Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh - Văn Chiêu Hồn - Nguyễn Du

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Vân Mây, 5 Tháng tám 2018.

  1. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Văn Chiêu Hồn - Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh

    Tác giả: Nguyễn Du

    Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,

    Toát hơi may lạnh buốt xương khô,

    Não người thay buổi chiều thu,

    Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.

    Đường bạch dương bóng chiều man mác,

    Ngọn đường lê lác đác sương sa,

    Lòng nào là chẳng thiết tha,

    Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

    Trong trường dạ tối tăm trời đất,

    Có khôn thiêng phảng phất u minh,

    Thương thay thập loại chúng sinh,

    Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.

    Hương khói đã không nơi nương tựa,

    Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,

    Còn chi ai quí ai hèn,

    Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?

    Tiết đầu thu lập đàn giải thoát

    Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi

    Muôn nhờ đức Phật từ bi,

    Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.

    Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,

    Chí những lăm cướp gánh non sông,

    Nói chi những buổi tranh hùng

    Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.

    Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở

    Khôn đem mình làm đứa sất phu,

    Lớn sang giàu nặng oán thù,

    Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.

    Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,

    Quỷ không đầu than khóc đêm mưa

    Cho hay thành bại là cơ

    Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!

    Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,

    Những cậy mình cung quế Hằng Nga,

    Một phen thay đổi sơn hà,

    Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?

    Trên lầu cao dưới cầu nước chảy

    Phận đã đành trâm gãy bình rơi,

    Khi sao đông đúc vui cười,

    Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.

    Đau đớn nhẽ không hương không khói,

    Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.

    Thương thay chân yếu tay mềm

    Càng năm càng héo, một đêm một rầu.

    Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,

    Ngọn bút son thác sống ở tay,

    Kinh luân găm một túi đầy,

    Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.

    Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,

    Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,

    Nghìn vàng khôn đổi được mình

    Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?

    Kẻ thân thích vắng sau vắng trước

    Biết lấy ai bát nước nén nhang?

    Cô hồn thất thểu dọc ngang,

    Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hóa sinh.

    Kìa những kẻ bài binh bố trận

    Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.

    Gió mưa sấm sét đùng đùng,

    60. Dãi thây trăm họ nên công một người.

    Khi thất thế tên rơi đạn lạc,

    Bãi sa trường thịt nát máu rơi,

    Bơ vơ góc bể chân trời,

    Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?

    Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,

    Khí âm huyền mờ mịt trước sau,

    Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,

    Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

    Cũng có kẻ tính đường trí phú,

    Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,

    Ruột rà không kẻ chí thân

    Dẫu làm nên để dành phần cho ai?

    Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,

    Của phù du dẫu có như không,

    Sống thời tiền chảy bạc ròng,

    Thác không đem được một đồng nào đi.

    Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm

    Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm

    Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm,

    Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?

    Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý

    Dấn mình vào thành thị lân la,

    Mấy thu lìa cửa lìa nhà,

    Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?

    Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,

    Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,

    Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,

    Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.

    Bóng phần tử xa chừng hương khúc

    Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,

    Cô hồn nhờ gửi tha phương,

    Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.

    Cũng có kẻ vào sông ra bể,

    Cánh buồm mây chạy xế gió đông

    Gặp cơn giông tố giữa dòng,

    Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.

    Cũng có kẻ đi về buôn bán,

    Đòn gánh tre chín dạn hai vai,

    Gặp cơn mưa nắng giữa trời,

    Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

    Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,

    Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,

    Nước khe cơm ống gian nan,

    Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.

    Buổi chiến trận mạng người như rác,

    Phận đã đành đạn lạc tên rơi.

    Lập loè ngọn lửa ma trơi,

    Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.

    Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,

    Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,

    Ngẩn ngơ khi trở về già,

    Đâu chồng con tá biết là cậy ai?

    Sống đã chịu một đời phiền não

    Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,

    Đau đớn thay phận đàn bà,

    Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

    Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,

    Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,

    Thương thay cũng một kiếp người,

    Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!

    Cũng có kẻ mắc oan tù rạc

    Gửi mình vào chiếu rách một manh.

    Nắm xương chôn rấp góc thành,

    Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?

    Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,

    Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.

    Lấy ai bồng bế vào ra,

    U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

    Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,

    Cũng có người sẩy cối sa cây,

    Có người leo giếng đứt dây,

    Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.

    Người thì mắc sơn tinh thủy quái

    Người thì sa nanh sói ngà voi,

    Có người hay đẻ không nuôi,

    Có người sa sẩy, có người khốn thương.

    Gặp phải lúc đi đường lỡ bước

    Cầu Nại Hà kẻ trước người sau

    Mỗi người một nghiệp khác nhau

    Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?

    Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,

    Hoặc là nương ngọn suối chân mây,

    Hoặc là bụi cỏ bóng cây,

    Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.

    Hoặc là nương thần từ, Phật tự

    Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông

    Hoặc là trong quãng đồng không,

    Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.

    Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,

    Gan héo khô dạ rét căm căm,

    Dãi dầu trong mấy mươi năm,

    Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.

    Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,

    Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,

    Lôi thôi bồng trẻ dắt già,

    Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.

    Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,

    Phóng hào quang cứu khổ độ u,

    Rắp hòa tứ hải quần chu,

    Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.

    Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,

    Chuyển pháp luân tam giới thập phương,

    Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,

    Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.

    Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,

    Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,

    Mười loài là những loài nào?

    Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.

    Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,

    Có chữ rằng: "Vạn cảnh giai không"

    Ai ơi lấy Phật làm lòng,

    Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

    Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,

    Của có chi bát cháo nén nhang,

    Gọi là manh áo thoi vàng,

    Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.

    Ai đến đây dưới trên ngồi lại,

    Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.

    Phép thiêng biến ít thành nhiều,

    Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sình.

    Phật hữu tình từ bi phổ độ

    Chớ ngại rằng có có không không.

    Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng

    Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
     
    Last edited by a moderator: 18 Tháng sáu 2020
  2. Đăng ký Binance
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...