Tiểu luận Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Gill, 19 Tháng mười hai 2022.

  1. Gill

    Bài viết:
    6,269
    Đềtài: Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

    Học phần: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

    MỞ ĐẦU
    1. Lý do chọn đề tài

    Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là đội tiên phong cách mạng, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cách đây hơn 90 năm đáp ứng yêu cầu phát triển khách quan của phong trào yêu nước và của giai cấp công nhân nước ta lúc bấy giờ. Nguyễn Ái Quốc không những là người Việt Nam đầu tiên nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết phải có đảng lãnh đạo mà còn chỉ ra rằng đảng đó phải là một đảng kiểu mới, tức là phải khác về chất so với các đảng, các hội chỉ tồn tại trên danh nghĩa trước đó.

    Sự ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam đã có vai trò vô cùng to lớn đối với sự ra đời của Đảng.

    Là sinh viên CN Thanh Tra Khóa 1 (K19) của Phân hiệu Trường Đại học Nội vụ Hà Nội tại Quảng Nam được trang bị đầy đủ kiến thức với học phần Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam do Giảng viên chính ThS Nguyễn Thị Lệ Hữu. Cùng thời gian đó, do tình hình dịch Covid-19 nên không thi tập trung được, Nhà trường đề xuất phương án thi Bài tập lớn thay thế thi Tự luận như Kế hoạch đề ra.

    Thấy được công lao to lớn của Người đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam nói chung và sự ra đời của Đảng ta nói riêng nên em chọn chủ đề: "Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam." làm Bài tập lớn kết thúc học phần Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam của mình.

    2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu

    2.1. Mục tiêu nghiên cứu


    Bài tập lớn cần làm rõ những vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

    2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

    Để thực hiện được mục tiêu trên, cần làm rõ những nhiệm vụ sau:

    - Một là, tìm hiểu khái quát xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời và tổng quan các phong trào yêu nước đòi độc lập của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng.

    - Hai là, làm rõ những vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

    3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

    3.1. Đối tượng nghiên cứu


    Bài tập lớn nghiên cứu những vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

    3.2. Phạm vi nghiên cứu

    Bài tập lớn nghiên cứu những vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

    4. Phương pháp nghiên cứu

    - Phương pháp luận

    - Phương pháp tìm kiếm tài liệu

    - Phương pháp ghi chép, thống kê tài liệu


     
    Chỉnh sửa cuối: 4 Tháng một 2023
  2. Đăng ký Binance
  3. Gill

    Bài viết:
    6,269
    NỘI DUNG

    1. Khái quát xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời và tổng quan các phong trào yêu nước đòi độc lập của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng

    1.1 Khái quát xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Các nước đế quốc phương Tây đây mạnh quá trình xâm chiếm và nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, thực hành chính sách thực dân tàn bạo nhằm vơ vét sức người, sức của vì lợi nhuận độc quyền của chủ nghĩa tư bản. Điều đó không chỉ dẫn tới sự phát triển gay gắt mâu thuẫn giữa các nước đế quốc trong việc tranh giành thuộc địa dẫn tới chiến tranh thể giới 1914-1918, mà còn làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa bị áp bức với chủ nghĩa để quốc, chủ nghĩa thực dân ngày càng sâu sắc. Phong trào chống đế quốc giành độc lập của các dân tộc thuộc địa trở thành một nội dung lớn của phong trào cách mạng thế giới, một vấn đề có tính thời đại.

    Phong trào đấu tranh của các dân tộc là thuộc địa của chủ nghĩa thực dân ngày càng lan rộng và phát triển mạnh mẽ trên thế giới, đặc biệt là ở châu Á đã tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước Việt Nam.

    Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây, từ năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa.

    Trong bối cảnh các nước đế quốc đẩy mạnh tìm kiếm thuộc địa, Việt Nam trở thành đối tượng nằm trong mưu đồ thôn tính của thực dân Pháp trong cuộc chạy đua với nhiều nước khác. Sau một quá trình điều tra thám sát lâu đài, thâm nhập kiên trì (của các giáo sĩ và thương nhân Pháp), ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng và từ đó từng bước thôn tính Việt Nam.

