chỉ cao tới ngang thắt lưng tôi bây giờ, ba người bạn của tôi tới nhà rủ tôi cùng đi học. Bọn chúng trông như ba chú lính chì, đứng thập thò trước ngưỡng cổng nhà tôi, đương lúc tôi ngồi trên giường còn bà nội hì hục xỏ cho tôi tất chân, tất tay và còn choàng thêm một cái khăn to tướng trên cổ như thể tôi vắt trên vai cả một con trăn, giống mấy anh chàng ở gánh xiếc, mà thi thoảng thầy cô ở trường tiểu học vẫn phát vé miễn phí cho bọn học sinh tụi tôi. Vì ở quê chẳng gặp lấy một mặt quen nào, tôi đành phải dò la từng li từng tí, nhặt nhạnh qua những mẩu chuyện giữa người này người kia, để nắm được tung tích tụi bạn tôi thời bé. Rồi, chuyện trò quẩn quanh, như mọi con đường đều dẫn về một ngả, tôi bắt gặp những ký ức về Lan, phất phơ ngay kia như dàn treo quần áo đang phe phẩy trước hiên nhà cô. Lan với tôi bằng tuổi nhau, và hai đứa tôi thường được các bà các cô gán ghép cho nhau như một đôi búp bê chỉ bán theo cặp. Thú thực thì tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại gọi cô bằng Lan, bởi tên trên giấy khai sinh của cô là Hoa. Hồi bé, những lúc không biết phải đi đâu, tôi thường tạt ngang nhà cô, như cái cách người ta gọi bừa một món ăn, hoặc một thức uống, khi vào quán mà không hài lòng trước sự thiếu đa dạng của menu. Thế rồi tôi lên lớp sáu, tôi chuyển sang trường cấp hai trên thành phố còn cô vẫn tiếp tục học ở quê, những lần gặp mặt giữa chúng tôi thưa thớt dần rồi ngớt hẳn, cứ như mưa mãi rồi cũng phải tạnh vậy. Tuổi dậy thì đã lấy đi của cô vẻ hồn nhiên tươi tắn, và cô trông có vẻ không còn như xưa nữa. Dù sao thì tình bạn giữa chúng tôi đã mai một ít nhiều, dù thi thoảng, vào những năm lớp bảy hay lớp tám gì đấy, tôi vẫn theo thói cũ ghé ngang nhà cô, quẩn quanh chẳng vì mục đích gì cả. Thấy tôi cô vẫn cười, rồi cô nói với tôi rằng cô từng thích tôi lắm, thích từ những ngày còn bé và tất thảy tụi con gái trong lớp cấp một của tôi đều là tình địch của cô hết. Tôi mới lượn qua nhà cô tầm chiều nay, tôi dừng lại để hình dung căn nhà nho nhỏ xưa kia đã bị san bằng và thay vào đó mọc lên một căn biệt thự bề thế màu trắng toát như tấm ga trải giường ở các khách sạn. Ngôi nhà im lìm và trông không có vẻ gì là có người ngụ ở trong đó cả, nhưng khi tôi hỏi bà tôi rằng có phải nhà đó đã định cư hẳn bên hải ngoại không thì bà tôi đáp rằng chỉ có mẹ và cô con gái ở bên nước ngoài thôi, còn ông chồng thì vẫn vun vén ở bên này. Tôi đã cắt đứt liên lạc với cô từ lâu lắm rồi, bận tôi lên đại học thì cũng là lúc cô sửa soạn đi du học, hay xuất khẩu lao động gì đấy. Tôi từng bông đùa với cô rằng nếu tới năm ba mươi tuổi mà cô vẫn ế chồng, tôi sẽ tới hỏi cưới cô về làm vợ. Không biết cô còn nhớ lời hứa con trẻ đó, mà tôi thốt ra tự nhiên như đút một viên kẹo vào miệng, để làm vui chính mình nhiều hơn làm vui cô, hay không. Có lẽ là quên rồi. Những ngày Tết ảm đạm lũ lượt kéo qua, đường phố vắng teo, mình tôi lang thang khắp các chốn. Tôi đi tảo mộ, dạo qua ao nước ngày bé tụi chúng tôi thường trốn cha mẹ lên tắm giữa trưa hè. Cả một triền đồi giờ trông nham nhở đến thảm thương, người ta dựng một xưởng khai thác đá nằm giữa mỏm đất rồi bành trướng nó