Viết về lòng yêu nước là một chủ đề vô cùng quen thuộc với thơ ca Việt Nam từ xưa tới nay. Nhiều nhà thơ thời đại đã tập trung bút lực, tài năng, tâm huyết của mình để cho ra đời những dòng thơ hay về lòng yêu nước và đạt được nhiều thành công rực rỡ. Ta có thể kể đến "Nam Quốc Sơn Hà" của Lý Thường Kiệt, "Đại Cáo Bình Ngô" của Nguyễn Trãi.. và nổi bật trong số đó, không thể không kể đến Phú sông Bạch Đằng của nhà thơ Trương Hán Siêu. Phú sông Bạch Đằng là tác phẩm đặc sắc nhất của Trương Hán Siêu, là một áng thơ hay, tiêu biểu cho lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của nhân dân Việt Nam. Trương Hán Siêu tự là Thăng Phủ. Ông là người có học vấn sâu rộng, tính tình cương trực, được các vua Trần tin cậy, nhân dân kính trọng. Ông có nhiều tác phẩm thơ hay, trong đó có bài Phú sông Bạch Đằng. Phú sông Bạch Đằng được viết khoảng 50 năm sau kháng chiến chống quân Mông Nguyên thắng lợi. Bài thơ viết về địa danh sông Bạch Đằng- nhánh sông đổ ra biển Đông, nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng. Đây là địa danh có ý nghĩa to lớn về mặt lịch sử, là nơi ghi lại nhiều chiến công lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Điểm đặc biệt của Phú sông Bạch Đằng là bài thơ được viết bằng thể thơ phú- một thể văn có sự kết hợp giữa văn vần và văn xuôi, dùng để tả cảnh vật, phong tục, kể sự việc, bàn chuyện đời, chuyện chính sự.. Phú sông Bạch Đằng là một bài thơ hay, thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng. Trước hết, lòng yêu nước đó được thể hiện qua cảm xúc của tác giả - nhân vật "khách" trước sông Bạch Đằng. Tác giả dạo chơi trên sông Bạch Đằng không chỉ để thưởng ngoạn vẻ đẹp của thiên nhiên, thỏa lòng với cảnh sắc của non sông, gấm vóc mà còn để bồi dưỡng tri thức, tự hào về quá khứ, về lịch sử cha ông. Có thể thấy, đó là một con người có tâm hồn khoáng đạt, có tráng chí, có tình yêu nước tha thiết: "Mà lòng tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết". Cái "tráng chí bốn phương" đó được gợi lên qua những nơi mà tác giả đã đi qua: Địa danh Trung Quốc mà tác giả tìm hiểu qua sách vở: Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô.. và địa danh của đất Việt, những nơi tác giả đã đi qua và dừng lại: Đại Phan, Đông Triều, sông Bạch Đằng.. đây là những hình ảnh thật hùng vĩ, hoành tráng đặc biệt là cảnh sắc sông Bạch Đằng: "Bát ngát sóng kình muôn dặm Thướt tha đuôi chỉ một màu". Bằng nghệ thuật so sánh, liên tưởng, kết hợp giọng thơ hào hùng mà thiết tha, sâu lắng, tác giả đã cho người đọc thấy được sự hùng vĩ, tráng lệ của sông Bạch Đằng với sóng kình bát ngát, sự thơ mộng, trữ tình của thuyền đi lại nối đuôi nhau, của dòng nước trong xanh, tĩnh lặng. Song cảnh sắc ấy cũng thật ảm đạm, hiu hắt: "Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu". Đây chính là những di tích còn sót lại của chiến trường. Qua đó, ta thấy được cảm xúc của tác giả trước sông Bạch Đằng: Vừa phấn khởi, tự hào, vừa buồn thương, tiếc nuối vì chiến trường xưa một thời oanh liệt nay trở nên hoang vu khi thời gian đang làm mờ bao dấu vết: "Tiếp thay dấu vết luống còn lưu". Từ cảm xúc bâng khuâng, nuối tiếc trước sông Bạch Đằng, lòng yêu nước của tác giả lại được bộc lộ qua lòng tự hào về những diễn biến, chiến