Trần Hữu Thung (1923 - 1999) là nhà thơ nổi tiếng xứ Nghệ. Ông quê ở Diễn Châu, Nghệ An - mảnh đất quanh năm nắng gió, hạn hán mất mùa, lũ bão. Năm 1944, Trần Hữu Thung tham gia mặt trận Việt Minh. Nhận thức được vai trò của người nghệ sĩ trước thời đại, ông sáng tác thơ để tuyên truyền, cổ vũ Cách mạng. Trần Hữu Thung có phong cách thơ độc đáo: Giản dị, đậm chất dân gian. Thơ ông dễ thuộc, dễ nhớ, cứ chân chất, mộc mạc như tấm tình người dân quê. Trần Hữu Thung không viết về mình nhiều, "cái tôi" cá nhân trong thơ rất ít, ông không quan tâm nhiều đến cảm xúc "trữ tình riêng tư" - không mấy khi bộc lộ chuyện vui buồn cá nhân. Thơ ông là tiếng nói hướng về quần chúng. Ông viết thơ trước hết để phục vụ cách mạng và kháng chiến: Ca ngợi chiến thắng, ca ngợi nhân dân trong chiến đấu. Nên vui buồn trong thơ ông cũng là vui buồn của nhân dân, của đất nước. Tình cảm, cảm xúc cá nhân đã nhường chỗ cho tình cảm lớn lao dành cho nhân dân, đất nước. Trang thơ này gồm các bài thơ hay của Trần Hữu Thung: Anh vẫn hành quân Em hát nữa đi Đón tin hòa bình Khó ngủ Không đề Sen quê Bác Không đề 1 Không đề 5 Không đề 11 Không đề 17 Thăm lúa Lời của cây
Em hát nữa đi Giữa bãi cỏ xanh Gió chiều lộng mát Trên lưng bò em hát Những lời ca hoà bình... Em phất ngọn cờ xinh Gài ngang vào cổ áo Cờ thắm mái tóc xanh Em mải nhìn đôi sáo Đang ríu rít trên cành... Em ơi, lòng anh Tủi mừng một nhịp Xưa anh lứa tuổi em Anh không được hát Xưa anh lứa tuối em Không được cầm cờ Ngắm em bây giờ Lòng anh man mác Trên môi em hát Trong lòng anh say Ruộng vườn ta đây Lá cờ ta đó Con chim, ngọn gió Của anh em mình Tiếng hát hoà bình Chúng ta đặt lấy Em hát nữa đi Anh phải về hội nghị Ngày mai em nhỉ Trên cánh đồng này Ngang qua anh thấy Em lái máy cày Nguồn: SGK Tập đọc lớp 4, tập 1, NXB Giáo dục, 1958
Đón tin hòa bình Này con, loa gọi bốn bề Ra đình cùng mẹ ta nghe tin này Thật vàng trăm lạng cầm tay Không bằng được một tin này con ơi Cầm vàng còn sợ vàng rơi Tin này nắm được đời đời ấm no Cầm vàng còn nghĩ ai cho Tin này tạc dạ bác Hồ tóc sương Gian lao mấy chục năm trường Gian lao tranh đấu dẫn đường cho dân Tin này là nghĩa tương thân Liên Xô, Trung Quốc ân cần giúp ta Tin này công mẹ, công cha Công anh, công chị, công bà con chung Công bao chiến sĩ anh hùng Đổ bao nhiêu giọt máu hồng mới nên Thật cầm trăm lạng vàng nguyên Không vui, không sướng bằng tin hoà bình Nguồn: Sách giáo khoa Tập đọc lớp 4, tập 1, NXB Giáo dục, 1958
Khó ngủ Trằn trọc hoài chẳng ngủ Lòng ngổn ngang lo buồn Nhổm dậy ngồi thương mẹ Thắp đèn lại nhớ con Bên bình minh mặt bể Bên bóng tà hoàng hôn Mình cũng đầu nắng xế Gió chiều se mây dồn... Ánh ngày dang cánh vỗ Đỉnh đại ngàn chon von Niềm riêng đầy thương nhớ Những băn khoăn bồn chồn Thơ những dòng viết dở Đời nắng mưa vẫn còn... Ôi khuya càng thêm vắng Đầu phên thưa gió luồn Đành pha ấm trà đặc Ngồi thức trắng đêm luôn 11-2995 Nguồn: Tuyển tập Trần Hữu Thung, NXB Nghệ An, 1997
Không đề Em hãy dừng đây mộng ảo huyền Có đò đưa đón nắng trong đêm Âm dương từ buổi đàn trôi hướng Phách lạc ngoài khơi tình đảo điên Mùa xưa quán lạnh ánh xiêm tan Hoà hợp giai nhân ngấn lệ tàn Đã hẹn cùng ai chờ kiếp trước Sông dài che lấp mộng thời gian Trao tay sầu hận mờ năm tháng Xa ngái vườn xanh quạnh bóng nàng Thu trước còn in lần ngọc vỡ Tình xưa đưa vọng phút tà dương Say mê một sớm động lòng thương Cô gái chiều xuân tựa áo hường Có phải hôm nay rồi cách biệt Xa vời sương tuyết lạnh quê hương.