    Trước bối cảnh đó, nhân dân Việt Nam vẫn không chịu khuất phục, thực dân Pháp dùng vũ lực để bình định, đàn áp sự nỗi đậy của nhân đân. Đồng thời với việc dùng vũ lực đàn áp đẫm máu đối với các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa, bên cạnh đó vẫn duy trì chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai.


    1.1. 1 Tình hình chính trị

    Thực dân Pháp thực hiện chính sách "chia để trị" nhằm phá vỡ khối đoàn kết cộng đồng quốc gia dân tộc, bên cạnh đó thực dân Pháp triệt để thực hiện chính sách "dùng người Việt trị người Việt", ra đạo luật về tổ chức quân đội thuộc địa bao gồm vừa binh lính Pháp, vừa binh lính người bản xứ. Trực tiếp điều khiển quân đội ở Đông Dương là viên tổng chỉ huy người Pháp. Ngoài quân đội chính quy còn có đội lính khố xanh chuyên để đàn áp các cuộc khởi nghĩa, hoặc canh giữ các nhà tù, phục vụ ở các đạo quan binh ở trên miền biên giới. Ngoài ra, cả 3 xứ còn có tổ chức đội thân binh dưới quyền của bọn Việt gian phản động làm nhiệm vụ đàn áp các cuộc nổi đậy của nhân dân.
     
  4. Gill

    Bài viết:
    6,269
    1.1. 2 Tình hình xã hội

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tính chất xã hội Việt Nam thay đổi: Từ xã hội phong kiến sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến, đặc trưng là: Đế quốc- phong kiến kết hợp với nhau thống trị, bóc lột nhân dân. Đế quốc dựa vào phong kiến phản động để duy trì ách thống trị, phong kiến phản động dựa vào thế lực đế quốc để bóc lột nhân dân.

    1.1. 3 Tình hình kinh tế

    Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt Nam có sự biến đổi: Quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Nhưng thực dân Pháp không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, nước Việt Nam không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.

    Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình xã hội Việt Nam. Sự phân hóa giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn.

    Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam và cả Đông Dương nói chung là một chính sách thống trị chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hóa, giáo dục, chứ không phải đem đến cho nhân dân một sự "khai hóa văn minh" - một sự khai hóa và cải tạo thực sự theo kiểu phương Tây. Chính sách cai trị và khai thác bóc lột của thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã làm phân hóa những giai cấp vốn là của chế độ phong kiến, đồng thời tạo nên những giai cấp, tầng lớp mới với thái độ chính trị khác nhau. Mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam cũng thay đổi, ngoài mâu thuẫn vốn có của xã hội Việt Nam trước đây là mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến, đến lúc này đã xuất hiện mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và chính quyền tay sai. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng trở nên gay gắt là mâu thuần giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai.
     
  5. Gill

    Bài viết:
    6,269
    1.2. Tổng quan các phong trào yêu nước đòi độc lập của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trước khi Đảng ra đời đã có nhiều cuộc đấu tranh theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản.

    Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất. Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau, như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học.. lãnh đạo. Năm 1905, sau khi Nhật thắng Nga trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật, ở Việt Nam dấy lên phong trào Đông Du. Tiếng là phong trào, nhưng không có tổ chức. Duy Tân Hội chỉ là "hữu danh vô thực." Khi Pháp-Nhật câu kết với nhau trục xuất Phan Bội Châu và số học sinh Việt Nam ra khỏi nước Nhật, thì phong trào cũng tan rã.

    Sau Cách mạng Tân Hợi (1911), Phan Bội Châu lập ra Việt Nam Quang phục Hội (5/1912) với tôn chỉ "đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam, kiến lập Việt Nam cộng hòa dân quốc." Nhưng như Phan Bội Châu đã tự thừa nhận: Hội "mới lọt lòng mẹ ra, mới thử một tiếng khóc thì đã biết triệu chứng là khó sống lâu rồi."

    Khi thấy phong trào đã nghiêng về xu hướng cách mạng thế giới, Phan Bội Châu dự tính cải tổ Việt Nam Quang phục Hội thành Việt Nam Quốc dân Đảng theo mẫu của Tôn Trung Sơn, nhưng chưa kịp thực hiện thì ông đã bị bắt.

