Thuyết Minh Về Tác Giả Nguyễn Trãi

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi PHƯƠNG NHẤT SINH, 7 Tháng năm 2020.

  1. PHƯƠNG NHẤT SINH

    Bài viết:
    3
    Bài làm

    Bình tâm lại lặng lẽ cất bước giữa tháng năm tịch mịch, hồi tưởng lại một đoạn quá khứ oan khuất bị dòng chảy lịch sử chôn vùi tận đáy lòng sâu dâu bể, bất chợt lại đọc được đoạn thơ xé lòng

    "Thị lộ ngày xưa bán chiếu gon

    Tây hồ thục nữ một lòng son

    Ức Trai oan nghiệt nay còn đó

    Hào kiệt anh hung với nước non"

    Xưa nay cứ ngỡ lịch sử là một thứ vinh diệu chạm khắc lên bao câu chuyện anh hùng hào kiệt nhưng lại không ngờ lịch sử còn để lại bao câu chuyện đau thương với bao nỗi oan oan khuất thấu tận trời xanh, tận dưới đáy lòng sâu lịch sử đã phác họa nguyễn trãi vị anh hùng dân tộc một danh nhân văn hóa một nhà chính trị gia lẫy lừng khiến người đời cảm phục, người còn là một tác giả luôn kiêu hãnh với tác phẩm để đời của mình, một nhà thơ với vần thơ mang ý cảnh phong trần thuần khiết với thiên nhiên cây cỏ, trong bầu trời rộng lớn bao la người tựa như một vâng trăng vằng vặt soi rõ tận góc ngách thế gian, thế mà năm tháng lại phủi bụi lên lịch sử để lại vụ án oan khuất tưởng chừng bị rêu phong vùi lấp nhưng cuối cùng lại được minh oan, cuộc đời của đại thi hào này có thể nói được xem là một câu chuyện truyền kỳ với bao vinh nhục thăng trầm dâu bể, một vị khai quốc công thần của thời hậu lê, một anh hùng đáng kính của dân tộc.

    Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai quê ở làng Chi Ngại sau dời về Nhi Khê, thân sinh của ông là Nguyễn Ứng Long một nho sinh nghèo học giỏi đỗ Thái học sinh thời Trần, mẹ là Trần Thị Thái con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Gia đình bên nội cũng như bên ngoại đều có hai truyền thống yêu nước và văn hóa văn học

