Tre xanh Xanh tự bao giờ? Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh Thân gầy guộc, lá mong manh Mà sao nên lũy nên thành tre ơi! Ở đâu tre cũng xanh tươi Cho dù đá sỏi đất vôi bạc màu Có gì đâu, có gì đâu Mỡ màu dẫu ít dồn lâu hoá nhiều Rễ siêng không quản đất nghèo Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù Vươn mình trong gió tre đu Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm Bão bùng thân bọc lấy thân Tay ôm tay níu tre gần nhau hơn. Thương nhau tre chẳng ở riêng Lũy thành từ đó mà nên hỡi người Chẳng may thân gãy cành rơi Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng Nòi tre đâu chịu mọc cong Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường Lưng trần phơi nắng phơi sương Có manh áo cộc tre nhường cho con Măng non là búp măng non Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre Năm qua đi, tháng qua đi Tre già măng mọc có gì lạ đâu Mai sau.. mai sau.. mai sau.. Đất xanh.. tre mãi xanh màu.. tre xanh. Nguyễn Duy Giới thiệu: Ngay từ sau năm 1975, bài thơ "Tre Việt Nam" đã trở thành sáng tác nổi tiếng và là một tác phẩm được lựa chọn nghiên cứu trong môn Lý luận văn học, khoa Ngữ văn các trường đại học. Đến nay, nhiều thập kỷ đi qua bài thơ đọc lên vẫn nguyên giá trị xưa và lay động lòng người Việt. Cây tre, bờ tre xanh đã trở thành một trong những biểu tượng cực kỳ đẹp đẽ về sức sống và phẩm cách con người Việt Nam chúng ta. Không kiêu hãnh cô độc như tùng bách, không thướt tha diễm kiều như liễu rủ, không thấp nhỏ , khiêm nhường như cỏ, loài tre mộc mạc, bình dị mà có sức sống mãnh liệt. Nguyễn Duy với "Tre Việt Nam" đã gắn kết được trong trường liên tưởng tiếp cận và đồng dạng của người đọc hai hình ảnh xuyên thấm: Người Việt – Tre xanh. Hình tượng ẩn dụ lớn của toàn thi phẩm chính là ý nghĩa toát ra từ cặp hình ảnh xuyên thấm này. Một thứ văn hoá tre, tinh thần tre, khí phách tre... luôn luôn bền vững sống, trường tồn bất diệt thách thức thời gian, cỗi cằn, dông bão và chiến tranh huỷ diệt. Trong thi ca Việt, hiếm có bài thơ nào khắc hoạ được tính cách Việt Nam một cách sum tụ, mang tầm khái quát như bài thơ này. Hiệu quả thẩm mỹ cao, làm mê lòng nhiều người, được đem đến từ nguồn thi liệu ấn tượng bao gồm các hình ảnh đặc tả, gợi cảm, cách sử dụng ngôn ngữ, dân dã, lời ăn tiếng nói của người lao động, và đặc biệt thành công trong việc thể hiện những vần thơ lục bát theo chuẩn mực của thể thơ này.