Ngàn năm hoa nở, ngàn năm hoa tàn, hoa vừa kịp nở lá vội tan, lá vừa chớm mọc thì hoa lại tàn, chỉ thấy hoa mà không thể thấy lá, khi thấy lá lại chẳng thể gặp hoa, lá và hoa dẫu cùng chung một rễ, vốn rất gần mà chẳng thể gặp nhau, cứ nhớ thương mà ôm sầu thương nhớ.. Người ta nói, đó là hoa Bỉ Ngạn. Nhân gian đắm mộng say tình, ai hay duyên hết thì tình cũng tan? Có rất nhiều truyền thuyết khác nhau kể về hoa Bỉ Ngạn, có một câu chuyện như thế này: Xưa có một đôi nam nữ, theo luật Thiên Đình họ không được phép gặp gỡ. Một ngày, cả hai đã phá vỡ giới luật để tìm đến bên nhau. Chàng là một nam tử hào hoa anh tuấn, còn nàng lại là một nhi nữ đẹp tựa tiên sa. Cả hai vừa gặp đã quen thân, quyến luyến không xa rời, nguyện ước hẹn ở bên nhau đến kiếp kiếp đời đời. Nhưng vì đã phạm luật Trời, họ bị đọa xuống trần gian rồi biến thành hoa và lá của cùng một cây. Lá xanh, hoa đỏ, đẹp kiêu sa nhưng chất chứa nỗi buồn. Có điều, loài hoa này rất đặc biệt, có hoa thì không thấy lá, mà có lá lại chẳng thể thấy hoa, giữa hoa và lá, cuối cùng cũng không thể gặp mặt. Một ngày, Đức Phật đi ngang qua, thấy trên mặt đất có một loài hoa đỏ rực như lửa, vừa nhung nhớ lại vừa u sầu. Phật vừa liếc nhìn đã thấu tỏ được huyền cơ trong đó. Quả thật là: "Bỉ Ngạn hoa, khai nhất thiên niên, lạc nhất thiên niên, hoa diệp vĩnh bất tương kiến. Tình bất vi nhân quả, duyên chú định sinh tử" – Bỉ Ngạn hoa, một nghìn năm nở, một nghìn năm tàn, hoa và lá vĩnh viễn không thể gặp nhau. Tình không vì nhân quả, duyên đã định tử sinh. Đức Phật xót thương, bèn quyết định mang hoa về miền Cực Lạc. Nhưng vì Cực Lạc là Phật quốc, là thế giới thanh tịnh và thuần khiết, nên tất cả những gì là 'tình si', 'nhung nhớ', 'u sầu', 'đau khổ'.. đều không được phép tiến nhập vào miền tịnh thổ. Những thứ xúc cảm con người ấy đều phải rời khỏi hoa, kết thành một màu đỏ rực lửa rồi rơi xuống sông Vong Xuyên. Bởi vậy, khi về đến Cực Lạc, đóa hoa trong tay Phật đã biến thành một màu trắng tinh khiết không còn nhuốm bụi trần. Đức Phật bèn gọi nó là Mạn Đà La hoa, hoa của cõi Phật, cũng chính là một loại hoa Bỉ Ngạn. Lại nói về màu đỏ rực lửa. Lúc ấy, Bồ Tát Địa Tạng thần thông quảng đại đã biết rằng nghiệp duyên của hoa Mạn Đà La hiện đang nằm dưới sông Vong Xuyên. Ngài bèn đến bên bờ sông, ném xuống một hạt giống, chỉ trong chốc lát một đóa hoa đỏ tươi bay ra khỏi mặt nước. Bồ Tát đón lấy hoa và nói: "Ngươi đã thoát thân trở về miền Cực Lạc, sao còn đem nỗi hận tình si để lại nơi khổ ải vô biên này chứ? Vậy thì, ngươi hãy ở đây làm sứ giả tiếp dẫn các linh hồn đi về phía luân hồi. Cực Lạc đã có Mạn Đà La hoa rồi (Mandarava), vậy ta sẽ gọi ngươi là Mạn Châu Sa hoa vậy (Manjusaka)". Từ đó có hai loài hoa Bỉ Ngạn, một loại