静夜思 Nguyên bản 床前明月光, 疑是地上霜. 举头望明月, 低头思故乡. Tĩnh dạ tư Sàng tiền minh nguyệt quang Nghi thị địa thượng sương Cử đầu vọng minh nguyệt Đê đầu tư cố hương. Dịch nghĩa: Đầu giường ánh trăng chiếu rọi Ngỡ là sương trên mặt đất Ngẩng đầu ngắm trăng sáng Cúi đầu nhớ quê cũ. Dịch thơ :(Bản dịch Văn Nhược) Ánh trăng chiếu sáng đầu giường Ngỡ là mặt đất phủ sương móc dày Ngẩng đầu ngắm ánh trăng đầy Cúi đầu bỗng nhớ những ngày cố hương 月下獨酌其一 Nguyên bản 花間一壺酒, 獨酌無相親. 舉杯要明月, 對影成三人. 月既不解歡, 影徒隨我身. 暫伴月將影, 行樂須及春. 我歌月徘徊, 我舞影零亂. 醒時同交歡, 醉後各分散. 永結無情遊, 相期邈雲漢. Nguyệt hạ độc chước kỳ 1 Hoa gian nhất hồ tửu, Độc chước vô tương thân. Cử bôi yêu minh nguyệt, Đối ảnh thành tam nhân. Nguyệt ký bất giải ẩm, Ảnh đồ tùy ngã thân. Tạm bạn nguyệt tương ảnh, Hành lạc tu cập xuân. Ngã ca nguyệt bồi hồi, Ngã vũ ảnh linh loạn. Tỉnh thì đồng giao hoan, Túy hậu các phân tán. Vĩnh kết vô tình du, Tương kỳ mạc Vân Hán. Dịch nghĩa Trong đám hoa với một bình rượu Uống một mình không có ai làm bạn Nâng ly mời với trăng sáng Cùng với bóng nữa là thành ba người Trăng đã không biết uống rượu Bóng chỉ biết đi theo mình Tạm làm bạn với trăng và bóng Hưởng niềm vui cho kịp với ngày xuân Ta hát trăng có vẻ bồi hồi không muốn đi Ta múa bóng có vẻ quay cuồng mê loạn Lúc tỉnh cùng nhau vui đùa Sau khi say thì phân tán mỗi một nơi Vĩnh viễn kết chặt mối giao du vô tình này Cùng nhau ước hẹn lên trên Thiên hà gặp lại 月夜江行寄崔員外宗之 Nguyên bản 飄飄江風起, 蕭颯海樹秋. 登艫美清夜, 挂席移輕舟. 月隨碧山轉, 水合青天流. 杳如星河上, 但覺雲林幽. 歸路方浩浩, 徂川去悠悠. 徒悲蕙草歇, 復聽菱歌愁. 岸曲迷后浦, 沙明瞰前洲. 懷君不可見, 望遠增離憂. Nguyệt dạ giang hành ký Thôi viên ngoại Tông Chi Phiêu phiêu giang phong khởi Tiêu táp hải thụ thu Đăng lô mỹ thanh dạ Quải tịch di khinh chu Nguyệt tùy bích sơn chuyển Thủy hợp thanh thiên lưu Diểu như tinh hà thượng Đán giác vân lâm u Quy lộ phương hạo hạo Tồ xuyên khứ du du Đồ bi huệ thảo yết Phúc thính lăng ca sầu Ngạn khúc mê hậu phố Sa minh hám tiền châu Hoài quân bất khả kiến Lưu viễn tăng ly ưu. 關山月 Nguyên bản 明月出天山, 蒼茫雲海間. 長風幾萬里, 吹度玉門關. 漢下白登道, 胡窺青海灣. 由來征戰地, 不見有人還. 戍客望邊色, 思歸多苦顏. 高樓當此夜, 嘆息未應閒. Quan san nguyệt Minh nguyệt xuất Thiên San, Thương mang vân hải gian. Trường phong kỷ vạn lý, Xuy độ Ngọc Môn quan. Hán há Bạch Đăng đạo, Hồ khuy Thanh Hải loan. Do lai chinh chiến địa, Bất kiến hữu nhân hoàn. Thú khách vọng biên sắc, Tư quy đa khổ nhan. Cao lâu đương thử dạ, Thán tức vị ưng nhàn Dịch nghĩa Trăng sáng mọc trên núi Thiên San Trong cảnh mênh mông giữa mây và biển Gió bay mấy ngàn dặm về Thổi đến cửa ải Ngọc Môn Nhà Hán đồn binh ở lộ Bạch Đăng Rợ Hồ ngấp nghé ở vũng Thanh Hải Xưa nay vẫn là bãi chiến trường Không thấy có ai được trở về Người lính thú nhìn đăm đăm cảnh sắc xa xa Lòng nhớ nhà gương mặt lộ vẻ buồn khổ Đêm nay có ai đang ngồi trên lầu cao Hẳn phải than thở mà không dám nhàn nhã 把酒問月 Nguyên bản 青天有月來幾時, 我今停杯一問之. 