Bài thơ: CẢM THÔNG Tác giả: Huy Cận Cảm nhận: Thuỷ Tô * * * Trùng quan mây trắng thao thao Non xanh bất tuyệt thương sao tấm lòng Thái bình sông núi cảm thông Cho người tơ tưởng miền trong cõi ngoài Xa nhau mười mấy tỉnh dài Mơ màng suốt xứ, đêm ngày nhớ nhung Tâm tình một nẻo quê chung Người về cố quận muôn trùng ta đi Gặp rồi phút chốc chia ly Mắt người đẹp ấy hồn quê dõi đường Tiếng người ấy tiếng cố hương Giọng người ấy tiếng tình thương đất nhà Biệt ly lọ phải quan hà Sân ga trông nuối cũng là tương tư. Một ngày nào đó, Đười Ươi thi sĩ Bùi Giáng đã đọc được những câu thơ trên của Huy Cận để rồi nỗi niềm "quy hồi cố quận" đã làm nên hành trình thơ ông- hành trình thơ cũng là hành trình tìm lại gốc gác uyên nguyên, tìm lại Mưa Nguồn, Nguyên Xuân, tìm lại tiếng cười thơ trẻ và niềm cảm thông hàn gắn mọi sự phân biệt, chia rẽ trong đời. Ngay từ bài thơ Tràng Giang, viết năm 1939, một Huy Cận lữ thứ đã cảm thấy rợn ngợp, cô liêu trong nỗi buồn sông nước, nỗi sầu vũ trụ- "bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài". Đối diện với cái mênh mông thăm thẳm mà ý thức của con người nhỏ bé không thể nào tri nhận hết, trước nỗi cô đơn lạc loài "tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giả", điểm tựa của "chiếc linh hồn nhỏ mang mang thiên cổ sầu" ấy là miền cố hương, là tấm lòng tri kỷ có thể nối những sợi tơ lòng cảm thông, đồng điệu: "Trùng quan mây trắng thao thao Non xanh bất tuyệt, thương sao tấm lòng" Không gian khởi đầu của tình cảm là chốn biên ải, "trùng quan" xa xôi vời vợi, đặt chủ thể trữ tình cùng nỗi "thương" da diết giữa bốn bề "mây trắng thao thao", "non xanh bất tuyệt". Non xanh mây trắng là hai hình ảnh luôn gắn liền với nhau- "núi ấp ôm mây mây ấp núi" (Hồ Chí Minh), là khung cảnh vừa kì vĩ vừa thơ mộng, nhắc nhớ con người về cội nguồn. Khởi đầu của mọi dòng sông là nơi non cao, trông về mây núi cũng là một hành động ngưỡng vọng quê hương. Nhưng núi và mây không chỉ là đối tượng của địa giới mà còn mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là sự hiện diện của những gì bất biến, trường tồn giữa dòng chảy của thời gian. Nỗi niềm của thi sĩ bao đời cũng vịn vào núi mây mà hóa thành một dòng suy tưởng triền miên. Thôi Hiệu nhìn mây trời mà tiếc chim hoàng hạc đã cũng người xưa bay đi, để lại hậu thế trong sự bàng hoàng giữa cõi sống trăm năm ở tạm: "Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, Bạch vân thiên tải không du du." Thi tiên Lý Bạch còn ngồi một mình ở núi Kính Đình mà cười vì lẽ được mất ở thế gian: "Chúng điểu cao phi tận, Cô vân độc khứ nhàn. Tương khan lưỡng bất yếm, Chỉ hữu Kính Đình san." Mấy chữ "thao thao", "bất tuyệt" càng cho thấy cái bàng bạc, mênh mông, vô tận của đất trời. Trời đất trường tồn, nhưng chủ thể con người đang bộc bạch lòng thương da diết ý