    Phan Chu Trinh cũng đã từng nói "Ngày nay, muốn độc lập, tự do, phải có đoàn thể.." nhưng ông chỉ mới nói mà chưa làm. Còn Đảng Lập hiến (1923), như Nguyễn Ái Quốc nhận định đó không phải là một đảng có tổ chức mà đơn thuần chỉ là một vài nhà trí thức dựa theo kiểu Pháp mà đặt tên đảng. Những thủ lĩnh của đảng này là những người theo quốc tịch Pháp.

    Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại.

    Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.
     
  6. Gill

    Bài viết:
    6,269
    2. Đôi nét về lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và vai trò của lãnh tụ Người đối với quá trình thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam

    2.1 Đôi nét về lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nguyễn Tất Thành (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí danh, bút danh khác) sinh ngày 19/5/1890 ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

    Sinh ra và lớn lên tại Nam Đàn, Nghệ An, vùng đất có truyền thông bắt khuất, kiên cường chống áp bức bất công, trước cảnh nước mắt, đồng bào bị đọa đày đau khổ bởi chính sách thuộc địa của thực dân Pháp và chế độ phong kiến tay sai, Nguyễn Tất Thành mang trong mình tinh thần yêu nước, thương dân sâu sắc. Người cho rằng, trong lịch sử dân tộc, các bậc tiền bối đã lãnh dạo nhân dân nỗi dậy đấu tranh giành được độc lập cho đất nước, nhưng chưa giải phóng được nhân dân lao động khỏi vòng nô lệ.

    Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ giải phóng dân tộc là yêu cầu căn bản, là nguyện vọng thiết tha của các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có Việt Nam. Những cuộc đấu tranh của các sĩ phu yêu nước như: Phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đều diễn ra sôi nổi, thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, nhưng cuối cùng đều bị thất bại, bế tắc, đất nước ta vẫn ở trong tình trạng khủng hoảng đường lối chính trị. Nguyễn Tất Thành (lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc) rất khâm phục những nhà yêu nước lớn, những nhà cách mạng mạng thế hệ trước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, nhưng không tán thành đường lối cứu nước của họ. Khi nhiều người ngoảnh nhìn sang phương Đông với sự ngưỡng mộ "người anh cả da vàng" Nhật Bản, hay Tôn Dật Tiên với chủ nghĩa Tam Dân, thì Nguyễn Tất Thành sang phương Tây để tự mình tìm một con đường cứu nước mới.

    Với mong muốn đi tìm chọn con đường đấu tranh vừa đạt được mục tiêu giải phóng dân tộc, vừa đáp ứng chỉ hướng giải phóng nhân dân, ngày 5- 6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã vượt qua hạn chế của những sĩ phu yêu nước đương thời, quyết chí đi sang phương Tây tìm con đường cứu nước, cứu dân theo tư duy mới. Sau khi đến nhiều nước trên thế giới (Pháp, Mỹ, Anh) và trải qua nhiều nghề lao động khác nhau, Người đã rút ra một kết luận quan trọng: Ở đâu bọn để quốc thực dân cũng tàn bạo độc ác, ở đâu người lao động cũng bị bóc lột đã man. Ngày 5.6. 1911, Nguyễn Tất Thành khi ấy mới 21 tuổi với tên gọi Văn Ba từ bến cảng Nhà Rồng lên tàu Latusơ Tơrêvin rời Tổ quốc sang phương Tây tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Ý nghĩ này xuất hiện ở Người từ rất sớm, sau này Người nhắc lại: "Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ của Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái.. Và từ thủa ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy". Như vậy, Nguyễn Tất Thành quyết định tìm hiểu xem đằng sau từ tự do, bình đẳng, bác ái, ẩn giấu những gì sau đó "Trở về giúp đồng bào mình". Tức là đi tìm đường cứu nước, tìm một giải pháp cho quê hương để giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ.
     