    Thân thế của người như một trò đùa số phận, mất mát có tang thương có, người đời cứ tưởng ông là người có gia thế cao lớn sống trong danh cao quý tộc nhưng lại không ngờ ông lại có một cuộc đời bi ai. Không giống như bao đứa trẻ khác sống trong vòng tay thương yêu của mẹ, đau đớn thay khi mới lên năm tuổi ông đã thiếu vắng tình thương của mẹ, mất ông ngoại khi tròn mười tuổi, dưới sự thương yêu dạy dỗ của người cha, năm 1400 ông đỗ Tiến sĩ, hai cha con cùng làm quan dưới triều Hồ, tưởng chừng có thể mang tài cao chí lớn của bản thân giúp đỡ quê hương xây dựng giang sơn gấm vóc phồn hoa. Nhưng mà triều đình một phen phong ba biến chuyển, giặc Minh sang đô hộ nước ta, gây bao tàn khốc cho nhân dân Đại Việt, Nguyễn Phi Khanh bị bắt đưa sang Trung Quốc, nợ nước thù nhà, ông luôn khắc sâu lời thân phụ dặn "con trở về lập chí, rửa nhục cho nước, trả thù cho cha, như thế mới là đại hiếu" Nguyễn Trãi luôn để bên tai lời cha dặn, trong lòng lúc nào cũng nuôi chí lớn trả thù cho cha báo hiếu cho nước nhà, giận nỗi muốn ăn tươi nuốt sống quân thù, chứng kiến cảnh quân giặc hà hiếp bóc lột dân ta "nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống hầm tai họa" ông hâm hở tìm kiếm minh quân phò tá, trời không phụ người có lòng nghe danh lê lợi ở Lam sơn tài cao chí lớn xứng danh là một minh chủ hiếm có để phò tá, không quảng đường xa ông cất bước đến Lam sơn diện kiến minh chủ, lập hội thề ở Lũng Nhai, trở thành quân sư đắc lực của lê lợi, tuy khởi nghĩa lúc đầu gian nan, xong với tinh thần thép quật cường bất khuất, trãi bao phen nằm gai niếm mật hưởng trọn mùi vị gian nan vất vả, sau trận mưa máu sa trường da ngựa bọc thây, kết thúc chặn gió sương mịt mù, cuối cùng cũng ngửi được mùi vị hoa mai sau đêm đông lạnh giá, nghĩa quân lam sơn đã tắm máu quân thù, rửa sạch nỗi nhục quốc gia, nhưng với tấm lòng nhân đạo cao cả, Nguyễn Trãi đã hiến kế công tâm cho Lê lợi vừa đuổi được quân thù vừa tránh mối họa về sau, Nguyễn Trãi chính là vị khai quốc công thần, một nhà chính trị quân sự tài ba thao lược. Sau khi đại quân toàn thắng ông soạn bình ngô đại cáo, đây được xem là bản tuyên ngôn độc lập lần hai của nước ta khẳng định chủ quyền dân tộc, đất nước vắng bóng quân thù ông lao vào công cuộc xây dựng đát nước với ước muốn cho thường dân áo vải ai cũng có cơm ăn áo mặc xây dựng triều đại hậu Lê thái bình thịnh thế, nhưng trời không chiều lòng ông vào buổi đầu đất nước sơ khai, trọng võ hơn trọng văn mặc dù ông giữ chức văn cao trong triều đình nhưng cũng không tránh khỏi bị người khác ức hiếp đổ oan lại cộng them việc vua lê thái tổ nghi kỵ trọng thần khiến ông một phen chịu cảnh ngục tù, thoái chí anh hùng "hư danh thự họa thù kham tiếu, chúng báng cô trung tuyệt khả liên" chán cảnh quan trường tranh đấu, ông từ quan lui về Côn sơn ở ẩn làm bạn với núi sông cây cỏ, sống cuộc đời tự do tự tại không tranh không đấu mặc cho thế sự xoay vần chỉ mong ở núi côn sơn ngồi trên vách đá uống một ngụm trà lặng nhìn gió thổi mây bay bỏ mặc sự tranh đấu ở hồng trần khói lửa chỉ cầu trồng vài khóm trúc dăm ba bụi hoa nhài một mái nhà tranh lắng nghe tiếng suối róc rách chảy ngâm dăm ba câu thơ tâm sự với đời, nghĩ đến đây bản thân lại đồng cảm mà không khỏi day dứt nhớ về một người cũng đông chí hướng với cụ nguyễn trãi là cụ nguyễn Bỉnh Khiêm một vị quan thanh liêm chính trực vì ngán nỗi bọn nịnh thần a dua nịnh hót bọn gian thần kết bè cánh làm lũng đoạn triều cương ông treo ấn về quê làm bạn với cây cỏ đất vàng xem nhẹ phú quý vinh hoa "một mai một cuốc một cần câu, thơ thẩn dầu ai vui thú nào", "rượu đến cội cây ta sẽ uống, nhìn xem phú quý tựa chiêm bao" mặc dù mong muốn đem tài hèn sức mọn của mình để giúp đỡ nhân nhân xây dựng đất nước nhưng cả hai ông lại bất lực với thời cuộc, thấy được sợi dây đồng cảm ở hai ông nhưng với nguyễn trãi ta lại thấy tuy bề ngoài ông bầu bạn với núi song cây cỏ chẳng quan tâm mùi vi thế tục nhưng ngay chính thâm tâm ông lại luôn canh cánh trong lòng chuyện quốc gia đại sự, tận đáy lòng của ông như một như cây cỏ khô chỉ cần một cơn gió xuân thoảng qua là có thể trở nên xanh tươi mơn mởn. Quả thật như vậy, 1440 Lê thái tông mời ông ra giúp việc nước, tấm lòng yêu nước thương dân tưởng chừng bị tháng năm rêu phong làm cho mờ lấp nhưng lại được phủi sạch không một vết nhơ, ông lại gánh vác chuyện quốc gia đại sự, nhưng hỡi ôi, nhân sinh khó nói thế sự khó lường tai bay họa gió rơi xuống đầu gia tộc ông, cái chết của vua Lê thái tông làm nên án oan "Lệ chi viên" thấu tận trời xanh bọn gian thần vu cho ông tội giết vua khép tội tru di tam tộc, chém đầu cả họ, đây được xem như là vết nhơ của lịch sử dân tộc, một thiên cổ kỳ oan tưởng chừng như bị bụi thời gian phủ lắp trở thành câu chuyện chỉ còn là nỗi tiếc thương của nhân sinh, nhưng lưới trời lồng lộng câu chuyện ai oán ấy đã được khấy đọng tâm can thế nhân thêm một lần nữa, 1464 Lê thánh tông đã gắng lòng minh oan cho nguyễn trãi còn sưu tầm thơ văn của ông ban chức tước cho con cháu. Oan tình được giải thế nhưng nỗi mất mát ấy làm sao có thể bù đắp lại được, biết bao con người đã rơi đầu, tấm lòng yêu nước thương dân trong như nước bích mùa thu của ông thế nhân mấy ai tỏ tường, trời đất cứ vậy tuần hoàn, qua bao năm tháng giờ đây nó cũng chỉ trở thành một câu chuyện tiếc thương của thế gian, tại một góc trang lịch sử nào đó lại dính đầy dòng máu tươi của vụ án lệ chi viên ngày ấy.