thức được sự hạn hữu của sinh mệnh mình. Vì vũ trụ bao la, ta nhận ra mình nhỏ bé. Vì nhận ra mình nhỏ bé, ta nuôi dưỡng lòng thương yêu để vượt lên giới hạn tâm hồn mình. Thương cho tấm lòng của ai? Tấm lòng của lượng trời bao la độ lượng? Hay tấm lòng của tha nhân đã tìm đến "tôi" để cảm thông, chia sẻ? Có lẽ đó vừa là nỗi niềm với sông núi, vừa là nỗi niềm của người với người: "Thái bình sông núi cảm thông Cho người tơ tưởng miền trong cõi ngoài" Núi sông bao giờ chẳng yên ả, thái bình- "Dạ thưa xứ Huế bây chừ/ Vẫn là núi Ngự bên bờ sông Hương" (Bùi Giáng). Từ muôn đời nay đến muôn đời sau, sông vẫn chảy, và núi vẫn soi bóng an yên, mặc cho chuyện thế sự nhân quân loạn lạc, biến suy, hưng thịnh. Vạn vật trong tự nhiên dường như luôn giao hòa trong sự đồng điệu âm thầm, tất cả đều kết nối, tương hỗ với nhau mà tồn tại. Khung cảnh "thái bình sông núi cảm thông ấy" nhắc ta nhớ về một thuở Thiên đàng ấu thơ trong sáng hiền hòa mà nhân loại đã đánh mất. Thế giới con người luôn chìm trong chiến tranh, sự chia rẽ và ngăn cách vì trật tự đối lập mà con người gán ghép vào đời sống. Để có được sự hòa bình bên ngoài ta, thì trong tâm trí, ta phải có sự hòa giải với chính mình, sự thấu cảm dành cho kẻ khác. Được sống trong thương yêu, hòa bình là điều mà mọi con người khao khát, như khát khí trời và ánh sáng của khi lạc trong hang sâu, nhưng, lạ thay, ít ai dám sống cho điều mình ước ao hay ta không nhận ra những điều ấy quý giá đến thế nào, cho đến khi tham vọng và lầm lỡ buộc ta phải đối diện với cái chết và sự hư vô. Nhìn "sông núi cảm thông" mà người "tơ tưởng miền trong cõi ngoài", người mơ về sự đồng điệu giữa nội tâm và ngoại giới, giữa cái "tôi" và cõi tâm hồn tha nhân: "Xa nhau mười mấy tỉnh dài Mơ màng suốt xứ, đêm ngày nhớ nhung" Nhìn sông núi có nhau mà người nhận ra khoảng cách vời vợi giữa chính mình với người bạn tâm tình, cách xa "mười mấy tỉnh dài" mới thấy "nhớ nhung", xa cách là cội nguồn của nỗi nhớ. Có khi gần nhau mà vẫn nhớ nhau, ấy là cõi lòng người đã xa nhau vậy. Đối tượng trong nỗi nhớ nghĩ của chủ thể trữ tình bị ẩn đi, chỉ có sự xác định bằng khoảng cách "xa nhau" và nỗi niềm mong nhớ. Ta chỉ biết đó là "người", một con người vô danh, một người bạn lòng quá đỗi thân quen không cần khắc họa rõ nét vẫn in hằn trong nỗi nhớ. Hay đối tượng của nỗi nhớ là một con người phiếm chỉ, là bất cứ ai trong cuộc đời, chỉ cần là con người để xua đi nỗi cô đơn ngày tháng "Không cầu gợi chút niềm thân mật/ Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng." Trạng thái "mơ màng", "nhớ nhung" trải từ đầu đến cuối câu thơ- "Mơ màng suốt xứ, đêm ngày nhớ nhung", khiến ta có cảm tưởng như nỗi nhớ dằng dặc, mênh mông đã phủ kín, đã tràn lấp không gian và thời gian, không một nơi chốn nào, phút giây nào trong trú xứ địa cầu mà