  7. Gill

    Bài viết:
    6,269
    2.2 Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam

    2.2. 1 Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam - Con đường Cách mạng Vô sản


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm, dấu chân Người từng in trên 3 đại dương, 4 châu lục và khoảng 30 quốc gia trong 10 năm (1911 - 1920). Quá trình thâm nhập thực tiễn rộng lớn đó đã giúp người thanh niên yêu nước nhận thức rõ hơn, khái quát hơn những vấn đề mang tính chất bước ngoặt quan trọng, đó là nhận ra diện mạo, bản chất của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân: Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và "dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: Giống người bóc lột và giống người bị bóc lột".

    Nhận ra bản chất của các cuộc cách mạng qua nghiên cứu các cuộc cách mạng của các nước tư bản chủ nghĩa: "Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản. Cách mệnh không đến nơi, không triệt để, tiếng nói là cộng hòa là dân chủ. Kỳ thực bên trong thì nó bóc lột công nông trong nước, ở ngoài thì áp bức thuộc địa".

    Khi Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 thành công, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị. Đầu năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp. Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp ở Versailles (Vécxây, Pháp), Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson (Uynxơn) tuyên bố bảo đảm về quyền dân tộc tự quyết cho các nước thuộc địa. Ngày 18-6-1919, nhóm người Việt Nam yêu nướ có mặt ở Pháp, gồm: Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Ái Quốc. Thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân đân An Nam (gồm tám điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam). Những yêu sách đó dù không được Hội nghị đáp ứng, nhưng sự kiện này đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và Nguyễn Ái Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực dân: "chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn" .

    Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V. I. Lênin đăng trên báo L/Hưmaniié (Nhân đạo), số ra ngày l6 và 17-7-1920. Sơ thảo chỉ rõ, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông có kẻ thù là chủ nghĩa tư bản phương Tây, do đó, về khách quan, nó là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Đã thuộc phạm trù cách mạng vô sản thì đương nhiên, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sau này Người có kể lại: "Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta". Có thể khẳng định, chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc tìm đến lý tưởng cao quý của chủ nghĩa Mác - Lênin, với khát vọng mang lại hòa bình cho dân tộc, Người đưa ra những thông điệp mang giá trị vĩnh hằng, đó là những thông điệp về hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, đó chính là: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - con đường Người lựa chọn suốt 100 năm qua, nay vẫn là sợi chỉ đỏ, là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng Việt Nam.

    Những luận điểm của V. LLênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, phù hợp với tư tưởng yêu nước, thương dân của Nguyễn Ái Quốc. Lý luận của V. I. Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các đân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12-1920) họp tại thành phố Tour (Tua). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do

    V. T. Lênin thành lập). Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cũng với những người vừa bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản- tức là Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc "muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản" ! Trong những năm 1919-1921, Bộ trưởng thuộc địa Pháp Arlbert Sarraut (An be xa rô) nhiều lần gặp Nguyễn Ái Quốc mua chuộc, đe dọa.

    Bằng thiên tài và hoạt động cách mạng nhạy bén của mình, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch sử. Vượt qua những hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản, con đường duy nhất đúng đắn phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội Việt Nam.

    Hai sự kiện này chứng tỏ Người đã tìm thấy và lựa chọn dứt khoát con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.

    Đây cũng là sự kiện mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn phát triển mới "giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin" ", Từ đây, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam có khả năng bước sang một giai đoạn mới-giai đoạn phát triển theo sự chỉ dẫn của lý luận Mác-Lênin, gắn với phong trào công nhân quốc tế, đưa dân tộc Việt Nam hướng theo mục tiêu của thời đại mới, thời đại mở đầu từ thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.

    Sau này, Người nhớ lại:" Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản đã làm tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ III. Từng bước một trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ".
     
  8. Gill

    Bài viết:
    6,269
    2.2. 2 Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Khi xác định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản theo cách mạng Tháng Mười Nga, theo Quốc tế Cộng sản thì Nguyễn Ái Quốc bằng hoạt động thực tiễn tích cực của mình ở nước ngoài đã tiến hành truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, quá trình truyền bá đi từ thức tỉnh đến giác ngộ, từ lựa chọn con đường đến hành động cách mạng theo con đường cách mạng vô sản.

    Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào Cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ việc nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin để truyền bá vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập một chính đảng cộng sản ở Việt Nam. Người nhấn mạnh: Cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.

    Về tư tưởng: Người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập trường của giai cấp công nhân.

