Kiếm Hiệp Thiên Hạ Hữu Tình Nhân - Triều Nguyễn

Thảo luận trong 'Truyện Drop' bắt đầu bởi TrieuNguyen, 30 Tháng mười 2019.

  1. TrieuNguyen

    Bài viết:
    51
    [​IMG]

    Thiên Hạ Hữu Tình Nhân

    Tác giả: Triều Nguyễn

    Thể loại: Kiếm Hiệp Việt Nam

    Gạch đá ném vào đây: [Thảo Luận - Góp Ý] - Các Tác Phẩm Sáng Tác Của Triều Nguyễn

    Giới thiệu:

    Quân tử đã có thù không trả, sao còn là quân tử? Trượng phu nếu lấy oán báo ân, há chẳng phải trượng phu. Chàng thiếu niên mang trong mình món nợ giết song thân, ngày đêm truy tìm kẻ thủ ác, vạn dặm cô đơn trên lưng ngựa. Chim liền cánh, cây liền cành, cớ sao chàng chẳng có lấy một người tri âm, tri kỷ? Nàng là ai? Tiên nhân hay phàm tục? Từ đâu bước đến, rồi đột nhiên biến mất chẳng để lại tăm tích gì?

    Hiện truyện vẫn đang trong quá trình chỉnh sửa, còn vài chỗ sai sót, mong các bạn thông cảm!


    Mục lục:

     
    Chỉnh sửa cuối: 14 Tháng hai 2020
  2. TrieuNguyen

    Bài viết:
    51
    Chương I: Tương Ngộ

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đại Việt thời nhà Trần, đất nước hưng thịnh, xã tắc bình yên, lê dân bách tính đều ấm no sung túc. Hoàng đế Trần Thái Tông từ khi lên ngôi, vẫn tọa lạc tại kinh đô Thăng Long của tiền triều. Với chính sách chiêu dụ hiền tài từ khắp nơi ra làm quan, ổn định xã tắc, trừ bạo an dân, triều đình cứ bảy năm lại tổ chức khoa thi Tam khôi, chọn ra ba người đỗ đầu là trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa.

    Năm Thiên Ứng Chính Bình thứ mười sáu, khoa cử diễn ra, thí sinh từ các phủ, lộ trên cả nước lục tục kéo đến kinh thành Thăng Long đông như trẩy hội, kẻ hồ người hởi, xôn xao nhộn nhịp cả một vùng. Kết thúc khoa cử, yết bảng có Nguyễn Hiền thôn A Dương, huyện Thượng Hiền, phủ Thiên Trường đỗ trạng nguyên khi chỉ mới mười ba tuổi; Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ thám hoa, những người thi trượt đều lũ lượt trở về quê nhà, đàn đàn lớp lớp như kiến bò về tổ.

    Ngoại thành Thăng Long là một vùng đồi núi mênh mông rộng lớn, tứ bề địa thế hiểm trở, sơn đạo cheo leo, giống như một bức trường thành hung hiểm bao quanh kinh đô. Ở chân trời phía tây, ba đỉnh Tam Sơn, Khán Sơn, Thái Hòa cao ngút đến tận mây, trập trùng sương khói. Thấp thoáng trong ánh chiều tà, những cánh bạch hạc chao nghiêng trước gió, lúc thấp lúc cao, khi nhanh khi chậm, thi thoảng lại mất hút, lung linh huyền ảo chẳng khác nào tiên cảnh.

    Trên một sơn đạo nhỏ, nắng chiếu lay lắt, có một cây cổ đa đã hơn trăm tuổi, cành lá xum xuê. Rễ đa thật dài, tua tủa sà xuống đất, đung đưa chạm vào người một chàng thiếu niên đang ngồi bên dưới. Người đó hơi gầy, mặt mày ủ rũ, nhưng văn chất nho nhã, cử chỉ điềm đạm, trông như một chàng thư sinh bao năm đèn sách. Chàng chậm rãi mở cái tay nải bằng vải sần đã cũ đang đeo trên vai, lấy ra một quyển kinh thư rồi say mê ngồi đọc.

    Người thiếu niên đó tên là Văn Tôn, niên kỷ vừa tròn thập lục, diện mạo khôi ngô, anh tú, phảng phất nét thiện lương. Từ khi còn nhỏ, chàng đã được phụ thân dạy cho ngũ kinh, tứ thư, rồi đọc sách, viết chữ, nhưng ngộ tính không cao, chàng học trước quên sau, trong đầu vốn chẳng lưu lại được bao nhiêu chữ nghĩa. Qua hai tuần trăng, không quảng đường xá xa xôi, hết ngồi xe đến đi đò, chàng lặn lội từ quê nhà Hải Đông lên kinh đô ứng thí. Nào ngờ hai chữ công danh dễ dầu gì đạt được, chàng bị đánh trượt, thành thử bây giờ đang lầm lủi trở về. Đến giữa sơn lộ này thì lương khô hết sạch, vừa đói vừa mệt, chỉ dành ngồi đây đợi gặp người ngang qua thì xin chút thức ăn rồi đi tiếp.

    Thế nhưng giữa nơi rừng núi hoang sơ, trong vòng mười dặm không hề có thôn bản nào cả, tuyệt nhiên không một bóng người qua lại, chỉ thấy bốn bề cây cối xanh tươi, chim kêu vượn hú vang lên từng đợt, nghe lạnh cả sống lưng. Bỗng từ đằng xa, có tiếng vó ngựa tiến đến mỗi lúc một gần. Trên lưng con bạch mã là một quái khách trẻ tuổi, khoảng chừng đôi mươi, người mặc hoàng bào, tay quất roi thoăn thoắt. Quái khách có thân hình cao lớn, nước da ngăm đen, mày rậm mắt to, dường như là người luyện võ. Vừa nhìn thấy Văn Tôn, y liền gò cương thật mạnh, con ngựa nhảy nhổm hai chân trước lên, hý dài mấy tiếng rồi mới dừng lại, khiến bụi đất dưới chân nó tung lên mù mịt.

    Văn Tôn đang mãi mê đọc sách, nghe tiếng ngựa hý vang, rồi bụi bay trắng xóa khiến chàng ho sặc sụa, bỗng nghe một giọng trầm trầm cất lên:

    - Tiểu tử, ngươi có biết đường nào về Quốc Oai hay không?

    Lúc này chàng mới thấy rõ trước mặt là một đao khách cao lớn, tráng kiệt hơn người, đang trợn mắt cau mày nhìn mình. Văn Tôn kinh hãi, cúi rạp xuống đất, thưa với đao khách đang ngồi chễm chệ trên lưng ngựa:

    - Bẩm tráng sĩ, tiểu nhân chỉ tình cờ đi qua, nào có thông thạo lối xá nơi đây, xin tráng sĩ tha mạng!

    Giữa nơi hoang dơn dã lĩnh, đột nhiên lại xuất hiện một tên thư sinh hom hem ốm yếu, đao khách kia trong lòng bỗng nảy mối hiềm nghi, cho là phường đạo tặc cải trang, nhằm chặn đường thu tiền mãi lộ của dân lành. Y liền hỏi tiếp:

    - Ngươi chỉ tình cờ đi qua? Hà cớ chi một tên thư sinh biết bao nhiêu chỗ không đến, lại đến cái nơi hoang vu, hẻo lánh này ngồi đọc sách? Nói!

    Lời nói như chém đinh chặt sắt, giọng điệu lại đầy sự răn đe. Đoạn rút thanh đoản đao mang bên hông ra khỏi vỏ, chĩa thẳng về phía Văn Tôn.

    Chàng thư sinh chỉ vừa mới trông thấy diện mạo của y đã sợ hãi lắm rồi, bây giờ lại bị dí đao vào cổ, thử hỏi làm sao không hồn bay phách tán, mặt cắt không còn một hạt máu? Vội dập đầu lia lịa hồi, lí nhí nói:

    - Xin tráng sĩ tha mạng! Tiểu nhân lên kinh đô ứng thí, trên đường hồi hương thì lương khô cạn kiệt, trong lúc ngồi đây chờ người qua lại để hành khất, chỉ đành lấy kinh thư ra đọc để quên đi cơn đói. Tiểu nhân thực không dám có nửa lời gian dối!

    Quái khách nhìn bộ dạng hoảng hốt của chàng, nghe lời lẽ thì thành khẩn trung thực, cũng tin đến tám, chín phần. Y liền nhảy xuống ngựa, đỡ Văn Tôn đứng dậy, nói:

    - Tại hạ đang đuổi theo một lũ ô hợp, tới đây thì mất dấu, dọc đường nghe bá tánh nói chúng đã chạy về Quốc Oai nên ráo riết truy tìm, trong lúc nóng vội mới đắc tội với huynh đệ đây, xin huynh đệ thứ cho ta tội lỗ mãng!

    Đoạn cười hì hì, nói tiếp:

    - Chẳng hay huynh đệ cao danh quý tính là gì?

    Bấy giờ giọng nói của y đã dịu đi, ôn hòa nhã nhặn, chẳng khác gì công tử của một gia đình quan thân thế gia. Văn Tôn cũng vơi bớt kinh sợ, thở phào nhẹ nhõm, chắp tay nói:

    - Tiểu đệ danh tính thật chẳng đáng nhắc đến, thượng Văn hạ Tôn, cũng xin mạo muội thỉnh vấn quý tính đại danh của tráng sĩ?

    Quái khách bỗng nhiên cười lớn, tiếng cười của y vang lên trong không trung, thanh âm hùng tráng, làm cho chim chóc ở khoảng rừng bên cạnh kinh động, bay lên rợp trời. Người này niên kỷ còn trẻ mà trung khí hồn hổ, nội lực cao thâm như thế ắt phải là danh gia đệ tử của một đại môn phái trên giang hồ. Y ôm quyền đáp lễ, nói:

    - Ta họ Triệu, tên Hùng, huynh đệ xem ra nhỏ tuổi hơn ta, vậy cứ gọi ta là Triệu đại ca được rồi!

    Đoạn lôi cái tay nải bám đầy bụi bặm trên lưng ngựa xuống, lấy ra hai cái bánh bột mì nướng đưa cho Văn Tôn, nói:

    - Ta chỉ còn lại nhiêu đây, Văn huynh đệ cứ cầm lấy mà ăn tạm rồi lên đường!

    Nói rồi nhảy vọt lên ngựa, nhanh nhẹn dứt khoát, khinh công của người này chắc hẳn cũng ở mức thượng thừa. Con ngựa cước lực cũng thật lẹ, thoắt cái đã chạy về hướng bắc mấy mươi trượng. Văn Tôn cầm hai cái bánh trên tay, ngơ ngác nhìn theo, đến khi cả người lẫn ngựa đều khuất hẳn, chàng mới hoàn hồn, ngồi bệt xuống gốc cây ngấu nghiến.

    Cơn đói vừa qua vài khắc, cơn khát lại đến. Nghĩ quanh đây rừng núi bao la, thể nào chẳng có vài con suối, chàng lần mò đi vào khu rừng bên cạnh.

    Men theo lối mòn nhỏ, có lẽ là con đường mà tiều phu dùng để lên núi đốn củi, chàng cứ thế tiến về phía trước. Càng vào sâu, cây cối càng thưa thớt, cách vài trượng mới có một cây đại thụ mọc lên, hai bên đường thì cỏ dại mọc chen chúc. Đi thêm một đoạn nữa thì con đường hoàn toàn biến mất, dưới chân chỉ thấy toàn lá khô, sông suối chưa tìm được mà chốc chốc lại vang lên tiếng beo hùm ghê rợn. Nếu là ngày thường, những chốn rừng thiên nước độc thế này chàng nào dám léo tới, hoặc cũng đã quay đầu bỏ chạy, nhưng lúc này cơn khát làm lu mờ đầu óc, chàng cứ thế bước thật nhanh, mặc cho tay chân bắt đầu cóng lên. Bỗng hàng loạt những tiếng "răng rắc" phát ra, đám lá khô dưới đất tung bay lả tả, rồi chân chàng hụt hẫng như đạp vào khoảng không, thân hình nhẹ bẫng bay đi, trước mắt tối sầm lại.

    Thì ra Văn Tôn đã rơi xuống một cái hố. Chàng thấy toàn thân ê ẩm, xương cốt rệu rã, mãi một lúc mới đưa tay lên hất mớ lá khô đang phủ kín trên người xuống được. Cái hố này rộng khoảng hai sải tay, trông như được thợ săn đào lên để bẫy thú, nhưng nó lại sâu hơn một trượng, thường thì cánh thợ săn chỉ đào hố nông để lúc con mồi rơi xuống sẽ dễ dàng bắt lên, hơn nữa bên dưới cũng đặt sẵn nhiều chông nhọn, còn cái hố này sâu hơn rất nhiều, xem ra có mục đích khác. Văn Tôn còn đang miên man nghĩ ngợi, bỗng nghe văng vẳng từ trên cao những tiếng cười ngạo nghễ, khoái trá, trong sự khoái trá lại có chút hung ác. Năm người mặc đồ đen, trên mặt cũng che kín bằng vải đen, chỉ chừa ra đôi mắt, từ trên những cây cao gần đó nhảy vọt xuống, đứng vây quanh miệng hố, người nào người nấy đều lăm lăm trường kiếm sắc nhọn trong tay.

    Đường mòn này hóa ra lại là một lối tắt dẫn đến Khoái Châu, nhưng sơn đạo nhỏ hẹp, lại vòng vèo quanh co, thỉnh thoảng còn có thú dữ xuất hiện nên chỉ ai thông thuộc mới dám đi qua, hoặc một số thương nhân bản địa cùng đông đảo tráng đinh dùng để vận chuyển hàng hóa. Mấy tháng gần đây, bỗng dưng xuất hiện một đám cường đạo từ đâu kéo đến, tác ác đa đoan, chúng gặp thương nhân thì cướp của, gặp phụ nữ thì hãm hiếp, gặp người già, trẻ con thì đánh đập tàn nhẫn, quan phủ cũng tích cực điều tra nhưng chẳng có manh mối gì, thành thử đến giờ chẳng còn ai dám tới lui vùng này cả. Năm tên hắc y kia chính là lũ cường đạo mà quan binh đang truy nã, chúng mai phục ở đây đã hơn ba ngày trời, bấy giờ thấy có người rơi xuống bẫy thì hý hửng kéo đến, tưởng đâu lại được một mẻ lớn, nào ngờ chỉ là một tên thư sinh còi cọc đang nằm sóng soài bên dưới nên đâm ra bực dọc. Một tên trong số chúng cúi xuống, nói:

    - Tiểu tử! Khôn hồn thì mau giao nộp hết của cải, ngân lượng trên người ra đi, bằng không bọn ông sẽ cho mi đi chầu trời!

    Hắn cố gằng giọng cho thật đáng sợ. Quả nhiên Văn Tôn nghe thấy khẩu khí hung hãn đó thì điếng hết cả người, toàn thân run rẩy, ngước lên, lắp bắp nói:

    - Xin các vị đại gia tha mạng! Tiểu nhân chỉ là thư sinh nghèo vừa lên kinh ứng thí trở về, trên người không còn ngân lượng!

    Thế nhưng bọn người này xưa nay cướp bóc đã thành quen, không được tiền cũng được sắc, lý nào lại chịu cảnh dê vào miệng cọp mà không sơ múi được gì? Một tên to béo nhất trong đám kéo miếng vải đen che mặt xuống, để lộ ra khuôn mặt hung thần dữ tợn, râu ria xồm xoàm, cúi đầu xuống hố, nhăn mặt nhíu mày quát:

    - Ngươi lên kinh ứng thí thì chí ít cũng đem theo vài chục lượng bạc, lý nào lại không còn một cắc?

    Giọng của y eo éo khiến ai nghe thấy cũng phải buồn cười, bốn tên kia không sao nhịn nổi, tủm tỉm nhưng không dám phát ra thành tiếng, cũng may chúng đều mang vải đen che mặt, nên chỉ thấy đầu mày cuối mắt rung rinh, nếu không ắt hẳn y đã nổi cơn tam bành. Lời vừa dứt đã nhảy luôn xuống hố, tay trái nắm vai, tay phải dí lưỡi kiếm vào cổ Văn Tôn, vọt nhẹ một cái, hai chân đạp vào thành hố mấy bước, thoáng chốc đã lôi chàng lên trên. Ném Văn Tôn ngã lăn ra đất như một bó lúa, y nhìn một tên đang đứng bên cạnh, ra lệnh:

    - Xét người nó cho ta!

    Tên kia nghe lệnh liền bước tới lục soát, quả nhiên không lòi ra được cắc bạc nào. Y giật lấy cái tay nải trong tay Văn Tôn, giũ tung lên, chỉ thấy rơi ra toàn là kinh thư, bút, mực. Y xoay đầu nhìn về tên hắc y to béo, huơ tay ra hiệu, ý muốn nói trên người Văn Tôn thật sự không có ngân lượng. Tên hắc y to béo liền nổi điên, mày mi dựng ngược, quát:

    - Giết nó!

    Tên hắc y đang xét người Văn Tôn ngay lập đứng dậy, trường kiếm vung lên, nhằm ngay cổ Văn Tôn chém thẳng xuống. Lưỡi kiếm vun vút lướt đi, đường kiếm này vừa chạm đến da thịt thì lập tức đầu lìa khỏi cổ. Bỗng nhiên nghe "chíu" một tiếng, một vật nhỏ từ đâu bay tới, va vào khiến đường kiếm đang chém xuống như xé gió chệch đi trong gang tấc, dư lực của nó còn làm cho thanh kiếm rơi khỏi cánh tay vạm vỡ của tên hắc y, rơi phịch xuống đất. Cả bọn cùng kinh hãi, đồng thanh "A" lên một tiếng. Tên đầu lĩnh cúi xuống nhặt thanh kiếm, bỗng thấy bên cạnh có một hòn sỏi nhỏ, chốc lát đã thầm kinh dị: "Ném một hòn đá nhỏ bay đến với kình lực kinh thiên như thế, kẻ này chẳng phải hạng tầm thường". Y nhìn từ trái sang phải một vòng, rồi lại dáo dác tìm trên những ngọn cây, nhưng nào có thấy ai, bèn quát lên:

    - Là phường chó má nào dám cản trở việc tốt của ông? Có ngon thì ra mặt, đấu với ông đây vài trăm hiệp!

    Tiếng quát của y được truyền nội lực từ ngũ tạng, âm vang hùng hậu, khiến cành lá xung quanh khe khẽ đung đưa, mấy con thú nhỏ gần đó co giò chạy trốn.

    Cách đấy khoảng chừng hai mươi trượng, một người dùng khinh công đạp vào những cành cây, lướt đi trên không trung, mau lẹ như một cơn gió, thoáng chốc đã đáp xuống giữa năm tên hắc y gian ác. Người đó chính là Triệu Hùng, y sau khi đưa cho Văn Tôn hai cái bánh, đã thúc ngựa chạy về hướng bắc. Đi được hơn hai dặm, bỗng nghe ở cánh rừng sau lưng vang lên những tiếng cười hung ác, rồi chim muôn hoảng sợ, bay lên tứ tán, biết có sự bất thường, bèn giục ngựa quay trở lại. Từ đằng xa đã thấy Văn Tôn bị một người mặc hắc y cầm trường kiếm chém xuống, tình thế cấp bách, chàng liền nhảy xuống ngựa, nhặt mấy viên sỏi, ném mạnh về phía đó, may sao cứu được y trong đường tơ kẽ tóc.

    Triệu Hùng đảo mắt nhìn cả bọn một lượt, sau đó cũng cất tiếng cười phô trương nội lực. Tiếng cười vang lên như sấm rền rúng động, Văn Tôn đinh tai nhức óc không sao chịu nổi, phải đưa hai tay lên bịt tai lại. Tên đầu lĩnh xem chừng nội công cao nhất, vẫn còn đứng vững, nhưng bốn tên thuộc hạ thì đầu váng mắt hoa, chân tay rã rời, đều đánh rơi trường kiếm xuống đất.

    Triệu Hùng nhún người nhẹ nhàng, thoắt cái đã nhảy vọt lên cao, "xoẹt" một tiếng, đoản đao trong tay đã rút ra khỏi vỏ, hai chân đạp nhẹ vào nhau, xoay người một vòng, trong chớp mắt chẳng ai nhìn thấy gì, bốn tên hắc y kia đã phụt máu ở cổ, chết không kịp ngáp.

    Tên đầu lĩnh dường như nhận ra đao pháp của Triệu Hùng, chân y khẽ bước lùi về sau, tay siết chặt cán kiếm, nói:

    - Thì ra các hạ chính là Nhất Đao Đoạt Mạng, Triệu Hùng.

    Triệu Hùng chìa lưỡi đao còn dính đầy máu tươi về phía y, mục quang sắc bén, sát khí đằng đằng, nói:

    - Chính là ta! Ta đã truy lùng bọn lục lâm thảo khấu các ngươi lâu lắm rồi, hôm nay các ngươi đừng hòng sống sót!

    Tên hắc y giương thanh trường kiếm ra phía trước, hùng hổ nói:

    - Được! Để xem bảo đao trên tay ngươi lợi hại, hay trường kiếm của ta lợi hại.

    Nói rồi lập tức xông tới, mũi kiếm đâm thẳng trước ngực Triệu Hùng, kình lực cương kình uy mãnh, xem ra đây là đòn chí mạng của y. Triệu Hùng liền đưa đao gạt đi, "choang" một tiếng, đao kiếm chạm nhau, cùng dội ngược trở ra. Nhanh như chớp xẹt, tả chưởng của y lại đánh tới trước ngực. Triệu Hùng sớm đoán trước y sẽ sử tiếp chiêu này, đã ngầm vận nội lực vào tả chưởng, khi chưởng pháp của y chỉ còn cách mình hơn một thước, chàng liền đưa lên đỡ lấy. Triệu Hùng từ năm chín tuổi đã rời khỏi gia đình, tầm sư học nghệ, đến nay nội công luyện đến mức lô hỏa thuần thanh, cương nhu hồn hậu, thử hỏi một tên vô danh tiểu tốt ở cái nơi hoang sơn dã lĩnh này thì làm sao địch cho nổi? Hai luồng chân khí gặp nhau, một mạnh một yếu, thấy Triệu Hùng hạ bộ vững vàng, thần sắc không đổi, y biết mình đã lâm vào thế hạ phong, vội lùi chân phải về sau nửa bước, vận khí từ đan điền, dốc hết mười thành công lực vào tả chưởng đẩy ra. Triệu Hùng khẽ cau mày, tả chưởng cũng đẩy ra thật mạnh, lá khô dưới chân chàng bay lên xào xạc. Bấy giờ nội công đôi bên cao thấp lại càng rõ ràng, chỉ trong khoảnh khắc, y đã bị chưởng lực của Triệu Hùng hất văng ra sau hơn ba trượng, nằm dài trên đất, miệng thổ huyết tươi. Mãi một lúc sau mới lộm cộm bò dậy được, khấu đầu van xin:

    - Xin Triệu đại hiệp từ bi độ lượng, tha cho tiểu nhân một con đường sống! Từ giờ tiểu nhân sẽ cải tà quy chính, không dám làm xằng làm bậy nữa!

    Văn Tôn từ đầu vẫn nấp sau gốc cây gần đó quan chiến, bấy giờ thấy tên hắc y đã thụ thương không nhẹ, buột miệng kêu lên:

    - Triệu đại ca! Xin đao hạ lưu nhân!

    Triệu Hùng là người quân tử độ lượng, vốn không muốn đuổi cùng diệt tận kẻ đã biết quay đầu, liền phẩy tay nói:

    - Chỉ cần từ rày đừng tác ác đa đoan, một lòng hướng thiện, ta cũng không muốn lấy cái mạng của ngươi làm gì. Mau xéo đi!

    Đoạn quay sang nhìn Văn Tôn, định bước tới hỏi han vài câu, nào ngờ vừa quay lưng, bỗng nghe "vù" "vù" "vù" ba tiếng, ba mũi ngân châm đã bay về phía chàng. Tiếng ám khí trong gió nghe rõ mồn một, Triệu Hùng nhanh như chớp giật, lách sang một bên, ba mũi ngân châm ngay lập tức cắm phập vào thân cây trước mặt Văn Tôn, khiến y há hốc mồm kinh hãi. Nhựa cây vốn dĩ màu trắng, thế mà sau khi ba mũi ngân châm đâm vào, lại thấy một dịch nhày màu tím sẫm chảy ra, Triệu Hùng biết ngay trên ám khí của y có tẩm độc. Nộ khí nổi lên, chàng xoay người, lao vù về phía y, sẵn đoản đao trên tay, chém liền một nhát ngay trước ngực, tên ác tặc chết không kịp nhắm mắt.

    Văn Tôn vừa rồi thấy y bị thương, chợt động tâm can, mong Triệu Hùng hạ thủ dung tình, chừa cho y một con đường sống. Nào ngờ y lại chấp mê bất ngộ, lấy oán báo ân, bây giờ thấy ân hận vô cùng, liền chạy ra khỏi gốc cây đang nấp, quỳ xuống trước mặt Triệu Hùng, hai tay ôm quyền nói:

    - Tiểu đệ có mắt như mù, thị phi bất phân, trắng đen lẫn lộn, có chết cũng đáng nhưng thiếu chút nữa đã làm liên lụy đến Triệu đại ca, xin Triệu đại ca trách tội!

    Triệu Hùng đỡ y đứng dậy, nói:

    - Thiên hạ rộng lớn, nhân tâm hiểm trá, Văn huynh đệ kinh lịch giang hồ chưa nhiều, không nhìn rõ tốt xấu âu cũng là lẽ thường, không đáng trách, không đáng trách!

    Đoạn quay sang nhìn năm hắc y đã chết, thây phơi dã lĩnh, trầm ngâm một lúc rồi buồn rầu nói:

    - Bọn chúng mới học được vài món võ nghệ, đã muốn xưng vương xưng hùng, làm những chuyện thương thiên hại lý, đi ngược với tôn chỉ của người luyện võ, thật đáng hổ thẹn!

    Văn Tôn nào có biết "tôn chỉ của người luyện võ" ra làm sao, miên man suy nghĩ, Triệu Hùng lại nói tiếp:

    - Đệ thân cô thế cô, dọc đường phải hết sức cẩn thận, đừng lui tới những nơi hẻo lánh như thế này!

    Lời lẽ hết sức quan thiết, Văn Tôn trong lòng cảm khái, thấy vị Triệu đại ca này thật là một trang nam tử hào hiệp khẳng khái. Chợt nhớ tới những lời của tên hắc y ban nãy, hỏi:

    - Tiểu đệ có nghe tên kia gọi Triệu đại ca là "Nhất Đao Đoạt Mạng", có phải chỉ cần một chiêu là lấy mạng người khác dễ dàng?

    Trong lời nói có đến bảy, tám phần lo sợ. Triệu Hùng đương nhiên hiểu được, nói:

    - Ta theo tôn chỉ của gia sư: Hành thiện trừ ác, trợ khốn phò nguy, trước giờ không biết đã giết bao nhiêu người mà kể, nhưng những người táng mạng dưới đao này toàn những phường mặt người dạ thú, tàn ác vô tả, nào có đáng tiếc chi. Còn cái gì mà "đại hiệp Nhất Đao Đoạt Mạng", cũng chỉ là giang hồ đồn thổi, hữu danh vô thực mà thôi!

    Nguyên lai Triệu Hùng là người luyện võ từ bé, công phu trác tuyệt, thích hành hiệp trượng nghĩa, trong hai năm gần đây đã giết không biết bao nhiêu cường hào ác bá, loạn tặc hung đồ, cho nên người trong giang hồ ai ai cũng đã từng nghe nhắc đến. Dạo nọ chàng lang thang ở vùng núi phía bắc, trông thấy bốn tên lưu manh đang hà hiếp một thiếu nữ, nộ khí dâng lên, mới một chiêu lấy mạng cả bốn tên. Chàng trừ ác chẳng bao giờ để lại tên tuổi, nên người ta chỉ biết phong là "đại hiệp Nhất Đao Đoạt Mạng", rồi lâu ngày trong giang hồ đều gọi chàng như thế, thành thử đến giờ đã thành cái danh xưng gắn liền Triệu Hùng.

    Văn Tôn biết y là một đao khách lẫm liệt, hào hiệp trượng nghĩa, tuy xuất thủ có hơi tàn nhẫn nhưng đối với bọn gian ác vô đạo thì cũng chẳng đáng gì, nên khiếp sợ thì ít, mà mến mộ bội phần. Thật ra giang hồ loạn lạc, người người chém giết nhau như cơm bữa, có những cảnh tượng chặt đầu móc mắt, cưa tay cắt chân, kinh tởm hãi hùng hơn nhiều, nhưng xưa nay y chưa hề đi lại trên giang hồ, nào thấy được những sự đó, nên mới cho là Triệu Hùng ra tay đáng sợ. Trong đầu y chợt nghĩ: "Phụ thân muốn ta đỗ đạt thành tài, nhậm một chức quan nho nhỏ, ra sức giúp lê dân. Triệu đại ca dẫu không phải quan nhân, cũng tương trợ biết bao nhiêu bá tính, lại không cần dùi đầu kinh sử, chẳng phải tốt hơn gấp mấy lần hay sao?" liền vái Triệu Hùng một cái thật dài, nói:

    - Triệu đại ca, tiểu đệ từ khi còn nhỏ đã ước muốn làm quan, cứu rỗi trăm họ cơ khổ. Nhưng đệ bản tính ngu muội, đèn sách ngày đêm, hết năm này đến tháng nọ, mảy may vẫn chẳng nên công cán gì. Nay gặp được Triệu đại ca là người quân tử lỗi lạc, hành hiệp trừ bạo, trong lòng hâm mộ biết nhường nào, chi bằng.. chi bằng..

    Triệu Hùng biết y có điều khó xử, lấp lửng không dám nói nên vỗ vai y, hỏi:

    - Văn huynh đệ không cần ái ngại, có việc gì cứ nói ra, nếu trong khả năng, ta sẽ cố hết sức giúp cho!

    Văn Tôn như tháo được nút thắt trong lòng, nhưng vẫn ngập ngừng, rồi chậm rãi nói:

    - Xin Triệu đại ca cho tiểu đệ theo cùng, dẫu là phục thị Triệu đại ca, bưng nước rót trà, cầm cương dắt ngựa, miễn được góp chút sức mọn, cùng Triệu đại ca hiệp trợ người đời, có chết cũng mĩm cười mãn nguyện!

    Triệu Hùng hết sức bàng hoàng, một tên thư sinh gầy gò ốm yếu, tay trói gà không chặt, bỗng dưng muốn theo mình lang bạt khắp nơi, chẳng khác gì thân cừu lao đầu vào hang sói, hung hiểm biết chừng nào? Y trố mắt nhìn Văn Tôn, hỏi:

    - Ta rày đây mai đó, bốn bể là nhà, tính mạng chỉ trên đầu thương mũi kiếm. Đệ không biết võ công, cớ sao lại muốn cùng ta hành tẩu tứ phương, khác gì tự chuốc lấy cái khổ?

    Văn Tôn chẳng hề nghĩ ngợi, đáp:

    - Nam nhi chí tại bốn phương, chỉ cần làm nên việc tốt, có xá chi tính mạng. Mong Triệu đại ca toại nguyện!

    Lời nói ra như chém đinh chặt sắt, nhiệt huyết tràn đầy. Triệu Hùng không ngờ một tên thư sinh yếu ớt, hom hem, lại có tấm lòng hiệp nghĩa như thế, cũng chẳng nỡ chối từ, nắm lấy vai y lay lay, vui mừng nói:

    - Văn huynh đệ quả trang tuấn kiệt, hai ta đồng khí liên chi, chi bằng từ nay hãy kết làm huynh đệ, phúc họa cùng chịu, huynh đệ thấy có được hay không?

    Nói xong cười ha ha đắc ý. Văn Tôn vui mừng không để đâu cho hết, vội quỳ xuống đất, đưa hai ngón tay lên nói:

    - Hoàng thiên ở trên, thổ địa ở dưới, tiểu nhân Văn Tôn, hôm nay nguyện khấu đầu trước Triệu Hùng Triệu đại ca, bái người làm nghĩa huynh, từ nay sống chết có nhau, đồng cam cộng khổ, nếu trái lời thề, xin cho trăm thương ngàn kiếm chém thành muôn mảnh.

    Triệu Hùng cũng hất vạt áo sang một bên, quỳ xuống, nói to:

    - Tiểu nhân Triệu Hùng, từ nay nguyện kết nghĩa kim lang cùng Văn Tôn Văn hiền đệ, suốt đời chiếu cố, sinh tử liền kề, xin trời cao chứng giám.

    Rồi đỡ người nghĩa đệ vừa mới kết giao đứng lên, phủi sạch bụi đất trên y phục của y. Hai người cùng cầm lấy tay nhau, hai tiếng "Nghĩa ca", "Nghĩa đệ" không hẹn mà cùng cất lên, ai cũng rưng rưng, trong lòng vui sướng khó tả.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14 Tháng hai 2020
  3. TrieuNguyen

    Bài viết:
    51
    Chương II: Khúc Tiêu Sầu

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Bóng cây đổ dần về hướng đông, trời dần về chiều, Triệu, Văn hai người cùng lên ngựa rời khỏi khu rừng. Từ bé đến lớn chỉ quanh quẩn đèn sách, miệt mài kinh sử, đã lần nào luyện quyền cưỡi ngựa? Văn Tôn nhọc nhằn mãi mới leo được lên lưng con bạch mã. Triệu Hùng vừa thúc chân, con tuấn mã liền tung vó phi như bay. Văn Tôn ngồi sau lưng Triệu Hùng, không khỏi sợ hãi, víu chặt vào người nghĩa huynh, mồ hôi trên trán lấm tấm tuông ra. Cũng may y ngồi đằng sau nên Triệu Hùng không thể nhìn thấy bộ dạng của mình lúc này, cũng bớt phần xấu hổ.

    Con tuấn mã dù phải chở trên lưng hai người nhưng cước lực chẳng hề suy giảm, băng băng trên sơn đạo chẳng khác gì bình lộ phẳng phiu, chỉ thấy cảnh vật hai bên đường vù vù trôi qua, chưa đầy hai canh giờ đã bỏ lại một vùng đồi núi thênh thang sau lưng. Trước mắt họ là một thôn nhỏ thuộc Khoái Châu, trời nhá nhem tối, nhà nhà cửa đóng then cài, lộ lớn ngõ nhỏ vắng người qua lại, chỉ thấy dăm ba hàng quán còn sáng đèn, chắc là dược quán hoặc khách điếm, tửu lâu.

    Hai người dừng lại trước cửa một tửu lâu nho nhỏ, thấy có đề ba chữ: "Hỷ Lạc Lâu". Văn Tôn nghĩ thầm: "Chỗ này ngoài ăn thịt, uống rượu thì có gì mà gọi là hỷ lạc? Không lẽ còn có mấy cô nương xinh đẹp ca múa mua vui?" Nghĩ đoạn bất giác mặt đỏ lên, thầm lắc đầu xua đi, vội tuột khỏi lưng ngựa. Nào ngờ chân vừa chạm đất, đầu óc bỗng dưng quay cuồng, đầu váng mắt hoa, lảo đảo ngã xuống đất. Y ngồi ngựa chưa thạo, lại đi hết một quãng đường dài, trồi lên thụp xuống, thành ra tâm thần bất ổn, không làm chủ được tứ chi. Lâu tiểu nhị thấy hai người ăn vận tinh tươm, cưỡi con hảo mã, đón tiếp niềm nở ra mặt, rồi dắt ngựa ra sau cho ăn cỏ. Trong lâu khách khứa đông nghịt, nào là thương nhân có, nông phu có, quan binh có, thợ thầy có, già trẻ lớn bé đều đủ cả, ai ai cũng ăn uống say sưa, râm ran trò chuyện, ồn ào náo nhiệt vô cùng. Chỉ còn lại vài chỗ trống, họ ngồi vào cái bàn ở góc trong cùng gần nhà bếp. Triệu Hùng gọi hai vò rượu Ô Long, thêm đồ nhắm, mãi một lúc sau lâu tiểu nhị mới đem đồ ăn thức uống ra. Lâu tiểu nhị đặt đồ ăn lên bàn, cười hì hì, nói:

    - Hai vị đại gia lượng thứ, hôm nay trong lâu có khách quý, nhà bếp phải luôn tay luôn chân mãi mới xong. Chúc hai vị ngon miệng!

    Nói rồi định lui vào trong. Văn Tôn lần đầu đi xa, thấy cái gì cũng lạ lạ lẫm lẫm, thấy sự chi cũng tò mò tọc mạch, kéo lâu tiểu nhị lại hỏi:

    - Có phải là một vị đại quan trong triều hạ cố bản lâu? Hay một đại tướng quân thân chinh trở về ghé ngang qua? Tiểu đệ nhìn thấy thượng lầu treo đèn kết hoa, bình phong che kín, ắt phải là nhân vật tầm cỡ nào đó giá lâm.

    Lâu tiểu nhị nhìn trước ngó sau, lấy tay che mồm, ghé sát tai Văn Tôn nói nhỏ:

    - Đại gia đoán sai rồi, trên đó chỉ có một tiểu mỹ nhân. Có điều đại gia không nên hiếu kỳ làm chi, toi mạng chứ chả chơi, hì hì..

    Nói rồi nhanh chân chạy đi.

    Thì ra từ lúc bước vào, Văn Tôn đã thấy phía trên còn có một lầu, nhưng ngoài lâu tiểu nhị chạy lên chạy xuống, tuyệt nhiên không có một ai khác đến gần, nên đoán là một nhân vật lợi hại nào đó đang ngự ẩm ở thượng lầu. Y còn đang đoán già đoán non, bỗng nghe Triệu Hùng nói:

    - Văn hiền đệ, ở chốn rừng sâu, ta đây có lòng nhưng chẳng biết lấy gì để thết người huynh đệ. Lúc này thịt nóng rượu thơm, chúng ta hãy uống cho say, để không uổng phí cái nghĩa kim lang của hai ta!

    Văn Tôn thể chất tuy yếu, nhưng tửu lượng không hẳn đã tệ, huống hồ trong lúc đang vui vì vừa kết giao được người nghĩa huynh khí khái, "tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu", còn gì sung sướng cho bằng, liền rót đầy hai chung rượu, mỗi người cầm một chung. Triệu Hùng đưa chung rượu lên mũi, hít một hơi trông thật sảng khoái, vỗ nhè nhẹ lên bàn, nói:

    - Hảo tửu! Quả là hảo tửu! Nào, Văn hiền đệ, cạn!

    Văn Tôn hai tay nâng chung rượu, kính cẩn mời Triệu Hùng, sang sảng nói:

    - Đại ca! Chung này là vì đại ân cứu mạng!

    - Đại ca! Chung này là vì trừ bạo an dân!

    - Đại ca! Chung này là vì kim lang kết nghĩa!

    Dứt một câu lại uống hết một chung. Ba tiếng "đại ca" thật rành mạch rõ ràng, ôn nhu chan chứa, từ trong thâm tâm mà phát ra, khiến Triệu Hùng không khỏi bồi hồi. Cứ mỗi lúc Văn Tôn kính y một chung, y lại cạn một chung. Chỉ ba câu nói, ba chung rượu, hai người cảm thấy thật gần gũi, tâm ý tương thông, ngỡ như đã quen từ kiếp trước.

    Tửu nhập ngôn xuất, hai người càng nói càng hạp ý, càng hạp ý càng nói, thao thao bất tuyệt bao nhiêu buồn vui sướng khổ trong đời. Thì ra Triệu Hùng là con của một quan binh, năm y bảy tuổi thì phụ thân tử trận nơi sa trường, mẫu thân vì quá đau buồn mà sinh bệnh, chưa được một năm sau cũng lâm chung. Tứ cố vô thân, y lang thang đầu đường xó chợ, cô khổ lênh đênh, đi trộm gà trộm chó sống qua ngày, chịu biết bao tủi nhục, sỉ vả. Một lần y lẻn vào nhà người ta ăn cắp vặt, bị mắng chửi đã đành, những người đó không dung tình y côi cút, đánh đập chẳng tiếc tay. Y căm phẫn quá, cắm đầu cắm cổ chạy ra khỏi thôn gia, dọc đường gặp quả dại, rau dại thì hái ăn, khát thì tìm ao tù nước đọng mà uống, cứ thế đi mãi đi mãi, để mặc cho đôi chân muốn đưa tới đâu thì tới, cuối cùng đi tới tận phủ Bắc Giang ở phương bắc mà chẳng hề hay biết. Rồi y gặp được vị minh sư cứu giúp, lão nhân gia thu y làm đệ tử. Thấy y một thân cô khổ, nên coi như máu mủ tuột thịt, bao nhiêu tuyệt kỹ bình sinh đều đem ra truyền thụ. Nhẩm lại thì đến nay đã hơn mười lăm năm rồi.

    Triệu Hùng còn đang bồi hồi kể chuyện xưa, bỗng nghe "bình" một tiếng lớn, chiếc bàn giữa sảnh đã gãy rụp, chén đũa cái thì lăn long lóc trên sàn, cái thì rơi tung tóe, nát như tương, giống như có một bao gạo từ trên trời rơi xuống đè bẹp tất cả. Hai huynh đệ sững sờ, trông thấy một đại hán nằm trên đống vụn nát, quằn quại đau đớn. Văn Tôn nghĩ thầm: "Ồ, chẳng lẽ đây là tướng nhà trời, vừa hạ phàm hay sao?" Rồi bất giác ngước lên trên, chỉ thấy mái ngói đen nghịt, nào có cái lổ thủng nào đâu? Y thấy trong lòng hụt hẫng, cứ tưởng lần đầu phiêu bạt, đã bắt gặp thần tiên giáng thế, ai ngờ chỉ là một hán tử bình thường, liền "xì" một tiếng cho bỏ tức.

    Mấy vị khách ngồi ở bàn đó thì thất kinh hoảng sợ, mặt mũi ai nấy trắng bệt như xác chết trôi, há mồm trố mắt đứng tránh qua một bên, chưa ai hiểu chuyện gì xảy ra. Đột nhiên đại hán đó lồm cồm bò dậy, miệng không ngừng rên rỉ, rồi lại quỳ thụp xuống, dập đầu liên tục trên những mảnh gỗ, mảnh chén vỡ, khiến máu chảy ra không ngớt, có những mảnh găm luôn vào trán, cảnh tượng kinh hãi làm cho thực khách trong lâu ai ai cũng rợn gai óc. Đại hán rập đầu một hồi, bỗng lẩm bẩm nói ra vài tiếng, nghe thật khó khăn, cứ như người vừa gặp phải ma quỷ:

    - Tiên cô.. tha mạng.. tiên cô.. tha mạng. Nhạc mỗ có mắt.. có.. mắt mà không thấy.. Thái Sơn!

    Thì ra đại hán đó họ Nhạc, còn "tiên cô" chắc hẳn là gọi tiểu mỹ nhân ở thượng lầu. Thực khách chung quanh bắt đầu chụm năm chụm bảy bàn tán xôn xao, kẻ đoán già, người đoán non, rốt cục "tiên cô" kia là ai mà làm cho một đại hán cao to cường tráng phải sợ đến vỡ mật? Bỗng từ trên lầu có giọng nói:

    - Ngươi chỉ còn sống chưa đến ba canh giờ, nếu còn chút nhân tính, thì mau mau quay về gặp thê tử lần cuối!

    Những lời đó vừa phát ra, như có một luồng hàn khí thổi đi khắp tửu lâu, người nào người nấy đều cảm thấy hơi lạnh chạy dọc cả sống lưng, những kẻ nhát gan thì sợ chân tay run lẩy bẩy, Văn Tôn cũng rùng mình kinh dị. Giọng nói ấy ban đầu là của một cô nương ở độ tuổi hoa niên, thế nhưng về sau nghe thanh âm chẳng khác gì tiếng rên rĩ của một lão bà già nua, vừa trong trẻo thánh thót, vừa ma mị thê lương. Thế nhưng lâu tiểu nhị nói rằng trên đấy chỉ có một tiểu mỹ nhân, lý nào lại xuất hiện thêm một lão phụ mà không ai trông thấy. Giữa những tiếng xì xầm to nhỏ, giọng nói ấy lấn át tất cả, nghe rõ ràng từng chữ một. Chưởng quầy thấy mọi người nhốn nháo lo sợ, sực nhớ trong lâu có mấy vị quan binh, liền chạy tới nhờ giúp đỡ, nào ngờ mấy tên đó kinh hồn táng đởm, đã bỏ chạy mất dạng từ đời nào.

    Văn Tôn thấy đại hán họ Nhạc kia cứ dập đầu mãi không thôi, máu chảy ra thành vũng, trán chi chít vụn gỗ, vụn sành, liền bước tới đỡ ông ta dậy, nhưng ông ta làm như tai điếc mắt mù, đâu thèm bận tâm đến y. Y thấy lão cố chấp, chỉ còn nước mở miệng khuyên can, nói:

    - Nhạc lão bá, lão bá ở đây van nài thì có ích gì, chi bằng mau chóng đi tìm đại phu, thăm khám vết thương thế có phải hơn không?

    Nào ngờ đại hán họ Nhạc đột nhiên giận dữ, quát lên:

    - Thằng oắt con hỉ mũi chưa sạch như mi thì biết cái chó gì? Đã trúng Huyết Tích Liên Chưởng thì có là Hoa Đà tái thế cũng đành bó tay, tìm đại phu? Mấy thằng lang băm chó má phỏng làm được gì?

    Bốn từ "Huyết Tích Liên Chưởng" vừa nói ra, những người có mặt trong lâu quá nửa đã tái xanh mặt mày. Triệu Hùng đi lại trên giang hồ đã nhiều năm, dĩ nhiên đã từng nghe qua môn công phu lợi hại này. Nguyên uyên Huyết Tích Liên Chưởng do một vị tiền bối tên là Nguyệt Lão Cô sáng tạo ra, chưởng thức này âm độc vô tỉ, những ai xui xẻo trúng phải hầu như đều đã táng mạng. Tuy nhiên Nguyệt Lão Cô hơn mười năm nay đã quy ẩn giang hồ, bà ta lại không thu nạp đệ tử, hôm nay bỗng nhiên Huyết Tích Liên Chưởng một lần nữa xuất hiện đả thương người, sự việc này quả có nhiều chỗ khác lạ.

    Những ai có chút kinh lịch giang hồ lại bắt đầu bàn tán xôn xao, nhưng không dám mở miệng nói lớn, thần sắc đều lộ ra vẻ hoang mang. Người nói đông, người nói tây, người bảo là Nguyệt Lão Cô đã tái xuất giang hồ, người cho rằng bà ta ngấm ngầm thu nhận đệ tử mà không ai hay biết, nhưng hiển nhiên chẳng người nào có thể dẫn chứng cụ thể.

    Có một người nhiệt huyết dâng lên, cảm thấy bất bình cho đại hán họ Nhạc, ngước lên thượng lầu nói:

    - Vị cao nhân tiền bối ở trên kia sao lại hạ độc thủ tàn nhẫn đến vậy? Xin tiền bối mở lòng từ bi, ban cho Nhạc lão gia giải dược!

    Trên thượng lầu cũng có tiếng đáp lại:

    - Chuyện trong thiên hạ, ngươi quản hết được chăng?

    Chữ "chăng" vừa dứt, đã nghe "vù" một tiếng, mẫu ám khí từ thượng lầu liền bay thẳng về hướng người đó. Hắn chỉ kịp kêu "Ối" lên kinh hãi, đã nghe "phập" một tiếng nữa, một vật vừa thon vừa dài xuyên qua búi tóc trên đầu, cắm thẳng vào cây cột giữa sảnh. Thì ra chỉ là một chiếc đũa tre, thế nhưng búi tóc của người khia đã xổ ra rối bời, mặt xám ngoét như tro. Chiếc đũa đâm sâu vào cột gỗ, chỉ còn lú ra phần đầu, cả tửu lâu ai nấy đều thầm kinh dị. Nội lực của người kia cương mãnh như thế, nếu có ý lấy mạng y thật dễ như lấy cái kẹo trong túi, xem ra người đó cũng không phải là phường sát nhân vô cớ.

    Bỗng bên trên có tiếng như người ta mở cửa sổ, một hồi lâu lại ầm ầm như cửa va vào tường, điếm tiểu nhị đoán người đó đã rời đi bằng lối cửa sổ, nhưng mãi một lúc lâu mới dám lò dò đi lên, quả nhiên thượng lầu không thấy bóng dáng tiểu mỹ nhân lúc trước đâu cả.

    Ở nơi thôn quê hẻo lánh, không ngờ lại gặp nhiều sự quái lạ đến thế, Triệu Hùng vốn định ăn uống thật no say, nhưng bây giờ cảm thấy nơi này không mấy an toàn, nhỡ may xảy ra cớ sự gì một mình y không sao chiếu liệu cho nghĩa đệ chu toàn, hai người ăn thêm vài đũa rồi gấp rút đi tìm nơi ngủ nghỉ.

    Bên ngoài trăng sáng vằng vặc, trên mặt Văn Tôn hiện lên một nỗi lo sợ thấy rõ. Chàng lâu nay sống ở quê nhà, bình yên tĩnh lặng, cùng lắm chỉ thấy người ta cãi nhau inh ỏi, hoặc đánh nhau u đầu mẻ trán, đâu có ai biết sử dụng võ công hay binh khí gì. Thế mà hôm nay lại trải qua không ít gian nguy, nào là cường đạo đánh cướp, nào là chưởng pháp âm độc, ám khí kinh người, khác nào một đứa trẻ lên ba theo người ta ra chiến trường xem cảnh chém giết, trong lòng chàng hoang mang lo sợ, cảm thấy tính mạng con người sao mà mong manh quá, lắm lúc giống như chỉ mành treo chuông, sống chết tưởng chừng chỉ trong gang tấc. Triệu Hùng đoán được tâm sự của y, nói:

    - Hiền đệ đừng quá lo lắng, đợi khi về tới Bắc Giang, đa sẽ xin sư phụ nhận đệ làm đệ tử, truyền cho võ nghệ, mai này đi lại hành hiệp cũng dễ dàng. Huống chi giang hồ cũng còn người tốt kẻ xấu, đâu phải lúc nào cũng gặp phải những kẻ tâm địa độc ác như hôm nay.

    Văn Tôn chỉ mĩm cười gượng gạo. Chàng biết mình ngộ tính không bằng người, đọc ngũ kinh tứ thư suốt mười mấy năm ròng, thế mà chẳng nhớ được bao nhiêu ý tứ. Bảo chàng chuyên tâm luyện võ, có luyện năm năm, mười năm đi chăng nữa chắc gì đã có thành tựu? Nhưng cái hảo ý của nghĩa huynh, chàng chấp nhận thì không kham, còn chối từ lại không nỡ, chỉ đành gượng cười cho qua.

    Hai người đi thêm một đoạn nhưng không thấy có khách điếm nào quanh đây, nhà nhà trong thôn thì đóng cửa tắt đèn, dường như đã ngủ cả rồi, muốn xin tá túc một đêm e là không được. Trong đêm tối tĩnh mịch, bỗng có tiếng ai đó rên rỉ nghe thật thảm não, chẳng rõ là người hay ma.

    Hơi thở yếu ớt phát ra ở hướng đông bắc, nghe thật gần, thật rõ. Triệu Hùng lần theo âm thanh đó, thận trọng bước từng bước một, Văn Tôn vốn nhút nhát, nhưng cũng bám theo ngay sau lưng, thấy trong ụ rơm nhỏ đằng trước có người đang nằm thoi thop. Triệu, Văn hai người ngạc nhiên, đưa mắt nhìn nhau, thì ra là đại hán họ Nhạc trong tửu lâu ban nãy. Dưới ánh trăng, khuôn mặt người họ Nhạc lúc trắng lúc xanh, giống như có một luồng chân khí vừa nóng vừa lạnh luân chuyển trong cơ thể. Toàn thân gã run lên như cầy sấy, chân tay bắt đầu co quắp, miệng ú ớ như muốn nói nhưng không tiết ra được gì ngoài những tiếng ư ử. Triệu Hùng nắm lấy cổ tay y, thấy kinh mạch toàn thân đã loạn, e không còn thuốc gì cứu được. Bất ngờ y chồm lên, hai tay chộp lấy ngực áo Triệu Hùng, rú lên: "Quả.. quả.." hay tay đã không còn sức lực, buông thỏng xuống, nằm bất động. Triệu Hùng đưa tay lên mũi y, thấy đã tắt thở, đồ rằng chưởng thức của quái nhân kia đã đi vào lục phủ ngủ tạng, cầm cự đến bây giờ thì không còn chịu nỗi nữa, chỉ tiếc điều y trăn trối còn chưa nói rõ ra.

    Hai người đào một cái hố, chôn cất Nhạc đại hán rồi rảo bước về phía bắc. Đi hơn hai dặm thì may thay tìm được một khách điếm, mới đầu giờ Tuất nhưng điếm môn đã đóng chặt, Triệu Hùng phải gọi một hồi lâu mới thấy điếm tiểu nhị mở cửa, lại năn nỉ mãi y mới chịu bố trí cho một phòng để ở. Ở vùng thôn quê, dân chúng ban ngày lo việc đồng áng, tối đến thì tắt đèn đi ngủ sớm, thành thử chẳng ai đi lại ngoài đường vào giờ này. Điếm tiểu nhị thấy hai người lạ mặt, cách ăn vận, nói năng đều là dân xứ khác, đêm hôm khuya khoắt lại gõ cửa thuê phòng thì trong bụng không mấy an tâm, nhưng sau cùng vì mấy lạng bạc của Triệu Hùng nên cũng niềm nở tiếp đón.

    Họ đi theo điếm tiểu nhị, tới một gian ở cuối dãy. Triệu Hùng vừa vào phòng, ngã lưng ra giường ngủ luôn. Văn Tôn còn chưa hết hoang mang, bao nhiêu biến cố xảy ra hôm nay cứ luẩn quẩn trong đầu, chẳng dễ dầu gì mà nhắm mắt. Chàng thắp cây nến trên giá lên, lấy kinh thư trong ra đọc. Trong sách có đoạn viết: "Cư an tư nguy, tư tắc hữu bị, hữu bị vô hoạn". Nghĩa là phải cảnh giác khi ở trong hoàn cảnh an lạc, phải nghĩ tới những hiểm nguy có thể xảy ra, nghĩ tới mới có sự phòng bị, phòng bị sẽ có thể tránh được tai họa. Đêm đó chàng không dám đi ngủ, ngồi bên cửa sổ đọc sách, phòng khi có chuyện bất trắc còn kịp báo với Triệu Hùng.

    Đến canh tư, Văn Tôn bắt đầu gật gù, không sao mở mắt ra nữa, toan gục đầu xuống bàn thiếp đi. Bỗng bên ngoài có tiếng vỗ cánh của một con chim, rồi từ trên cao sà xuống một con bồ câu, đậu ngay trên khung cửa. Nó vừa thu cánh gọn gàng, đã thấy Triệu Hùng đứng ngay bên cạnh. Văn Tôn bối rối, nghĩ thầm: "Ta vốn dĩ muốn ngồi đây canh phòng, hiềm khi có sự bất thường sẽ báo với đại ca, nào ngờ huynh ấy lại thần thông quãng đại như thế, biết vậy đã không phí công làm gì". Nên biết, phàm những người luyện võ, đã số những người luyện võ đều lấy nội lực làm đầu, ngoại công chiêu thức chỉ là hình thức để hiển thị công lực ra bên ngoài. Triệu Hùng khổ học suốt mười lăm năm, nội công đã luyện đến mức lô hỏa thuần thanh, lưu chuyển tùy ý, từ đó các giác quan cũng trở nên nhạy bén hơn người thường hàng chục lần. Khi con bồ câu bay đến cách chừng vài trượng, chàng tuy đang ngủ say nhưng vẫn nhận ra, liền bật dậy vọt về hướng cửa sổ. Con chim này không hề sợ người, vẫn thản nhiên đứng rỉa lông. Triệu Hùng nâng nó lên, từ trong ống nhỏ dưới chân nó, lấy ra một mẫu giấy, chỉ thấy mấy dòng chữ bé li ti như con muỗi. Chàng đọc xong mấy hàng chữ, mặt mũi đột nhiên sa sầm, quay sang Văn Tôn nói:

    - Hiền đệ, sư phụ ta hiện mang trọng bệnh, đã không thuốc gì chửa khỏi, hai ta phải tức tốc trở về Bắc Giang.

    Đường về Bắc Giang ngàn dặm xa xôi, Văn Tôn thể chất đã yếu, lại không quen đi ngựa đường dài, nghĩ rằng đi cùng tất sẽ làm chậm trễ hành trình. Chàng suy nghĩ một lúc rồi nói:

    - Đại ca, con bạch mã của huynh đã chạy cả một quãng đường dài, bây giờ nếu phải chở cả hai ta e là không chịu nổi. Đang trong lúc dầu sôi lửa bỏng, chi bằng huynh cứ đi trước, sáng sớm mai đệ sẽ thuê xe theo sau!

    Triệu Hùng nghĩ như vậy cũng tốt, nhưng vẫn lo cho nghĩa đệ, nói:

    - Nhưng đường đến Bắc Giang muôn sông khắp núi, đệ một thân một mình biết xoay sở làm sao?

    Văn Tôn cười hì hì, đáp:

    - Đại ca an tâm, đệ lúc từ Đông Hải đến đây cũng đi qua Bắc Giang, hơn nữa đường đi nằm trong miệng, dọc đường cứ hỏi thăm sẽ tỏ.

    Bấy giờ Triệu Hùng mới an lòng. Chàng đưa cho Văn Tôn ba nén bạc, dặn dò đường đi lối xá mọi thứ kỹ càng rồi mới lên đường.

    Văn Tôn tiễn nghĩa huynh ra đến tận cổng, chờ đến khi bóng y đã khuất hẳn rồi mới quay vào trong nằm ngủ. Đang lúc mơ màng, bỗng nghe bên tai văng vẳng tiếng tiêu xa, chàng choàng tỉnh. Chàng tuy không am tường nhạc lý, nhưng vẫn thường được nghe phụ thân thổi tiêu vào những lúc nhàn rỗi, quả thật âm điệu hoàn toàn khác xa. Tiếng tiêu ngoài kia từ đầu vẫn du dương, thánh thót, bỗng chớp mắt đã trở nên ủy mị, thê lương đến lạ lùng. Đang đêm yên tĩnh, thuận chiều gió, tiếng tiêu truyền đến rõ mồn một, chẳng khác nào ai đó đang nhã tấu trước hiên. Lòng hiếu kỳ trỗi dậy, chàng đẩy cửa ra ngoài, nhưng nào có thấy ai, trong khi thanh âm thì vẫn như gần kề bên cạnh. Tiếng tiêu lúc này đã hoàn toàn trở thành thảm khúc, trầm mặc, bi thảm, nghe ai oán, ma mị không sao kể xiết. Như người bị thôi miên, hai chân chàng cứ theo tiếng tiêu mà đi, đầu óc trống rỗng, không còn lý gì đến hiểm nguy. Băng qua dãy hành lang, chàng mở cổng chính, lửng thửng trên con lộ trong thôn, bước dần về hướng tây. Đi một hồi, thấy trước mắt là một ngọn núi, dưới chân núi có một phiến đá lớn, trên phiến đá là một người mặc đồ trắng, không rõ là nam hay nữ, chỉ thấy người đó đang say sưa tấu lên một khúc nhạc bi ai vô cùng. Chàng nấp sau một gốc tùng cách đó hơn mươi trượng, nheo mắt nhìn về hướng người kia, lạ thay, bạch y quái nhân đã biến mất từ lúc nào, chỉ còn trơ lại tảng đá lớn màu trắng. Văn Tôn không sao tin vào mắt mình, trên đời làm gì có ai thân pháp nhanh đến thế, trong chớp mắt đã mất hình mất dạng, chắc chỉ có ma quỷ mới làm được điều đó. Nghĩ đến đây thì kinh hồn táng đởm, liền quay đầu bỏ chạy.

    Nào ngờ vừa xoay lưng lại, yết hầu của chàng đã bị một thứ gì đó dí thẳng vào, vật đó vừa thuôn vừa dài, nằm trong tay của một người mặc y phục màu trắng, chính là bạch y quái nhân vừa rồi. Dưới ánh trăng sáng, thấy người đó là một thiếu nữ khoảng chừng mười lăm, mười sáu tuổi, mi mục thanh tú, da trắng như ngọc, đôi mắt trong vắt như sương nhưng cũng tràn đầy sát khí, đang chằm chằm nhìn chàng. Bạch y thiếu nữ thân hình mảnh mai, mái tóc dài đến giữa lưng, tay cầm cây ngọc tiêu chĩa thẳng vào cổ chàng, hỏi:

    - Nhà ngươi là ai? Đêm hôm khuya khoắt lén lén lút lút ở đây làm trò gì?

    Giọng cô ta thật trong trẻo, nhưng mỗi lời nói ra lại kèm theo mấy cái nghiến răng ken két, thật khiến cho người ta vừa yêu vừa hãi. Văn Tôn cũng không biết tại sao mình lại đến đây, chỉ trong vô thức mà bước đi, làm sao trả lời cho thỏa, còn đang nghĩ ngợi đã nghe bạch y thiếu nữ quát:

    - Ta đang hỏi nhà ngươi đấy, bộ nhà ngươi vừa câm vừa điếc hay sao?

    Đầu tiêu lại dí vào mạnh hơn. Văn Tôn giật mình kinh hãi, nghĩ thầm: "Nàng ta quả thật dung mạo tuyệt trần, thế gian hiếm có, thế nhưng lời nói lại lạnh lùng hung ác thế kia, vừa mở miệng đã chửi mắng người khác, chẳng biết là người hay yêu ma quỷ quái gì đây?" Nhưng đầu tiêu đâm vào yết hầu đau không chịu thấu, vội nói:

    - Tại hạ giữa đêm trăn trở, vô tình nghe được khúc nhạc tuyệt luân của nữ hiệp mới rảo bước đến đây, mong được thỉnh giáo, nào có ý gì xấu xa, mong nữ hiệp tha cho tội mạo muội!

    Bạch y thiếu nữ mặt không đổi sắc, mục quang sắc như đao kiếm, xoáy sâu vào mắt Văn Tôn, cười hắc một tiếng, lạnh lùng nói:

    - Nhìn bộ dạng nhà ngươi chắc cũng không đến nỗi là phường tham ác, chỉ đáng tiếc số ngươi đoản mệnh, hôm nay đành phải bỏ mạng ở đây, không thể trách ai.

    Văn Tôn bàng hoàng tột độ, lý nào lại có kẻ hạ thủ sát nhân ngang tàn như thế? Hỏi:

    - Tại hạ chỉ là vô ý thưởng nhạc, nào có lòng mạo phạm, nữ hiệp vì cớ gì lại muốn lấy mạng ta? Lẽ nào trong mắt không còn vương pháp?

    Bạch y thiếu nữ cười hắc mấy tiếng, nói:

    - Cái gì mà coi thường vương pháp? Cái gì mà không có lương tri? Mấy lời như vậy ta nghe đã nhiều rồi. Nếu mà hoàng đế thật sự thần thông quảng đại, bảo quốc an dân, trong thiên hạ đã chẳng có những kẻ lòng lang dạ sói, vô tâm thất đức nhiều đến thế. Gã nhược phu họ Nhạc trong Hỷ Lạc lâu chết như thế nào, ngươi chẳng phải đã tận mắt chứng kiến hay sao?

    Văn Tôn rùng mình ớn lạnh, bấy giờ mới rõ người ngồi trên thượng lầu của Hỷ Lạc lâu chính là cô ta, đại hán họ Nhạc bị cô ta đả thương dẫn đến cái chết, nhưng nguyên cớ thế nào thì chàng làm sao biết được. Bạch y thiếu nữ nói tiếp:

    - Trên đời này, bất cứ ai nhìn thấy dung mạo của ta thì đều phải lấy cái chết để đền tội, gã họ Nhạc kia tất nhiên cũng không phải ngoại lệ. Chỉ tiếc.. chỉ tiếc..

    Nói đến đó thì ngập ngừng, dường như tiếc nuối điều gì. Văn Tôn không khỏi kinh sợ trước bản tính tàn ác của cô ta, chỉ vì người khác trông thấy mặt mình mà ra tay tàn sát, khác nào những loài dã thú cùng hung cực ác, trên đời làm gì có cái sự vô lý như vậy. Nhiệt huyết trong người bất chợt dâng lên, cái sợ tiêu tan đâu mất, nói:

    - Cô nương nói trong thiên hạ những kẻ lòng lang dạ sói, vô tâm thất đức nhiều vô số kể, chẳng phải chính cô nương cũng ở trong số đó hay sao? Cô nương sát nhân vô cớ, có gì mà luyến tiếc?

    Bạch y thiếu nữ hơi kinh ngạc, chỉ vừa rồi y còn khép nép xin tha mạng, bây giờ lại ăn nói cứng cỏi như thế, quả thật có chút hơn người. Nhưng chỉ trong thoáng chốc, sự lạnh lùng đã quay trở lại, nàng gặng giọng, nói:

    - Gã họ Nhạc kia có chết trăm lần cũng chưa đủ, ông trời để hắn gặp ta quá muộn, khiến hắn sống thêm mấy mươi năm, đó là cái tiếc thứ nhất. Còn ngươi tuổi quá trẻ, có lẽ cũng chưa làm điều gì trái đạo, ông trời lại để ta gặp ngươi quá sớm, phải đoản mệnh, thế có phải là điều đáng tiếc thứ hai hay không?

    Nàng cười lên mấy tiếng, vừa thánh thót, vừa hung ác, khiến Văn Tôn kinh hãi vô cùng. Chàng biết lúc này có muốn chạy cũng không được, muốn trốn cũng chẳng xong, tính mạng chỉ như ngọn đèn trước gió, chẳng buồn nói thêm với cô ta lời nào, nhắm mắt mặc cho cô ta muốn đâm thì đâm, muốn giết thì giết.

    Bỗng trước cổ không còn đau nữa, chàng mở mắt ra, thấy tay phải nàng ta đã thu cây tiêu về, đưa ra sau lưng. Văn Tôn trong lòng cảm khái, định nói mấy lời tạ ơn tha mạng, nào ngờ thấy trước ngực nóng ran, nhói lên như có muôn vàn cây kim đâm vào, chàng hét lên thất thanh, đau đớn đến mức chết đi sống lại. Tả chưởng của nàng ta đã đặt lên ngực chàng từ bao giờ, thủ pháp nhanh tới nỗi mắt chưa kịp nhìn thấy, lục phủ ngũ tạng đã bị chưởng lực làm cho dập nát. Chàng ngã quỵ xuống đất, toàn thân bốc nhiệt, tứ chi tê dại, một luồng hàn khí chạy dọc khắp đại kinh tiểu mạch, hai mắt nhìn theo cái bóng trắng càng lúc càng xa, rồi mờ dần đến khi mọi thứ trở nên tối đen như mực.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14 Tháng hai 2020
  4. TrieuNguyen

    Bài viết:
    51
    Chương III: Phái Vô Kiếm

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Văn Tôn ngất đi không biết bao nhiêu lâu thì tỉnh lại. Chàng thấy mình đang ở trong một căn nhà nhỏ, trên mái lợp tranh, bốn vách đều dựng lên bằng những thân trúc còn xanh. Chàng tối đó bị trúng một chưởng, đau đến bất tỉnh, cứ tưởng đã chết đi, bây giờ thấy mình đang ở một nơi lạ lẫm, thật chẳng biết là trần gian hay âm tào địa phủ. Trong người vẫn còn ngâm ngẩm đau, những đã đỡ hơn rất nhiều, chàng lò dò đi ra. Căn nhà có khung cửa, có bậu cửa, nhưng không có cánh cửa, tưởng như ở đây không một ai biết tới, nên chẳng cần đóng cửa cài then làm gì hoặc đã bị ai đó tháo mất. Nghe bên hông nhà có tiếng xột xoạt, Văn Tôn liền đi về hướng đó, thấy một bà lão mặc một bộ y phục cũ kỹ màu vàng nhạt, đầu tóc bạc trắng như sương. Bà ta ngồi trên một chiếc ghế nhỏ, xoay lưng về phía chàng, chỉ thấy tay bà ta đang thoăn thoắt đan những tấm mành trúc. Chàng định đánh tiếng chào hỏi, nào ngờ bà ta không cần quay lại cũng biết được chàng đang đứng phía sau, đã lên tiếng trước:

    - Tiểu tử! Đã chịu tỉnh rồi sao?

    Văn Tôn không biết mình đã hôn mê bao lâu, nhưng đoán cũng vài ngày, chàng hỏi:

    - Có phải bà bà đã cứu con?

    Lúc này bà ta mới quay lại nhìn Văn Tôn. Đó là một lão bà tuổi đã hơn bát tuần, da dẻ nhăn nhúm, hai gò má hóp vào, đôi mắt già nua hấp háy. Bà ta nở một nụ cười hiền từ, nói:

    - Cách đây ba hôm, buổi tối ta đang ngồi đan mành trước cửa, bỗng nghe dưới chân núi có tiếng người rống lên như trâu bị thọc tiết, mới vội vã đi xuống xem thế nào. Thấy con nằm rũ ra đó, xem ra đã thụ thương không nhẹ nên đưa về đây coi sóc, cũng may là còn cứu được.

    Bà ta ngừng lại một lát, rồi nói:

    - Huyết Tích Liên Chưởng chẳng mấy khi gia hại hiền nhân, chiêu Vạn Tiễn Xuyên Tâm này cũng may là gặp được ta, nếu không e rằng bây giờ con đã là cái xác không hồn. Có phải con đã làm chuyện gì độc địa gian trá, cho nên mới bị người đó hạ sát thủ?

    Văn Tôn còn nhớ cái tên "Huyết Tích Liên Chưởng", còn cái gì gọi là "Vạn Tiễn Xuyên Tâm" chàng không sao biết được. Nghe bà ta nói vậy, chàng đoán bà ta phải là một danh y có tiếng, tinh thông dược lý, chắc cũng là một người bụng dạ từ bi, có tấm lòng bồ tát, liền đem việc mình cùng nghĩa huynh vào trọ ở khách điếm ra sao, rồi nghe tiếng tiêu mà đi theo, bị ác nhân đả thương như thế nào kể lại tường tận. Bà ta nghe xong, hỏi:

    - Cô nương đó tú lệ tuyệt mỹ, hẳn là ngươi có chết dưới tay cô ta cũng không có gì hối tiếc phải không?

    Văn Tôn gãi đầu gãi tai, ngượng đỏ cả mặt. Cô nương ấy quả thật là một giai nhân tuyệt thế, tuy ra tay có độc ác, nhưng nhan sắc vô song hiếm thấy trên đời, khiến người vừa trông thấy đã chợt động tâm can, trong cái kinh sợ lại có chút yêu thích. Chàng không biết trả lời thế nào cho đặng, tìm cách lảng đi, hỏi:

    - Sao bà bà lại biết cô ta xinh đẹp, có phải bà bà cũng từng bị cô ta gia hại?

    Lão bà đột nhiên cười một tràng vang động, làm cho mấy con chim sẻ đậu trên mái nhà tán loạn bay lên.

    Văn Tôn thấy bà ta không trả lời mình mà đột nhiên cười lớn, trong tràng cười ấy lại có mấy phần hoan hỷ đắc ý, chàng lấy làm lạ, song cũng không dám hỏi thêm. Chàng bước tới bên cạnh, quỳ xuống, vái một cái thật dài, nói:

    - Tạ ơn bà bà đã cứu mạng. Tiểu sinh họ Văn, tên Tôn, mong bà bà cho tiểu sinh được biết tôn tính quý danh, tiểu sinh nguyện làm trâu làm ngựa để báo đáp!

    Lão bà liền xua tay nói:

    - Giúp người lúc hoạn nạn là lẽ nên làm, dù là con mèo, con chó, lão cũng không nỡ thấy chết không cứu, con không cần phải để trong lòng, còn tên tuổi của lão cũng không cần nhắc đến!

    Đoạn đưa tay đỡ chàng đứng lên, trong khoảnh khắc ngón giữa bàn tay phải đã đặt lên cổ tay trái của chàng, trầm ngâm một lúc rồi gật gật đầu, nói:

    - Khí huyết lưu thông, kinh mạch điều hòa, xem ra nội thương đã giảm hơn phân nửa, tốt lắm, tốt lắm!

    Văn Tôn nhớ đến đại hán họ Nhạc lúc ở Hỷ Lạc lâu bị người đó đánh một chưởng, chưa tới ba canh giờ thì đã táng mạng, mình cũng bị cô ta đánh cho một chưởng nhưng theo lời vị bà bà kia, đã ngất đi hết ba ngày ba đêm nhưng bây giờ nội thương lại lành hơn một nửa, chẳng lẽ bà ta đúng là một danh y cái thế, lợi hại hơn cả Hoa Đà? Chàng hiếu kì không sao kìm được, buột miệng hỏi:

    - Tiểu sinh có nghe người ta đồn đại, chưởng pháp của nàng ta thật là lợi hại, ai trúng phải thì không sống được quá ba canh giờ, không biết bà bà đã dùng loại linh đơn diệu dược gì mà lại thần hiệu đến vậy?

    Năm xưa Nguyệt Lão Cô tung hoành giang hồ, ai ai cũng đã từng nghe tới Huyết Tích Liên Chưởng lợi hại của bà ta. Loại chưởng pháp này căn nguyên cũng từ nội công của bản thân mà biến hóa thành nhiều chiêu nhiều thức, mỗi khi nội lực đi vào người đối phương lại chia thành nhiều luồng hàn khí liên miên bất tận, theo các huyết mạch lớn nhỏ thâm nhập vào lục phủ ngủ tạng. Hàn khí một khi đã thâm nhập, hầu như không cách gì trục xuất ra được, trừ phi nội lực của người đó phải cực kỳ cao thâm mới có thể tự phong bế kinh mạch toàn thân, rồi lại dùng chân khí của bản thân dần dần đẩy lùi hàn khí ra ngoài. Song việc trị thương không phải chỉ năm bữa nữa tháng là xong, phải tốn rất nhiều công lực, khó khăn trăm điều, hơn nữa những người có nội công đạt đến mức đó quả thực trên đời không có nhiều, cho nên hầu hết những người từng trúng phải Huyết Tích Liên Chưởng đều đã táng mạng. Người trong võ lâm dần dần mỗi khi nghe đến Huyết Tích Liên Chưởng đều kinh hồn táng đởm, nào có ai dám đứng ra giao đấu với bà ta, lâu ngày môn công phu này cũng không mấy khi được thi triển. Nguyệt Lão Cô khi sáng tạo ra môn chưởng pháp này cũng không ngờ nó âm độc khôn lường đến thế, sau này cũng không muốn đem ra sử dụng nhưng bảo phế đi thì cũng không nỡ, cuối cùng đã nghĩ ra một cách vẹn toàn đó là điều chế một loại giải dược cho Huyết Tích Liên Chưởng, để nhỡ may có lỡ tay đả thương người tốt thì cũng còn có đường cứu chữa. Thế nhưng từ khi bà ta chế ra thuốc giải, bỗng dưng lại biệt tăm biệt tích trên giang hồ, tưởng như chưởng pháp lợi hại kia cùng với giải dược của nó cũng đã thất truyền, nào ngờ hôm nay cả Huyết Tích Liên Chưởng và thuốc giải cùng lúc xuất hiện ở cái thôn nhỏ bé này, âu cũng là cơ duyên hiếm thấy. Nên biết một khi hàn khí xâm nhập vào lục phủ ngủ tạng thì kinh mạch toàn thân bị tắc nghẽn, phải biết khí huyết tích tụ ở những điểm nào mới có thể đả thông, việc đó ngoài người sáng tạo ra chưởng pháp thì còn có ai tinh tường hơn? Văn Tôn gặp được vị bà bà có thể hóa giải tổn thương do Huyết Tích liên Chưởng gây ra cũng có thể nói là một kỳ ngộ trong nhân gian, nếu không e rằng bây giờ chàng đã thành cái xác không hồn, nằm vất vưởng dưới chân núi.