người thơ không nhớ "con người". Không gian càng mênh mông rợn ngợp, thời gian càng heo hút tử sinh thì nỗi thương nhớ càng da diết, càng phủ kín lên không- thời gian. Dẫu nỗi niềm hoài nhớ quê hương mênh mông trĩu nặng, người thơ vẫn mãi là kẻ lữ thứ mỏi mòn: "Tâm tình một nẻo quê chung Người về cố quận, muôn trùng ta đi" Dường như đây là hai câu thơ kết tinh đậm đặc nhất tư tưởng, tình cảm của bài thơ, hay thậm chí là cả một khoảng mênh mông trong đời thơ Huy Cận, gắn với ngọn Lửa thiêng rừng rực cháy cho ấm sáng cả một vũ trụ cô liêu. Đây là hai câu thơ mà thi sĩ Bùi Giáng đã tâm đắc giới thiệu như một lời giải thích cho cảm hứng một đời thơ mình khi viết trong phần mở đầu tác phẩm "Lời cố quận" mà ông dịch của Martin Heidegger. Hai câu thơ án ngữ giữa bài thơ, tạo nên một ngã rẽ, một cánh cửa đóng lại đoạn tâm tình da diết, mở ra một cuộc đi vô định và cô đơn. Là "đóng lại" nhưng không đóng lại, thơ ca đâu phải là tín hiệu giản đơn của "có" hay "không", dù lựa chọn ra đi mặc cho xa cách, nhớ mong, người vẫn chẳng bao giờ nguôi nỗi nhớ mong. Dẫu "Người ra đi đầu không ngoảnh lại", dứt khoát thế, anh dũng thế, cõi lòng vẫn mãi vương vấn đoái trông người thương và quê hương ở lại- "Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy" (Nguyễn Đình Thi). Dứt bỏ lòng yêu, làm sao anh cứu nước? Cũng như vậy, người ra đi vì nỗi thương yêu. "Tâm tình" là nẻo đường chung, kết nối "tôi" và "người khác", giữa tự ngã với tha nhân. Nhân loại tưởng rằng rộng lớn lắm, người với người ngỡ xa cách lắm, nhưng mỗi chúng ta đều là một "cuộc đời trong quả hành tinh, hành tinh trong một cái bình hư vô" (miên di). Chúng ta giống nhau đến từng nhịp thở, từng tiếng đập con tim, từng ánh mắt cười, từng dòng lệ rơi, từng cơn mơ thao thức về hạnh phúc, hòa bình. Từ thuở "lạc thiên nhiên", mỗi con người đã đi trên nẻo đường riêng của mình, tìm cách lưu danh trên hòn đá của sự vĩnh cửu, tìm lợi lạc cho khỏa lấp lòng tham và nỗi sợ mất mát, tiêu vong, nhưng "chúng ta đã đi quá xa đến quên mất vì sao mình bắt đầu", cũng như từ đâu mà mình bắt đầu. Con người ở đâu, tình yêu ở đâu và chính ta ở đâu? Trong một đoạn đường nào đó, ta đã lạc mất rồi. Người thơ gạt nước mắt bước đi trên hành trình muôn trùng xa xôi ấy phải chăng là đang đèo bòng một trọng trách, người ra đi cho tha nhân nhớ nẻo trở về. "Cố quận" không chỉ là mảnh đất nơi ta sinh thành, mà còn là những kí ức tốt đẹp, là một cõi lòng sáng trong của nhân loại thuở khai sinh, một nhất thể tinh thần hài hòa, không phân biệt, là tính người, tình người, là nụ cười trẻ thơ nhẹ nhàng bay lên mọi đau khổ của hành trình lưu lạc cõi người.. "Người về cố quận, muôn trùng ta đi", câu thơ dường như mang chút xót xa của người tìm lại kí ức của thế gian khi mỗi bước người đi là mỗi bước thêm xa cách, thêm nhớ mong. Nhưng cũng chính hành trình tìm đường ấy khiến thi nhân tìm thấy nghĩa lí của đời mình, tìm thấy quê hương trong viễn cách, tìm thấy niềm vui ngay trong hiện tại sầu tủi buồn thương. Nguyễn Bính trong hành trình phiêu lãng giang hồ, dẫu nỗi buồn nhớ ngày đêm da diết: "Người ơi buồn lắm mà không khóc/ Mà vẫn cười qua chén rượu đầy" vẫn quyết đi cho trọn con đường mình đã "lỡ" đặt chân: "Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết Ngày mai ra sao rồi hãy hay Ngày mai có nghĩa gì đâu nhỉ? Cốt nhất cười vui trọn tối nay." (Hành phương Nam) Dẫu khẳng quyết mình đã khước từ tất cả để nhập cuộc với non sông nhưng người lại sực nhớ đến ngày mai, lắng lo cho sự bất định của cuộc tồn tại. Dẫu tự nói mình phải vui trong phút giây hiện tại, để say, để cười trong cuộc rượu tâm tình thế nhưng từ sâu bên trong, sự thuyết phục của lý tưởng, với câu hỏi "có nghĩa gì đâu?" và lập luận "cốt nhất cười vui trọn tối nay", chẳng thể dẹp yên được cõi lòng luôn xáo động, thổn thức trong nỗi nhớ. Càng uống say, người thơ Nguyễn Bính càng không thể quên miền cố hương, không thể xa cõi con người: "Uống say mà gọi thế nhân ơi!". Huy Cận thi sĩ cũng luôn mang trong lòng tình yêu và nỗi nhớ: "Gặp rồi phút chốc chia ly Mắt người đẹp ấy hồn quê dõi đường Tiếng người ấy tiếng cố hương Giọng người ấy tiếng tình thương đất nhà Biệt ly lọ phải quan hà, Sân ga trông nuối cũng là tương tư." Gặp gỡ và biệt ly, còn điều gì bình thường và giản đơn nhưng đắng cay hơn thế? Gặp nhau một thoáng rồi biệt ly. Gặp nhau một đời rồi cũng biệt ly. Ai níu được tay ai giữa cuộc chuyển xoay vô cùng của trời đất? Mấy chữ "gặp" và "chia ly" chỉ cách nhau "phút chốc", ngắn ngủi đến chơi vơi. Nhưng dường như cuộc trùng ngộ ấy đã gây nên niềm thương nỗi nhớ, một niềm cảm thông yên ủi theo mãi hành trình của chủ thể trữ tình. "Mắt người", "tiếng người", "giọng người" trở thành cố hương trong niềm thương nỗi nhớ của kẻ ra đi. Dẫu xa xôi trong khoảng cách, tấm lòng người vẫn trở về mãi để gặp lại kí ức, gặp lại thương yêu. Tình cảm ấy sưởi ấm cho người những phút cô quạnh lạc loài. Giữa cái mênh mông của "sông dài, trời rộng, bến cô liêu", sự hiện diện dù nhỏ bé, xa xôi của một con người cũng đủ là sự an ủi, vỗ về, cưu mang cái tôi bơ vơ đang chấp chới trong bể cô đơn. Chàng Kim Trọng trong Đoạn trường tân thanh cũng mang mãi hình bóng người thương trong thời gian xa cách. Dẫu cách xa mấy năm chịu tang chú ở Liêu Dương hay mười lăm năm ly biệt, mười lăm năm thăng trầm đổi thay, người vẫn ngoái trông về những kỉ niệm đầu tiên: "Trước sau nào thấy bóng người/ Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông". Niềm nuối tiếc khôn cùng của Thôi Hộ đã xuôi chảy đến Nguyễn Du và giờ đây, thơ Huy Cận lại nhập dòng, nối một hành trình chữ- hành trình của trái tim con người miên