LỜI MỞ ĐẦU Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến hiện đại. Từ khi Triết học Mác-Lênin ra đời đã giải quyết những nội dung liên quan đến con người. Khẳng định con người có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với thế giới, và trong thực tế hiện nay thì con người là một lực lượng chủ đạo trong nền sản xuất xã hội. Trong công cuộc đổi mới xã hội chỉ có con người-yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội, là nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành công hay thất bại. Đảng ta đã khẳng định, tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với Chủ nghĩa Mác-Lê nin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Vì vậy, thấm nhuần tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê nin về con người, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: "Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính". Đặc biệt là, trong giai đoạn hiện nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước thực hiện cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ngoài những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công, đó là vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của nhà nước, sự tham gia ủng hộ tích cực của các đoàn thể xã hội, chúng ta cần khẳng định rằng, yếu tố con người, nguồn nhân lực có vị trị rất quan trọng như trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa". Để đóng góp và ủng hộ đường lối của Đảng trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, tôi xin chọn đề tài "Quan điểm triết học Mac-Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa nước ta" làm đề tài nghiên cứu của mình. Hoàn thành tiểu luận này tôi hi vọng có thể góp một phần nhỏ bé của mình trong việc làm rõ lòng tin của mọi người vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta hiện nay, và đưa ra một số giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, và thực hiện mục tiêu của Đảng phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa. CHƯƠNG 1: CÁC LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRIẾT HỌC 1.1 TRIẾT HỌC LÀ GÌ? Về khái niệm, Triết học được định nghĩa là một bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, quy luật, giá trị, ý thức, kiến thức và ngôn ngữ. Triết học là ngành học duy nhất khám phá, nghiên cứu tất cả mọi thứ. Nó cũng là ngành học duy nhất thách thức mọi thứ, ngay cả chính nó. Chính vì thế, triết học được tách riêng khỏi khoa học, lịch sử, văn học và nghệ thuật. Mặc dù triết học và các ngành học khác có chung một số mục tiêu (cùng với các nhà khoa học, các nhà triết học muốn khám phá bản chất của thực tế; cùng với các nhà sử học, các triết gia muốn hiểu chúng ta đến từ đâu; cùng với các nhà nghệ thuật, các triết gia muốn kích thích những câu hỏi mới lạ về trải nghiệm của con người) Nguồn gốc của Triết học: Theo ghi chép của các tài liệu lịch sử, hình thái ý thức xã hội Triết học ra đời vào khoảng thứ VII đến thế kỷ thứ VI trước Công nguyên (TCN). Triết học Triết học ra đời ở cả Phương Đông và Phương Tây, trong đó nổi bật nhất là tại Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp cổ đại - ba trung tâm văn hóa lớn thời kỳ cổ đại. Cụ thể: - Ở Ấn Độ: Triết học Ấn độ cổ đại có tên gọi là "darshana", có nghĩa là "chiêm ngưỡng". Được hiểu là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải, thấu đạt được chân lý về vũ trụ và nhân sinh. - Ở Trung Quốc: Triết học hướng đến các vấn đề chính trị - xã hội nên được xem là sự truy tìm bản chất, thấu hiểu căn nguyên sự việc. - Ở Hy Lạp: Triết học hướng về con người và khoa học tự nhiên, hay còn gọi là "triết học tự nhiên". Đây được xem như "người mẹ" của các khoa học, triết học ở Hy Lạp còn được gọi là "philosophia"... " Tình yêu đối với sự thông thái". Ở mỗi quốc gia, Triết học sẽ mang một màu sắc khác nhau. Tuy nhiên, dù là ở phương Đông hay phương Tây, triết học đều được coi là đỉnh cao của trí thức nhân loại, sử dụng trí óc để khám phá vạn vật. 1.2 CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC: Sự đối lập trong tư duy giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm là vấn đề cơ bản của triết học. Hai mặt của vấn đề triết học: - Mặt thứ nhất: Giải quyết vấn đề vật chất và ý thức, cái nào có trước cái nào? Cái nào quyết định cái nào? Các nhà triết học chia làm 2 phe chính: + Chủ nghĩa nhất nguyên: Cho rằng một yếu tố có trước và quyết định một yếu tố còn lại, gồm có 2 nhóm: Chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật. + Chủ nghĩa nhị nguyên: Cho rằng cả 2 yếu tố đều có trước và tồn tại song song, độc lập. Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới xung quanh không? + Khả tri luận: Thừa nhận khả năng nhận thức của con người. + Bất khả tri luận: Phủ nhận khả năng nhận thức của con người. Trong quá trình phát triển của triết học, ngày càng tồn tại sự đối lập giữa 2 hình thức tư duy: Biện chứng và siêu hình. 1.3. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MAC-LENIN VỀ CON NGƯỜI 1.3. 1 Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội. - Mặt sinh vật bao gồm cơ thể cùng những nhu cầu cơ thể và những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể con người. - Mặt xã hội bao gồm "tổng hòa những quan hệ xã hội", những hoạt động xã hội, đời sống tinh thần của con người. Hai mặt này có quan hệ khắng khít không thể tách rời nhau, trong đó mặt sinh học là nền tảng vật chất tự nhiên của con người, nhưng không phải là yếu tố quyết định bản chất của con người; mặt xã hội mới là mặt giữ vai trò quyết định bản chất của con người. Bởi mặt xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Lao động sản xuất ra của cải vật chất là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau: - Những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể - Những quy luật hình thành tâm lý, ý thức. - Những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người. Ba hệ thống trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Bản chất của con người không phải là cái gì có sẵn, mà có quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện cùng với hoạt động thực tiễn của con người. 1.3. 2 Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội. Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, K. Marx khẳng định: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội". - Luận đề trên đã chỉ rõ: Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. - Trong khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học Mác-Lênin không phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người, triết học Mác-Lênin chỉ muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết ở bản chất xã hội. - Sự hình thành, phát triển con người là quá trình gắn liền với lịch sử sản xuất vật chất: + Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. + Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên:" Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. 1.3. 3 Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử - Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. - Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội. - Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Bản chất của con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. C. Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục.. cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph. Ăngghen cũng cho rằng: "Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu". Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khách nhau. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người. CHƯƠNG 2: ĐẢNG TA ĐÃ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM ĐÓ VÀO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA 2.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CON NGƯỜI VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI THỜI KÌ ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN ĐẤT NƯỚC Trong đường lối phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn có những định hướng chuẩn giá trị cho việc xây dựng con người Việt Nam. Điều đó được phản ánh trong việc Đảng ta luôn coi trọng, đẩy mạnh và đổi mới công tác giáo dục - đào tạo, coi "giáo dục là quốc sách hàng đầu". Đây là điều kiện để hình thành và phát triển các thế hệ con người Việt Nam khỏe về thể chất, trong sáng về tâm hồn, có trình độ chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp cách mạng, Đảng ta đã nhấn mạnh rằng: Con người là vốn quý nhất và muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Với những định hướng đúng đắn của Đảng về vị trí, vai trò của nhân tố con người, chúng ta đã xây nên những thế hệ con người Việt Nam có lý tưởng cách mạng vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, có ý thức rõ ràng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính những chuẩn giá trị đó là động lực quan trọng thúc đẩy con người Việt Nam chiến đấu, lao động, học tập và sáng tạo, đem lại những thắng lợi đáng tự hào trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên thời kỳ trước đổi mới, chúng ta chưa nhận thức hết những nhân tố tác động đến phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có nhiều yếu tố liên quan đến vấn đề con người và động lực phát Triển con người. Trong suốt một thời gian dài, chúng ta đã quá đề cao lợi ích tập thể một cách chung chung, trừu tượng, trong khi đó lợi ích cá nhân không được quan tâm đúng mức, thậm chí rất mờ nhạt. Chính vì vậy không tạo được động lực hoạt động của mỗi cá nhân trong xã hội. Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, vấn đề con người đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ đổi mới không có mục tiêu, động lực nào khác nào khác ngoài xuất phát từ con người và vì con người. Con người vừa là chủ thể vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Đổi mới bắt đầu từ con người và hướng đến con người. Xuất phát từ mục đích, yêu cầu, nội dung đổi mới, Đảng ta cũng đã nhìn nhận con người một cách cụ thể và hiện thực hơn. Con người ở đây không phải là con người chung chung mà là con người cụ thể, con người xã hội với tính cách là một nhân cách phát triển. Sự hoàn thiện và phát triển của mỗi cá nhân với những nhu cầu và năng lực tự nó là nền tảng của sự phát triển xã hội. Sự nghiệp đổi mới chỉ thành công khi từng cá nhân phát triển với tư cách là chủ thể có ý thức. Thực tiễn đã chứng minh "không phải bộ máy, cũng không phải khâu nào khác trong hệ thống chính trị với tầm quan trọng của nó mà chính là con người với những phẩm chất và năng lực nhất định quyết định sức mạnh của đổi mới" [1, tr. 144] . Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), đại hội khởi xướng sự nghiệp đổi mới, đã khẳng định vai trò quan trọng của nhân tố con người và bắt đầu bằng mệnh đề "Đổi mới tư duy". Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000", Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Đại hội VII tiếp tục khẳng định quan điểm "coi mục tiêu và động lực của sự phát triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động. Đó cũng là quan điểm về sự thống nhất giữa mục tiêu của chính sách xã hội - tất cả vì con người", "mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có trí thức, có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội" [3, tr. 8] . Tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đại hội đưa đất nước ta tiến vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta khẳng định: "Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố phát triển nhanh và bền vững. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường" [4, tr. 143] . Đại hội lần thứ IX lại tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh "nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững", "mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội" [5, tr. 143] . Quan điểm này một lần nữa được Đảng ta nhấn mạnh tại Đại hội lần thứ XI: "Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh và bền vững" [6, tr. 130] . Tại Đại hội lần thứ XII Đảng ta đã khẳng định: "Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh" [7, tr. 53] . Như vậy, vấn đề con người và phát huy nhân tố con người ở Đại hội XII được tiếp cận một cách toàn diện và hệ thống hơn. Con người được nhìn nhận trên cả hai phương diện cá nhân và cộng đồng, đồng thời thể hiện rõ những điều kiện về vật chất và tinh thần đảm bảo cho con người phát triển toàn diện hơn. Như vậy, có thể khẳng định rằng suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến vấn đề con người và phát huy nhân tố con người. Nhờ vậy, sau 30 năm đổi mới toàn diện "đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" [7, tr. 68] . Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ, vận hội phát triển lớn; song bên cạnh đó còn không ít những khó khăn, thách thức phải vượt qua. Để tiếp tục phát huy nhân tố con người một cách hợp lý, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn cách mạng đang đặt ra hiện nay, cần phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ. 