    Nguyễn trãi là một anh hùng dân tộc, một nhà chính trị lỗi lạc nhà quân sự tài ba khiến người đời thực sự ngưỡng mộ chính vì vậy 1980 ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.

    Tuy nói hưng suy của thế sự là hư vô những chuyện cũ đã định không thể cãi sửa trên trang giấy của lịch sử lại biên chép về một kho tàng lớn mà nguyễn trãi đã để lại cho dân tộc, một sự nghiệp văn thơ hán nôm với các tác phẩm để đời có giá trị như viết bằng chữ hán, quân trung từ mênh tập, bình ngô dại cáo, ức trai thi tập, lam sơn thực lục, chữ nôm có quốc âm thi tập..

    Nguyễn trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất ông để lại khá lớn văn chính luận quân trung từ mệnh tập, bình ngô đại cáo mà tư tương chủ đạo chính là lòng yêu nước thương dân nhân nghĩa, quân trung từ mệnh tập gồm những thư từ gởi cho tướng giặc và những tờ giao thiệp gởi cho nhà Minh tác phẩm là tập văn chiến đấu có sức mạnh của mười vạn quân, sức mạnh ấy có sự kết hợp tuyệt diêu giữa tư tưởng nhân nghĩa tư tưởng yêu nước với nghệ thuật viết văn luận chiến bậc thầy, tạo nên những lời văn thao thao bất diệt như trường giang đại hải cuồn cuộn sắt thép hùng hồn đánh công tâm quân địch. Bình ngô đại cáo là một áng văn yêu nước lớn của thời đại là bản tuyên ngôn về chủ quyền dân tộc độc lập bản cáo trạng tội ác của kẻ thù, bản hùng ca về khởi nghĩa lam sơn ở bình ngô đại cáo sức mạnh tư tưởng nhân nghĩa đươc hòa làm một "việc nhân nghĩa.." văn chính luận của nguyễn trãi đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực từ việc xác định đối tượng mục tiêu đẻ sử dụng bút pháp cho phù hợp kết cấu chặt chẽ lập luận sắc bén.

    Ở khía cạnh khác ta còn thấy ở nguyễn trãi là nhà thơ trữ tình sâu sắc, hai tập thơ quốc âm thi tập và ức trai thi tập ghi lại nguyễn trãi vừa là người anh hùng vĩ đại vừa là con người trần thế.

    Đọc thơ nguyễn trãi lại cảm nhận ra được từng câu từng chữ mang ý trần ý cảnh như chiếc lá lặng lẽ rơi giữa mùa thu rụng xuống cõi lòng mềm yếu của người cảm nhận, đặc biệt từ trong thơ ta lại thấy một nguyễn trãi yêu thiên nhiên cây cỏ giẫm chân lên bóng chiều tà một lòng một dạ bầu bạn với núi sông, đều này ta bắt gặp khi người lui về ở ẩn ở côn sơn, từng lời từng chữ mặc dù luôn hướng về ý cảnh nhưng lại mang mùi vị của kẻ sĩ còn vương chút nợ đời ngứa mắt với bọn gian thần làm đảo loạn triều cương, ép con dân phải khổ sở vì tranh quyền đoạt vị, người ở trong danh sơn nhưng tâm lại luôn hướng ra ngoài trần thế mong quốc thế dân an "dẽ có ngưu cầm đàn một tiếng, dân đủ khắp đòi phương" người anh hùng luôn mang lý tưởng nhân nghĩa "bui một tấc lòng ưu ái cũ, đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông".

