[Bài Thơ] Tì Bà Hành - Bạch Cư Dị

Thảo luận trong 'Thơ Ca' bắt đầu bởi Hậu Minh, 30 Tháng mười một 2023.

  1. Hậu Minh

    Bài viết:
    87
    Tác phẩm: Tì Bà Hành

    Tác giả: Bạch Cư Dị

    Giới thiệu đôi nét về tác giả:

    - Bạch Cư Dị (772-846) tự là Lạc Thiện, người tỉnh Thiểm Tây, là nhà thơ nổi tiếng, sáng tác nhiều nhất thời Đường (hiện còn trên 3000 bài). Ông tự chia thơ mình thành bốn loại, trong đó có giá trị nhất là thơ phúng dụ và và thơ cảm thương. Thơ phúng dụ thường nặng nề về phê phán những mặt tiêu cực trong xã hội và các chính sách phi lí của triều đình, thơ cảm thương thiên về bộc lộ cảm xúc trước những cảnh đời thương tâm.

    Việc phải chứng kiến những nỗi oan khổ điêu đứng mà dân lành phải chịu ngay từ thời niên thiếu đã ghi một dấu ấn, tạo ra một ảnh hưởng lớn trong cuộc đời và trong sáng tác của nhà thơ. Thơ Bạch Cư Dị luôn luôn hướng tới một mục tiêu cụ thể, là phơi bày thực trạng xã hội, nhất là ở phần oan khổ lưu li của dân lành, để cho vua và quan lại biết, mà tu sửa mình, mà thay đổi chính sự. Đương nhiên, đó là tiếng thơ nói cho nỗi lòng của bách tính trong cảnh nhiễu nhương.

    Phiên âm:

    Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,

    Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.

    Chủ nhân há mã khách tại thuyền,

    Cử tửu dục ẩm vô quản huyền.

    Tuý bất thành hoan thảm tương biệt,

    Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt.

    Hốt văn thuỷ thượng tỳ bà thanh,

    Chủ nhân vong quy khách bất phát.

    Tầm thanh âm vấn đàn giả thuỳ,

    Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì.

    Di thuyền tương cận yêu tương kiến,

    Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến.

    Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai,

    Do bão tỳ bà bán già diện.

    Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh,

    Vị thành khúc điệu tiên hữu tình.

    Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ,

    Tự tố bình sinh bất đắc chí.

    Đê mi tín thủ tực tực đàn,

    Thuyết tận tâm trung vô hạn sự.

    Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu,

    Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu.

    Đại huyền tào tào như cấp vũ,

    Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ.

    Tào tào thiết thiết thác tạp đàn,

    Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn.

    Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt,

    U yết lưu cảnh thuỷ hạ than.

    Thuỷ tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt,

    Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết.

    Biệt hữu u sầu ám hận sinh,

    Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.

    Ngân bình sạ phá thuỷ tương bính,

    Thiết kỵ đột xuất đao thương minh.

    Khúc chung thu bát đương tâm hoạch,

    Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch.

    Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn,

    Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch.

    Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung,

    Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung.

    Tự ngôn bản thị kinh thành nữ,

    Gia tại Hà Mô lăng hạ trú.

    Thập tam học đắc tỳ bà thành,

    Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ.

    Khúc bãi tằng giao thiện tài phục,

    Trang thành mỗi bị Thu Nương đố.

    Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu,

    Nhất khúc hồng tiêu bất tri số.

    Điền đầu ngân tì kích tiết toái,

    Huyết sắc la quần phiên tửu ố.

    Kim niên hoan tiếu phục minh niên,

    Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ.

    Đệ tẩu tòng quân a di tử,

    Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố.

    Môn tiền lãnh lạc xa mã hy,

    Lão đại giá tác thương nhân phụ.

    Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly,

    Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ.

    Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền,

    Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thuỷ hàn.

    Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự,

    Mộng đề trang lệ hồng lan can.

    Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức,

    Hựu văn thử ngữ trùng tức tức.

    Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân,

    Tương phùng hà tất tằng tương thức.

    Ngã tòng khứ niên từ đế kinh,

    Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành.

    Tầm Dương địa tích vô âm nhạc,

    Chung tuế bất văn ty trúc thanh.

    Trú cận Bồn giang địa thế thấp,

    Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh.

    Kỳ gian đán mộ văn hà vật,

    Đỗ quyên đề huyết viên ai minh.

    Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ,

    Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh.

    Khởi vô sơn ca dữ thôn địch,

    Âu á triều triết nan vi thính.

    Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ,

    Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh.

    Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc,

    Vị quân phiên tác Tỳ bà hành.

    Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập,

    Khước tọa xúc huyền huyền chuyển cấp.

    Thê thê bất tự hướng tiền thanh,

    Mãn tọa trùng văn giai yểm khấp.

    Tọa trung khấp hạ thuỳ tối đa,

    Giang Châu tư mã thanh sam thấp.

