Lý Bạch 李白 (701-762) tự Thái Bạch 太白, hiệu Thanh Liên cư sĩ 青蓮居士, sinh ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương). Quê ông ở Cam Túc (huyện Thiên Thuỷ - tức Lũng Tây ngày xưa). Lý Bạch xuất thân trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca múa, lớn lên thích giang hồ ngao du sơn thuỷ, 25 tuổi "chống kiếm viễn du", đến núi Nga My ngắm trăng, ngâm thơ rồi xuôi Trường Giang qua hồ Động Đình, lên Sơn Tây, Sơn Đông cùng năm người bạn lên núi Thái Sơn "ẩm tửu hàm ca" (uống rượu ca hát), người đời gọi là Trúc khê lục dật. Sau đó được người bạn tiến cử với Đường Minh Hoàng, ông về kinh đô Trường An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một "văn nhân ngự dụng" nên bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thuỷ. Đến Lạc Dương, gặp Đỗ Phủ kết làm bạn vong niên (Đỗ Phủ kém Lý Bạch 11 tuổi). Họ cùng Cao Thích vui chơi, thưởng trăng ngắm hoa, san bắn được nửa năm. Rồi ông lại tiếp tục chia tay Đỗ Phủ viễn du về phương nam. Những năm cuối đời ông ẩn cư ở Lư Sơn. Tương truyền năm 61 tuổi ông đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch, tỉnh An Huy, uống say, thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm trăng mà chết. Nay còn Tróc nguyệt đài (Đài bắt trăng) ở huyện Đăng Đồ, An Huy, là địa điểm du lịch nổi tiếng. Người đời phong danh hiệu cho ông là Thi tiên, Trích tiên, Tửu trung tiên.. Sau khi ông qua đời, Lý Đăng Dương sưu tầm thơ ông. Theo đó thì ông làm khoảng 20.000 bài, nhưng ông không để tâm cất giữ nên nay chỉ còn khoảng 1.800 bài. Thơ ông viết về mọi đủ mọi đề tài: Vịnh cảnh, thưởng hoa, tình bạn, nỗi khổ đau của người dân, nỗi cay đắng của người vợ trẻ xa chồng (chinh phụ, thương phụ), của người cung nữ, nỗi cô đơn và bất lực trước vũ trụ vô cùng vô tận, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng.. Đề tài nào cũng có những bài tuyệt tác. Sau đây là những bài thơ của ông. Mời các bạn thưởng thức. Anh Vũ Châu Lời Gốc: 鸚鵡來過吳江水, 江上洲傳鸚鵡名. 鸚鵡西飛隴山去, 芳洲之樹何青青. 煙開蘭葉香風暖, 岸夾桃花錦浪生. 遷客此時徒極目, 長洲孤月向誰明? Phiên Âm: Anh vũ lai quá Ngô giang thuỷ, Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh. Anh Vũ tây phi Lũng sơn khứ, Phương châu chi thụ hà thanh thanh. Yên khai lan diệp hương phong khởi, Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh. Thiên khách thử thời đồ cực mục, Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh? Dịch Nghĩa Chim anh vũ xưa bay đến sông Ngô Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng Bãi thơm cây xanh biếc làm sao! Khói tỏa ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai. Dịch Thơ: Bóng chim đã khuất sông Ngô Tên chim Anh Vũ bến thơ lưu truyền Cánh chim tây vút Lũng triền Bến thơm cây rợp một miền xanh man Gió thơm khói mở lá lan Hoa đào sóng gấm vỗ tràn bờ lay Người đi có thấy lúc nay Trăng đơn chiếu sáng bến dài vì ai. (Năm 760) * * *>Lý Bạch năm 56 tuổi bị lưu đày đi huyện Dạ Lang tỉnh Quý Châu. Khi chờ đò ngang để qua sông Trường Giang, ông làm bài này.