man bất tận. Chẳng phải đến nơi quan hà biên ải mới là biệt ly, ngay sân ga cũng là biệt ly, ngã một con đường, một lối nhỏ cũng là biệt ly khi nó đánh dấu cho một sự ngăn cách chẳng bao giờ có thể nối lại, một kỉ niệm chẳng bao giờ có thể quay về. Quan hà hay sân ga ấy là nơi đánh dấu cho sự khép lại vĩnh viễn của quá khứ với hiện tại, đẩy quá khứ ấy về xa xăm. Ta nhớ những tâm sự của chủ thể trữ tình trong Hai sắc hoa tigon của T. T. Kh: "Đâu biết lần đi một lỡ làng, Dưới trời gian khổ, chết yêu đương. Người xa xăm quá! - Tôi buồn lắm Trong một ngày vui pháo nhuộm đường." Nhưng đấy là chuyện của tình yêu, chuyện của kỉ niệm yêu đương đã thành một "khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan". Tâm tình trong những dòng thơ của Huy Cận là niềm cảm thông nhẹ nhàng, là tình thương dẫu xa cách vẫn trở thành một chốn quê hương cho người trở về, không đổ vỡ, không tan tác, dẫu cho có buồn nhớ mà "trông nuối", mà "tương tư". Đó không hẳn là nỗi tương tư của tình yêu, của khát vọng được gắn bó cuộc đời với một con người mà là một nỗi thương nhớ con người trên hành trình muôn dặm xa xôi. Hai chữ "con người" thân thương biết mấy, ấy là cố hương, là kỉ niệm, là chốn neo giữ ta khỏi bi kịch vong thân, lạc loài. Tôi thường không tìm hiểu tiểu sử của nhà thơ và bài thơ trước khi tiếp xúc với văn bản, đặt lòng mình vào từng câu thơ mà lắng nghe, nghĩ ngợi. Đi đến hết bài thơ, tôi mới biết được rằng Huy Cận viết bài thơ này vì duyên sự gặp gỡ và tâm tình với một cô gái lạ trên chuyến tàu từ Nam ra Bắc năm 1940. Khi đến miền Trung, nàng xuống tàu để về với cố hương, chàng tiếp tục cuộc hành trình của mình, tâm tư có lẽ dấy lên câu hỏi, nàng sẽ nhớ hay quên. Dù ngắn ngủi, cuộc gặp gỡ với người con gái chưa kịp tường tận quê quán, thân nhân đã để lại trong lòng thi sĩ nỗi vấn vương thương nhớ. Thế mới thấy cái tình quyến luyến của một mối cảm thông đồng điệu. Thế mới thấy cái diệu kỳ trong sự đẩy đưa của số phận để người gặp gỡ người. Một lần gặp gỡ đã thành quê hương. Cố hương, hóa ra là nơi đã thắp lên trong ta ngọn lửa của tình yêu, cho ta một điểm tựa của tình người, cho ta những giọt kỉ niệm long lanh an ủi ta trong cuộc lữ thứ miên man, trong cuộc đời hữu hạn chẳng thoát được cái lẽ chia ly trong vòng sinh tử. Dù vậy, vẫn không thể lấy cái "sự kiện lịch sử" mà bài thơ ra đời để đóng khung ý nghĩa của nó. Thơ ca, nghệ thuật vừa có một gốc gác, một nơi neo giữ, nhưng vừa có khả năng khơi mở đến vô cùng. Trên con đường chữ nghĩa, bài thơ "Cảm thông" của Huy Cận lại gặp gỡ bao con người trên chuyến tàu chưa khi nào ngơi nghỉ của cuộc đời, lại gảy lên niềm đồng điệu, nỗi thương yêu từng im tiếng trong tâm hồn người. Niềm cảm thông ấy cũng chính là ngọn lửa mà thơ ca thắp lên trong ta để sáng soi cho cuộc tìm đường về miền cố quận.