    Dịch nghĩa:

    Ban đêm đưa tiễn khách ở đầu sông Tầm Dương

    Gió thu thổi vào lá phong, hoa lau hiu hắt

    Chủ nhân xuống ngựa, khách trong thuyền

    Nâng chén rượu muốn uông (mà) không có đàn sáo

    Say mà không vui vẻ gì (vì) biệt ly sầu thảm

    Lúc chia tay lòng mang mang, sông đượm bóng trăng

    Chợt nghe có tiếng tỳ bà trên mặt nước

    Chủ nhân quyên về, khách cũng không khởi hành

    Tìm theo tiếng để hỏi người đàn là ai

    Tiếng tỳ bà im bặt, muốn nói mà còn (ngại ngùng) trì hoãn

    Bèn dời thuyền lại xin được gặp mặt

    Rót thêm rượu, khêu đèn lên, trùng tân tiệc rượu

    Gọi đến ngàn lần vạn lần mới bước ra

    Tay ôm tỳ bà che khuất nửa gương mặt

    Vặn trục gảy dây hai ba tiếng (để thử)

    Chưa có khúc điệu gì mà nghe đã hữu tình

    Dây nào cũng nghẹn ngào, tiếng nào cũng có ý

    Bày tỏ nỗi bất đắc chí trong cuộc đời

    Hạ thấp lông mày cứ gảy cứ gảy mãi

    Giãi bày hết tâm sự vô cùng hạn

    Nhẹ nắn, chậm vuốt, rồi lại gảy tiếp

    Thoạt đầu là khúc Nghê thường, sau đó là khúc Lục yêu

    Dây lớn ào ào như mưa rào

    Dây nhỏ nỉ non như tỉ tê chuyện riêng

    (Rồi tiếp đến) tiếng rào rào lẫn tiếng nỉ non

    (Nghe như) hạt châu lớn hạt châu nhỏ rắc vào trong mân ngọc

    (Nghe như) tiếng chim oanh giọng (líu lo) qua lại trong hoa

    Nhịp suối ngập ngừng, nước chảy xuống bãi

    Suối nước bỗng lạnh đông, dây đàn ngưng bặt

    Tiếng đàn ngưng bặt, không thuận, bấy giờ bỗng yên lặng

    Tự có mối sầu u uất riêng, nỗi hận âm thầm phát sinh

    Lúc này không có âm thanh mà nghe con hay hơn có

    (Bỗng dưng nghe như) tiếng nước bắn tung ra khỏi thành bình bạc vị phá vỡ

    (Nghe như) đoàn quân thiết kỵ ào ào đến, đao thương sáng ngời

    Nàng dạo tay vào giữa bốn dây (và) chấm dứt ca khúc

    Bốn dây vang lên một âm thanh như lụa xé

    Thuyền mảng đông tây lặng im, không một tiếng nói

    Chỉ thấy vầng trăng thu rọi sáng giữa sông

    Nàng trầm ngâm gỡ phím, cài vào giữa các dây đàn

    Sửa gọn xiêm áo lại, đứng dậy chỉnh vẻ mặt

    Tâm sự rằng, nàng nguyên là con gái chốn kinh thành

    Nhà ở lăng Hà Mô

    Mười ba tuổi học được ngón đàn tỳ bà

    Tên thuộc bộ thứ nhất của giáo phường

    Mỗi gảy hết khúc đàn, từng khiến các nhà dạy đàn phục

    Mỗi trang điểm xong là đến nàng Thu Nương cũng đố kỵ

    Những chàng trai trẻ ở Ngũ Lăng tranh nhau tặng biếu

    Một bài ca, thưởng không biết bao là tấm lụa đào

    Vành lược bạc, cành trâm vàng đánh nhịp vỡ tan

    Quần lụa màu huyết dụ để rượu đổ ra hoen ố

    Năm này vui cười, năm sau cũng như vậy

    Trăng thu gió xuân, trải một đời nhàn hạ

    Em trai đi lính, rồi dì chết

    Chiều qua, sớm lại, nhan sắc cũng lão đi

    Trước cổng dần vắng tanh, thưa thớt đi ngựa xe

    Cũng có tuổi rồi mới làm vợ người lái buôn

    Người lái buôn chỉ tham lợi, coi thường biệt ly

    Tháng trước đi Phù Lương mua trà

    Từ đó đến giờ ở đầu sông một mình với con thuyền không

    Quanh thuyền trăng sáng, nước sông lạnh lẽo

    Đến khuya bỗng mộng thấy lại thời trẻ trung

    Trong mộng thấy khóc nhoè má hồng phấn son

    Tôi nghe tiếng tỳ bà đã thán tức

    Giờ nghe thêm những lời tâm sự lại càng bùi ngùi

    Cùng là kẻ luân lạc ở chốn chân trời

    Gặp gỡ nhau đây hà tất đã từng quen biết

    Năm ngoái tôi từ biệt kinh vua

    Bị biếm đến thành Tầm Dương cho đến nay nằm bệnh

    Tầm Dương xứ hẻo lánh không có âm nhạc

    Cả năm chưa nghe được tiếng đàn sáo

    Tôi ở gần sông Bồn, chỗ thấp và ẩm ướt

    Lau vàng, trúc võ mọc quanh nhà

    Ở nơi đây sáng chiều nghe được những gì

    Có tiếng quốc khóc ra máu và tiếng vượn hú bi ai

    Mùa xuân sáng hoa nở, mùa thu ban đêm có ánh trăng

    Tôi thường thường đem rượu ra uống một mình

    Có phải không có sơn ca thôn địch đâu

    Khốn nỗi líu lo, líu liết, thật khó nghe

    Đêm nay nghe được tiếng tỳ bà của nàng

    Như nghe được tiếng nhạc tiên, tai tạm nghe rõ ràng

    Xin ngồi lại đàn một khúc

    Tôi sẽ vì nàng làm bài Tỳ Bà hành

    Cảm động vì lời tôi nói, nàng đứng một lúc lâu

    Rồi ngồi xuống gảy đàn, tiếng bỗng chuyển thành cấp xúc

    Buồn thảm không giống như tiếng đàn vừa rồi

    Hết những người trong tiệc nghe lại đều che mặt khóc