trắng ngần tinh khiết, một loại lại rực rỡ hoa lệ; một loại gợi nhớ gợi thương, chia ly đau khổ, một loại lại vô dục vô cầu, vô khổ vô bi; một loại trầm luân trong nỗi sầu nhân thế, một loại lại thản thản đãng đãng nơi Phật quốc thanh cao. Loài hoa thức tỉnh thế nhân về ái tình Ứng với hoa Mạn Đà La miền Cực Lạc và hoa Mạn Châu Sa bên bờ sông Vong Xuyên là hai thứ hoa Bỉ Ngạn (đỏ và trắng) sinh trưởng ở cõi thế gian. Hoa giống như lời nhắc nhở với thế nhân: Ái tình là mộng ảo, khi duyên hết thì tình cũng dứt, trả hết nợ một đời thì đừng nên luyến tiếc mà càng thêm đau khổ. Vì con người mê đắm trong 'Tình' nên cần phải ngộ được chân lý này mới có thể thanh thản giữa các kiếp luân hồi. Bởi vậy, khi nhắc đến Bỉ Ngạn hoa, người ta còn kể lại câu chuyện rằng: Ngày ấy, trên dương thế có một đôi uyên ương tình thâm nghĩa nặng. Họ đã trải qua những tháng ngày hạnh phúc bên nhau, cho đến một ngày chàng trai đi làm ăn xa đã bất hạnh gặp nạn, phải bỏ mạng nơi đất khách quê người. Linh hồn của chàng trai đi đến bên bờ sông Vong Xuyên, bước trên con đường đỏ rực hoa Bỉ Ngạn mà không khỏi nhớ thương về người vợ chốn dương gian. "Ta không muốn luân hồi, ta phải về với thê tử của ta, nàng vẫn đang đợi chờ ta trở về". Chàng trai đến trước mặt Mạnh Bà, nhận được bát canh quên lãng. Anh hỏi Mạnh Bà: "Thế gian muôn màu muôn vẻ, ý họa tình thơ, cớ sao lại bắt tôi phải quên hết chuyện tình cảm xưa cũ?". Mạnh Bà chỉ mỉm cười không nói, khiến chàng trai càng thêm chua xót. Anh tự nhủ với lòng mình: "Dù phải uống thứ nước vong tình này thì ta vẫn không muốn quên. Sau khi chuyển sinh, ta nhất định sẽ đến tìm nàng". Nương tử của chàng trai khi hay tin cái chết của chồng, đã nhiều lần tìm cách quyên sinh. Nhưng lần nào cũng được người nhà cứu sống lại, bởi vậy cô nguyện sẽ thủ tiết cả đời. Cứ như vậy, cô dựa vào việc khâu vá để sinh nhai và ngày đêm hương khói thờ chồng. Còn chàng trai kia cũng chuyển sinh vào một gia đình nọ, cách ngôi nhà cũ của cậu không xa. Năm tháng cứ thế trôi qua, nháy mắt một cái đã thấm thoắt 20 năm, cậu trở thành một trang nam nhi tuấn tú. Một ngày đi qua ngôi nhà cũ của mình, cậu bỗng thấy một cảm giác thân quen khó tả. Chàng trai liền dừng lại trầm ngâm suy nghĩ, bất giác đôi mắt hướng về phía khung cửa sổ, thấy một quả phụ đang ngồi khâu vá. Cậu không biết đó chính là người vợ hiền thảo của mình trong tiền kiếp, chỉ thấy có điều gì đó kỳ lạ mà cậu không sao lý giải được. Rồi cậu lại bước đi. Và ngay trong thoáng ngắn ngủi ấy quả phụ bắt gặp ánh mắt của chàng trai trẻ. Dẫu tướng mạo của chàng đã khác xưa, nhưng quả phụ vừa nhìn thấy liền hiểu ra tất cả. Cô nước mắt tuôn rơi, run rẩy không nói nên lời: Chàng đã trở lại rồi! Sau đó, quả phụ vì nỗi nhớ thương chồng