    Lão bà chỉ mĩm cười, nói:

    - Lão chỉ biết có một chút y lý, để dành phòng thân, không lẽ con cũng muốn học lấy hay sao?

    Văn Tôn lắc đầu lia lịa. Chàng vốn tò mò nên buột miệng hỏi, nghe bà ta nói vậy lại tưởng bà ta trách mình vô phép vô tắc, chưa chi đã muốn học lóm dược lý bí truyền của mình, vội xua tay nói:

    - Tiểu sinh không có ý đó, chỉ là.. chỉ là..

    Lão bà cười hà hà, quay lại đan tiếp tấm mành còn dang dở khi nãy, nói:

    - Con hãy vào trong nghỉ ngơi tịnh dưỡng, vài hôm sau thương thế khỏi hẳn thì lập tức xuống núi, nơi này không tiện ở lâu đâu!

    Văn Tôn càng nghĩ càng quái lạ, không lẽ bà ta sợ mình ở lại đây sẽ học lóm y lý thật hay sao? Bà ta tuy cũng là đàn bà, nhưng tuổi đã lớn, vai vế phải ở trên mình mấy bậc, có gì mà không tiện ở lâu? Nghĩ vậy nhưng cũng không dám hỏi thêm, đành quay trở vào trong nằm nghỉ. Tuy nội thương đã lành hơn phân nửa, nhưng cơ thể chàng vốn đã yếu ớt, nay trúng phải độc chưởng lại càng thêm suy nhược, vừa đặt lưng xuống giường liền thiếp đi.

    Trong lúc mơ màng, khúc tiêu sầu thảm đêm hôm trước một lần nữa lại văng vẳng bên tai. Chàng mơ hồ mở mắt, thấy mình vẫn nằm trong căn nhà trúc, tiếng tiêu vẫn đều đặn ngân lên, áng chừng người đó đang ở thật gần. Chàng thầm kinh dị, lý nào cô ta biết mình vẫn còn sống, muốn truy cùng giết tận? Hay chỉ là một cơn mộng mị vô thường, nhưng sao cảm giác quá giống thật? Chàng tát liền vào mặt ba, bốn cái, thấy hai má đau điếng, mới biết đây đúng là sự thật thì hoảng hốt chạy ra ngoài nhìn thử. Lão bà vài phút trước ngồi đây đã biến đi đâu mất, mấy tấm mành cũng không còn, chỉ thấy cái ghế mà bà ta vừa ngồi ngả nghiêng trên đất. Chàng thầm kinh hãi: "Không lẽ cô ta biết được bà bà tốt bụng cứu mạng mình, đã ra tay sát hại lão nhân gia? Nếu thế thì mình đã liên lụy đến bà ấy mất rồi!" Bỗng tiếng tiêu đột nhiên ngưng đi, rồi một giọng hát nhẹ nhàng uyển chuyển vang vang trong không trung:


    Than ôi thế thái nhân tình

    Nhân tâm hiểm trá, thân mình nương ai?

    Thế sự đen trắng đổi thay

    Gian tham vô số, người ngay có còn?

    Một lòng một dạ sắc son

    Tìm người tri kỷ trên non dưới ngàn

    Buồn thay một kiếp hồng nhan

    Rày đây mai đó biết chàng nơi nao?

    Bài hát là nỗi tương tư, sầu khổ của một người thiếu nữ dành cho ý trung nhân nhưng không được hồi đáp, các thôn nữ miền Nam vẫn thường dùng bài ca này để thổ lộ tình ý với chàng trai mà lòng mình luyến ái. Người kia lại dùng ca từ để nói lên nỗi cô đơn chiếc bóng giữa chốn hoang sơn tịch mịch, giọng điệu thật là thê lương, sầu khổ. Văn Tôn trong lòng cũng rúng động, nghĩ tới những hung hiểm đã trải qua trong mấy hôm nay thật khó mà tưởng tượng nổi. Dọc đường chàng đã gặp không biết bao nhiêu người, nhưng ngoại trừ Triệu Hùng và vị bà bà kia thì có mấy ai là hiền lương, nhân hậu? Quả đúng là "gian tham vô số, người ngay có còn?". Lại nghĩ mình một thân một mình giữa núi non hiểm địa, nào có ai bầu bạn, hoàn cảnh bây giờ so với người vừa cất tiếng ca kia có khác nhau là bao, bỗng thấy đồng cảm vô cùng.

    Chàng vòng ra sau ngôi nhà, lần theo tiếng hát đi tìm. Đi qua một mảng rừng nhỏ, bốn bề cây cối um tùm, nhiều cây cổ si mọc thành từng khóm; có khóm trông như một ông lão hiền từ phúc hậu, râu dài phất phơ, có khóm trông như một con rồng lớn uốn lượn, rễ cây này vắt vẻo bắt sang cây kia, giống như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh. Bỗng trước mặt hiện ra một rừng trúc xanh rì. Nhiều cây lục trúc cao chưa tới một trượng, dường như chỉ được trồng cách đây không lâu. Ở giữa rừng si và rừng trúc có một con suối nhỏ, phía dưới nước chảy róc rách, bên trên có cây cầu bắc ngang qua. Văn Tôn đi qua cây cầu, được hơn mươi bước thấy giữa rừng trúc có một tòa vọng lâu, trên lợp lá tranh, bên trong đặt một chiếc bàn nhỏ, hai cái ghế. Chàng nhìn quanh không thấy ai, đánh liều bước vào trong. Thấy trên bàn có một bình trà, bên cạnh đặt hai cái chung sứ, một chung đầy nước, còn có hơi ấm bốc lên, chàng thiết nghĩ chắc là ai đó vừa ở đây, nhưng tự dưng sao lại muốn tránh mặt mình?

    Chàng đang suy đoán, chợt nghe một mùi hương dịu nhẹ thoang thoảng trước mũi, hóa ra phía sau tòa vọng lâu có trồng mấy luống hoa tím biếc, liền bước ra nhìn thử. Những dây hoàng liên chi chít bò lên trên mấy tấm mành trúc, nhiều bông đã nở rộ, mấy tấm mành trúc thì giống hệt với loại mà vị bà bà kia đã đan. Kế bên còn có một ao nước nhỏ, nước trong văng vắt. Mấy bông sen trong ao đã dần tàn, cánh lả tả rụng xuống, nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Một đàn cá kim sơn vừa ngoi lên thở, thấy bóng người tới gần thì hoảng sợ lặn mất tăm mất dạng. Hoạt cảnh hết sức sống động, xung quanh chim hót líu lo, giữa nơi rừng núi âm u tự dưng lại xuất hiện một hoa viên thanh bình như thế thật khiến cho con người ta cảm thấy tiêu diêu, khoái lạc. Văn Tôn nhắm mắt xuất thần, ngẫn ngơ một hồi lâu, trong lòng ngỡ như vừa sống hết một kiếp trầm luân bể khổ.

    Bỗng nghe từ trên cao vang lên một giọng nói thánh thót:

    - Xem ra mạng nhà ngươi cũng lớn lắm!

    Văn Tôn rùng mình kinh hãi, giọng nói này chàng không sao quên được, chính là cô ta, người đã một chưởng khiến cho chàng dở sống dở chết mấy hôm trước, liền ngẩng đầu lên nhìn. Bạch y thiếu nữ đang ngồi ôm gối trên mái tòa vọng lâu. Nàng tựa cằm trên đầu đối, đưa mắt nhìn Văn Tôn, thần sắc nhợt nhạt, tựa hồ ẩn chứa biết bao nhiêu nỗi niềm u uất. Dưới ánh chiều tà, nàng chẳng khác nào tiên nữ hạ phàm, dung nhan mỹ lệ, thế nhưng lại lạnh lẽo như băng, khiến người vừa nhìn thấy chưa kịp yêu đã hoang mang khiếp sợ. Văn Tôn bị nàng đánh cho một chưởng, từ quỷ môn quan trở về lý nào không kinh hãi? Thế nhưng nghĩ tới vị bà bà kia an nguy chưa rõ, làm sao chưa hỏi đầu hỏi đuôi đã bỏ chạy, nên lấy hết can đảm nói:

    - Nhờ hồng phúc của cô nương, tại hạ vẫn còn khỏe mạnh, ăn được ngủ được. Nhưng vị bà bà kia tuổi cao sức yếu, xin cô nương tha cho bà ấy được chăng?

    Thật ra suốt ba ngày ba đêm chàng hôn mê bất tỉnh, nào có biết mình đã ăn uống gì đâu, nói vậy cốt chỉ để cô ta nổi giận, trút hết lên người mình mà tha cho vị bà bà kia. Nhưng bạch y thiếu nữa tâm lạnh như băng, không hề tỏ ra bực dọc, làm như chẳng quan tâm đến những lời đó. Đôi môi hồng mấp máy, thanh âm phát ra thật nhỏ, nhưng nghe rõ từng chữ một:

    - Ta trước giờ giết chết rất nhiều người, già trẻ lớn bé không cách gì nhớ hết. Không biết bà bà mà ngươi nói tên là gì, cứ nói ra thử, biết đâu ta có thể nhớ được là đã chém bà ta thành mấy khúc?

    Văn Tôn sững sờ, không ngờ cô ta âm độc vô tỷ như thế, đến một bà lão già hom ốm yếu cũng không tha. Máu nóng dâng lên trong lồng ngực, mắt như tóe lửa, căm phẫn nhìn nàng, nói:

    - Gian tham vô số, người ngay có còn? Những lời vừa rồi có phải chính cô nương đã hát?

    Bạch y thiếu mặt lạnh như băng, nói không hở môi:

    - Phải!

    Chàng nhổ một bãi nước bọt xuống đất, nói:

    - Ta khinh! Loại yêu nữ tà ma ngoại đạo, giết người như ngóe như mi mà cũng có tư cách mở miệng hát ra những lời như vậy sao?

    Bạch y thiếu nữ trợn tròn đôi mắt, nói:

    - Tiểu tặc, xem ra mi chán sống rồi. Được, hôm nay để bổn cô nương cho mi toại nguyện. Lần này để coi còn có ai cứu mi nữa hay không?

    Hai tay chống mạnh xuống mái tranh, chớp mắt thân hình đã lơ lửng trên không trung. Nàng đạp nhẹ vào một cây trúc mượn lực, lướt về phía chàng, thân pháp nhanh nhẹn vô tả. Văn Tôn nghĩ bà bà vì cứu mình mà bị nàng ra tay sát hại, vừa thương xót, vừa phẫn uất, nhưng nàng ta một thân võ nghệ, chàng dẫu muốn nói chuyện phải quấy cũng chẳng đặng, chi bằng cứ để nàng ta một chưởng đánh chết, trên đường xuống dưới cửu tuyền cũng có bà bà bầu bạn. Nghĩ vậy chàng không còn sợ hãi, nhắm mắt lại, hai tay buông thõng, cảm thấy cái chết cũng chỉ như mây bay gió thoảng.

    Bỗng trên vai như có một khối băng lớn đè lên, vừa lạnh vừa buốt, rồi cả cơ thể nhẹ nhàng như bay khỏi mặt đất. Chàng mở mắt ra, thấy bạch y thiếu nữ đã đặt tay lên đầu vai mình, hàn khí khiến một bên vai trở nên tê dại, rồi nhẹ nhàng hất chàng văng ra xa. Nghe "bình" một tiếng, đã bay đi hơn trượng, va mạnh vào một cây lục trúc sau lưng. Văn Tôn "ối" lên một tiếng, cảm thấy mấy đốt xương sống nhói lên đau đớn, nhưng nghĩ nàng ta vẫn chưa hạ sát thủ, có lẽ sẽ hành hạ chàng đến khi muốn sống cũng không được, muốn chết cũng không xong mới thôi. Văn Tôn càng ngẫm thì nộ khí trong lòng càng tăng lên, toàn thân run rẩy, chàng chính vì căm phẫn mà không có cách gì phát tiết, cắn chặt môi đến nỗi ứa cả máu, nói:

    - Yêu nữ, có giỏi thì giết ta đi. Mi tâm địa độc ác, giết người vô số, ta có chết làm quỷ cũng sẽ bám theo ngươi suốt đời!

    "Phụp" một tiếng, Văn Tôn thấy miệng lưỡi cứng đơ, không sao nói thêm được nữa, hóa ra đã bị một trái táo chặn lại. Bạch y thiếu nữ chẳng nói chẳng rằng, phất tay một cái, từ trong tay áo chui ra một mảnh lụa đỏ, loằn ngoằng uốn lượn như một con hồng xà lướt về phía chàng. Tay phải nàng cầm đầu dải lụa, sử chiêu Phong Vờn Vũ Cợt, chỉ thấy một khoảng màu đỏ bao trùm lấy Văn Tôn, rồi mảnh lụa quấn chặt lấy chàng vào thân cây lục trúc, chỉ chừa ra cái đầu, trông chẳng khác gì con sâu nằm trong kén, thật là hoạt kê.

    Bạch y thiếu nữ phủi phủi hai bàn tay thon dài, nàng lãnh cảm lạnh nhạt nhưng nhìn thấy cảnh này cũng không khỏi tức cười, hơi nhếch môi nói:

    - Ngươi cứ ở đây mà chờ đến ngày lột xác, lúc đó hóa thành bướm rồi thì tha hồ mà bám theo ta!

    Rồi quay lưng bỏ đi, trên môi chợt hiện lên một nụ cười đắc ý.

    Văn Tôn bị trói chặt vào cây lục trúc không cách gì cựa quậy được, trên miệng lại ngậm mộ quả táo lớn, muốn nuốt vào nhưng không nổi, nhả ra cũng chẳng xong, hậm hực không thể chửi mấy câu cho hả dạ, chỉ ú ú ớ ớ được vài mấy tiếng, tình cảnh thật là oái ăm. Rồi cây cối xung quanh dần sẫm lại, trên trời xuất hiện mấy ánh sao, chàng đói đến cào ruột, nhưng tuyệt nhiên không thể thoát ra khỏi dải lụa. Không lâu sau thì trăng non nhô lên, chiếu sáng khắp nơi, gió lùa mấy ngọn cây xa xa trông như ai đó đang nhảy múa, rồi côn trùng rít lên từng chặp, nghe rùng rợn vô cùng. Văn Tôn có lá gan thật nhỏ, chàng nói có chết thành quỷ cũng bám theo nàng ta, thế nhưng lúc này chính mình lại lo sợ ma quỷ tìm đến. Trong cơn hoảng loạn, chàng bất chợt gào lên: "Triệu đại ca, cứu đệ!" nhưng âm thanh phát ra chỉ vo ve như muỗi kêu, lại chẳng thành tiếng, chàng quên mất cổ họng đã bị trái táo chặn lại.

    Nguyên Triệu Hùng sau khi chia tay ở khách điếm, cưỡi ngựa suốt một đêm một ngày mới ra khỏi lộ Khoái Châu. Đến một quán nước nhỏ, chàng tấp vào nghỉ mệt. Từ khi nhận được hung tin của sư đệ đồng môn, chàng trong lòng cứ như lửa đốt, phập phồng lo lắng, chỉ sợ đường xá xa xôi không kịp gặp ân sư lần cuối. Thông thường những người luyện võ thể chất hơn hẳn nông phu, nho sĩ, cường tráng sung mãn, hiếm khi ốm đau bệnh tật gì. Nhưng sư phụ của chàng đã ngoài tám mươi tuổi, từ lâu chán ngán cảnh chém giết trên giang hồ, lui về chốn thư phòng đọc sách, ngâm thơ, võ học không màng đến nữa, nên từ đó mà sinh bệnh. Triệu Hùng tính tình phóng khoáng, không chịu sự gò bó, ba năm trước đã thưa với ân sư muốn ra ngoài ngao du đây đó, hành hiệp trượng nghĩa. Lão nhân gia yêu thương chàng chẳng khác nào con ruột, vốn muốn truyền cho y bát, để chàng kế tục chức vụ chưởng môn nhân; nhưng biết chàng coi nhẹ danh lợi, chí tại tứ phương, nào chịu ngồi bó gối một chỗ, huống hồ hành thiện trừ ác, cứu khốn trợ nguy cũng là tôn chỉ của bản phái, nên đành miễn cưỡng để y ra đi. Ông ngoài Triệu Hùng còn có hai người đệ tử là Trương Cơ và Lâm Thiên Sự. Từ khi Triệu Hùng hạ sơn, mọi sự lớn nhỏ trong bản phái đều giao cho hai người này xử trí, nếu không có việc gì hệ trọng họ cũng không dám phiền đến chàng. Trong vòng ba năm qua, phái Tiêu Kiếm bình ổn trong ngoài, trên thuận dưới hòa, tuyệt nhiên không cần Triệu Hùng phải lưu tâm, đến hôm nay sư phụ lâm trọng bệnh, họ mới gấp rút mời chàng quay về.

    Chàng đang ngồi uống trà, bỗng nghe mấy nông phu ở bàn bên cạnh thì thầm tỏ nhỏ:

    - Đêm qua ở huyện Tiên Lữ lại xảy ra án mạng, nghe nói là thảm sát cả một thôn.

    - Phải, phải, ta cũng có nghe, gần ba mươi mạng người chứ chả ít, già trẻ lớn bé gì cũng giết hết, đúng là phường ác nhân!

    - Bọn chó má này từ Tây Kết đến Hàm Tử, Chương Dương, hễ đi đến đâu là cướp bóc đến đó, giết người như ngóe, thế mà bao lâu nay quan phủ chẳng làm gì được bọn chúng!

    Ai nấy nộ khí cũng dâng lên. Triệu Hùng vỗ bàn, hóa ra bọn cường đạo đánh cướp Văn Tôn không phải mà đám mà chàng muốn tìm. Mấy hôm trước chàng đi ngang qua kinh đô, thấy dân chúng xôn xao bu quanh bảng cáo thị trước cổng thành nên dừng lại coi thử. Thấy trên thông cáo có viết tên mười mấy tên khâm phạm, bên dưới kể ra biết bao nhiêu là tội ác tày trời, giết người cướp của, hạm hại nữ nhân, đốt nhà lấy đất, không việc xấu nào là không làm. Chàng lân la dò hỏi khắp nơi, nghe được bọn chúng chạy về Quốc Oai liền tức tốc đuổi theo, cuối cùng ở chỗ rừng sâu đã giết cả năm tên. Bây giờ nghĩ lại mới vỡ lẽ, thì ra chúng đã kéo đến Khoái Châu đánh cướp, còn năm tên kia lại là một bọn lục lâm thảo khấu khác. Chàng nộ khí đùng đùng, chỉ muốn lập tức quay trở lại Khoái Châu giết hết lũ ô hợp đó, hiềm nỗi bây giờ ân sư mạng chỉ trong giây lát, mà chàng thì không thể phân thân, đành nuốt giận gác bọn chúng qua một bên.

    Ăn hết mấy củ khoai lấy lại sức, Triệu Hùng bỗng kêu lên: "Hỏng! Nguy rồi!" Chàng chợt nhớ ra Văn Tôn còn đang ở Khoái Châu. Y thư sinh ốm yếu, nhỡ may gặp phải bọn cường đạo thể nào cũng nguy to. Nhưng bây giờ nước xa lửa gần, chàng chỉ biết khấn trời cho y bình an vô sự đến được Bắc Giang để hội ngộ. Chàng ngồi nghỉ thêm vài khắc rồi lại tiếp tục lên đường.

    Đi thêm năm ngày năm đêm thì về đến địa phận phủ Bắc Giang. Đến sáng ngày thứ sáu, Triệu Hùng đã tới chân núi Yên Tử. Lúc này con ngựa đã mệt, chàng để nó gặm cỏ ở đó rồi thi triển khinh công chạy lên núi. Chưa đầy nửa giờ sau đã tới trước cổng sư môn, thấy trong sân có hai tiểu đệ tử đang quét rác, chàng nhớ thương sư phụ liền chạy vù vào trong, hai đệ tử kia chỉ thấy một bóng người vụt qua, chẳng biết là người hay ma, hốt hoảng quăng luôn hai cây chổi xuống đất rồi bỏ chạy mất xác.

    Đến trước cửa phòng của ân sư, chàng bồi hồi trong dạ, xa cách đã lâu, bây giờ quay về lại là lúc sinh ly tử biệt, thật không biết phải nên vui hay buồn. Bỗng cửa mở, từ bên trong có một người gầy gò, xanh xao như tàu lá chuối, thân hình dong dỏng cao bước ra, chính là tam sư đệ Lâm Thiên Sự. Lâm Thiên Sự thấy sư huynh trở về liền khấu đầu thi lễ, mừng rỡ nói:

    - Đại sư huynh, huynh về thật đúng lúc.. thật đúng lúc.. sư phụ, người..

    Đến đây bỗng nghẹn ngào, nước mắt ròng ròng, không nói thêm được nữa.

    Rồi một người khác bước ra đứng bên cạnh Lâm Thiên Sự. Người này to cao vạm vỡ, râu ria xồm xoàm, mặt mày hơi dữ tợn, chính là Trương Cơ, nhị sư đệ của Triệu Hùng. Trương Cơ chắp tay khấu đầu, nói:

    - Đại sư huynh, mau vào trong. Sư phụ đợi huynh đã lâu, lão nhân gia có điều muốn căn dặn!

    Nói rồi cùng Lâm Thiên sự nép qua một bên, nhường lối cho Triệu Hùng. Triệu Hùng vừa bước vào, thấy trên chiếc giường bên trái có một ông cụ đang nằm trên đó, hai mắt nhắm hờ, hình dung tiều tụy, hơi thở thoi thóp. Chàng sà tới quỳ bên giường, gọi hai tiếng: "Sư phụ" rồi òa khóc nức nở. Lão nhân gia bình sinh là một đấng trượng phu thân dài vai rộng, oai phong lẫm lẫm biết chừng nào, thế mà bây giờ đã trở thành một người thân mang trọng bệnh, mệnh trong giây lát, thử hỏi làm sao không chua xót, làm sao không đau lòng?

    Lão nhân nghe tiếng của Triệu Hùng, biết được đứa học trò yêu quý đã trở về, he hé đôi mắt ra nhìn. Triệu Hùng vừa vui mừng vừa lo lắng, mếu máo nói:

    - Sư phụ, đồ nhi bất hiếu, không phụng dưỡng cho người, để người đau ốm thế này, xin sư phụ trách phạt!

    Chàng biết sư phụ đã yếu lắm rồi, không dám nhắc đến hai chữ "trọng bệnh". Lão nhân nghiêng đầu nhìn chàng, mĩm cười, trong cơn thập tử nhất sinh vẫn toát lên cái vẻ hoan hỷ bội phần, chậm rãi nói:

    - Đồ nhi ngoan lắm, ngoan lắm!

    Đoạn ngừng lại thở dốc rồi nói tiếp:

    - Mau gọi cả hai sư đệ của con vào đây!

    Triệu Hùng gọi Trương Cơ và Lâm Thiên sự vào trong, ba người cùng quỳ xuống bên giường. Lão nhân lấy ra từ trong túi áo một phong thư, nói:

    - Sư phụ đã đến lúc gần đất xa trời, tồn vong của bản phái đành phải trông cậy cả vào ba con. Ở đây có một bức thư ta vừa mới viết, ba con cứ căn theo đó mà làm. Hùng nhi võ học tinh thông, có lòng trượng nghĩa, mai này ắt dương danh thiên hạ; Thiên Sự hành sự chu toàn, khiêm hòa nhã nhặn, tất có thể lãnh đạo quần hào làm nên nghiệp lớn; còn Cơ nhi.. Cơ nhi..

    Nói đến đây thì tắt thở. Ba người cùng òa lên thương tiếc.

    Tang sự được tiến hành suốt ba ngày sau đó. Từ chính môn đến hậu viện đều nhộm trắng một màu tang tóc. Triệu Hùng quỳ gối trước linh cữu sư phụ suốt ba ngày liền, không ăn không ngủ, chẳng nói chẳng rằng, ai nấy trông thấy đều không khỏi đau lòng xót dạ, nhưng cũng không ai dám lên tiếng khuyên can. Đến ngày thứ tư, Lâm Thiên Sự tới quỳ bên cạnh y, khấu đầu ba cái trước bài vị của sư phụ rồi nói:

    - Đại sư huynh, sư phụ lâm chung, trên dưới ai nấy đều đau lòng. Chỉ có điều di mệnh sư phụ giao phó còn chưa thực hiện, xin đại sư huynh tạm nén đau buồn, lo cho đại sự của bản phái trước!

    Rồi lấy ra phong thư mà ân sư trước khi qua đời đã để lại đưa cho Triệu Hùng. Triệu Hùng nhận lấy bức thư, trong lòng xúc động, nói:

    - Sư đệ nói phải lắm. Được, sư đệ hãy triệu tập tất cả đệ tử đến trong đại sảnh, chúng ta cùng tuyên bố ý nguyện của sư phụ!