    Thơ của nguyễn trãi mang lý tưởng anh hùng nhưng lại đậm chất chân quê mộc mạc luôn phác họa cuộc sống dung dị đời thường, dung hòa với tự nhiên với vài đọt nắng vàng một giọt mưa móc, sống ung dung giản dị với người ngư phủ đêm khuya văng lưới sáng sớm thu hoạch, tiều phu hừng đông lên núi tắt nắng quay về, từng tập thơ đều phác họa phong cảnh hữu tình mang phong vị thơ đường "nước biếc non sông thuyền gối bãi, đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu" ý tình ý cảnh dung hòa với nhau, lại nhìn ra cội mai bên bờ liễu một ngọn cỏ gốc cây một tảng đá côn sơn nơi quê nhà một bóng người mãnh khảnh ngồi trên phiếm đá uống ngụm trà xuân nhìn ngắm trời trong ngâm thơ nhàn "côn sơn suối chảy rì rào", "trong rừng thông mộc như nêm tìm nơi bóng mát ta ngâm thơ nhàn" nỗi lòng của thi hào ức trai như tấm lòng sáng trong như vầng nhật nguyệt ngày đêm soi rọi.

    Những vần thơ nguyễn trãi viết về thiên nhiên đất nước tình cha con, đạo quân thần dưới ngòi bút hoa lệ của mình ông đã làm giàu cho dân tộc một nguồn thơ văn khổng lồ, tương lai mênh mông vô định dường bao dù bị thế gian rẻ rúng nhưng vị thi sĩ này lúc nào cũng ung dung ngâm lên khúc hát bình thản cho bản thân, không tranh không giành cứ làm hết khả năng của bản thân mặc cho thế sự xoay chuyển chỉ dâng hết lòng làm một thần tử trung kiên dốc lòng cho dân cho nước.

    Xưa nay chúng ta luôn phó thác cho lịch sử thứ nặng nề nhất, thời gian phủi bụi lên lịch sử năm này qua năm khác kết đầy rêu xanh, thực ra lịch sử chính là quá khứ quá khứ của một dân tộc, ghi nhớ lịch sử là nhớ lấy những câu chuyện đau thương nhớ lấy những lần gió thổi cỏ lay trong quá khứ, quên lãng chính là phản bội, biết bao chuyện cũ đau thương đều già đi trong lúc lời chào hạ màn, câu chuyện thiên cổ kỳ oan lệ chi viên giờ chỉ nằm một góc nào đó trong lịch sử trãi qua bao phong vân biến đổi giờ chỉ đổi lại được sự đồng cảm của thế nhân, một cái lắc đầu tiếc thương của hậu thế, trăng vẫn tròn vành vạnh hai vầng nhật nguyệt luôn soi rọi tấm lòng trung quân ái quốc của nguyễn trãi.

    Vì bận lòng nên đau đớn, nỗi oan ấy cũng chỉ là một hạt bụi chìm trong dòng chảy lịch sử cuồn cuộn khói mây tan rồi nhưng người ghi nhớ thực sự lại chẳng có mấy ai chỉ có một góc nào đó của sách vỡ lưu lại những dấu tích đau thương năm ấy. Nỗi đau còn đó nhưng hình tượng người anh hùng nguyễn trãi vẫn đứng hiên ngang ở trang đầu lịch sử, một nhân vật toàn tài hiếm có với tấm lòng yêu nước thương dân một đại thi hào dân tộc cống hiến tài năng tác phẩm điểm tô cho non sông gấm vóc, một danh nhân văn hóa thế giới khiến cho dân tộc nào cũng trầm trồ khen ngợi. Rồi đây giữa dòng chảy thời gian năm tháng trôi qua như ảo mộng vị đại thi hào này vẫn nằm đâu đó trong sâu thẳm trái tim con người việt nam, chỉ cần ba từ lệ chi viên được nhấc đến thế nhân lại thêm một lần nữa vặn đau.
     
    Ôn An Na thích bài này.
    Last edited by a moderator: 8 Tháng năm 2020
Trả lời qua Facebook
Đang tải...