ra, tới nay họ đã đẽo mất cả một chỏm núi. Mỗi lần về quê, tôi đều phải đi qua cung đường đó, nơi tôi nhìn thấy cái vũng nước tù đọng, là bãi đất trồng keo trước kia tụi tôi thường kéo nhau lên. Tôi từng đưa người yêu cũ của mình ra mỏm đất đó, vào mùa xuân năm tôi mười chín tuổi. Giờ thì cô nàng đã ra trường rồi và lặn lội ở phương trời nào tôi đâu có biết. Có lẽ cô về quê xin vào làm ở một ngân hàng, vì trước kia tôi có hay chuyện nhà cô là chỗ quen biết với ngân hàng. Dạo trước mất ngủ, tôi thường hay nhớ nhung cô, tôi nhớ về những tháng ngày gian nan thuở mới lên thủ đô lập nghiệp, nhớ về cái lần tôi phải cảm giữa đêm và ánh nhìn nửa hờn dỗi nửa vỗ về của cô khi đứng chờ tôi dưới chân cầu vượt, khi bác tài xế thả tôi ở dọc lề đường để tôi tự đi bộ một quãng ngắn. Nhưng thôi, sao phải nghĩ về cô ta cơ chứ! Xóm tôi ở là một xóm nghèo nằm ngay dưới rặng núi. Dân cư ở đây phần lớn là dân lao động, các ông bác từng tham gia trận mạc giờ an phận thủ thường với đồng lương hưu còm cõi, một chiếc xe cà tàng và một bà vợ hay cằn nhằn. Ông tôi là một người như vậy. Cả đời tôi chưa thấy ông đi xe máy bao giờ, vì ông không biết đi và cũng chẳng chịu tập đi. Dạo bé, ông thường hay chở tôi đi học, đi chơi bằng chiếc xe đạp mini Nhật, nhưng bảy năm trước ông va phải một ca đột quỵ và liệt hẳn. Xuyên suốt những năm cấp ba, tôi thường dậy sớm đèo ông tới bệnh viện, vào lúc trời còn chạng vạng và trời rét mướt quất vào da như kim châm. Tôi thả ông ở khúc ngã ba, nơi có các quầy ăn sáng để ông tôi mua vài chiếc bánh mì. Một lần, tôi vô tình, hoặc cố tình chăng, để ông ngã chổng vó từ trên yên xe và khi ông tôi nằm phủ phục trên nền đất rồi, tôi còn ngơ ra một lúc cứ như thể đầu óc tôi chưa kịp định hình nổi chuyện gì đang diễn ra. Cô bán đồ ăn sáng chạy vội tới đỡ ông tôi dậy và trách tôi rằng tôi quả thực vô tâm. Tôi không nhớ, nhưng tôi cũng tới đỡ ông dậy và chở ông tôi vào viện như thường lệ, rồi tôi tới lớp. Mãi đến sau này, cho tới tận ngày ông tôi mất và sau ngày ông mất, mỗi lần nhìn vào di ảnh ông, tôi lại nghĩ về cái ngày đó, như vị khách không mời mà tới, tôi nhớ lại khuôn mặt, nụ cười của ông tôi, cùng vòng bụng tròn vo như cái chum mà tôi thường bấu chặt mỗi lần ngồi sau xe ông khi ông chở tôi vào thị trấn những ngày tấm bé. Những ngày Tết thế này, tôi thường tản bộ như một cách nhẩn nha giết thì giờ. Tôi đi dọc đường ray tàu hỏa, vài bước lại bắt gặp một dáng người thân quen, và người ta tỏ ra hết đỗi bất ngờ, nói: "Ơ này, thằng cháu mới đi nước ngoài về hả?" Hoặc: "Lớn tướng rồi nhỉ. Mới ngày nào mình còn ẵm nó trên tay." Hoặc: "Tết nhất xong hết rồi đấy phỏng?" Tôi cười mỉm đáp lại rồi tiếp tục lẩn thẩn trên đường ray, băng ngang những hàng cây bạch đàn, mà thân cây bị đục lỗ chỗ vì bị tụi trẻ con thi nhau đáp đá cuội vào. Tôi nhớ một lần hồi bé, một thằng trong tụi tôi có vô tình ném đá trúng đầu một cô lao công phía dưới và cô lập tức dựng chân chống xe, xén bụi rậm leo từ dưới lên. Khi cô lên tới nơi thì bọn trẻ cũng tẩu thoát rồi, thế là cô đành thở dài, trở xuống, tiếp tục công việc bẩn thỉu dở dang của mình. Hồi tưởng này kéo tôi sang người chị họ của tôi, chị kém tôi một tuổi. Chị sắp lấy chồng, chỉ vài ngày nữa thôi. Ông bà tôi muốn tặng chị một cây vàng nhưng ông bà già rồi thì lấy đâu ra tiền, vậy là ông bà xin rút lại chỉ còn một chỉ và bà tôi lại nói rằng đợi tới ngày tôi cưới vợ, bà cũng sẽ tặng tôi một chỉ và rằng cháu nào thì cũng là cháu, tức là như nhau cả thôi. Chị họ tôi từng đáp đá từ trên đường ray xuống trúng đầu thằng bạn thân của tôi, khiến cậu này khóc váng lên như mẹ vừa mới qua đời, trong lúc đó, bà tôi tất bật chạy về nhà lấy vội một chiếc khăn trùm lên đầu cậu. Chỉ một lúc sau chiếc khăn trắng chuyển sang màu máu, và bà tôi đem liệng xuống con đập, là nơi dân xóm tôi thường chất rác, và vẻ mặt bà lấm lét như thể vừa phi tang một hung khí. Bà dặn cả ba chúng tôi không được nói chuyện này với ai. Gần đây tôi có gặp lại người bạn đó, nó vừa hết hạn quân dịch, khi tôi đả động tới vụ đó thì nó lắc đầu nguầy nguầy và nói rằng nó chẳng nhớ gì cả. Tôi cất công thêu dệt lại cảnh tượng lúc đó nhưng nó vẫn không nhớ, thế là tôi đành hoài niệm một mình và suy cho cùng thì cũng chỉ có tôi hay nhớ mấy thứ cỏn con như vậy, như trước nay vẫn thế. Người bạn này, mà tôi thường gọi đơn giản là Bờm, hơn tôi hai tuổi và chúng tôi duy trì một tình hàng xóm khăng khít cho tới mãi một năm trước, khi gia đình cậu dọn ra làng ngoài. Cậu cao ráo, trắng trẻo và có mái tóc khiến tôi từng phải mơ mộng rằng: "Ước gì mình có mái tóc như thế." Nó bồng bềnh, dễ tạo kiểu, và nhìn chung là nó giống như mái tóc của những anh chàng người Tây trong các áp phích minh họa tại các hiệu barber. Giống như tôi, những năm lớp mười hai, cậu cũng hì hục tìm cách chen chân vào trong ngành, trở thành một anh công an, ngày ngày diện đồng phục thẳng thớm, giương đôi mắt nhìn đời và uy nghi lướt ngang phố phường như một anh cán bộ quèn ở cái xóm nhỏ mà nếu ở trên bản đồ thì chỉ xứng đáng chiếm lấy một chấm nhỏ tí hon, chẳng khác nào một hạt bụi vương vãi. Suốt mấy ngày Tết, tôi và Bờm chỉ quẩn quanh bên bàn bida, rồi lại về nhà, ăn uống, tạt qua nhà họ hàng, rồi cậu lại rủ tôi ra quán bida; tôi thì, thường nằm dài trên giường nhấm nháp vài trang sách, ngán ngẩm vì những câu chữ dần trở nên không sao chịu đựng nổi; thành thử, khi cậu cất tiếng gọi tôi, thì cái tiếng ấy cũng như hồi tù và, kéo tôi ra khỏi những mộng tưởng, đặt tôi về với thực tại. "Mẹ tao năm nay mới thế mà đã năm mươi rồi đấy," Bờm nói. "Mày trông mẹ tao có giống năm mươi không?" Mẹ Bờm nom còn trẻ, vậy nên tôi không giấu khỏi sự bất ngờ cứ như thể vừa phát hiện ra một chân lý. Tôi gật gù đầu như cách tôi chấp nhận sự bất khả vãn hồi, tính chóng vánh của thời gian. Bờm hẳn là một cậu con ngoan, cậu ta nói sẽ không đời nào trở lại Hà Nội nữa vì không muốn sống xa cha mẹ. Chốn thủ đô, với cậu, không khác nào một vũng sình lầy, và tất thảy những ai (cậu nháy mắt với tôi để ra điều rằng tôi là một trong số đó) cố gắng bám trụ lại đó chẳng khác nào những con trâu đi cày, chen lấn nhau. Cậu khích bác tôi về chuyện nhà ở cách chỗ làm ba cây số nhưng mất tới một tiếng đi xe. Cậu bảo tôi hãy thu dọn về quê, sống một cuộc đời nhàn tản, không tranh đua đấu đá làm gì cho mệt