2.2 CON NGƯỜI LÀ NHÂN TỐ QUAN TRỌNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY Để đạt được tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, nền kinh tế Việt Nam phải có mức tăng trưởng cao và bền vững. Nghiên cứu tăng trưởng kinh tế của các nước trên thế giới qua nhiều giai đoạn lịch sử, các lý thuyết tăng trưởng đã chỉ ra nguồn nhân lực được coi là yếu tố quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế. Các yếu tố như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy tối đa hiệu quả bởi con người có trình độ chuyện môn, kỹ thuật. Lý thuyết tăng trưởng của C. Mác cho rằng việc sử dụng tư bản bất biến không tạo ra giá trị thặng dư (lợi nhuận) bởi các nhà tư bản phải mua tư bản bất biến với giá trị bằng giá trị tư bản bất biến đó sẽ tạo ra. Chỉ có tư bản khả biến mới đem lại giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, bởi giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có đặc điểm đặc biệt trong qua trình sử dụng nó tạo ra một giá trị mới (v+m) lớn hơn giá trị bản thân nó. Do đó, trong lực lượng sản xuất, yếu tố con người là yếu tố tích cực, chủ động, sáng tạo là yếu tố quyết định các yếu tố khác. C. Mac cũng chỉ ra năng lượng giá trị của hàng hóa có quan hệ mật thiết với mức độ phức tạp của lao động. Lao động phức tạp tạo ra giá trị nhiều hơn so với lao động giản đơn. Điều này có nghĩa là chất lượng nguồn nhân lực càng cao thì lượng giá trị của hàng hóa càng tăng lên nhanh chóng, tức là tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Frederik Harbison thì cho rằng nguồn nhân lực là nền tảng chủ yếu tạo ra của cải. Tiền vốn và các tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố thụ động trong sản xuất là những nhân tố thụ động trong sản xuất, con người là những nhân tố tích cực, chủ động tích lũy vốn, khai thác thiên nhiên, xây dựng các tổ chức xã hội, kinh tế, chính trị và đưa sự nghiệp đất nước tiến lên. Vì vậy các ông cho rằng nước nào bất lực trong việc phát triển tay nghề và kiến thức cho người dân và không sử dụng nó một cách hiện hữu trong nền kinh tế quốc dân sẽ không thể phát triển bất cứ thứ gì. Thực tiễn phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, đặc biệt là sự phát triển thần kỳ của nhiều nước ở Châu Á như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan.. phần lớn là nhờ vào nguồn nhân lực có chất lượng cao. Như vậy về mặt lý thuyết và thực tiễn ở nhiều nước cho thấy phát triển nguồn nhân lực, tạo ra lực lượng lao động có học vấn, tay nghề, chuyên môn kỹ thuật và khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi trên thế giới, đặc biệt là sự phát triển thần kỳ của nhiều nước ở Châu Á như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan.. phần lớn là nhờ vào nguồn nhân lực có chất lượng cao. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực, tạo ra lực lượng lao động có học vấn, tay nghề, chuyên môn kỹ thuật và khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất là một yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Nắm vững quan điểm đó, Đảng ta đã xác định nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: Con người nếu chỉ có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, mà thiếu đi tri thức, kiến thức khoa học, tức là có đức mà không có tài, thì chẳng khác gì một ông bụt ngồi trên tòa sen, không làm việc gì xấu nhưng cũng không làm điều gì có lợi cho đời. Tri thức, trí tuệ thực sự là yếu tố thiết thực của mỗi con người, bởi vì, tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều phải thông qua trí tuệ của họ. Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giời, người lao động còn phải biết chủ nhập hội nhập quốc tế. Khác với toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là hành động chủ quan, có chủ đích của con người nhằm khai thác nguồn lực từ bên ngoài để tăng cường sức mạnh cho đất nước mình. Hội nhập quốc tế cũng có nghĩa là chấp nhận cạnh tranh với thế giới bên ngoài; hội nhập nhưng không hòa tan, vẫn bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc mình và nhất là bảo vệ được nền độc lập dân tộc. Trong điều kiện như vậy, người lao động, ngoài bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức dân tộc cao, còn cần có trình độ trí tuệ ngang tầm. Có thể nói Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào với quy mô dân số lớn-đứng thứ 13 thế giới, mật độ dân số 263 người/km2-gấp 5 lần so với mật độ dân số trung bình của thế giới và bắt đầu bước vào thời kỳ cơ cấu "dân số vàng". Thời kỳ "cơ cấu dân số vàng" chỉ diễn ra trong chu kỳ nhất định, thường kéo dài khoảng thời gian từ 15-40 năm và được coi là cơ hội vàng để nền kinh tế bứt phá, phát triển. Tình trạng thể lực của người Việt Nam được cải thiện đáng kể sau 25 năm đổi mới. Trình độ học vấn của lực lượng lao động những năm qua không ngừng tăng lên: Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học thì có 1, 16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp và 0, 92 công nhân kỹ thuật; cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học. Đây là một điều kiện quan trọng và là chỉ báo về nâng chất lượng nguồn nhân lực. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn đụng chạm đến các vấn đề phức tạp trong quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nó đòi hỏi con người phải có hiểu biết và có trách nhiệm trong việc bảo vệ, cải thiện môi trường thiên nhiên vì sự phát triển bền vững, nói một cách ngắn gọn là phải có văn hóa sinh thái. Song con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ môi phải được nâng lên thành văn hóa sinh thái: Con người phải có nhận thức, thái độ, cách ứng xử đúng đắn của con người đối với tự nhiên; cả về phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hậu quả do sản xuất gây ra; cải thiện môi trường tự nhiên, bảo tồn thiên nhiên, thích nghi với tự nhiên và đấu tranh chống lại việc tàn phá tự nhiên. Nguồn nhân lực chất lượng của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là"những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính cực chính trị-xã hội, về đạo đức, trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng ứng dụng tri thức vào hoạt động thực tiễn.. đó chính là những nhân tố tạo nên chất lượng nguồn nhân lực nói chung chất lượng nguồn nhân lực cũng trở thành mục tiêu hàng đầu của giáo dục, đào tạo. Không thể có nguồn nhân lực chất lượng tốt nếu không thông qua giáo dục. CHƯƠNG 3 ÁP DỤNG THỰC TIỄN 3.1 NHỮNG THÁCH THỨC CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA. Việc đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc đầy đủ những giá trị lớn lao và có ý nghĩa quyết định của nhân tố con người chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa tinh thần. Phải có sự thay đổi sâu sắc cách nhìn, cách nghĩ, cách hành động của con người và coi việc bồi dưỡng phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện đại như một cuộc cách mạng. Hơn nữa, với tính tất yếu khách quan của sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cách mạng con người phải được nhận thức là hai mặt thống nhất, không thể tách rời của sự nghiệp xây dựng đó. Thực trạng nguồn nhân lực Việt nam dồi dào về số lượng, nhưng lại thiếu hụt nhân lực có trình độ cao, năng suất lao động xã hội thấp hiện nay đặt ra nhiều thách thức cho nền kinh tế trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Một là, thách thức về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia được cấu thành từ những yếu tố như: Hạ tầng, thể chế, môi trường kinh doanh, nhân lực.. trong đó nhân lực được coi là yếu tố cạnh tranh có tính riêng biệt, quyết định đối với mỗi quốc gia. Mặc dù Việt nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá trong 10 năm qua, những năng lực cạnh tranh của nền kinh tế vẫn chưa được hoàn thiện nhiều. Theo báo cáo của diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), trong 5 năm qua Việt Nam không có những cải thiện đáng kể nào về vị trí xếp hạng và năng lực cạnh tranh. Điều này có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân quan trọng là do chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện đang còn thấp. Vì vậy Việt Nam muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam thì một trong những yếu tố quyết định là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hai là, hạn chế khả năng chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chủ yếu dựa vào vốn và nguồn nhân lực với số lượng dồi dào, giá trị nhân công rẻ sang mô hình tăng trưởng dựa vào nguồn nhân lực có chất lượng lượng cao, nâng cao sự đóng góp của nhân tố năng suất cao. Ba là, Việt Nam đang sẽ khó vượt qua ngưỡng thu nhập trung bình nếu tăng trưởng kinh tế chỉ dựa vào vốn, nguồn tài nguyên và lao động giản đơn chưa qua đào tạo. Do đó phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được xem là các yếu tố then chốt đưa nước ta thoát khỏi thu nhập trung bình trong những năm tới. 3.2 NHỮNG GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM ĐÁP ỨNG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Một là, gắn chiến lược phát triển con người với chiến lược phát triển kinh tế. Đây được coi là một trong những nền tảng của sự thành công về mặt kinh tế, khoa học kỹ thuật. Nước ta phải lấy sự phát triển nguồn nhân lực làm động lực cho tăng trưởng kinh tế thông qua sự kết hợp chặt chẽ các chiến lược kinh tế và chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Trong những năm gần đây, đã có sự quan tâm gắn kết chiến lược phát triển nguồn nhân lực với chiến lược phát triển kinh tế thể hiện qua xu hướng đào tạo theo nhu cầu xã hội, sự hợp tác giữa nhà trường với các doanh nghiệp đào tạo nhân lực. Mấu