    Trong những người ấy ai là người khóc nhiều nhất

    Tư mã Giang Châu ướt đẫm vạt áo xanh

    Dịch thơ:

    Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách,

    Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.

    Người xuống ngựa, khách dừng chèo,

    Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti.

    Say những luống ngại khi chia rẽ,

    Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.

    Đàn ai nghe vẳng ven sông,

    Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi.

    Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá

    Dừng dây tơ nấn ná làm thinh

    Dời thuyền ghé lại thăm tình

    Chong đèn thêm rượu còn dành tiệc vui

    Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ

    Tay ôm đàn che nửa mặt hoa

    Vặn đàn mấy tiếng dạo qua

    Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng hay

    Nghe não nuột mấy dây buồn bực

    Dường than niềm tấm tức bấy lâu

    Mày chau tay gẩy khúc sầu

    Dãi bầy hết nỗi trước sau muôn vàn

    Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt

    Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu

    Dây to nhường đổ mưa rào

    Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng

    Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy

    Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu

    Trong hoa oanh ríu rít nhau

    Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh

    Nước suối lạnh dây mành ngừng đứt

    Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ

    Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ

    Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay

    Bình hạc vỡ tuôn đầy dòng nước

    Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao

    Cung đàn trọn khúc thanh tao

    Tiếng buông xé lụa lựa vào bốn dây

    Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt

    Một vầng trăng trong vắt lòng sông

    Ngậm ngùi đàn bát xếp xong

    Áo xiêm khép nép hầu mong giãi lời

    Rằng: "Xưa vốn là người kẻ chợ

    Cồn Hà Mô trú ở lân la

    Học đàn từ thuở mười ba

    Giáo phường đệ nhất chỉ đà chép tên

    Gã Thiện tài sợ phen dừng khúc

    Ả Thu nương ghen lúc điểm tô

    Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua

    Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn

    Vành lược bạc gẫy tan dịp gõ

    Bức quần hồng hoen ố rượu rơi

    Năm năm lần lữa vui cười

    Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu

    Buồn em trảy, lại lo dì thác

    Sầu hôm mai đổi khác hình dong

    Cửa ngoài xe ngựa vắng không

    Thân già mới kết duyên cùng khách thương

    Khách trọng lợi khinh đường ly cách

    Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi

    Thuyền không, đậu bến mặc ai

    Quanh thuyền trăng dãi nước trôi lạnh lùng

    Ðêm khuya sực nhớ vòng tuổi trẻ

    Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen."

    Nghe đàn ta đã chạnh buồn

    Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời:

    "Cùng một lứa bên trời lận đận

    Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau

    Từ xa kinh khuyết bấy lâu

    Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai

    Chốn cùng tịch lấy ai vui thích

    Tai chẳng nghe đàn địch cả năm

    Sông Bồn gần chốn cát lầm

    Lau vàng trúc võ âm thầm quanh hiên

    Tiếng chi đó nghe liền sớm tối

    Cuốc kêu sầu vượn hót véo von

    Hoa xuân nở nguyệt thu tròn

    Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng

    Há chẳng có ca rừng, địch nội?

    Giọng líu lo buồn nỗi khó nghe

    Tỳ bà nghe dạo canh khuya

    Dường như tiên nhạc gần kề bên tai

    Hãy ngồi lại gẫy chơi khúc nữa

    Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca."

    Ðứng lâu dường cảm lời ta

    Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây

    Nghe não nuột khác tay đàn trước

    Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi

    Lệ ai chan chứa hơn người?

    Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh.

    (Phan Huy Vịnh dịch)
     
    Ngân Ngân08 thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 15 Tháng mười hai 2023
  2. Đăng ký Binance
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...