    Chúng đệ tử theo lệnh, tất cả cùng kéo đến đại sảnh đông như kiến cỏ, trên dưới năm trăm người, xếp thành mười hàng dọc, kéo dài ra tới ngoài sân.

    Sinh thời sư phụ của Triệu Hùng là người tinh thông kiếm thuật, đi khắp nơi hành thiện trừ bạo, cứu nguy trợ nan, khắp Bắc Giang ai ai cũng biết mặt. Thế nhưng ông ra tay cứu người không mấy khi để lại danh tính, thành thử trên giang hồ phần lớn chỉ biết mặt, không biết tên. Đến khi đã gần thất tuần, kiếm pháp ngày một cao siêu, chỉ cần cành cây ngọn cỏ cũng có thể dùng làm binh khí, võ công thuộc hàng cao thủ đương thời, song chưa có ai kế thừa, mới tự thành môn lập phái, đặt tên là Vô Kiếm. Sau khi nhận Triệu Hùng làm đệ tử, ông chỉ thu nạp thêm hai người Trương Cơ và Lâm Thiên Sự. Trong số đệ tử dưới kia, quá nửa là đồ đệ của Trương Cơ, còn lại là môn hạ của Lâm Thiên Sự; Triệu Hùng thích tự do tự tại, ngao du đây đó, dĩ nhiên không có đệ tử nào cả.

    Đám đệ tử được gọi đến sảnh đường nhưng chưa rõ nguyên do, bắt đầu bàn tán xôn xao. Triệu Hùng giơ tay phải lên, lập tức không ai dám nói năng gì nữa. Chàng đứng trên bục cao, sang sảng nói:

    - Tổ sư các ngươi trước lúc quy tiên đã để lại di thư, muốn ta cùng toàn thể môn đồ của phái Vô Kiếm một lòng làm theo ý nguyện của người, các ngươi có đồng lòng nhất trí hay không?

    Chúng đệ tử đồng thanh hô vang:

    - Nhất trí! Nhất trí! Nhất trí!

    Triệu Hùng mở bao thư ra, đọc to nội dung bên trong cho tất cả cùng nghe:

    - Lão phu bình sinh ghét ác như thù, coi gian như giặc, chúng đệ tử trên dưới nhất nhất đều phải tuân thủ môn quy, hành hiệp trượng nghĩa, lấy tài thị chúng, lấy đức phục người. Sau khi lão phu tạ thế, lệnh Lâm Thiên Sự kế nhiệm chức chưởng môn, ban cho Hư Vô kiếm. Triệu Hùng đại đệ tử hộ phái phò môn, vào ra tùy ý. Chúng đệ tử nếu có ai dám trái lệnh, coi như phản bội sư môn, khi sư diệt tổ, lập tức phế truất võ công, đuổi xuống núi.

    Mấy trăm đệ tử bên dưới nháo nhác, đưa mắt nhìn nhau, người nào người nấy không khỏi hồ nghi. Triệu Hùng sai một đệ tử vào trong lấy thanh kiếm Hư Vô ra, hai tay đưa cho Lâm Thiên Sự, hô tô:

    - Chưởng môn nhân vạn phúc!

    Lâu nay mỗi khi nhắc đến Triệu Hùng, tổ sư gia luôn có ý truyền y bát cho y, nào ngờ hôm nay đột ngột để lại di thư muốn Lâm Thiên Sự làm chưởng môn, chúng đệ tử ai ai cũng làm kinh ngạc. Những người là đệ tử của Lâm Thiên Sự thì phấn khởi vô cùng, còn môn hạ của Trương Cơ thì không sao tin được. Bởi xét theo vai vế, nếu không phải Triệu Hùng thì cũng là Trương Cơ đứng ra đảm nhiệm trọng trách chưởng môn, đâu đến lượt Lâm Thiên Sự gầy gò ốm yếu kia. Dẫu nghĩ là thế nhưng di thư trước mắt làm sao giả được? Cả đám không ai dám đứng ra phản đối, đều nhất loạt hô vang ba lần:

    - Bái kiến tân chưởng môn! Chưởng môn nhân vạn phúc!

    Trương Cơ từ nãy giờ đứng bên cạnh, không nghe trong di thư của sư phụ nhắc đến mình nhưng cũng không lấy làm khó chịu, mặt mày thản nhiên, cúi đầu bái kiến tân chưởng môn.

    Lâm Thiên Sự tính tình hòa nhã, bình dị thanh tao, vốn tưởng chức chưởng môn sẽ do Triệu Hùng đảm nhiệm, nào ngờ sư phụ lại đề bạt đến mình thì quá đỗi ngạc nhiên. Thế nhưng ơn sư như núi, lệnh thầy khó cãi, không dám chối từ, đành nhận thanh Hư Vô kiếm từ tay Triệu Hùng, trong lòng vừa mừng vừa sợ.

    Hôm đó phái Vô Kiếm cử hành nghi lễ tiếp nhiệm tân chưởng môn, lý ra phải tiệc rượu linh đình. Tuy nhiên linh cửu tổ sư còn chưa an, Lâm Thiên Sự tối đến chỉ lệnh cho các đệ tử ăn uống qua loa rồi đi ngủ.

    Triệu Hùng thấy mọi chuyện đã sắp xếp đâu vào đấy, nghĩ tới Văn Tôn một mình hồi Bắc, trên đường không biết lành dữ ra sao, sáng hôm sau liền lên đường vào Nam đón nghĩa đệ.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14 Tháng hai 2020
  5. TrieuNguyen

    Bài viết:
    51
    Chương IV: Ô Đình Thiên

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Văn Tôn bị trói trong rừng trúc hết một đêm một ngày thì đói đến lã người, ruột gan cồn cào, chân tay bắt đầu mất hết cảm giác. May sao trái táo trong miệng cũng dần mềm đi, chàng cố nghiến hai hàm răng thật chặt, trái táo liền nát ra. Táo rừng thật ngọt, nuốt xuống tới đâu thấy da thịt như sống lại tới đó, thoáng chốc chỉ còn lại cái hạt. Chàng liền nhả hạt táo ra, kêu lên mấy tiếng cầu cứu, nhưng trước sau thủy chung không một ai đáp lại, chỉ nghe từ đằng xa văng vẳng vọng lại giọng nói của chàng mấy lần rồi im hẳn.

    Núi này gọi là núi Nam Sơn, nằm cách xa các thôn bản chung quanh, trên núi kỳ hoa dị thảo nhiều không kể xiết, lắm loại độc tính cực cao. Mấy năm trước có một người tiều phu lên đây đốn củi bị độc trùng cắn cho mặt mũi sưng vù, toàn thân nổi lên những mụn nước đỏ li ti, phải nằm liệt giường suốt hai tháng trời. Nguyên y bị một loại muỗi vằn đốt phải gây nên chứng sốt xuất huyết, chỉ cần dùng hai vị hoạt thạch và cam lộ sắc cho uống tất sẽ khỏi. Song chứng bệnh này vốn chỉ xuất hiện ở những vùng rừng núi phương bắc, số người mắc phải cũng không nhiều, các thầy lang sau khi thăm tới khám lui vẫn không sao tìm ra được nguyên nhân, cứ kê hết thuốc này thuốc nọ, nào là họa bì đơn, ngưu giác bột, đến các vị thuốc quý hiếm như nhân sâm, linh chi mấy mươi năm, thế nhưng trị bệnh mà không nắm được nguyên căn có khác gì mò kim đáy bể, làm cho bệnh tình càng lúc càng nguy kịch, chẳng lâu sau thì người tiều phu đó cũng qua đời. Những người mê tín dị đoan cho rằng y lên núi quấy phá rồi bị thần linh khiển trách, sinh ra quái chứng, người này kể người kia, tam sao thất bản, làm cho núi Nam Sơn ngày càng trở nên đáng sợ, là nơi tu luyện của thần quỷ, từ đó hầu như không có ai dám đặt chân lên núi. Văn Tôn vừa rồi kêu lên mấy tiếng, cũng như một người cất tiếng hát giữa thâm sơn, bốn bề vắng lặng, hiển nhiên không có ai nghe thấy. Chàng la hét một hồi, biết là vô vọng, đành nhắm mắt dưỡng thần.

    Nghĩ cứ bị trói ở đây dù không có thú dữ tới ăn thịt, thì qua một hai ngày nữa thể nào cũng đói khát mà chết. Chợt nhớ tới cái ao đầy cá ở bên cạnh, chỉ cần tìm cách thoát ra khỏi dải lụa thì mặc sức mà bắt cá trong ao ăn, chàng liền gắng hết sức cựa quậy, hy vọng mảnh lụa sẽ không chịu nổi lực đạo mà bung ra. Thế nhưng loại tơ lụa này không giống như vải vóc bình thường, dẫu chàng có vùng vẫy đến mức nào thì nó vẫn chẳng hề nới ra dù là một chút. Thức ăn đã ở ngay trước mắt mà chỉ có thể giương mắt lên nhìn, có khác gì cám treo heo nhịn đói, Văn Tôn tức tối không sao nhịn được, hét rống lên:

    - Con yêu nữ chết tiệt thật biết cách hành hạ người ta quá thể, đợi bổn công tử thoát ra khỏi đây nhất định sẽ..

    Bốn chữ "cho mi biết tay" còn chưa kịp nói ra, bỗng một luồng hàn phong từ đâu ùa đến làm cho chàng rùng mình ớn lạnh, không cách gì nói tiếp được.

    Lúc này trời đã tối hẳn, làn gió lạnh từ hướng nam lùa tới khiến mấy cây trúc nhỏ đong đưa, cành lá xôn xao. Văn Tôn nhìn về hướng đó, thấy từ trong màn đêm có một bóng người đang đi tới, thân hình nhỏ nhắn, cước bộ còn nhanh hơn cả gió, chỉ trong chớp mắt đã đứng trước mặt chàng. Người đó chính là bạch y thiếu nữ đã trói chàng tối qua, nàng lườm Văn Tôn, hỏi:

    - Sẽ như thế nào?

    Vừa rồi nghĩ đến dã tâm của nàng, máu nóng dồn lên, chỉ hận không thể bắt nàng cột vào đây mà hành hạ cho thỏa cơn giận trong lòng. Thế nhưng bây giờ nàng đã đứng trước mặt, dưới ánh trăng suông, khuôn mặt nàng lại càng diễm lệ tuyệt mỹ, hoa ghen nguyệt thẹn, thử hỏi một người thiếu niên đang trong tuổi cập kê, chưa trải trần sự như chàng làm sao không động lòng? Văn Tôn nhìn nàng, bao nhiêu bực dọc bỗng dưng tiêu tan đi hết, trong dạ xốn xang, không sao trả lời được. Bỗng nhớ đến vị bà bà khổ mệnh đã bị nàng gia hại, chàng tự nhủ, con người dù xinh đẹp mỹ miều đến mấy mà tâm địa độc ác đa đoan thì phỏng có ích gì? Có khác nào loài hoa hồng rực rỡ nhưng đầy gai, chỉ tổ đâm người ta trầy da tróc thịt mà thôi, liền quay mặt đi chỗ khác, không dám nhìn nàng nữa.

    Bạch y thiếu nữ lại lạnh lùng nói:

    - Bổn cô nương đang hỏi mi đấy, bộ chứng bệnh vừa câm vừa điếc của mi lại tái phát hay sao?

    Nhớ lại tối hôm đó nàng ta sau khi hỏi câu này, đã một chưởng đánh ra khiến cho chàng dở sống sở chết, đau đớn vô cùng, đến bây giờ trước ngực vẫn còn ngâm ngẩm đau, Văn Tôn không khỏi kinh hãi. Chàng vào lúc sắp chết đói lại mưu cầu sự sống, lúc này tưởng chừng sẽ mở miệng xin tha mạng, nào ngờ nghĩ tới vị bà bà khổ mệnh vì mình mà táng mạng, trong lòng đau đớn, chỉ mong được chết đi cho nhẹ nhõm, sang sảng nói:

    - Ta tuy không câm không điếc, nhưng không muốn nhiều lời với những phường tàn độc âm hiểm, yêu ma quỷ quái như mi. Mi có giỏi thì một chưởng đánh chết ta đi!

    Bạch y thiếu nữ nheo mắt nhìn y, tả chưởng đã đưa lên cao. Với nội công của nàng, chỉ cần dùng ba thành công lực cũng đủ làm cho đối phương phải vỡ sọ nát óc mà chết. Văn Tôn biết rằng sống chết chỉ còn trong gang tấc, hai mắt nhắm chặt, chỉ cần "bình" một tiếng là kết thúc một kiếp người, lúc này mọi nỗi kinh hãi lo sợ đều không còn nữa. Trong thời khắc đó, bỗng dưng cả thân thể như ngã nhào về phía trước, rồi mặt chàng đập vào thứ gì đó vừa mềm vừa mịn, trong miệng lại mằn mặn, tanh tanh. Chàng vội mở mắt ra, thấy mình đã nằm sấp dưới đất, môi va mạnh vào một hòn sỏi đến bật máu.

    Thì ra trong lúc bạch y thiếu nữ đưa tay lên, thấy Văn Tôn hai mắt nhắm nghiền, nàng đã tháo dải lụa đang buộc chàng ra, cất vào tay áo. Cả ba động tác cởi trói, thu lụa rồi sau đó cất đi thật là khéo léo, thủ pháp nhanh nhẹn vô tả, không khác gì giật lấy que kem trong tay một đứa trẻ, khiến Văn Tôn chẳng hề hay biết ra. Chàng lồm cồm bò dậy, tuy không tận mắt nhìn thấy nàng ta cởi trói cho mình, nhưng ở đây ngoài hai người ra thì làm gì có ai khác, nếu không phải nàng ra tay chẳng lẽ lại là ma quỷ? Chàng thầm nghĩ: "Nàng ta đã tha mạng cho ta, xem ra cũng không phải là người thiện ác bất phân, sát nhân vô cớ, chi bằng nhân lúc này thử dò hỏi hình tung của bà bà, có khi bà ấy cũng đang bị nàng ta nhốt ở đâu đó", nghĩ thế liền nói:

    - Đa tạ cô nương phát dạ từ bi. Chẳng hay vị bà bà kia hiện giờ như thế nào? Chắc cô nương chưa gia hại..

    Đột nhiên một dòng suy nghĩ thoáng qua làm chàng lạnh cả sống lưng, toàn thân run rẩy, không sao nói cho hết câu. Chàng nhớ khi còn nhỏ, có lần nghe phụ thân kể về một nhóm người man rợ sống ở vùng núi phía nam, giáp ranh với biên giới Ai Lao. Nơi đó quanh năm chiến tranh nổ ra, quân Ai Lao năm lần bảy lượt tiến sang quấy phá hai lộ Diễn Châu và Thanh Hóa, trên đường hành quân lại không ngừng cướp bóc, chém giết người Nam, dân chúng ở hai lộ Diễn Châu, Thanh Hóa cơ khổ trăm bề, cái ăn cái mặt đều thiếu thốn. Giữa lúc chiến trận triền miên, nạn đói bùng phát, dọc biên giới lại đột nhiên xuất hiện một nhóm người quái dị, chẳng rõ là người Đại Việt hay Ai Lao, chúng trú ẩn trong các hẻm núi, hang đá, đêm tối lại lẻn xuống các thôn bản bắt cóc trẻ con. Những đứa trẻ bị bắt đi tuyệt nhiên không có ngày trở về, một thời gian sau người ta mới tìm thấy xương cốt của chúng vứt dưới chân núi. Bấy giờ ai nấy đều kinh hãi, thì ra bọn người kia là một giáo phái ở một hòn đảo ngoài biển Đông, chẳng hiểu nguyên cớ lại đi đến Lao Ai, rồi trà trộn váo đám quân binh di cư sang biên giới Đại Việt. Họ tự xưng là Thiên Đạo giáo, trước nay vẫn được người ta đồn đại là tà giáo, chuyên tu luyện tà môn nội công. Loại tà đạo này phải lấy máu trẻ con để bổ sung nguyên khí trong lúc luyện tập, có lẽ mấy năm gần đây trẻ con trên đảo không còn, chúng buộc phải vào đất liền để tìm kiếm ấu huyết. Những đứa trẻ sau khi bị bắt sẽ bị bỏ đói ba ngày ba đêm để thanh trừ uế tạp trong máu, sau đó bị cắt đứt hết kinh mạch để rút máu cho tới chết. Sau này trẻ con ngày một ít đi, chúng chẳng màng nam nữ lão ấu gì nữa, hễ gặp người là bắt bớ chẳng chừa một ai. Bây giờ cô ta nếu muốn lấy mạng của chàng thì cũng dễ như giết con sâu cái kiến, quả thật như trở bàn tay, sao còn phải tốn thời gian trói chàng ở đây làm gì? E là người này cũng có uyên nguyên sâu xa với bọn Thiên Đạo giáo kia, giữ lại tính mạng của Văn Tôn đến lúc này tổ cũng chỉ muốn lấy máu của chàng để tu luyện nội công bàng môn tả đạo gì đó mà thôi. Nghĩ đến đây, tia hy vọng vừa lóe lên ban nãy đã hoàn toàn vụt tắt, bao nhiêu ý niệm cầu sinh cũng tiêu tan, chỉ trong khoảnh khắc, chàng từ tham sinh chuyển sang cầu tử hết mấy phen, bây giờ dường như đã muốn buông bỏ tất cả, ngã ngửa ra đất, mặc cho cô ta muốn đâm muốn xẻo gì thì tùy.

    Bạch y thiếu nữ thấy Văn Tôn đột nhiên lại lăn đùng ra đất, chẳng biết y lại nổi cơn điên khùng kỳ quái gì đây, lấy ra từ trong túi một gói lá nhỏ, ném lên bụng y. Văn Tôn thấy trên bụng nóng ran, đưa tay sờ thử, thì ra bên trong có mấy cái bánh bao. Chàng ngồi dậy, đưa lên mũi ngửi, quả nhiên thơm ngon vô cùng. Đang lúc bụng đói, toan đưa lên miệng cắn, bỗng dưng chàng nghĩ ra điều gì, lại thả cái bánh xuống, nói:

    - Cô nương sợ ta chết quá nhanh sẽ không còn trò vui, cho nên mới hạ độc vào đồ ăn để dày vò ta, khiến ta sống không bằng chết chứ gì?

    Bạch y thiếu nữ nét mặt bình thản, giơ tay giật lại mấy cái bánh, nói:

    - Ăn mày còn chê cơm hẩm. Được, để ta xem thử bộ dạng ngươi lúc chết vì đói sẽ dễ coi hơn hay lúc chết vì độc mới dễ coi hơn.

    Nói rồi quay lưng bỏ đi. Văn Tôn từ tối qua đến giờ chỉ có mỗi quả táo vào bụng, đói đến rã rời, thần suy lực kiệt, lúc này đứng dậy còn không nỗi, huống gì là muốn rời khỏi nơi này, e là bất lực. Giả sử cô ta muốn lấy máu của chàng để luyện công, dĩ nhiên không hạ độc thủ, nhưng sau đó cũng sẽ bị cắt đứt hết kinh mạch; còn giả như nàng ta không thuộc Thiên Đạo giáo, nếu trong bánh bao có tẩm độc, dẫu chàng không ăn thì cô ta muốn giết chàng cũng có khó gì? Đã đến nước này, đằng nào cũng chết, chi bằng khi chết đi được làm con ma no có phải tốt hơn không? Nghĩ thế nên liền kéo vạt áo nàng lại, nói:

    - Ta khi sống đã là một kẻ bất tài vô dụng, đến lúc chết đi lại làm con ma đói, không phải mất mặt lắm sao? Được, đại trượng phu có chết cũng phải chết cho khẳng khái, chết cho lỗi lạc, trúng độc thì trúng độc, đưa đây cho ta!

    Bạch y thiếu nữ đưa lại gói bánh, chàng cầm lấy ăn ngon lành. Lúc này tính mạng do người, sống chết đã là chuyện không tự mình quản được nữa, chàng cứ thây kệ, ăn hết cái này tới cái khác.

    Bỗng dưng nơi khóe mắt bạch y thiếu nữ rưng rưng hai giọt lệ. Nàng từ nhỏ mồ côi cha mẹ, sống nương tựa vào người cô cô đã lớn tuổi. Năm đó quê nàng gặp cảnh thiên tai, hạn hán kéo dài, mùa màng thất bát, trâu chết gà dịch, nạn đói hoành hành, cô cô của nàng cũng vì thiếu cái ăn mà sinh bệnh nặng. Trong nhà đến một mụm thóc cũng không còn, biết lấy đâu ra tiền thang thuốc, nàng đành cắn răng, bán thân cho một gia đình giàu có.

    Thân phận tôi tớ thời bấy giờ thật thấp kém, chẳng khác gì trâu ngựa. Nha hoàn chỉ hơn mười tuổi đã phải làm hết mọi công việc nặng nhẹ trong nhà, từ nấu cơm giặt giũ, gánh nước chẻ củi đến hầu hạ người trên, phục thị kẻ dưới, ấy vậy mà cơm ăn ngày ba bữa nàng cũng chẳng được no. Có những hôm nàng bị đám gia nhân trong nhà tranh hết phần cơm, phải ăn cả thức ăn của lợn, mỗi lúc như thế nàng lại nghĩ đến thân phận thấp hèn của mình, chỉ muốn chết đi cho xong. Nhưng giấy bán thân đã điểm chỉ ký tên, nếu nàng tự tận thì người ta lập lức đòi lại số tiền bán thân của nàng, khi ấy người cô cô già yếu biết phải sống làm sao? Nên mỗi lần như vậy nàng chỉ biết chui vào một xó mà khóc, rồi cam tâm sống tiếp kiếp tớ tôi tủi nhục.

    Trong nhà ấy có một cô con gái vừa mới lên năm, một hôm đang chạy nhảy trong sân thì trượt chân té, lão gia biết chuyền liền gọi nàng đến hỏi tội. Vừa trông thấy mặt nàng lão đã hầm hầm quát mắng:

    - Nuôi ngươi thật uổng cơm phí gạo, có mỗi việc trông chừng tiểu thư mà cũng làm không xong!

    Những lời này do lão vì xót ái nữ bị thương mà cưỡng từ đoạt lý nói ra, một con nha hoàn mười tuổi cả ngày phải tối mắt tối mũi làm biết bao nhiêu công việc, lại còn phải trông chừng thêm một đứa trẻ năm tuổi, có khác gì bắt một con bê non vừa phải cày mấy mươi mẫu ruộng ngoài đồng, vừa phải xới hết mấy luống rau trong vườn? Làm sao cho thấu? Sức đâu cho toàn? Nàng trong lòng ấm ức nhưng không sao cãi lại được, nước mắt lưng tròng, ôm mặt khóc nức nở. Thấy nàng khóc lóc nỉ non, lão càng thêm tức giận, liền lấy cây roi mây treo trên vách quất cho nàng hơn chục roi mà chẳng hề thương tiếc. Đến khi tay chân đã dọc ngang những vết lằn rướm máu, nàng đau đớn không chịu được nữa liền ngất đi.

    Nàng bị nhốt vào hầm rượu, bỏ đói suốt một ngày một đêm, những vết thương do roi quất bắt đầu sung vù lên, da thịt chỗ nào cũng nhói buốt. Đến đêm ngày thứ hai, vào lúc canh ba, nàng đang mơ màng thiếp đi vì kiệt sức, bỗng nghe bên tai có tiếng người thì thầm:

    - Đình Thiên! Đình Thiên! Mau dậy đi!

    Là một gia nhân già, y trong bữa tối đã lén lút dấu đi phần cơm của mình, đợi lúc mọi người đi ngủ hết mới dám đem đến cho nàng. Đình Thiên lúc này thần trí đã mê man, nghe người gọi tên mình thì mơ hồ mở mắt ra, nhìn thấy người gia nhân già kia thì mừng rỡ, vui sướng muốn bật lên khóc nhưng không dám phát ra thành tiếng. Hai hàng lệ ròng ròng, nàng nói trong nghẹn ngào:

    - Lưu bá bá, bá bá đến thăm cháu lão gia mà biết sẽ đánh bá bá đó, bá bá mau đi đi!

    Gia nhân họ Lưu mĩm cười, nói:

    - Đình Thiên, cháu đừng lo, bá bá không bị làm sao đâu! Ta có mang cơm đến cho cháu đây, mau ăn đi, suốt từ qua tới giờ cháu đã ăn uống gì đâu!

    Nói rồi liền thò tay qua song cửa, đưa hai vắt cơm trắng vào bên trong cho Đình Thiên. Người này tên là Lưu Hữu Trí, vào đây làm gia nhân từ lúc chín tuổi. Lưu Hữu Trí cả đời làm nô bộc, cô đơn một mình, thấy cô bé Đình Thiên mặt mũi tú lệ, da dẻ trắng hồng nên đem lòng yêu thích, xem như đứa con ruột. Những ngày Đình Thiên sống ở đây, y luôn che chở, bảo bọc cho nàng mỗi khi bị đám gia nhân lớn tuổi hiếp đáp, có lúc y lại ăn cắp que kẹo, cái bánh cho Đình Thiên. Nhiều lần y bị người ta đánh đập cũng chỉ vì cái tật ăn cắp vặt đó, Đình Thiên biết y vì mình mà bị đòn nên hết lòng chăm sóc, coi như người thân. Lúc này thấy y đem cơm tới cho mình, nàng nhìn Lưu Hữu Trí, hỏi:

    - Có phải bá bá lại lấy cắp phần cơm của người khác cho cháu? Nếu vậy thì cháu không ăn đâu! Bá bá đã hứa với cháu là không ăn cắp vặt nữa cơ mà!