    Nội dung truyền bá là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội. Người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam không phải bằng các tác phẩm kinh điển, những cuốn sách lý luận đồ sộ mà bằng các tác phẩm ngắn gọn, dể hiểu, phù hợp với trình độ quần chúng. Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị, nội dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng. Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa, nhân dân Việt Nam; nêu lên mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc.

    Người đã sử dụng những phương pháp thích hợp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam: Từ chỗ thức tỉnh đến định hướng hành động, rồi đào tạo đội ngũ những người tuyên truyền thông qua một tổ chức vừa tầm thích hợp. Những phương pháp tuyên truyền từ thấp lên cao, phù hợp với điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến.

    Về chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận điểm chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức; xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; xác định lực lượng cách mạng; xác định vai trò lãnh đạo của Đảng; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Những luận điểm ấy sau này phát triển thành những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

    Người xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới: "An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ""ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả" . Luận điểm trên là cụ thể hóa và phát triển quan điểm của Người đã nêu trước đây về tính chủ động và khả năng thắng lợi trước của cách mạng thuộc địa đối với cách mạng chính quốc. Những nội dung đó đem đến cho quần chúng niềm tin, quyết tâm chủ động đứng lên làm cách mạng cứu nước, cứu nhà.

    Về tổ chức: Sau khi từ Liên Xô về Quảng Châu, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong tổ chức Tâm tâm xã lập ra nhóm Cộng sản đoàn (02/1925). Trên cơ sở nhóm Cộng sản đoàn Người sáng lập nên Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (6/1925) tại Quảng Châu - Trung Quốc, sau đó Người liên kết với những cộng sản ở thuộc địa đang hoạt động cách mạng ở Pháp lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông (7/1925). Các tổ chức là nơi để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam. Nhờ đó, thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928 - 1929 theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Có thể nói, trong những năm tháng đầy cam go, hiểm nguy, thử thách, với khát vọng cháy bỏng giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hoạt động khẩn trương, tích cực và đầy sáng tạo chuẩn bị những tiền đề tư tưởng, chính trị, tổ chức để dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam phù hợp với xu thế tiến bộ của lịch sử.


    Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản, nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan điểm lập trường của giai cấp công nhân là tổ chức tiền thân dẫn tới ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam, Đó là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

    Trong giai đoạn 1921 - 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng. Ở đây có ba điểm rất đáng lưu ý:

    Thứ nhất, khi truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không bê nguyên xi mà vận dụng sáng tạo. Nghĩa là, chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam đã qua "nung nấu trí tuệ Hồ Chí Minh". Vì thế, Người đã chọn những vấn đề căn cốt nhất, cách diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu nhất.. Do đó, dễ dàng được dân tộc Việt Nam, trước hết là những nhà cách mạng tiếp thu.

    Thứ hai, Người không chỉ truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào phong trào công nhân mà còn truyền bá vào phong trào yêu nước. Do đó, tạo ra một cơ sở xã hội rộng lớn cho chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam, tạo sự chuyển biến về chất của phong trào yêu nước Việt Nam. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của đảng cộng sản ở Việt Nam.

    Thứ ba, phương pháp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng rất đặc biệt. Người tuyên truyền thông qua các bài viết, tác phẩm, bài báo (đặc biệt là báo Thanh niên) ; thông qua tổ chức (Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên) và thông qua những con người cụ thể (các lớp học tại Quảng Châu -Trung Quốc, phong trào "vô sản hóa" tại Việt Nam). Với những cách tuyên truyền đặc biệt này, một mặt giúp cho truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam nhanh và sâu rộng hơn; mặt khác, cùng với truyền bá truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam là quá trình chuẩn bị về tổ chức cho sự ra đời của Đảng sau này.
     