tích trên sông Bạch Đằng qua lời kể của các bô lão. Các bô lão đã kể lại chiến tích trên sông Bạch Đằng với thái độ nhiệt tình, hiếu khách, bằng giọng điệu phấn khởi, tự hào. Họ đã tái hiện một cách chân thực, sinh động chiến công trên sông Bạch Đằng của quân dân nhà Trần qua đoạn thơ tràn đầy hào khí: "Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay Trận Hợp Phì giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi Đến nay nước sông chảy hoài Mà nhục quân thù khôn rửa nổi Tái tạo công lao nghìn xưa ca ngợi". Không khí chiến trận quyết liệt, dữ dội, căng thẳng. Trong khi giặc chủ quan, khinh địch, hống hách thì quân ta vẫn luôn bình tĩnh, hào hùng. Chính vì thế, quân dân ta đã giành được nhiều chiến công lẫy lừng. Nghệ thuật phóng đại: "Nhật nguyệt phải mờ", "trời đất sắp đổi" kết hợp hình ảnh so sánh, cách viết đối lập đã khẳng định những chiến công hào hùng, hiển hách của dân tộc. Trong chiến công lớn lao ấy, các bô lão đã khẳng định chiến thắng có được là do yếu tố con người: "Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng Bởi đại vương coi thế giặc nhàn". Trần Hưng Đạo "coi thế giặc nhàn" bởi ông đã thấy rõ sức mạnh ở vai trò con người, ở khí thế đoàn kết, quyết chiến quyết thắng của quân dân nhà Trần. Chính sự đồng lòng dân tộc này đã giúp quân ta đánh thắng quân Minh, bảo vệ non sông gấm vóc. Qua đó, các bô lão cũng như tác giả thể hiện niềm tự hào trước chiến công hiển hách trên sông Bạch Đằng, ca ngợi, hoài cổ, tri ân những vị anh hùng xưa, đồng thời cũng mang đầy tủi hổ khi cảnh quan sông Bạch Đằng trở nên vắng vẻ, hoang tàn bởi thời gian dần xóa đi trang sử vẻ vang của dân tộc, những vị anh hùng đã dần đi vào quên lãng. Không những thế, lòng yêu nước trong tác phẩm Phú sông Bạch Đằng còn được thể hiện qua sự ngợi ca công lao, đức độ con người. Lời ca cuối bài một lần nữa khẳng định chiến thắng của dân tộc. Hình ảnh sông Bạch Đằng vĩnh viễn, bất biến: "Sóng hồng cuộn tuôn về biển Đông" đã khẳng định sự vĩnh hằng của chân lý con người, quy luật của cuộc sống: Bất nghĩa thì tiêu vong, anh hùng thì lưu danh thiên cổ. Lời ca đã ca ngợi công lao của vị vua Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông, ngợi ca sông Bạch Đằng rửa sạch nhục thù. Qua đó, bài thơ đề cao vai trò, sức mạnh nhân tố con người trong lịch sử. Lời ca kết thúc bài phú vừa mang niềm tự hào dân tộc, vừa thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp, nâng tác phẩm lên một tầm tư tưởng cao. Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ đã thể hiện lòng yêu nước sâu sắc, ca ngợi chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lý nhân nghĩa của dân tộc. Tác phẩm cũng chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử. Qua đó cho người đọc thấy được tài năng, tâm huyết của nhà thơ Trương Hán Siêu cũng như những đóng góp to lớn của ông cho nền thơ ca nước nhà. Qua những hoài niệm về quá khứ, Phú sông Bạch Đằng đã thể hiện lòng yêu nước sâu sắc, niềm tự hào dân tộc trước những chiến thắng hào hùng trên sông Bạch Đằng xưa. Dù thời gian có trôi qua, những chiến công ấy vẫn được người dân ngàn đời ghi nhớ. Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một bài thơ hay, sẽ mãi tồn tại trong lòng bạn đọc, trường tồn mãi với thời gian.