Sen quê Bác Nắng toả đường sen, cây toả xanh Chim bay chuyền cánh, hót chuyền cành Gặp mùa sen nở ao quê Bác Ôi sáng tháng Năm, sáng mát lành Sen giữa lòng ao, sát mặt đường Có sen ao bỗng hoá thành gương Ríu ran đàn cháu quanh soi bóng Hương trẻ, hương sen, quyện mến thương Sen đẹp soi mình mặt gương ao Gợi về một thuở đọng ca dao Sen từng nhắc nhở người trong, đục Bông trắng, lá xanh, hương ngọt ngào Bông sen đẹp nhất hồ Đồng Tháp Ai đã nâng niu kính tặng Người Từ độ Thành Sen chung đất nước Toả khắp nhân gian, mọi cuộc đời Sáng nay cháu lại về quê nội Bác ơi! Sen cũng nở trắng ngần Nắng hè sao lắm bâng khuâng nhớ Bát ngát đất trời, bát ngát xuân... Nguồn: Tuyển tập Trần Hữu Thung, NXB Nghệ An, 1997
Không đề 1 Tình em thức anh dậy Hay dậy vì nhớ em Pháo giặc câu phía ấy Xé đỏ góc trời đêm Trời mưa hầm có lở Em cứ nhớ đắp thêm Nhớ em thường thế đó Tỉnh dậy nhiều trong đêm Nguồn: Tuyển tập Trần Hữu Thung, NXB Nghệ An, 1997
Thăm lúa Mặt trời càng lên tỏ Bông lúa chín thêm vàng Sương treo đầu ngọn gió Sương lại càng long lanh. Bay vút tận trời xanh Chiền chiện cao cùng hót Tiếng chim nghe thánh thót Văng vẳng khắp cánh đồng. Đứng chống cuộc em trông Em thấy lòng khấp khởi Bởi vì em nhớ lại Một buổi sớm mai ri Anh tình nguyện ra đi Chiền chiện cao cùng hót Lúa cũng vừa sẫm hột Em tiễn anh lên đường Chiếc xắc mây anh mang Em nách mo cơm nếp Lúa níu anh trật dép Anh cúi sửa vội vàng Vượt cánh đồng tắt ngang Đến bờ ni anh bảo "Ruộng mình quên cày xáo Nên lúa chín không đều Nhớ lấy để mùa sau Nhà cố làm cho tốt" Xa xa nghe tiếng hát Anh thấy rộn trong lòng Sắp đến chỗ người dông Anh bảo em ngoái lại Cam ba lần ra trái Bưởi ba lần ra hoa Anh bước chân đi ra Từ ngày đầu phòng ngự Bước qua kì cầm cự Anh có gửi lời về Cầm thư anh mân mê Bụng em giừ phấp phới Anh đang mùa thắng lợi Lúa em cũng chín rồi Lúa tốt lắm anh ơi Giải thi đua em giật Xoè bàn tay bấm đốt Tính cũng bốn năm ròng Ai cũng bảo đừng mong Riêng em thì vẫn nhớ Chuối đầu vườn đã lổ Cam đầu ngõ đã vàng Em nhớ ruộng nhớ vườn Không nhớ anh răng được Mùa sau kề mùa trước Em vác cuốc thăm đồng Lúa sây hạt nặng bông Thấy vui vẻ trong lòng Em mong ngày chiến thắng. 1-1-1950
Không đề (bài 5) Quên nhau thật khó lắm mà Nhớ nhau cứ vậy như là ngày đêm Ngày ơi nắng trải ngang thềm Đêm ơi chênh chếch nửa rèm vầng trăng Em ơi phải thú thực rằng Quên nhau khó lắm chi bằng nhớ nhau Nguồn: Tuyển tập Trần Hữu Thung, NXB Nghệ An, 1997
Không đề (bài 11) Người trồng cây không một lời dặn lại Chỉ có tán xanh bóng tỏa lưng đồi Hoa trái với chuyền cành chim hót Có trưa này, ta ghé nghỉ, thế thôi!