  9. Gill

    Bài viết:
    6,269
    2.2. 3 Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cuối năm 1929, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ dẫn tới sự ra đời của ba tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản đã khẳng định bước phát triển quan trọng của phong trào cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều nhận là đảng cách mạng chân chính, do đó không tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức. Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đến Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để lập một chính đảng duy nhất của Việt Nam, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

    Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc có giá trị như một Đại hội Đảng. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc ra Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng. Mở đầu Lời kêu gọi Người viết: "Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản giải quyết vấn đề cách mạng nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ và thấy có trách nhiệm phải gửi tới anh chị em và các đồng chí lời kêu gọi này". Sau khi vạch rõ bản chất, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam, Người chỉ rõ sứ mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam là "để lãnh đạo toàn thể anh chị em bị áp bức chúng ta làm cách mạng" .

    Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử cách mạng Việt Nam cần phải thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy tín chính trị và phương thức hợp nhất phù hợp, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời triệu tập và chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp nhất dù "vắt tắt", nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới.
     
  10. Gill

    Bài viết:
    6,269
    2.2. 4 Người đã soạn thảo và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cương lĩnh chính trị là văn kiện cơ bản, xác định rõ mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ chiến lược, phương pháp hoạt động.. của một chính đảng, hoặc một tô chức chính trị trong một giai đoạn lịch sử nhất định. V. I. Lênin chỉ rõ: "Cương lĩnh là một bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất cả những điều mà đảng muốn đạt được và vì mục đích gì mà đảng đấu tranh" . Cương lĩnh chính trị là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng xã hội nhằm phân đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng. Cương lĩnh là văn bản quan trọng và cao nhất của Đảng, có tính chiến lược lâu dài nhằm định hướng, chỉ đạo to lớn, toàn điện đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước trong một giai đoạn lịch sử nhất định.

    Những nội dung ấy dẫu rằng "vắn tắt" nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại. Cương lĩnh chính trị đầu tiên là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc. Và là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta trong mọi thời kì cách mạng và đặc biệt có giá trị trong thời đại ngày nay. 90 năm thực hiện đường lối chiến lược theo Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Việt Nam vẫn kiên định con đường cách mạng được khẳng định từ Cương lĩnh chính tri đầu tiên, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vẫn là sợi chỉ đỏ, là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự vận dụngvà phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Sự vận dụng phù hợp với thực tiễn và phát triển sáng tạo tự nó đã mang giá trị lý luận và thực tiễn, khẳng định tính khoa học và tính hiện thực của nội dung Cương lĩnh. Cá trị lý luận của Cương lĩnh là ở chỗ, lần đầu tiên thấy rõ cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa như Việt Nam không thể giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để, nếu không gắn liền với giải phóng giai cấp những người lao khổ, giải phóng xã hội, mang lại quyền tự do, hạnh phúc cho con người. Hai cuộc giải phóng vĩ đại đó (giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, xã hội) chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

    Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử" ; Đại hội lần thứ XII (2016) của Đảng tiếp tục khẳng định: "Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử" . Do đó, chúng ta hoàn toàn có quyền khẳng định rằng di sản Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay.
     
  11. Gill

    Bài viết:
    6,269
    KẾT LUẬN

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngày 19/5 hàng năm đã trở thành một ngày đặc biệt thiêng liêng, trọng đại đối với dân tộc Việt Nam và bạn bè quốc tế. Bởi, đó là kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người giành cả cuộc đời cho độc lập, tự do của Tổ quốc và ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân. Đảng ta, dân tộc ta mãi ghi sâu công ơn trời biển của Người. Tên Người - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh gắn liền với Đảng Cộng sản Việt Nam.

    Nghiên cứu về vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình thành lập Đảng cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm hết sức quý báu: Bài học về vận dụng lý luận vào thực tiễn (sáng tạo, bám sát thực tiễn Việt Nam) ; bài học về tính chủ động, bản lĩnh độc lập, tự chủ; bài học về sự trung thành với những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê nin.

    Những người hoạt động trên lĩnh vực tư tưởng lý luận tự hào luôn có Đảng lãnh đạo, càng ra sức học tập để thấm nhuần đạo đức cách mạng của Người, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tích cực nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, học tập đạo đức và phong cách của Người để vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn trong công cuộc đổi mới, đấu tranh chống các quan điểm sai trái phủ nhận vai trò của Đảng, hạ thấp uy tín của Người đối với cách mạng Việt Nam, góp phần tích cực hiện thực hóa các Nghị quyết của Đảng trong cuộc sống.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...