mà lâm bệnh qua đời. Khi xuống dưới Hoàng Tuyền, gặp Mạnh Bà, quả phụ liền hỏi: "Lão bà bà, có phải trước đây có một nam tử từng nói với bà rằng chàng sẽ không quên tôi, sau khi luân hồi sẽ nhất định tìm tôi phải không?". Mạnh Bà gật đầu khiến quả phụ càng thêm đau buồn. "Chàng đã đến, vì sao lại không nhận ra ta, không nói với ta một lời?". Mạnh Bà thấy quả phụ chưa dứt được trần duyên, bèn nói: "Duyên phận của hai người đã hết, chia ly cũng là lẽ đương nhiên. Nhưng thấy cô không đành lòng, ta sẽ cho cô được gặp lại anh ta lần nữa. Tuy nhiên, cô sẽ phải ở đây chịu khổ 20 năm rồi mới được chuyển sinh vào kiếp sống tiếp, cô có nguyện ý không?". Thế là cô được Mạnh Bà giao cho việc nhổ cỏ bên bờ hoa Bỉ Ngạn. Kỳ thực ở đó không hề có cỏ, nhưng trong mắt cô luôn nhìn thấy cỏ dại, và vì thế mà cô cứ nhổ mãi nhổ mãi, vĩnh viễn cũng không hết được. Hai mươi năm sau, Mạnh Bà đưa cô đến trước cửa luân hồi và dặn rằng: "Cô hãy đứng ở đây đợi một chút, người cô chờ 20 năm sắp đến rồi". Cô gái đứng đó như ngồi trên đống lửa, trong lòng cứ thấp thỏm không yên. 20 năm qua, nỗi giày vò khắc khoải như thấu tận tâm can. Cô đã phải chịu đựng biết bao đau khổ chỉ để chờ đến phút giây này, gặp lại người chồng mà cô vẫn hằng mong mỏi. Cuối cùng chàng cũng đến, nước mắt cô lã chã tuôn rơi. Nhưng, người mà cô đã dành cả 20 năm đằng đẵng dưới âm gian để đợi chờ, lại tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Cô không thể chịu được nữa, bèn níu tay chàng: "Chàng đã quên ta rồi sao?". Chàng trai dửng dưng nhìn cô, như nhìn một người xa lạ, anh đón chén canh vong tình của Mạnh Bà và uống cạn, rồi anh bước vào cửa luân hồi. Ái tình là chi đây? Đau khổ cả một đời, nhung nhớ cả một đời, lưu luyến cả một đời, chẳng phải cuối cùng rồi cũng theo chén canh Mạnh Bà mà tan vào hư vô hay sao? Tình ái cũng giống như đóa hoa Bỉ Ngạn kia: Mỹ lệ kiều diễm đấy, nhưng chóng tàn; có hoa có lá đấy, nhưng vĩnh viễn chẳng thể ở bên nhau. Người ta nói, hoa Bỉ Ngạn là loài hoa có độc, cho nên ái tình cũng là một thứ "độc dược", khiến những ai chìm đắm trong đó phải đau khổ day dứt cả một đời. Người ta nói, hoa Bỉ Ngạn là loài hoa nơi địa phủ, cho nên những ai không thể bước qua được ái tình sẽ chỉ khiến tâm hồn chôn vùi trong dĩ vãng. Người ta nói, hoa Bỉ Ngạn là loài hoa rực lửa, cho nên tình ái mới khiến người ta say đắm nồng nàn. Chẳng phải người đời vẫn hay nói "tình yêu rực lửa", "tình yêu cháy bỏng" đó sao? Nhưng thiên tình sử nào, cuối cùng rồi cũng trái ngang. Người ta nói nhiều về ý nghĩa của hoa Bỉ Ngạn, ở Nhật Bản là hoa hồi ức đau thương, ở Triều Tiên là hoa nhung nhớ, ở Trung Quốc là hoa ưu mỹ thuần khiết . Nhưng trên tất cả, đây là loài hoa cảnh tỉnh thế nhân về ảo ảnh của ái tình.