    Lưu Hữu Trí cười hì hì, nói:

    - Đình Thiên, cháu an tâm, cơm này là phần của ta, ta để dành cho cháu đó, mau ăn đi!

    Lúc này Đình Thiên mới yên tâm nhận lấy hai nắm cơm trong tay y. Nàng ăn lấy ăn để, cơm vừa trôi xuống cổ thì nước mắt lại trào ra, trước kia khi còn sống với người cô cô, nàng dẫu đói đến mấy cũng chưa bao giờ cảm thấy tủi thân uất ức, còn bây giờ tuy là được ăn nhưng lại phải chịu cảnh giam cầm khổ sở, bao nhiêu sầu não bi ai cứ dâng lên. Nàng ăn hết một nắm cơm thì đưa tay lên lau nước mắt, hỏi Lưu Hữu Trí:

    - Lưu bá bá, bá bá có biết khi nào lão gia mới thả cháu ra không ạ? Cháu muốn đến thăm tiểu thư, không biết tiểu thư có còn đau hay không?

    Lưu Hữu Trí vẻ mặt sầm xuống, buồn rầu nói:

    - Tiểu thư không sao cả, chỉ bị xướt ít da..

    Đoạn hơi ngập ngừng, nói tiếp:

    - Lần này ta tới đây là để thả cháu đi, cháu không ở lại đây được nữa đâu!

    Rồi lấy ra từ trong túi một xâu chìa khóa. Thấy y loay hoay tìm chiếc chìa khóa của hầm rượu, Đình Thiên ngạc nhiên hỏi:

    - Lưu bá bá, bá bá làm gì vậy? Cháu không thể bỏ trốn được, còn cô cô của cháu thì sao? Lão gia sẽ lấy lại số tiền bán thân của cháu, cô cô biết sống như thế nào? Bá bá cũng sẽ bị lão gia đánh chết mất thôi! Ôi, cháu không thể trốn đi được!

    Lưu Hữu Trí cười buồn, rầu rỉ nói:

    - Ô đại nương hơn một tháng trước đã qua đời rồi, ta vì sợ cháu quá đau buồn nên chưa nói cho cháu biết đấy thôi. Ôi, người nghèo như chung ta thì cái số nó hẩm hiu thế đấy cháu ạ!

    Ô Đình Thiên không ngờ người cô cô duy nhất cũng bỏ nàng mà đi mất, bao nhiêu hy vọng để sống như tan thành mây khói, ôm mặt khóc nức nở. Nàng lại mếu máo hỏi:

    - Cô cô của cháu chết đi rồi, không biết có ai mai táng cho người hay không? Ôi, người làm gì còn có ai thân thiết ngoài cháu, hu.. hu..

    Lưu Hữu Trí nói:

    - Cháu đừng lo, ta đã nhờ người mai táng cho bà ấy chu đáo rồi. Bây giờ cháu phải đi khỏi đây, chạy càng xa càng tốt, có như vậy mới mong có một cuộc sống tử tế!

    Ô Đình Thiên gạt nước mắt hỏi:

    - Tại sao cháu phải bỏ trốn ạ? Mà cháu cũng làm gì còn nơi nào để đi, cháu muốn ở lại đây với Lưu bá bá!

    Lưu Hữu Trí nước mắt rưng rưng, nói:

    - Ôi cháu ngoan, lão già này làm sao che chở cho cháu bây giờ? Lão gia lệnh ngày mai phải đem cháu bán làm nô lệ, cái thân già này không thể mang cháu trốn đi được, chỉ còn biết giúp cháu thoát ra khỏi đây mà thôi! Đi, nhanh nào!

    Lúc này y cũng đã mở được cái cửa, liền cầm tay Ô Đình Thiên kéo đi. Ô Đình Thiên biết bây giờ chẳng thể nào ở lại đây được nữa, dù trong lòng không muốn nhưng chân vẫn bước theo Lưu Hữu Trí. Một già một trẻ mon men trong đêm tối, đi qua mấy dãy nhà thì cũng ra được cổng chính. Thế nhưng chính môn đã đóng, chìa khóa lại do gia nhân khác nắm giữ, họ đành men theo tường đi đến hậu viện. Ở đây cửa cũng khóa chặt, tuy nhiên ở góc tường có một cái lỗ nhỏ, Lưu Hữu Trí dắt Ô Đình Thiên đến gần, nói:

    - Ta chỉ giúp cháu được đến đây thôi, lỗ này quá nhỏ ta không chui qua được. Đình Thiên, cháu mau mau bò ra ngoài, chạy càng xa càng tốt, đến lúc trời sáng cũng không được dừng lại, lão gia nhất định sẽ cho người đi bắt cháu về đó!

    Ô Đình Thiên một năm qua chỉ quanh quẩn trong trang viện này, ngoại trừ Lưu Hữu Trí thì những người khác đều cậy mình lớn tuổi, bắt nạt, hà hiếp nàng đủ điều, bấy giờ người cô cô duy nhất cũng đã chết, nàng quyến luyến không muốn rời xa người gia nhân lớn tuổi này, cứ nắm lấy tay y mãi không buông, nước mắt đầm đìa nhưng không dám khóc lên thành tiếng. Lưu Hữu Trí hiểu được nỗi lòng của cô bé, xoa đầu nàng, nói:

    - Đình Thiên ngoan, mau chạy đi, ngoài kia còn nhiều người tốt lắm, nhất định sẽ có người yêu thương cháu như bá bá! Mai này bá bá sẽ tìm cách đi tìm cháu, còn bây giờ cháu phải rời khỏi đây nhanh lên!

    Đoạn gỡ tay Ô Đình Thiên ra, đẩy nàng vào lổ nhỏ trên tường. Ô Đình Thiên gạt lệ chui ra ngoài. Lưu Hữu Trí từ bên trong nhìn qua lỗ hổng, vẫy tay nói:

    - Mai này nhất định chúng ta sẽ gặp lại, cháu mau chạy đi!

    Đình Thiên òa lên khóc, nhưng nhớ lại tình thế lúc này thật hiểm nguy nên liền nín bặt. Hai người, một tóc bạc, một đầu xanh, trong bóng tối bị ngăn cách bởi một bức tường cao, bốn mắt nhìn nhau, trong lòng sầu khổ, tưởng chừng muốn ôm chầm lấy nhau mà khóc. Bỗng Lưu Hữu Trí hét lên:

    - Mau đi đi, nếu không sẽ không kịp nữa!

    Thì ra trong nhà đã có người nghe tiếng động, đốt đèn ti tìm đến hậu viện. Ô Đình Thiên hoảng quá, cắm đầu chạy về hướng tây. Nàng nhớ lời dặn của Lưu Hữu Trí, lúc đi lúc chạy nhưng không dám dừng lại. Còn nắm cơm trong tay, nàng ăn hết rồi đi mãi đến khi mặt trời lên tới đỉnh đầu, tới một con rạch nhỏ thì kiệt sức rồi ngất đi.

    Đến nay đã gần sáu năm, Ô Đình Thiên đợi mãi nhưng chẳng thấy Lưu Hữu Trí đến tìm như đã hứa, nhiều lần nàng quay lại trang viện đó tìm y nhưng nơi đó đã biến thành bình địa do thiên tai. Bây giờ trông thấy bộ dạng đói khát của Văn Tôn, nàng lại nhớ đến tình cảnh của chính mình năm xưa, trong lòng miên man xúc động, mới muốn mang đến cho y một ít thức ăn.

    Văn Tôn thản nhiên ăn hết mấy cái bánh bao, trong lòng chẳng còn chút lo sợ. Ăn xong lại chạy đến ao nước, toan vục mặt xuống uống, bỗng trên vai lạnh toát như có một khối băng đặt lên, chẳng cách gì cúi đầu xuống được. Chàng quay đầu nhìn ra sau, thấy bàn tay của Ô Đình Thiên đang kéo chàng lại, liền nói:

    - Cô nương cho ta ăn được mấy cái bánh, không lẽ lại tiếc rẻ chút nước lã trong ao?

    Ô Đình Thiên cười nhạt, nói:

    - Cá kim sơn có độc, nước trong ao dĩ nhiên cũng bị nhiễm độc. Độc dược này quý hiếm vô cùng, lý nào ta lại để cho một tên vô dụng như mi được uống?

    Đoạn ném một vật về phía Văn Tôn, nói:

    - Ngươi chỉ đáng với thứ này thôi!

    Văn Tôn vội chụp lấy, hóa ra là một ống trúc, nghe có tiếng òng ọc bên trong, có lẽ là đựng nước. Chàng tháo cái nút trên miệng ống trúc, đưa lên mũi ngửi, mùi vị thơm tho vô cùng. Lúc này chàng đâu còn bận tâm gì đến sống chết, liền uống luôn vào miệng, chỉ cảm thấy trong họng có một vị vừa ngọt vừa béo, xem chừng là nước canh, nước này chảy đến đâu thì ruột gan mát rượi đến đó. Chàng uống đến những giọt canh cuối cùng rồi đưa tay lên chùi mép, nói:

    - Quả nhiên mùi vị thơm ngon, có chết cũng đáng. Đa tạ cô nương ban cho!

    Chàng nói ra câu này cũng không biết làm cám ơn hay oán trách. Ô Đình Thiên làm như chẳng nghe thấy, ngước mặt lên trời, khẽ mỉm cười, nói:

    - Trời đêm nay thật đẹp, sao ngươi không thử nhìn nó lần cuối!

    Câu này nếu là lúc trước có lẽ khiến Văn Tôn kinh tâm động phách, thế nhưng bây giờ chàng chỉ thấy như mây bay gió thoảng, chẳng có gì phải lo sợ, cũng ngước lên nhìn sao trời, nói:

    - Sao trời tuy lấp lánh nhưng chẳng thể với được, con người tuy có đẹp song bụng dạ khó dò. Cô nương thấy có đúng hay không?

    Ô Đình Thiên biết chàng ám chỉ đến mình nhưng vẫn mặt lạnh như tiền, nói:

    - Đúng vậy, có những thứ không thể nào nhìn rõ bằng mắt, cũng như bánh bao mà mi vừa ăn, nước canh mà mi vừa uống.

    Văn Tôn thấy bánh bao cũng như nước canh vừa rồi ngoài mùi vi thơm ngon thì chẳng có gì khác lạ, không hiểu nàng ta nói vậy là ý gì, hỏi lại:

    - Cô nương cứ phải úp úp mở mở với một người sắp chết như ta làm gì, cứ nói rõ ra được chăng?

    Ô Đình Thiên nói:

    - Bánh bao mà ngươi vừa ăn có vị rất lạ có phải không? Còn canh gà chắc là ngươi cũng nhận ra?

    Văn Tôn gật đầu, nói:

    - Thế thì có gì mà đáng nói?

    Ô Đình Thiên nói:

    - Bánh bao nhân thịt rết, vốn dĩ là có độc nhưng không đủ để lấy mạng một con người. Thế nhưng ngươi lại uống thêm canh gà, hai loại này tương khắc cực cao, khi trộn chung sẽ phát sinh kịch động. Nếu ta không nhầm, ngươi chẳng thể nào thấy được mặt trời ngày mai là màu xanh hay màu đỏ.

    Nói rồi lại ung dung nhìn lên trời. Văn Tôn "A" lên một tiếng như hiểu ra, tuy chàng không sợ hãi nhưng cũng không khỏi lạnh người trước âm mưu thâm độc của cô ta. Bấy giờ đã rõ cô ta liên can gì đến Thiên Đạo giáo, song lòng dạ âm độc vô tỉ như thế thì cũng chẳng khác gì bọn tà ma ngoại đạo kia, bỗng trong đầu chàng thoáng qua một suy nghĩ: "Cô ta độc ác vô độ, giết người vô cớ, ngày nào còn sống trên thế gian thì ngày đó lê dân bách tính làm sao yên ổn? Chi bằng thừa cơ cô ta không chú ý, ta một dao lấy mạng ả coi như trừ hại cho dân?" Nghĩ đoạn liền lấy thanh chủy thủ mà Triệu Hùng đưa cho mấy hôm trước ra, nhân lúc Ô Đình Thiên lơ là ngắm sao, nhảy bổ tới ôm lấy nàng, một tay siết cổ, tay còn lại kề lưỡi dao vào yết hầu nàng, hét lên:

    - Yêu nữ, hôm nay ta sẽ thay trời hành đạo, từ rày mi đừng hòng tác ác ta đoan nữa!

    Ô Đình Thiên kêu "Ối" lên một tiếng, hai tay lập tức đưa lên giữ chặt cánh tay đang cầm dao của Văn Tôn, khiến chàng không tài nào thực hiện ý định của mình. Ô Đình Thiên tuy từ bé đã lưu lạc khắp nơi, nhưng võ công vài năm gần đây đại tiến, trên đời vốn chẳng có nam nhân nào đến gần nàng được quá một trượng, vốn là một xử nữ trinh bạch, người ta muốn nhìn thấy dung nhan của nàng đều phải để lại tính mạng, thế mà bây giờ đột nhiên bị một gã nam nhân trói gà không chặt ôm xiết lấy, nhất thời bối rối, cả người đơ ra như phỗng. Bỗng lưỡi thanh chủy thủ cứa nhẹ vào cổ, máu bắt đầu chảy ra, nàng như hoàn hồn, nhưng cơ thể vẫn bị nam nhân kia ôm chặt, vừa xấu hổ vừa tức giận, liền định thần sử chiêu Nguyệt Nộ Địa Lôi. Tay trái nàng đưa chéo lên, lòng bàn tay vừa chạm vào đầu vai Văn Tôn đã khiến y tê dại bì bì, một luồng hàn khí chạy khắp từ đầu vai xuống đến tận đan điền, toàn thân rụng rời, rồi từ từ ngã xuống đất. Ô Đình Thiên nhanh như chớp giật lấy con dao trong tay Văn Tôn, vù một cái đã phóng về phía y, mũi dao cắm sâu xuống đất chỉ còn lại phần cán, cách đầu y vài phân. Ô Đình Thiên giận đến run người, hai bàn tay nắm chặt, quắc mắt nhìn Văn Tôn, nói:

    - Dâm tặc không biết lượng sức mình, hứ, ngươi mau cút đi, từ rày đừng để cho ta thấy mặt, nếu không đừng trách bổn cô nương độc ác!

    Rồi quay người chạy đi, dưới ánh trăng non, hai gò má nàng ửng hồng, mi mắt rung rinh, chân chỉ chạm đất vài cái đã khuất xa về hướng ngôi nhà trúc. Văn Tôn thấy nàng chạy về hướng đấy, e là vị bà bà kia cũng đang bị nàng giam giữ ở đó, vội rút thanh chủy thủ lên đuổi theo. Chàng dốc hết sức mà chạy, băng qua cánh rừng si, mặc cho sỏi đá đâm vào chân, gai góc cào lên mặt, trong lòng chỉ nghĩ tới vị bà bà phúc hậu kia, hy vọng cô ta chưa gia hại đến bà ấy.

    Về đến trước cửa, Văn Tôn dường như đã chẳng còn hơi sức, hai tay chống gối đứng thở dốc. Chàng nheo mắt nhìn vào, chỉ thấy trong nhà tối đen như mực. Bỗng bên trong bừng sáng lên, hình như có ai đó vừa thắp đèn, rồi một người mặc đồ trắng bước ra trước cửa, chính là Ô Đình Thiên. Nàng chằm chằm nhìn Văn Tôn, mục quang như lửa đốt, nhưng tuyệt nhiên không nói một câu nào. Văn Tôn mặc kệ nàng ta, lách người qua khe cửa chạy vào trong, thấy lão bà kia đang nằm trên giường, hai mắt nhắm nghiền, gương mặt nhân từ đã trở thành trắng bệch từ lúc nào. Chàng sà xuống bên giường, nắm lấy cánh tay bà ta, mếu máo gọi:

    - Bà bà, bà bà mau tỉnh lại đi, ác nhân tới rồi, ác nhân tới rồi!

    Nhưng chỉ thấy cánh tay lạnh lẽo như băng, chàng vội đưa ngón tay lên mũi thăm dò hơi thở, thì ôi thôi bà ta đã chết từ đời nào. Trong lòng đau như dao cắt, chàng gục đầu trên người bà ta mà khóc rống lên. Đoạn quay lại nhìn Ô Đình Thiên, quát:

    - Con yêu nữ độc địa kia, bà ấy đã đắc tội gì với nhà ngươi, sao lại nhẫn tâm sát hại bà ấy?

    Ô Đình Thiên vẫn dửng dưng như không, nói:

    - Bà ta với ngươi rốt cuộc có quan hệ gì? Hà cớ phải thương tiếc như vậy, thật là nực cười!

    Văn Tôn đưa tay quệt nước mắt, nhìn lại gương mặt nhợt nhạt đến đáng thương của bà lão kia, nghẹn ngào nói:

    - Bà ấy với ta vốn chẳng thân chẳng thích, thế nhưng giữa lúc tính mạng ta nguy kịch lại ra tay cứu chữa, còn săn sóc cho ta, ơn đức tái sinh đó thử hỏi có đáng tiếc thương, có đáng đau buồn hay không?

    Ô Đình Thiên chỉ lặng lẽ thở dài, đôi mắt như dịu lại, rồi quay người đi ra ngoài. Văn Tôn cũng chẳng còn để tâm đến nàng ta, buồn bã nhìn khuôn mặt phúc hậu của bà lão đang nằm trên giường, bỗng thấy lòng nặng như chì, nước mắt rơi lã chã. Chàng lấy thanh chủy thủ găm bên thắt lưng ra, lưỡi dao miết vào yết hầu, đau đớn nói:

    - Bà bà, tiểu sinh mang ơn của bà còn chưa kịp báo đáp đã liên lụy khiến cho bà phải táng mạng, một mình bà bà ở dưới cửu luyền chắc là cô đơn lạnh lẽo lắm, để tiểu sinh xuống dưới cùng bà bà bầu bạn!

    Nói hết câu thì xiết chặt cán dao. Chàng từ nhỏ đã đọc sách thánh hiền, tuy không thông minh để hiểu hết nhưng cái đạo ân đền oán trả lý nào không biết đến? Song cái mắc mớ oán cừu chàng vốn không hề lưu tâm, càng không muốn báo thù trả oán, bởi chàng luôn ghi lòng tạc dạ một câu nói của phụ thân rằng: "Oan oan tương báo biết bao giờ mới dứt? Tại sao chúng ta không thử lấy đức báo oán, dùng nghĩa đáp thù, mọi người đều dĩ hòa vi quý, lúc đó có phải là thiên hạ thái bình hay không?" Bấy giờ chàng chịu ơn cứu mạng, chưa kịp đáp đền, lại khiến cho người ta lâm vào tử mệnh, trong lòng day dứt không sao chịu được, chỉ còn nước dùng cái chết để tạ tội mà thôi. Ý đã quyết là vậy, hai mắt chàng nhắm chặt, thanh chủy thủ bắt đầu cứa vào da thịt, chỉ cần lưỡi dao cứ thế rạch ra một đường dài, động mạch trên cổ bị cắt đứt, chàng sẽ thoi thóp đến khi chảy cạn máu mà chết, lúc đó dù là thần tiên tái thế cũng không sao cứu được.

    Thế nhưng khi chỉ vừa cảm thấy rang rát ở yết hầu, bỗng dưng giữa ngực nhói lên như bị đầu đũa đâm vào, rồi toàn thân cứng đơ như hóa đá, khiến Văn Tôn không cách gì tự tận được nữa. Chàng mở mắt ra, nhìn xung quanh nhưng làm gì có ai, thầm kinh hãi không lẽ là hồn ma của bà bà quay về ngăn cản mình tự sát? Bỗng nghe một giọng nói già nua cất lên:

    - Tiểu tử, tính mạng là do cha mẹ ban cho ngươi, chưa chi đã muốn chết hay sao?

    Văn Tôn vui mừng không để đâu cho hết, thì ra bà lão kia vẫn còn sống, thấy bà ta tuy nằm im trên giường nhưng đôi mắt đã linh hoạt nhìn mình, muốn nhào tới ôm chầm lấy bà ây nhưng không sao động đậy được, liền sung sướng kêu lên:

    - Bà bà sống lại rồi, bà bà sống lại rồi, thật hay quá!

    Lão bà nhìn chàng, trong ánh mắt như thấp thoáng một nụ cười, đưa tay vuốt tóc Văn Tôn, nói:

    - Tiểu tử ngốc, ta đã chết bao giờ mà ngươi lại bảo là sống lại?

    Văn Tôn không khỏi kinh ngạc, lúc nãy chàng đưa tay lên mũi bà ta thấy rõ ràng là đã ngưng thở, lý nào trên đời lại có người sống mà không cần hô hấp, liền nói:

    - Nhưng lúc nãy tiểu sinh..

    Lão bà mỉm cười, nói:

    - Là vừa rồi ngươi thấy ta đã không còn thở, nên nghĩ là ta đã chết có phải không?

    Văn Tôn gật đầu. Bà ta lại nói tiếp:

    - Đấy là ta tự phong bế huyệt đạo để trục hết hàn khí ra ngoài, cho nên khi ngươi đưa tay lên thăm dò hơi thở mới không cảm thấy gì.

    Văn Tôn vẫn chưa nguôi thắc mắc, hỏi tiếp:

    - Lẽ nào bà bà lại có thể nhịn thở lâu đến thế?

    Lão bà nói:

    - Đúng là tiểu tử ngốc, từ lúc ngươi vào đây thì ta vẫn hô hấp bình thường đấy thôi, chỉ là khi ngươi đưa tay lên thăm dò lại đúng lúc ta ngưng khí để đẩy lùi hàn độc. Trên đời này làm gì có ai nhịn thở lâu như vậy mà còn sống.

    Đoạn giơ tay điểm vào huyệt Đản Trung trước ngực Văn Tôn. Bấy giờ chàng mới có thể cử động trở lại, liền chạy ra trước cửa tìm Ô Đình Thiên, nhưng cô ta đã biến đi đâu mất dạng. Văn Tôn thấy tạm thời nàng ta chưa ra tay, trong chốc lát chưa có gì nguy hiểm, vội quay vào trong bàn với lão bà để tìm cách chạy trốn. Chàng thuật sơ qua những chuyện xảy ra trong rừng trúc, rồi hỏi tình hình thế của lão bà, chỉ sợ đi giữa đường lại bị cô ta truy sát thì nguy nan. Lão bà bỗng nhiên cười ha ha, nói:

    - Tiểu tử nhà ngươi lại suy nghĩ đi đâu mất rồi, nó là con gái nuôi của ta, lý nào lại ra tay đả thương nghĩa mẫu?

    Văn Tôn mặt mày thất sắc, đầu óc bàng hoàng, nghĩ tới nghĩ lui cũng không sao tin được chuyện hoang đường như vậy, một bà lão hiền từ nhân hậu lý nào lại nuôi dạy một ác nhân giết người như ngóe không ra gì thế kia, chàng hỏi lại bà ta:

    - Bà bà có nhầm lẫn gì chăng? Không phải chính cô ta là người đã đả thương bà, cho nên mới bị hàn khí thâm nhập vào cơ thể đó sao?

    Lão bà chống tay ngồi dậy, lắc đầu nói:

    - Hôm đó ta thấy ngươi ngủ say, mới lên núi chặt vài cây trúc, nào ngờ mấy ngày nay thời tiết thay đổi, ta vừa đi tới bờ suối đã nhiễm phải phong hàn. Ôi chao, bà lão này đã già mất rồi, già mất rồi!

    Đoạn thở dài, nói tiếp:

    - Cũng may là Tiểu Thiên thấy ta đi lâu không trở về mới lên núi tìm kiếm, chứ nếu không e là lúc này ta cũng đã tắt thở thật rồi cũng nên! Nhớ năm xưa Nguyệt Lão Cô này một mình tung hoành dọc ngang nam bắc, đi tới đâu cũng oai phong lẫm lẫm, đánh cho bao kẻ thất kinh khiếp vía, ấy thế mà giờ đây đến lên núi chặt vài cây trúc cũng chẳng đành chẳng đặng. Ôi, ta đã già thật rồi!

    Hóa ra người này chính là Nguyệt Lão Cô, hơn mười năm trước đã đến ẩn cư ở ngọn núi này. Năm xưa Nguyệt Lão Cô hành tẩu giang hồ, võ công đã đến mức xuất thần nhập quỷ, khó mà tìm được đối thủ, nhân sĩ võ lâm bại dưới tay bà ta không biết bao nhiêu mà kể. Một hôm bà ta đi đến vùng Diễn Châu, thấy bên con rạch nhỏ có đứa bé nằm bất động, người ngợm chằng chịt vết thương, đôi giày dưới chân đã gần như nát tươm, mấy đầu ngón chân đều rướm máu, chính là Ô Đình Thiên khi còn bé. Bà ta y lý cũng tinh thông chẳng kém gì võ công, liền ra tay cứu chữa. Thấy Ô Đình Thiên một mình côi cút, không nơi nương tựa, thân phận thật đáng thương mới dẫn theo bên mình, từ đó hai người một già một trẻ ngao du khắp nơi. Bà ta vốn chẳng ai thân thích, từ khi có cô bé Ô Đình Thiên bên cạnh thì lấy làm vui thích, đâm ra chán ngán cảnh chém giết loạn lạc trên giang hồ, hai người lại lui về chốn núi rừng này ẩn cư. Ô Đình Thiên ngoan ngoãn hiếu kính, tư chất thông minh, Nguyệt Lão Cô càng ngày càng yêu thương nàng, nhận làm con nuôi, sau lại đem hết gia số võ công cả đời truyền thụ lại cho đứa nghĩa nữ này. Nguyệt Lão Cô giữa lúc danh vang bốn bể, uy chấn thiên hạ lại đột nhiên mất tung mất tích, ai nấy trên giang hồ đều mừng thầm, nghĩ thiên hạ từ nay sóng yên gió lặng. Ngờ đâu chỉ vài năm sau đó, bỗng dưng trong võ lâm lại xuất hiện một nữ nhân biết sử dụng Huyết Tích Liên Chưởng gây kinh hãi khắp nơi, thế nhưng người này hành tung bí ẩn, chẳng mấy khi để lại hình tích, thành thử không một ai biết được chút gì dù là dung mạo hay niên kỷ của nàng ta. Nàng mỗi khi ra tay giết người luôn dùng một tấm vải thưa che mặt, sau đó để lại bên cạnh thi thể của nạn nhân một nụ hoàng liên tím biếc, thủ pháp mau lẹ chẳng khác gì thần quỷ, từ đó người ta đặt cho nàng một cái tên gọi là Hoàng Liên Tiên Tử, cũng chính là cô bé Ô Đình Thiên năm xưa.

    Văn Tôn càng nghe càng kinh hãi, cái tên Nguyệt Lão Cô hôm đó chỉ vừa được nhắc đến đã khiến biết bao nhiêu con người trong Hỷ Lạc lâu kinh hồn táng đởm, hóa ra lại là một bà lão hiền từ nhân hậu như thế này. Tuy nhiên chàng vẫn chưa quên những chuyện vừa xảy ra, nghĩ lại thì cô nương kia diện mạo cũng có khác gì thần tiên giáng thế, vậy mà trong bụng chỉ toàn là mưu mô quỷ quái, tốt nhất nên đề phòng thì hơn. Chàng không tỏ ra sợ hãi, song cũng có úy kị mấy phần, hỏi:

    - Nếu cô nương đó quả thật là nghĩa nữ của tiền bối, chẳng hay những việc xấu của cô ta tiền bối có biết rõ hay không?

    Nguyệt Lão Cô nhìn chàng, ánh mắt như dò xét, nói:

    - Tiểu Thiên từ nhỏ mồ côi cha mẹ, lênh đênh cô khổ, những vẫn là một đứa trẻ ngoan, mấy năm nay cùng ta chung sống ở núi Nam Sơn này đã làm biết bao nhiêu việc thiện, cứu biết bao nhiêu mạng người. Tiểu tử ngươi lại đi nói nhăng nói cuội, coi chừng ta cắt cái lưỡi của nhà ngươi đó!

    Văn Tôn nghe bà ta dọa dẫm nhưng không hề hoảng loạn, liền đem chuyện ở lâu Hỷ Lạc thuật lại đầu đuôi. Nguyệt Lão Cô nghe xong bỗng phá lên cười thích thú, nói:

    - Đáng, giết đáng lắm! Cái tên cẩu tặc họ Nhạc đó chết như vậy là quá nhẹ nhàng cho hắn rồi, nếu không phải ta đã rửa tay quy ẩn, không chừng hắn còn phải chết thảm hơn thế gấp mấy thế gấp mấy lần.

    Văn Tôn buồn bã, trong lòng thất vọng, những tưởng bà ta là một người hiền lương nhân hậu, hóa ra cũng là phường tác ác đa đoan, cá mè một lứa cả thôi, so với cô nương kia có khi còn hung ác hơn nhiều. Nghe Nguyệt Lão Cô lại nói:

    - Tiểu tử, ngươi đang nghĩ cả hai mẹ con ta đều là hạng sát nhân như ngóe, tàn ác vô tỉ có phải không? Thế ngươi có biết tên chó má họ Nhạc đó là loại như thế nào hay không?

    Văn Tôn lắc đầu. Trong lòng chàng thầm nghĩ: "Dù ông ta có gây nên lỗi lầm gì thì cũng còn quốc pháp nghiêm trị, còn quan phủ xét xử, đâu đến lượt hai mẹ con các người lộng hành". Nguyệt Lão Cô nói:

    - Hắn cưới thê tử thì phải một lòng một dạ đối với nàng ta, lý nào lại ra ngoài ba lăng nhăng, cưới thêm ba người nữa. Đã vậy hắn còn chưa hài lòng, gặp khuê nữ nhà lành lại buông lời ong bướm, như vậy có khác gì súc sinh?

    Đoạn gằng giọng nói tiếp:

    - Hắn có năm đứa con cả thảy, nhưng chẳng chăm lo cho đứa nào, bỏ mạc cho thê thiếp nuôi nấng. Suốt ngày đàn đúm rượu chè, say về thì đánh đập vợ con, người thiếp thứ ba của hắn cũng vì không chịu đựng nổi nên treo cổ tự vẫn, giết chết cả đứa trẻ đang mang trong bụng, một xác hai mạng, bấy nhiêu đó đã đáng chết hay chưa?

    Nói đến đây thì cơn giận bùng lên, ho sù sụ. Văn Tôn không ngờ trên đời còn có hạng người như vậy, thầm nghĩ những chuyện như thế này đến quan phủ cũng không sao can thiệp, gã họ Nhạc kia chết cũng đáng kiếp. Chàng bước tới đỡ Nguyệt Lão Cô nằm xuống, nói:

    - Tiểu sinh thật là hồ đồ, mong bà bà bớt giận!

    Nguyệt Lão Cô mặt đã dịu đi, nói khe khẽ:

    - Thế sự đa đoan, nhân tâm hiểm trá, con từ giờ phải hết sức cẩn thận, người tốt kẻ xấu không thể nhìn bề ngoài mà đánh giá. Con đi tìm Tiểu Thiên về đây cho ta, ta có vài chuyện dặn dò.

    Văn Tôn tần ngần không muốn đi, tuy chàng đã biết nàng không phải giết người vô cớ, nhưng nghĩ người này xảo kế có thừa, nhỡ may lại bày ra trò gì hãm hại mình thì biết làm sao? Nguyệt Lão Cô thấy chàng cứ đứng ngẩn ngơ, liền mắng:

    - Tiểu tử ngốc, ngươi nói muốn làm trâu làm ngựa để báo đáp cho ta, bây giờ chỉ mỗi một việc cỏn con ta nhờ mà ngươi cũng không muốn làm hay sao?

    Văn Tôn bèn đem chuyện bị nàng ta cho ăn bánh bao với canh gà có kịch độc kể lại. Chàng từ đầu đã không định nói ra, lúc chạy tới đây chàng chỉ một lòng lo cho an nguy của Nguyệt Lão Cô, sau đó thấy bà ta còn sống thì muốn đưa bà ta chạy trốn, đâu còn nhớ gì đến chuyện bị trúng độc. Hơn nữa muốn tháo chuông phải tìm người buộc chuông, muốn giải độc phải kiếm người hạ độc, chàng thấy Nguyệt Lão Cô sức khỏe hom hem, cũng không muốn phiền đến bà ta. Theo như những gì chàng biết, độc dược có muôn vàn cách pha chế, không biết được thành phần độc tố thì làm sao điều chế giải dược. Nguyệt Lão Cô tuy là y thuật cao minh, song không phải là người hạ độc, e là lực bất tòng tâm mà thôi. Chàng đâu biết được bà ta vốn là nghĩa mẫu của Ô Đình Thiên, chỉ cần bà ta mở miệng đòi, lý nào nàng ấy lại không giao ra thuốc giải.

    Nguyệt Lão Cô nghe xong liền nói:

    - Gọi ngươi là tiểu tử ngốc quả chẳng sai, võ công của nó ra làm sao? Muốn giết ngươi có cần phải lao tâm khổ tứ hạ độc như vậy hay không? Hơn nữa bánh bao với canh gà đấy ta cũng có ăn, lẽ nào nó muốn lấy mạng cả ta? Mấy hôm ngươi nằm đây như cái xác chết trôi, nếu không có nó săn sóc, một mình ta cũng khổ cực biết mấy. Mau đi tìm nó về đây đi!

    Văn Tôn "A" lên một tiếng như hiểu ra, vội chạy ra ngoài. Đêm đó Ô Đình Thiên đánh Văn Tôn một chưởng vốn chỉ muốn hù dọa nên chỉ sử có hai thành công lực, nào ngờ tên thư sinh yếu ớt lại lăn đùng ra ngất xỉu. Nàng bỏ đi được một đoạn, quay lại nhìn thì thấy y vẫn bất động, không nỡ để y mất mạng bèn khiêng lên trên núi nhờ nghĩa mẫu chữa trị. Nàng nghĩ ra tay đả thương người khác rồi lại có lòng cứu giúp, chẳng phải kỳ quặc lắm hay sao, người khác biết được thể nào cũng chê cười, nên nhờ Nguyệt Lão Cô dấu việc mình mang Văn Tôn lên đây không cho y biết. Nào ngờ Văn Tôn vì đấy mà tưởng nàng gia hại Nguyệt Lão Cô, năm lần bảy lượt mắng nàng là yêu nữ, sẵn tính trẻ con, nàng dỗi lên hù dọa y một phen cho bỏ tức.

    Văn Tôn nhằm hướng khu rừng trúc đi tìm, chàng vừa đi vừa nghĩ: "Là ta mạo phạm nàng ấy trước, nàng ấy có trị tội cũng chẳng trách. Nàng ấy bỏ công chăm sóc ta, thế mà ta lại lấy oán báo ơn, hết lần này đến lần khác nhục mạ nàng, tội này chẳng biết bỏ đâu cho hết. Ôi, Văn Tôn ơi là Văn Tôn, mi thật có mắt như mù, phải tìm nàng để tạ lỗi, nàng có muốn đánh muốn xẻo cũng không được oán trách". Chàng chạy một mạch đến trước tòa vọng lâu, thế nhưng nào có thấy Ô Đình Thiên. Chàng đi quanh quẩn một hồi, nhớ lại lúc đó nàng ấy chửi mình là "dâm tặc" thì không sao hiểu được, bây giờ bình tâm nghĩ lại mới biết là mình vô lễ, trong lúc nóng giận đã ôm chầm lấy cơ thể nữ nhân xinh đẹp kia, trong lòng vừa bồn chồn xao xuyến, vừa xấu hổ tự trách. Bỗng có tiếng tiêu ngân lên trong đêm tối, là giai điệu của bài dân ca miên nam mà Ô Đình Thiên đã thổi vào hôm trước, nghe thật gần, thật rõ. Văn Tôn rảo bước đi tìm, chỉ nghe thanh âm sầu não ấy vẫn văng vẳng bên tai, song người thiếu nữ diễm lệ kia tuyệt nhiên chẳng thấy đâu. Thì ra chỉ là tiếng tiêu từ đằng xa hòa vào làn gió truyền đến đây, Văn Tôn biết nàng không muốn gặp mình, lòng buồn rười rượi, vào ngồi trong tòa vọng lâu một hồi lâu, sau cùng thiếp đi lúc nào cũng không hay.

    Mặt trời đã lên quá đỉnh đầu Văn Tôn mới lò mò tỉnh dậy, mấy hôm nay chàng mệt mỏi nên ngủ một giấc thật ngon. Nhớ đến phải tới Bắc Giang tìm Triệu Hùng, chàng vội vã quay lại căn nhà trúc từ biệt Nguyệt Lão Cô rồi lên đường. Chàng vào nhà nhưng chẳng thấy Nguyệt Lão Cô đâu cả, bèn lấy giấy bút trong tay nải để lại mấy dòng chữ rồi đi nhanh xuống núi.

    Nam Sơn chỉ là một ngọn núi nhỏ nằm giữa vùng đồng bằng Khoái Châu, sơn đạo thoai thoải, chỉ hơn nửa canh giờ Văn Tôn đã đến được lưng chừng núi, chàng tranh thủ ngồi xuống một gốc cây nghĩ mệt. Bên rìa núi là một hồ nước mênh mông, nước xanh biên biếc, từ trên cao nhìn xuống thấy sóng gợn nhấp nhô, dưới ánh mặt trời giống như có muôn vàn con hoàng xà lăn tăn uốn lượn. Bên dưới chỗ chàng ngồi là một dãy đá xanh với đủ hình thù kì quái, có tảng trông như một bà già đang vươn tay lên chộp lấy bầu trời, có tảng thì như một đứa trẻ đang ngồi bó gối khổ sở, mấy con sóng liên miên tạt vào làm bọt tung trắng xóa. Trên ngọn cây có mấy con chim đang mổ những trái nhỏ hình tròn, nhìn ngon lành chẳng kém gì quả táo trong rừng. Văn Tôn liền leo lên chỗ mấy con chim đang đậu, thò tay hái mấy quả xem thử, thì ra là loại sung rừng. Chàng biết loại này không có độc nên có thể ăn được, bèn hái vài quả để lúc đi đường có cái mà dằn bụng. Thế nhưng ở chỗ này chỉ toàn những quả non, vừa đắng vừa chát, còn những quả chín lại mọc tít ngoài xa. Sườn núi bên dưới lởm chởm sỏi đá, rơi xuống tuy không vỡ đầu nhưng chẳng may cứ theo chiều nghiêng mà lăn xuống thể nào cũng bị đâm vào da thịt, hoặc va vào mấy tẳng đá xanh ở dưới bờ hồ thì nguy to, Văn Tôn cẩn thận tìm một nhành thật lớn mà nằm lên, với tay ra hái mấy quả sung đã chín mọng ở đầu cành. Cây sung này thật lớn, cao chưa tới hai trượng nhưng thân cây phải hơn một sải tay, cành mà Văn Tôn nằm lên cũng to bằng bắp chân đàn ông. Tuy vậy nhưng gỗ sung lại rất giòn, chẳng mấy khi người ta dùng nó để làm nhà cửa hay bàn ghế, Văn Tôn đâu hiểu biết nhiều về gỗ, cứ nghĩ cành cây này đủ chắc để đỡ lấy cơ thể mình, dè đâu chưa được một chốc đã nghe thấy tiếng "răng rắc", cả người lẫn cây đều lắc lư, cơ hồ như muốn gã lìa. Lúc này chàng muốn quay đầu bò vào cũng không được, bởi chỉ cần một cử động mạnh cũng có thể khiến cành cây rơi xuống ngay lập tức. Những tiếng "răng rắc" phát ra mỗi lúc một nhiều, Văn Tôn thầm kêu khổ, nếu như rơi xuống mà không bám vào được vật gì, cứ lăn cù cù xuống tới bờ hồ thì cả người có khác gì tấm chăn rách, bị sỏi đá đâm cho nát nhừ.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14 Tháng hai 2020
  6. TrieuNguyen

    Bài viết:
    51
    Chương V: Tái Ngộ

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong tình thế quẫn bách, Văn Tôn bắt đầu hoảng loạn. Mấy quả sung chàng vừa hái từ trong túi rơi ra, lăn lông lốc xuống dốc núi. Chàng biết chỉ trong phút chốc nữa thôi chính bản thân mình cũng sẽ như mấy quả sung kia, lăn xuống tới mõm đá dẫu không tan xương nát thịt thì cũng biến thành một phế nhân que quặc. Nhành sung mỗi lúc một quằn, sau cùng như cây cung bị kéo cong quá đà liền gãy rụp. Văn Tôn lập tức buông tay khỏi cành cây, cả người lẫn cành đều rớt xuống sườn núi. Chàng nhanh tay tóm được một bụi cỏ dại nên cả người không bị tuột theo nhành cây kia, song ngực bị đập mạnh vào mặt đất đau không sao chịu được, tưởng như tim gan phèo phổi đều bị người ta dùng búa nện vào. Thế nhưng bụi cỏ này dường như cũng không chịu nổi sức nặng của chàng, từng cọng từng cọng cứ lần lượt đứt lìa. May thay sườn núi chỗ này tuy dốc nhưng nếu dùng tay bám víu vào mặt đất vẫn có thể giữ mình không bị tuột xuống. Văn Tôn như một con thằn lằn nằm rạp trên bức tường dựng đứng, chẳng có một vật gì chắc chắn để chàng có thể bám vào mà trèo lên. Bỗng nghe bên trên có người nói:

    - Ồ, ngươi đang ở đây luyện thạch sùng công đấy ư?

    Văn Tôn ngước lên, thấy Ô Đình Thiên đang đứng trên sơn đạo hai tay chống gối nhìn mình, miệng mỉm cười thích thú. Nàng trước nay vẫn hời hợt vô cảm, mặt lạnh như tiền, thế mà bây giờ trên môi lại nở một nụ cười, hai gò má hồng hào, dưới ánh mặt trời chẳng khác gì một đóa mẫu đơn mới chớm, xinh đẹp vô cùng. Văn Tôn cảm giác trong lồng ngực đau nhói, chẳng còn hơi sức mà trả lời nàng ta, muốn mở miệng cầu cứu nhưng nhớ lại mình đã mấy phen mạo phạm đến nàng, đâu còn mặt mũi nào mà cầu xin, đành ụp mặt luôn xuống đất. Ô Đình Thiên vung tay phải một cái, dải lụa hồng như một mũi tên bắn đã bay lên ngọn sung, quấn mấy vòng vào một cành cây to. Nàng cầm đầu dải lụa nhảy luôn xuống chỗ Văn Tôn, tay phải vòng qua eo y, tay trái kéo thật mạnh, hai chân đạp vào vách núi, chớp mắt hai người đã quay trở lại sơn đạo. Thủ pháp đu lụa cứu người vừa rồi chẳng kém gì những nghệ nhân biểu diễn tạp kỹ ở kinh thành, vừa nhanh nhẹn dứt khoát, vừa thướt tha uyển chuyển, cộng với thân hình mảnh mai ẻo lả của nàng thật khiến người ta mê hoặc. Nàng buông Văn Tôn xuống, vừa thu lại dải lụa trên ngọn sung vừa cười nói:

    - Ngươi biết khôn thì hãy xuống núi cho mau, thạch sùng công của ngươi chưa chắc đã đối phó được với mấy loại độc trùng dã thú trời tối đâu!

    Văn Tôn nghe nhắc đến độc trùng cũng hãi thầm, định tạ lỗi với nàng ta vì những hiểu lầm trước đây, nhưng thiết nghĩ nhỡ may mình nhắc lại biết đâu nàng ấy lại nổi giận, lúc đó muốn toàn mạng xuống núi cũng không được, nên nói:

    - Đa tạ cô nương đã nhiều lần tương trợ, tại hạ xin khắc ghi trong lòng, mai này nếu như có gặp lại sẽ ra sức báo đáp!

    Ô Đình Thiên nói:

    - Cái gì mà một tiếng cô nương này, hai tiếng cô nương nọ, bộ ta không có tên cho ngươi gọi hay sao?

    Văn Tôn vốn dĩ chỉ nghe Nguyệt Lão Cô gọi nàng với cái tên thân mật là Tiểu Thiên, còn danh tính thật sự thì không hề biết đến, bây giờ bị nàng vặn vẹo liền đáp:

    - Tại hạ chỉ vừa nhìn thấy dung mạo của tiểu thư đây, đã bị tiểu thư đánh cho dở sống dở chết, nếu như còn biết đến quý tính dại danh của tiểu thư, chẳng phải là tính mạng sẽ nguy nan hay sao?

    Ô Đình Thiên cười thích chí, nói:

    - Ồ, hóa ra là tên tiểu tử nhà ngươi cũng biết sợ đấy ư? Vậy mà tối hôm qua còn hùng hùng hổ hổ đòi thay trời hành đạo, giết chết ta cơ đấy!

    Trên gương mặt như hoa như ngọc của nàng có đến ba phần trẻ con, lúc này lại cười nói vui vẻ thật khiến cho người ta yêu thích. Nàng vân vê hai lọn tóc mai trước ngực, nói tiếp:

    - Ta tên Ô Đình Thiên, còn tên của ngươi là gì?

    Văn Tôn thấy trên chiếc cổ trắng ngần của nàng vẫn còn một vệt dài đỏ hỏn, chính là vết thương do chàng gây ra đêm hôm trước, trong lòng bỗng dưng chua xót, nói:

    - Tại hạ tên là Văn Tôn. Chuyện đêm hôm trước.. Đình Thiên tiểu thư.. xin hãy.. xin hãy..

    Đến đây bỗng thấy nghẹn ngào. Ô Đình Thiên xua tay nói:

    - Xùy, tỷ tỷ đây không chấp mấy đứa trẻ người non dạ như tiểu đệ đâu, không cần áy náy làm gì!

    Văn Tôn nhìn bề ngoài, ước chừng nàng cũng chỉ mười lăm, mười sáu, đâu thể nào lớn tuổi hơn mình, tính hiếu thắng trẻ con trỗi dậy, nói:

    - Chẳng hay Đình Thiên tiểu thư đã bao nhiêu xuân xanh mà gọi ta là tiểu đệ?

    Ô Đình Thiên cười hi hi, nói:

    - Tỷ đây vừa tròn mười tám tuổi, thế nào? Đã đủ để gọi đằng ấy là tiểu đệ hay chưa?

    Văn Tôn ức lắm, nàng ta trông rõ là nhỏ tuổi hơn mình mà lại muốn làm người trên kẻ cả, nhưng nghĩ lại thì trước đó mình năm lần bảy lượt mạo phàm đến nàng ấy, bây giờ coi như để nàng hả dạ một chút cũng chẳng thiệt gì, cười nói:

    - Vậy tiểu đệ xin từ biệt tỷ tỷ ở đây thôi, núi cao sông dài, có ngày sẽ gặp lại!

    Ô Đình Thiên nhìn chàng, nghĩ thầm: "Cái gì mà núi cao sông dài, sẽ gặp lại sớm thôi!" Rồi cười hì hì, nói:

    - Bây giờ ta đếm đến ba, nếu Văn tiểu đệ còn đứng trước mặt ta, tỷ tỷ đây sẽ treo mi lên ngọn cây để mi tha hồ mà nhìn ngắm núi cao sông dài!

    Văn Tôn cũng không biết nàng ta nói đùa hay thật, chẳng đợi cho nàng mở miệng đếm đã cắm đầu cắm cổ chạy một mạch xuống núi. Tói chỗ hòn đá lớn dưới chân núi, chàng quay đầu nhìn lại, không thấy bóng dáng Ô Đình Thiên đuổi theo mới thở phào nhẹ nhõm. Bỗng sau lưng như có con gì đó đang ngọ nguậy, chàng đưa tay dò dẫm thì nắm phải một sợi dây, kéo tới trước mới thấy đầu dây buộc một cái bọc bằng lá, thì ra Ô Đình Thiên đã buộc vào áo chàng từ lúc nào không hay. Văn Tôn mở cái gói ra xem, thấy bên trong có mấy cái bánh bao, hai xâu tiền xu và một nụ hoàng liên. Chàng lấy một cái bánh bao ra ăn rồi lại gói cái bọc trở lại như cũ cho vào túi, vừa đi vừa huýt sáo líu lo.

    Chàng quay trở lại trong thôn, đi nhờ một chiếc xe ngựa xuôi về phương bắc. Chủ xe là một thương buôn lúa gạo, dọc đường hết dừng chỗ này mua bán lại ghé chỗ khác thu tiền, thành thử đi hết ba ngày ba đêm vẫn chưa ra khỏi Khoái Châu. Đến chiều ngày thứ tư, Văn Tôn càng lúc càng sốt ruột, bỗng nhiên phu xe lại chuyển hướng đi về phía tây, chàng nghĩ cứ đi theo họ thì mươi bữa nữa tháng chắc cũng không ra khỏi Khoái Châu, đừng nói chi đến được Bắc Giang, bèn xuống xe đi bộ. Đi được ba dặm thì trời đã lờ mờ tối, chàng thấy phía trước có một tòa miếu lớn, vội đi thật nhanh tới đó tìm một chỗ ngủ qua đêm.

    Trước cổng miếu treo hai cái đèn lồng nhưng không có nến, trên cửa có một tấm biển lớn đề ba chữ: "Miếu Đậu An". Văn Tôn gõ cửa, lên tiếng xin tá túc một đêm nhưng không thấy ai hồi đáp, chàng đứng đợi một hồi lâu cũng không thấy ai ra đón, sau cùng đành tự tiện đẩy cửa đi vào. Trong khoảng sân nhỏ có một tòa tháp cửu trùng cao chót vót, phải hơn ba bốn trượng, đi qua đó thì gặp một gian miếu nhỏ, cửa nẻo mở toang. Văn Tôn biết ở đây không có ai, không cần lên tiếng xin phép mà cứ thế bước vô trong. Thấy bốn phía đều tối om, chàng lấy mồi lửa châm một cây nến trên bức tường bên trái, sau đó châm tiếp ba cây nến ở ba bức tường còn lại. Lúc này gian miếu đã sáng bừng, có thể nhìn rõ mấy bức tượng phật đặt trên bục cao trước mặt, hai bên tượng phật đặt hai quả chuông đồng rất lớn. Chàng đến gần tượng phật đưa tay quệt thử, hoàn toàn không có bụi, đoán là nơi này vẫn có người thường xuyên lui tới quét dọn. Trăng non cũng đã mọc trên cao, chiếu xuyên qua mấy viên ngói vỡ làm cho mọi thứ càng trở nên rõ ràng hơn. Văn Tôn thấy dưới sàn bụi đất bám thành một lớp mỏng, liền đi ra phía sau tìm một cái chậu múc đầy nước mang vào lau chùi làm chỗ nằm ngủ. Chàng nhặt mấy khúc gỗ mục trước cửa chất thành một đống nhỏ, đốt lên sưởi ấm rồi nằm xuống ngay bên cạnh nghỉ ngơi.