chốt của vấn đề là chúng ta phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa các chiến lược phát triển nhân lực với các chiến lược phát triển kinh tế. Giải quyết được điều này chúng ta mới giải quyết được tình trạng thiếu hụt nhân lực có trình độ, tay nghề và kỹ năng cần thiết cho sự phát triển kinh tế, biến gánh nặng dân số hiện nay thành lợi thế cạnh tranh của nước ta trong qua trình hội nhập. Hai là, cải cách giáo dục đại học và đào tạo nghề nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Chất lượng giáo dục và đào tạo được coi là chìa khóa để phát triển nguồn nhân lực. Thế nhưng hiện nay hệ thống giáo dục và đào tạo ở nước ta chưa đáp ứng với yêu cầu của xã hội và sự phát triển của nền kinh tế. Do đó, để phát triển nguồn nhân lực cần thực hiện cải cách căn bản nền giáo dục, đào tạo. Trong đó, yêu cầu bức bách hiện nay là cần phải cải cách phát triển giáo dục đại học, giáo dục đào tạo nghề để có ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực. Trong tình trạng hiện tại, có hai vấn đề quan trọng, cấp bách và có ý nghĩa lâu dài trong việc cải thiện sớm thực hiện, đó là: Phải gắn kết đào tạo của nhà trường với yêu cầu của thị trường lao động. Đào tạo những kỹ năng cần thiệt là một trong những yếu tố quan trọng để nguồn nhân lực có thể đap ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng; Nhà nước xây dựng cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp tham gia và trở thành một chủ thể quan trọng trong quá trình đào tạo: Đảm bảo cung cấp đầy đủ, thường xuyên thông tin về tình hình làm việc, kỹ năng đào tạo.. ; khuyến khích đào tạo nghề tại dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp. Gắn đào tạo giáo dục với ứng dụng các khao học kỹ thuật. Ba là, huy động các nguồn lực đầu tư cho sự phát triển nhân lực. Ngoài việc chi từ nguồn ngân sách nhà nước, chúng ta cần phải huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước cho sự phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh toàn cầu. Chú trọng đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục; ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng kêu gọi các nhà đầu tư.. Bốn là, nâng cao chất lượng quản lý của nhà nước đối với nguồn nhân lực. Chúng ta phải quản lý có hiệu quả về nhân lực trước trước những yêu cầu mới của phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập và cạnh tranh. Nhà nước cần phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực. Năm là, nâng cao nhận thức của xã hội về phát triển nguồn nhân lực. Chúng ta xác định đây không chỉ là trách nhiệm của nhà nước mà còn là nhiệm vụ của toàn xã hội. Chúng ta phải xác định nguồn nhân lực quý giá, là động lực cho sự phát triển; phát triển nguồn nhân lực không chỉ giúp chúng ta đạt được những mục tiêu ngắn hạn mà còn là tiền đề cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Do đó nhà nước cần có những chính sách tác động đến nhận thức của toàn xã hội về trách nhiệm trong vấn đề đào tạo nguồn nhân lực. KẾT LUẬN Sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những yêu cầu cần thiết cần phải có nhân tố con người có tri thức, kỹ năng, phẩm chất để phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Ở hầu hết các nước phát triển, nguồn lực là một trong những mối quan tâm hàng đầu, tất cả các nước đều coi trọng yếu tố con người và có chính sách phát triển nguồn nhân lực. Thấm nhuồn chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã xác định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới cũng là thành công của quá trình xây dựng và phát triển con người mang tính toàn diện, là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đơi với việc phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng nước ta một nước công nghiệp, theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương lớn của Đảng ta, là con đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa luôn là nhiệm vụ, yêu cầu cấp thiết, lâu dài của toàn Đảng và toàn hệ thống chính trị ở nước ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình triết học Mác-Lê nin, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2011. 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. 3. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000. 4. Tư tưởng Triết học Hồ Chí Minh, GS. TS Lê Hữu Nghĩa chủ biên. 5. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2001. 6. Tạp Chí Cộng sản, số 833, tháng 3/2012 7. Tạp chí Phát triển kinh tế, số 260, tháng 6/2012. 8. Tạp chí Khoa học - Đại học Đồng Nai, số 5 - 2017