cả. Hãy kiếm lấy một công việc tạm bợ nào đó, vì tôi "vẫn có thể viết lách vào buổi tối mà." Tôi nở một nụ cười bạc bẽo khi cậu nói tới việc "lập nghiệp ở quê nhà", vì tôi không tin cái chốn khỉ ho cò gáy này, dẫu có vẻ thênh thang là thế, không đời nào chứa chấp con người tôi, và sự cằn cỗi nơi đây sẽ kìm hãm, triệt tiêu mọi cao vọng trong tôi từ trước tới nay. Cảnh an tĩnh ở quê nhà thật thích hợp để viết lách, dù rằng cứ tí chút tôi lại bị ngắt quãng, bởi tiếng gọi í ới của bà nội gọi tôi ra phụ việc, hoặc tiếng nghêu ngao của đám mèo hoang trong đêm vắng. Ở quê rất lắm mèo hoang. Tôi có rất nhiều điều muốn viết nhưng tôi không biết phải sắp xếp các ý tưởng của mình ra sao, vậy nên tôi chỉ lật lại những bản thảo cũ, đọc lướt qua chúng vì tôi thường viết dài hơn dung lượng lý tưởng, rồi tôi chán, tôi đọc sách và tôi ngủ quên mất, cho tới khi cuộc gọi từ một người bạn cũ khiến tôi sực tỉnh, đương lúc tôi chỉ vừa chớm chạm tới ngưỡng cửa của giấc mơ đang đón chờ tôi. Chúng tôi đi tới một tiệm cà phê, chọn một góc ngồi thoáng đãng nhất để trông ra mặt đường. Sự lựa chọn ở đây quả thực rất giới hạn, vì tôi nêu tên thức uống mà tôi thường hay uống ở những quán cà phê trên Hà Nội thì nhân viên đều ngúng nguẩy như thể tôi đang nói một ngôn ngữ mà cậu ta không hiểu, thế là tôi đành gọi cho mình một bạc sỉu. Nhân viên đã cho quá nhiều sữa đặc, tự tôi pha lấy thì tốt hơn. Chuyện trò bâng quơ được một hồi, cô bạn ấy rủ tôi đi bắn bida. Vì quán bida ở ngay cạnh nên tôi cứ để xe luôn ở quán cà phê rồi đi bộ sang, tới nơi thì tôi gặp vài gương mặt thân quen, chầu trực ở đó từ đầu giờ chiều rồi, có lẽ. Đã lâu lắm rồi tôi không chơi bida và tôi cũng chẳng thiết tha hay đoái hoài gì tới bộ môn này, nhưng ở quê tôi thì nhìn chung nếu không đi bắn bida thì người ta chẳng còn biết phung phí thời giờ vào đâu cả. Chúng tôi chơi ba, bốn hiệp rồi tôi nói rằng đã tới lúc phải về rồi, thế là cô ta tranh phần thanh toán và chúng tôi mở cửa bước ra ngoài. Tôi nói tôi muốn đi bộ, vậy là chúng tôi cùng tản bộ một vòng, thong dong như cách chúng tôi thường bước cùng nhau trên sân trường thời cấp ba. "Có muốn đi thăm cô giáo cũ không?" cô ta hỏi tôi, rồi tôi nói rằng tôi chẳng ngại gì cả, vì dù gì giờ nếu có về nhà thì tôi cũng chỉ nằm giường đọc sách chờ tới giờ ngủ mà thôi. Vậy nên chúng tôi đã đánh điện cho cô giáo chủ nhiệm thời cấp ba của tôi và khi cô bắt máy và nói rằng cô đang trên đường từ quê ngoại về tới đây, chúng tôi tản bộ thêm một vòng rồi ra nhà cô. Khi nhìn thấy tôi thập thò ở ngưỡng cửa, cô đã đón chào tôi bằng cái nhìn đầy dung thứ (dù tôi chẳng bao giờ làm sai với cô điều gì nhưng tôi luôn cảm thấy ở ánh mắt cô có gì đó như sự vị tha trước mọi lỗi lầm tôi mắc trong đời mình), rồi tôi mở cửa và bước vào trong. "Cởi áo khoác ra cho cô xem nào", cô nói, và tôi cởi áo khoác rồi gấp gọn nó lại để trên ghế. "Gầy quá", cô lại nói, và cô nhăn mặt làm vẻ xót ruột vì tôi đối với cô có khác nào một thằng con trai, thế là tôi nhớ tới cái lần hai năm trước đây cô từng hỏi tôi có muốn làm con nuôi của cô không. Cô có hai thằng con trai và cô cũng chẳng ngại có thêm một thằng thứ ba đâu. Đã ba năm rồi tôi không vào thăm cô, kể cả những dịp lễ tết có lượn lờ ở quê cả tuần trời tôi cũng chẳng bén mảng tới nhà cô, và tính tôi thì cũng chẳng phải dạng sống tình cảm hay gì sất, tôi không bao giờ gọi điện hỏi thăm cô gì cả. Tất cả những gì cô biết về tôi, có lẽ chỉ gói gọn trong ba năm cấp ba, và nhiều khi tôi ghét cô vì cô cứ đối đãi với tôi như thể tôi vẫn là cậu nhóc ngỗ nghịch năm nào, cứ như đối với cô, hoặc đối với các vị thầy cô giáo cũng nên, ký ức của họ mãi chỉ xoay quanh tuổi mười tám, mười chín. Tôi có nhiều thứ để kể cũng như nhiều chuyện để viết vậy, nhưng nếu tôi có thể viết ra để rồi chẳng mong có ai đó sẽ hiểu những điều mình viết thì khi tôi thổ lộ tâm tư của mình, giống như tâm hồn tôi là một căn phòng và tôi đã cất công mở then cửa đó ra thì tôi luôn mong có người đứng sẵn ngoài cửa đợi tôi mời họ vào. Nói chung là tôi mong người ta sẽ hiểu tôi, nhưng tôi không hiểu họ cũng như họ không hiểu tôi vậy, thế nên mọi cuộc trò chuyện đều đi vào ngõ cụt và chẳng mấy tôi thở dài, bơ vơ liếc lên trần nhà; thân hình cô, gương mặt cô, như nhòa đi rồi trở thành trong suốt, mà tôi có thể ngắm nhìn trắc diện mình xuyên qua, đối chất với chính mình trong tấm gương gắn tường. Cô trẻ quá, còn trẻ hơn hồi bốn năm trước nữa, còn tôi thì khác đi biết bao. Những cuộc trò chuyện thế này thật ảm đạm, vô vị, nhạt nhẽo như chính những cung đường tôi lượn qua, vào giờ nhà nhà rủ nhau quây kín rèm, còn những hàng quán bắt đầu trưng đèn đón khách. Làn sương ẩm ướt như thấm vào lồng ngực của tôi lúc tôi lướt ngang đại lộ, thẳng tiến về nhà mình, đầu óc như một căn nhà trống, và con đường trải dài ra tới cuối chân trời, vừa như gọi mời tôi, vừa như xua đẩy tôi. Tôi nhớ lại cảnh tắc đường ở Hà Nội, đâm ngán ngẩm vì chỉ vài ngày nữa thôi là tôi phải trở về cái cũi ấy rồi, và tôi sẽ hùng hục như một con trâu đi cày, mỗi sáng mỗi chiều, để vì cái gì không biết. Rồi, tôi nghĩ tới những khuôn mặt từng thân quen, thấp thoáng ẩn hiện trong trí nhớ của tôi, nhập nhoạng như ánh hoàng hôn cuối chiều buông rủ xuống làn nước phẳng lặng. Vài hình người tản mác chơi bóng chuyền phía xa xa, cái mỏm đất chỏng chơ khi xưa tôi thường ra ngồi nghĩ ngợi linh tinh. Mọi thứ đã xa rồi, xa lắm rồi. Những con người cũ, cung đường cũ, quán ăn cũ, đều vuột khỏi tầm của tôi, và vòng tròn bao quanh tôi, chẳng chốc rồi thu hẹp lại, tới khi chỉ còn một mình tôi, ở giữa trung tâm của vòng tròn đó, mà mọi suy tư, tình cảm, ước vọng, đều xoay quanh bản thân mình.
Tôi nghĩ bạn xuất thân từ tỉnh lẻ, nhưng do có ước mong làm giàu đổi đời nên mới đi lên Hà Nội lập nghiệp. Và bạn chán cái cảnh cảnh còn người mất, lòng người đổi thay vì những người ở quê đối xử, phân biệt với nhau qua đồng tiền, giai cấp xã hội. Tôi nghĩ bạn xuất thân không giàu có gì nhưng là 1 người có tham vọng lớn. Tôi cũng từng như bạn, trải qua tình người ấm lạnh, lòng người đen bạc vì tôi từng bị bạn bè học chung khinh thường, xa lánh do điều kiện kinh tế nên hiểu vài phần suy nghĩ của bạn. Tôi mất gần 15 phút để đọc bài viết than thở dài như viết sớ của bạn và viết cái comment này, công nhận tôi cũng rảnh thật.