1. Sự hình thành và phát triển của đàn: Trong kho tàng nhạc cụ dân tộc, Việt Nam có nhiều nhạc cụ đặc sắc và mỗi nhạc cụ đều có những âm thanh độc đáo riêng biệt, mang đến cho thính giả những cung bậc cảm xúc khác nhau. Đàn tranh có xuất xứ từ Trung Quốc, được hình thành từ thế kỷ mười một đến thế kỷ mười bốn, còn gọi là đàn Thập lục vì đàn có 16 dây, thuộc họ dây, chi gảy. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, đàn tranh vẫn tồn tại và có nhiều phát triển vượt bậc, chịu ảnh hưởng của nền âm nhạc thế giới, được các nghệ nhân sáng tạo thêm các loại đàn có 17 dây, 19 dây, 21 dây, 22 dây. Đàn tranh là nhạc cụ cổ truyền của dân tộc Việt Nam, dùng để độc tấu; hòa tấu cùng các loại nhạc cụ như đàn Nguyệt, Sáo trúc.. ; đệm hát, đệm cho ngâm thơ; xuất hiện trong nhiều dàn nhạc của dân tộc Đại Việt như Chèo, Tuồng, Cải lương.. ; trong các nghệ thuật hát như Chầu Văn.. Và đặc biệt trong xã hội ngày càng phát triển, đàn tranh còn được dùng để biểu diễn nhạc trẻ, xuất hiện trong nhạc C-pop, dòng nhạc Âu Mỹ.. Khác với đàn tranh Trung Quốc, đàn tranh Việt Nam có tiếng đàn trong trẻo, tươi sáng, ngân vang, giàu tình cảm. Chính vì đặc điểm này mà đàn tranh có thể nói lên những tâm tư tình cảm của nghệ nhân, càng nghe càng cảm thấy bồi hồi. Âm vực của đàn cao sáng, không bị âm sắc, âm trung đầy và tròn, âm trầm êm dịu, mượt mà uyển chuyển, mang đậm hương vị, khả năng diễn tấu phong phú dễ dàng kiểm soát được nhạc cổ điển hay hiện đại. 2. Cấu tạo của đàn: Hộp đàn: Hình hộp dài, chiều dài khoảng 110cm, đầu đàn hẹp khoảng 13cm, cuối đàn rộng khoảng 20cm, thường được làm bằng gỗ mun, gỗ trắc. Cấu tạo cùng cách tạo hình chi tiết đã tạo nên sự thanh thoát cho đàn tranh. Mặt đàn: Mặt đàn Tranh vồng lên tượng trưng cho vòm trời làm bằng gỗ cây ngô đồng hoặc gỗ thông. Thành đàn: Làm bằng gỗ trắc, mun hoặc cẩm lai hoặc gỗ gụ. Ðáy đàn: Dưới đáy đàn ở đầu rộng, phía tay phải người đánh đàn có một lỗ thoát âm hình bán nguyệt để lắp dây, ở giữa đàn có 1 lỗ hình chữ nhật để cầm đàn khi di chuyển và ở đầu hẹp có một lỗ tròn nhỏ để treo đàn. Đáy đàn là một mặt phẳng để dễ dàng đặt lên đùi khi ngồi xổm hay ngồi trên ghế, tạo sự ổn định khi chơi đàn. Cầu đàn: Ở đầu rộng, một cầu đàn bằng gỗ, hơi nhô lên và uốn cong theo mặt đàn có các lỗ nhỏ xếp hàng ngang có nạm hoặc cẩn kim loại để xỏ dây. Bộ phận này giúp cố định dây dàn, để dây không bị lệch khi được gẩy. Ngựa đàn: Trên mặt đàn có nhạn (ngựa đàn) tương ứng với số dây, các con nhạn để đỡ dây đàn và có thể di chuyển được để điều chỉnh độ cao thấp của dây. Để có độ bền và âm thanh tốt, các con nhạn thường làm bằng gỗ trắc hoặc cẩm lai. Đầu các con nhạn ở vị trí đỡ các dây đàn thường được gắn thêm xương hoặc đồng. Trục đàn: Ở đầu hẹp đàn Tranh có các trục đàn để lên dây, trục đàn đặt trên mặt đàn còn để giữ một đầu dây xếp hàng chéo do độ ngắn dài của dây, tạo âm thanh cao thấp, kết hợp cùng sự di chuyển của ngựa đàn tạo sự biến thiên vạn hóa của đàn tranh, trục đàn tốt thường được làm bằng gỗ Trắc, gốc Cẩm Lai hoặc gỗ gụ. Dây đàn: Dây đàn ngày xưa được làm bằng tơ. Ngày nay, dây đàn hầu hết được làm bằng thép hoặc inox với các cỡ dây khác nhau để phù hợp với tầm âm của cây đàn. Móng gảy: Ðàn Tranh đàn bằng móng gảy thường được làm bằng đồi mồi, Inox. Khi biểu diễn, nghệ nhân sẽ đeo móng gảy vào ba ngón cái, trỏ, giữa của bàn tay phải để gẩy. 3. Kỹ thuật chơi đàn: ( 1) Kỹ thuật tay phải truyền thống, nhiệm vụ cơ bản của nó là chọn âm thanh, với chức năng chính là để phát âm. Sử dụng ngón tay to, ngón trỏ, ngón giữa và ngón đeo nhẫn của bạn để gẩy âm thanh của dây, kiểm soát sự thay đổi nhịp điệu và giai điệu. Kỹ thuật ngón tay phải là Kỹ thuật cơ bản thường được sử dụng trong chơi đàn tranh. Nó bao gồm hướng vào trong và hướng ra ngoài của việc chơi bằng ngón tay, chủ yếu bao gồm: Ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa, ngón đeo nhẫn. (2) Kỹ thuật tay trái truyền thống với sự trợ giúp của sức mạnh cổ tay, sử dụng đầu ngón tay cái, ngón giữa hoặc đầu ngón tay cái, ngón giữa và ngón áp út để ấn vào dây bên trái của đàn để điều khiển âm thanh của dây như thay đổi, tăng độ chuyển tiết tấu của bản nhạc. Nói chung có các loại sau: Rung, tức là dây cọ xát. Điều đó có nghĩa là sau khi tay phải chơi một nốt nhạc, tay trái thực hiện các rung động biên độ và tần số khác nhau trên cùng một dây ở bên trái, để âm thanh tạo ra các hiệu ứng dao động khác nhau. Đặc trưng của bổ vần làm cho âm nhạc nhẹ nhàng và mềm mại hơn, là một trong những phương pháp phân biệt phong cách và thể loại trong nhạc truyền thống. Đây là những kỹ thuật cơ bản được chia sẻ trong nhạc tranh truyền thống. Đến đây, chúng ta có thể nắm được vị trí cơ bản của các kỹ thuật chơi đàn tranh truyền thống: Tay phải dùng để thu âm, tay trái dùng để chỉnh âm. Kỹ thuật truyền thống kết hợp giữa "giai điệu" và "vần" này làm cho sự kết hợp nhiều giai điệu và hòa âm trở nên mượt mà. Tuy nhiên, do sự hòa nhập của thiên nhiên địa phương, thiên nhiên, ngôn ngữ, phong tục tập quán và âm nhạc, nghệ thuật dân gian khác, âm nhạc truyền thống ở các vùng khác nhau sẽ thể hiện những phong cách, màu sắc và kỹ thuật biểu diễn khác nhau, và dần dần hình thành một thể loại phong cách có ảnh hưởng nhất định.