人攀明月不可得, 月行卻與人相隨. 皎如飛鏡臨丹闕, 綠煙滅盡清輝發. 但見宵從海上來, 寧知曉向雲間沒. 白兔搗藥秋復春, 嫦娥孤棲與誰鄰. 今人不見古時月, 今月曾經照古人. 古人今人若流水, 共看明月皆如此. 唯願當歌對酒時, 月光常照金樽裡. Bả tửu vấn nguyệt Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì, Ngã kim đình bôi nhất vấn chi! Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc, Nguyệt hành khước dữ nhân tương tùy. Kiểu như phi kính lâm đan khuyết, Lục yên diệt tận thanh huy phát Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai, Ninh tri hiểu hướng vân gian một. Bạch thố đảo dược thu phục xuân, Thường nga cô thê dữ thùy lân. Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt, Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân. Cổ nhân kim nhân nhược lưu thủy, Cộng khan minh nguyệt giai như thử. Duy nguyện đương ca đối tửu thì, Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý. Dịch nghĩa Trời xanh có vầng trăng đã bao lâu rồi? Nay ta ngừng chén hỏi trăng đây! Người thường không thể vin với được vầng trăng sáng, Trăng đi đâu thì vẫn cứ theo người. Ánh sáng trắng như gương vút tận cửa son, Khói biếc tan đi hết, để lộ vẻ trong trẻo lan tỏa ra. Chỉ thấy ban đêm trăng từ biển tới, Nào hay sớm lại tan biến giữa trời mây. Thỏ trắng giã thuốc mãi thu rồi lại xuân, Thường Nga lẻ loi cùng ai bầu bạn? Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa. Trăng nay thì đã từng soi người xưa. Người xưa nay tựa như giòng nước chảy, Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó. Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu, Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng. Nội dung 黃鶴樓送孟浩然之廣陵 故人西辭黃鶴樓, 煙花三月下陽州. 孤帆遠影碧空盡, 惟見長江天際流. Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu, Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu. Cô phàm viễn ảnh bích không tận, Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu. Dịch nghĩa Bạn cũ từ biệt tại lầu Hoàng Hạc đi về phía tây, Tháng ba hoa khói, xuống Dương Châu. Bóng chiếc buồm đơn màu xanh mất hút, Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy bên trời. Dịch thơ (Ngô Tất Tố) Bạn từ lậu Hạc lên đường, Giữa mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dong. Bóng buồm đã khuất bầu không, Trông theo chỉ thấy dong sông bên trời. Dịch thơ (Trần Trọng San) Bạn cũ dời chân Hoàng Hạc lâu Tháng ba hoa khói xuống Dương Châu Bóng buồm chìm lẫn trong trời biếc Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy mau Dịch thơ (Trần Trọng Kim) Phía tây bạn biệt Hạc lâu Tháng ba trẩy xuống Dương Châu thuận dòng Cánh buồm bóng hút màu không Trông xa trắng xóa nước sông bên trời