    Nằm nhìn lên trần nhà, ngắm ánh trăng leo lắt thông qua lỗ thủng trên mái, bất chợt chàng nhớ tới khuôn mặt xinh đẹp của Ô Đình Thiên. Đêm đó chàng ôm xiết lấy nàng thì chỉ là vô ý, bây giờ nghĩ lại trong lòng bỗng dưng lại cảm thấy xốn xang, bâng khuân khó tả. Chàng lôi cái tay nải đang gối đầu lên, lấy hai cái bánh bao còn lại ra ăn, hai xâu tiền thì buộc vào thắt lưng, còn nụ hoàng liên chàng gói lại cẩn thận rồi cất vào tay nải như cũ. Bỗng bên ngoài nghe như có tiếng người đẩy cửa đi vào, rồi tiếng bước chân xen lẫn tiếng trò chuyện vang lên mỗi lúc một gần. Văn tôn thầm nghĩ: "Ai lại tới đây vào giờ này? Không khéo thấy mình ở đây lại tưởng là trộm chùa cướp miễu, tốt nhất nên tránh đi là hơn!" Chàng nhanh chân dập tắt đống lửa, chạy ra phía sau ba pho tượng phật ẩn thân. Chỉ một lát sau đã thấy hai người đàn ông bước vào, một người thân hình mảnh khảnh, cao lêu nghêu như cây sậy, tay cầm một thanh liễu kiếm; người còn lại vừa lùn vừa mập, trông như cái lu nước biết đi, hai bên hông giắt song đao. Văn Tôn thấy hai người này mặt mày dữ tợn, ai cũng mặc hắc y, cứ đảo mắc nhìn quanh trong miếu, điệu bộ lén la len lút xem ra cũng chẳng phải hạng tốt lành gì, bèn ngồi im sau mấy bức tượng không dám thở mạnh.

    Người có thân hình cao ốm khom xuống sờ vào đống tro giữa miếu, chau mày nói:

    - Hình như có người vừa ở đây!

    Người vừa lùn vừa mập nói:

    - Ở chùa ở miễu thì thiếu gì kẻ vào người ra, chắc là ai đó vừa vào đây nghỉ chân thôi!

    Người vừa cao vừa ốm nói:

    - Hồ huynh đệ nói cũng phải. Theo huynh đệ thì tên ác tặc kia có đuổi theo chúng ta đến đây hay không?

    Người họ Hồ đáp:

    - Y giết sạch đám thủ hạ của chúng ta, chắc cũng đã mệt lắm rồi, còn hơi sức đâu nữa mà đuổi đến tận đây. Trần đại ca không nên lo nghĩ nhiều làm gì, cứ ngủ một giấc rồi sáng mai lại đi tiếp, ngày chạy đêm nghỉ, đệ không tin y thần thông quảng đại đến mức có thể đuổi theo chúng ta tới cùng trời cuối đất.

    Người họ Trần cười khà khà, nói:

    - Hồ huynh đệ suy nghĩ thật thấu đáo, thôi hai ta mau mau ngủ một giấc, sáng mai lại lên đường!

    Văn Tôn nấp sau pho tượng phật nghe hai người này nói chuyện, không rõ họ là người tốt hay kẻ xấu những chắc là đang bị kẻ thù truy đuổi, xem ra đêm nay họ không đi khỏi đây nên nên bản thân chàng cũng bị mắc kẹt trong ngôi miếu này. Không lâu sau thì hai người kia đã ngáy o o như kéo bễ, Văn Tôn thấy họ ngủ say nhưng cũng không dám manh động bỏ trốn, đành tựa lưng vào tượng phật thiếp đi. Chàng sợ trong lúc ngáy ngủ sẽ bị bọn họ phát giác, lấy cái bánh bao còn lại nhét luôn vào miệng.

    Đến canh hai, Văn Tôn cùng hai người Trần, Hồ đã ngủ say như chết, bỗng ngoài xa có tiếng vó ngựa lộc cộc liên hồi. Người họ Hồ lập tức tỉnh ngủ, lay người họ Trần dậy, nói:

    - Trần đại ca, Trần đại ca mau dậy đi, ác nhân đến rồi!

    Người họ Trần đang say ngủ bỗng nghe "ác nhân đến rồi" thì tung người bật dậy nhanh còn hơn cả sóc, tay chộp lấy thanh liễu kiếm. Người họ Hồ cũng vớ lấy song đao dưới đất, nói với người họ Trần:

    - Trần đại ca, tên này bám dai còn hơn đĩa đói, huynh đệ ta chỉ còn nước sống mái với y một phen mà thôi!

    Người họ Trần nói:

    - Được, sinh tử vinh nhục đều là vào lúc này, hai ta cứ xông ra quyết chiến với y, còn chưa biết là mèo nào cắn miểu nào đâu!

    Dứt lời liền nhất tề xông ra ngoài.

    Hai người giọng nói ồm ồm như chuông ngân, Văn Tôn thức giấc, nghiêng đầu nhìn ra ngoài, nhưng họ đứng chếch về bên trái cánh cửa, chàng không sao nhìn thấy được, chỉ nghe người họ Trần lớn tiếng nói:

    - Bọn ta với mi không thù không oán, lý nào lại muốn đuổi cùng diệt tận, dồn bọn ta vào chỗ chết mới thôi?

    Không nghe ai trả lời. Người họ Hồ lại tiếp lời:

    - Các hạ chẳng nói nguyên do từ Long Hưng đuổi đánh đến tận đây, trên đường đã giết chết mấy chục huynh đệ của bọn ta, trên đời làm gì có cái lý lạ lùng như vậy?

    Hai người Trần, Hồ rõ ràng là đang nói chuyện với một kẻ thứ ba, lời lẽ oán trách người kia vô duyên vô cớ lại đánh chém huynh đệ của mình, song người kia từ đầu tới cuối không đáp lại một lời, dường như thừa nhận lời hai người Trần, Hồ vừa nói. Bỗng trong đêm tối, dưới ánh trăng lập lòe, một đạo hoàng quang lóe lên sáng chói, tiếp sau đó là ba ánh trắng lấp lánh, rồi "keng" "keng" "keng" ba tiếng liên tiếp. Văn Tôn nhìn ra trước sân, thấy đao quang kiếm ảnh loang loáng, tiếng đao kiếm va vào nhau leng keng, ba bóng đen in trên mặt đất không ngừng nhảy múa, biết là hai bên đã động thủ quá chiêu. Chàng hết sức hiếu kỳ, muốn nhào ra xem diễn biến nhưng lại bị nỗi sợ lấn át, buộc chàng phải ngồi sau bức tượng nghe động tĩnh.

    Bên ngoài đôi bên qua lại đã hơn mấy mươi chiêu, tiếng binh khí va nhau mỗi lúc một dồn dập, Trần, Hồ hai người tuy lấy hai chọi một song vẫn không chiếm được tiện nghi, đủ biết võ công người kia ắt hẳn phải cao hơn bọn họ một, hai bậc. Nơi chùa miễu thanh tịnh bỗng dưng biến thành đấu trường ác liệt, Văn Tôn thầm cầu trời khẩn phật cho hai bên ngừng chiến, dĩ hòa vi quý, trả lại sự bình yên vốn có cho chốn linh thiêng này.

    Bỗng nghe "bình" một tiếng, người họ Hồ đã văng vào trong miếu chẳng khác gì một bị thịt, mặt mũi sưng húp. Y sống song đao xuống đất cố sức đứng dậy, rồi lại lao ra ngoài như con thiêu thân đâm đầu về nguồn sáng, miệng la hét điên cuồng.

    Người họ Hồ vừa chạy ra, đến lượt người họ Trần bay vào, lần này y va mạnh vào cánh cửa làm nó vỡ tan tành, miệng hộc ra mấy ngụm máu đỏ tươi. Chỉ nghe y lẩm bẩm cái gì mà "họ Triệu chó má.. họ Triệu chó má", rồi cũng hùng hục chạy ra ngoài.

    Hai người Trần, Hồ lúc này đều đã bị thương, thần trí trở nên điên loạn, thay nhau chửi mắng người kia, nào là phường ác nhân chó má, nào là quân loạn tặc bất lương, sau mỗi câu chửi lại kèm theo một tiếng "ối" hoặc hai tiếng "chao ôi", xem ra liên tục trúng đòn từ đối phương. Văn Tôn không rõ giữa đôi bên có mối tương hiềm gì, chỉ nghe thấy tiếng kêu của Trần, Hồ hai người càng kúc càng yếu ớt, càng lúc càng thê thảm, rón rén đi tới nép sau khung cửa, hé mắt nhìn ra ngoài. Bên ngoài ánh trăng bị mây đen che khuất, lúc mờ lúc tỏ, chỉ thấy một nam tử dáng người cao lớn, thân thủ nhanh như gió, lúc dụng quyền cước, lúc sử đơn đao liên tiếp công kích hai người kia.

    Chỉ trong chớp mắt, người họ Trần đã bị nam tử kia đá văng liễu kiếm trong tay, ngã bổ ra đất. Người họ Hồ thấy vậy liền xông vào giải nguy, thế nhưng y thương tích đã nhiều, võ công cũng chẳng hơn họ Trần là bao, song đao vừa vung lên, còn chưa kịp chém xuống đã bị người kia một chưởng đánh thẳng vào giữa ngực, nằm gục xuống tại chỗ. Lúc này cả hai đều không còn sức chống trả, nam tử cao lớn kia chỉ cần một đao chém xuống, tính mạng cả hai lập tức sẽ không còn. Văn Tôn thấy tình thế nguy cấp, chẳng thiết gì đến nguy hiểm của bản thân nữa, từ sau cánh cửa nhảy bổ ra, quỳ xuống dang hai tay che chắn cho huynh đệ Trần, Hồ, nói:

    - Đại hiệp xin hạ thủ lưu tình!

    Nam tử cao lớn vừa nhìn thấy Văn Tôn, mặt mày bỗng nhiên rạng rỡ hẳn lên, cúi xuống đỡ chàng đứng dậy, nói:

    - Văn đệ, là ta đây, sao đệ lại ở đây với hai tên ô hợp này?

    Văn Tôn lúc này mới nhìn kỹ, nhận ra Triệu Hùng thì vui mừng khôn siết.

    Hai người còn đang tay bắt mặt mừng, bỗng Triệu Hùng nhảy vù ra sau lưng Văn Tôn, chỉ nghe hai người Trần, Hồ kêu lên oai oái, dắt díu nhau chạy ra khỏi cổng miếu, lẫn vào trong đêm tối. Văn Tôn gặp lại nghĩa huynh, trong lòng hân hoan, liền kéo tay y vào trong hàn huyên tâm sự. Chàng thao thao bất tuyệt thuật lại những biến cố trong mấy ngày vừa qua, rằng mình bị nghĩa nữ của Nguyệt Lão Cô đả thương ra sao, sau đó được bà ấy cứu chữa như thế nào, lại kể đến vì sao đến được miếu Đậu An rồi gặp được hai người kia. Đến đây chàng mới hỏi Triệu Hùng:

    - Hai người đó thật ra là ai, sao đại ca phải truy đuổi cho bằng được?

    Triệu Hùng nói:

    - Hai tên đó tên là Trần Lộ và Hồ Quý Bình, thủ lĩnh của đám sơn tặc Long Hưng. Ta trước đó nghe được Khoái Châu trộm cướp như sao sa, lo lắng cho đệ nên sau khi xử trí chuyện sư môn thì lập tức trở ngược vào nam. Đến vùng Long Hưng, vô tình bắt gặp bọn người này đang đánh cướp kho thóc của nông dân, liền ra tay tiêu diệt. Mấy tên lâu la đa số đều bị ta đánh chết, số còn sống thì bắt giao cho quan phủ, duy chỉ có hai tên đầu xỏ là nhanh chân chạy trốn. Ta lần theo dấu vết chúng để lại, hết nửa ngày mới tìm tới được đây.

    Văn Tôn thầm thán phục bản sự của Triệu Hùng, tiếc là lúc nãy đã để cho hai tên đó chạy mất, chép miệng nói:

    - Chỉ tiếc vừa rồi đệ thấy chúng tội nghiệp, đứng ra cản trở, nếu không chúng làm sao chạy thoát!

    Triệu Hùng cười nói:

    - Âu cũng là mệnh chúng chưa tận, nhưng đệ đừng lo, vừa rồi ta đã cắt đứt hết gân tay của chúng rồi, sau này chúng đến việc cầm đũa ăn cơm cũng đã khó, đừng nói chi là gia hại người khác!

    Văn Tôn thở phào nhẹ nhõm, nói:

    - Đại ca hành sự thật chu toàn, vậy ngày mai chúng ta sẽ về Bắc Giang phải không?

    Triệu Hùng thở dài buồn bã, nói:

    - Sư phụ ta bệnh nặng không qua khỏi, đã quy tiên vào mấy hôm trước, chúng ta không cần về Bắc Giang nữa. Còn chuyện học võ, chính ta sẽ từ từ dạy cho đệ.

    Văn Tôn từ đầu vốn đã chẳng thiết tha gì chuyện luyện võ, nhưng nghe tin sư phụ Triệu Hùng vừa qua đời, cũng hơi hụt hẫng. Biết nghĩa huynh trong lòng đau buồn, liền nói tránh sang chuyện khác:

    - Đại ca, vậy tiếp theo chúng ta sẽ đi đâu?

    Triệu Hùng nói:

    - Có một bọn cường đạo mà ta đã tốn công truy đuổi suốt hai tháng qua nhưng vẫn không rõ hình tích, nghe đâu đang hoành hành ở huyện Tiên Lữ này, ngày mai hai ta hãy đi ngược vào phía nam, không chừng sẽ tìm được bọn chúng. Tạm thời đêm nay huynh đệ ta cứ ngủ lại đây đã, đợi sáng mai hẵng lên đường.

    Hai người nhóm lại đống lửa, thổi hết nến rồi đi ngủ.

    Đến canh tư, Văn Tôn lò mò đi ra ngoài tiểu tiện. Bấy giờ trăng sáng vằng vặt, trông rõ đến từng cành cây ngọn cỏ ở hoa viên phía sau. Chàng sợ làm Triệu Hùng thức giấc, khi trở vào cố gắng đi thật khẽ, tránh tạo ra tiếng động. Lúc này đống lửa trong miếu đã tắt ngúm, bên ngoài sáng tỏ, bên trong tối đen như mực, chàng đi đến giữa miếu thì va phải cây cột, bỗng nghe một tràng những tiếng "leng keng" vang lên, đưa tay sờ thử mới biết là xâu tiền xu trong thắt lưng đã rơi mất. Chàng gỡ một cây nến trên tường xuống, dùng mồi lửa đốt lên, thấy Triệu Hùng vẫn còn đang ngủ, có lẽ y đuổi theo hai tên sơn tặc suốt cả ngày nên bây giờ mệt đã mệt lã. Văn Tôn cúi xuống nhặt lại từng đồng tiền xu mà Ô Đình Thiên đã cho, mấy đồng tiền này tuy dẹt nhưng đúc thành hình tròn, lăn mỗi nơi một đồng. Chàng không biết trước đó đã có bao nhiêu, cứ cầm nến soi khắp nơi, hy vọng không bỏ xót lại đồng nào. Dưới chân cây cột có một cái lỗ nhỏ, chỉ lớn hơn đồng tiền một chút, bị bụi đất che đi hơn phân nửa phải để ý thật kỹ mới thấy được. Cái lỗ thoạt nhìn giống như cái hang chuột, hoặc có thể là hang rắn, Văn Tôn hãi thầm, giả như gặp phải loài rắn độc thì táng mạng, nhưng lại sợ lỡ như một đồng tiền lăn vào đó, mình mà không nhặt chẳng phải phụ tấm chân tình của Ô Đình Thiên hay sao? Bèn cúi xuống rọi thật kỹ vào bên trong. Hóa ra là chẳng có thứ gì giống như chàng tưởng tượng cả, không tiền, không chuột, cũng không rắn, chỉ có một mảnh vãi cũ dơ dáy nằm tít ở bên trong, chắc là do chuột hay con gì đó tha vào, mới yên tâm quay trở lại nằm ngủ.

    Văn Tôn đặt lưng được một lúc, bỗng nghe xa xa dường như có tiếng tiêu của Ô Đình Thiên, trong lòng đột nhiên nôn nao lạ thường. Ngẫm lại thì nới này đã cách núi Nam Sơn đến mấy chục dặm, tiếng tiêu dù có đi theo gió cũng chẳng xa đến thế, tự nhủ chỉ là mình ảo tưởng, vội nhắm mắt cố ngủ. Chàng trăn qua trở lại một hồi vẫn không sao ngủ được, bèn bật dậy cầm nến đến soi vào cái lỗ nhỏ khi nãy, nghĩ biết đâu một đồng xu nào đó lại mắc kẹt trong mảnh vải kia, liền lấy thanh chủy thủ khều ra. Dĩ nhiên là chẳng có đồng xu nào nằm trong đó cả, chỉ thấy mảnh vải kia chỗ vàng chỗ trắng, dường như đã phai màu từ lâu. Chàng toan vứt đi nhưng thấy trên đó có mấy chữ màu đỏ, liền vạch ra xem thử, thì ra là một bộ kinh phật cổ xưa. Ở chốn chùa miễu này có kinh phật thì cũng chẳng có gì là lạ, lạ ở chỗ nó lại bị chuột tha vào ổ, xem ra chẳng phải kinh thư cao siêu gì nên chẳng ai thèm bảo quản. Văn Tôn muốn bỏ đi nhưng lại thấy tiếc rẻ, dẫu gì cũng là di sản của phật giáo, bèn buộc nó chung với hai xâu tiền vào dây lưng rồi quay trở lại nằm ngủ.

    Trời vừa sáng thì Triệu Hùng đã thức dậy, hai người gói gém hành lý rời khỏi miếu Đậu An, đi theo lộ lớn về phía nam.

    Bấy giờ đang vào giữa mùa hạ, các sông rạch lớn nhỏ ở Khoái Châu đều dần trở nên khô cạn, trên những cánh đồng, cỏ dại mọc cao đến đầu gối, hai người Triệu, Văn thong thả đi. Đến một phiên chợ trưa, lác đác chỉ vài sạp hàng hóa, thấy có một lái buôn đang rao bán mấy con ngựa, Triệu Hùng bèn dừng lại muốn chọn cho Văn Tôn một con, nói:

    - Hai ta cưỡi chung một con ngựa thì quả thật bất tiện, đệ hãy chọn cho mình một con đi!

    Văn Tôn đến giờ vẫn chưa thạo việc cưỡi ngựa, đành miễn cưỡng nói với người lái buôn:

    - Đại thúc! Thúc có thể lựa cho ta một con phù hợp được không?

    Người lái buôn tuổi chừng trung niên, nhìn Văn Tôn một lượt từ đầu tới chân, đoạn giơ tay chỉ vào một con lừa màu xám đang gặm cỏ bên tay trái, nói:

    - Tiểu huynh đệ, con này thật hạp với ngươi!

    Người này bản tính thật thà, nghĩ gì nói nấy, thấy Văn Tôn phong thái nho nhã, cử chỉ điềm đạm, liền chọn cho y một con lừa lành tính dễ cưỡi, hoàn toàn không có ý châm chọc. Văn Tôn trong bụng hơi bực, nghĩ thầm: "Ta đường đường cũng là một trang nam tử, người ta trên lưng tuấn mã tung hoành ngang dọc, lý nào ta lại cưỡi một con lừa còm nhom như thế này?" Chàng đảo mắt nhìn mấy con ngựa một lượt, xong chỉ vào một con có bộ lông đen tuyền, nói:

    - Con lừa đó đại thúc cứ để dành cho ái thê của mình cưỡi đi, ta lấy con này!

    Người lái buôn kia dẫu lớn tuổi song vẫn chưa có vợ, nghe Văn Tôn nói đến "ái thê" trong lòng bỗng sượng sùng, xẵng giọng nói:

    - Con này năm mươi quan tiền, một đồng cũng không bớt!

    Triệu Hùng thấy con hắc mã này thần khí uy mãnh, bờm dài lưng rộng, bốn vó cao lêu nghêu nhưng khỏe khoắn vô cùng, lấy làm ưng ý, đưa cho người lái buôn hai tĩnh bạc, nói:

    - Chúng tôi sẽ lấy con này!

    Hai tĩnh bạc đó cũng hơn sáu mươi quan, người lái buôn cười hì hì, lập tức dắt ngựa tới giao cho Văn Tôn.

    Văn Tôn từ nhỏ tới lớn chưa từng nuôi qua con gì, bây giờ có riêng một con ngựa thì thích chí lắm, nhảy luôn lên lưng nó ngồi một cách chễm chệ, miệng hi hi ha ha ra chiều đắc ý. Chàng trước đó cũng đã thấy cách Triệu Hùng điều khiển con bạch mã, bây giờ liền vận dụng ngay, hai tay cầm dây cương thật chắc, đầu gối thúc nhẹ vào hông, quả nhiên con ngựa liền chạy thẳng tới trước. Văn Tôn càng cưỡi càng thích, thúc mạnh vào hông cho nó chạy nhanh hơn, nào ngờ cú đó làm cho con vật nổi điên lên, nhảy nhổm hai cẳng trước làm chàng té lăn cù xuống đất.

    Người lái buôn cười hô hô, nói:

    - Thế nào, tiểu huynh đệ có đổi ý muốn lấy con lừa này chăng?

    Y nãy giờ vẫn hậm hực trong bụng, thấy Văn Tôn ngã ngựa thì chộp ngay cơ hội, nói thêm vài câu chế giễu. Văn Tôn càng nghe càng xấu hổ, mặt mũi hầm hầm, dắt ngựa đi thật nhanh, Triệu Hùng vội vã chạy theo nói:

    - Đệ không nên tức giận làm gì, loài vật thật ra cũng giống như con người, cũng biết buồn biết vui, biết cảm nhận, đệ càng tệ bạc đối với nó, nó càng trở nên hung hăng khó bảo.

    Văn Tôn liền ngộ ra, thử leo lên lưng con hắc mã một lần nữa. Lần này chàng thật từ tốn, chậm rãi cầm dây cương, hai chân thúc nhẹ vào sườn nó, quả nhiên con ngựa ngoan ngoãn nghe lời. Đi độ hơn mười dặm, con ngựa đen này như trời ban thần lực, chạy càng lúc càng nhanh, hai người hai ngựa cứ thế băng băng trên lộ lớn về phía nam.
     
    Phan Kim Tiên, Chiên Min'sHương JY thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 14 Tháng hai 2020
  7. TrieuNguyen

    Bài viết:
    51
    Chương VI: Sông Hồng Đả Tặc

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đi đến chiều tối, hai người dừng lại trước một khúc sông nhỏ, buộc ngựa vào một gốc cây rồi đến bên bờ sông rửa mặt. Nước sông khoảng chừng năm sáu thước, từ trên nhìn xuống có thể thấy được đáy. Triệu Hùng gom một nắm cỏ khô đốt làm đuốc, dí xuống sát mặt nước, dùng ánh sáng dẫn dụ xem thử có con cá nào ngoi lên hay không. Chàng rọi một hồi, đến khi cỏ đã cháy gần hết, thấy cánh tay nóng rực không sao giữ lâu hơn được nữa, đành ném luôn ngọn đuốc xuống sông, thất vọng trở lại chỗ gốc cây. Văn Tôn đã rải cỏ khô thành một tấm thảm lớn, hai người nhóm lửa ngồi sưởi ấm, cảm thấy bụng bắt đầu đói nhưng quanh đây không có cây trái gì ăn được, định đi ngủ sớm cho quên đi cái bụng đang cồn cào. Bỗng thấy từ hướng bờ sông có đứa bé xách một cái giỏ mây đi tới, mình mẩy ướt sủng. Thằng nhỏ độ chừng chỉ năm sáu tuổi, nước da ngăm đen, quần áo rách rưới, mặt mày khắc khổ trông như ông cụ non tiến lại gần chỗ hai người, nói:

    - Hai vị ca ca có phải muốn ăn cá? Đệ có rất nhiều đây này, hai vị có mua không?

    Triệu Hùng thấy đứa nhỏ này nói năng lưu loát, không sợ người lạ, liền nói với nó:

    - Ai bảo với đệ là bọn ta muốn ăn cá, bọn ta muốn ăn thịt trẻ con cơ!

    Thằng nhỏ cười hì hì, nói:

    - Chỉ có người ở hải ngoại mới ăn thịt trẻ con thôi, ca ca đừng có dọa đệ. Vừa rồi đệ nhìn thấy ca ca dùng mồi lửa dụ cá, như thế chẳng phải thích ăn cá còn gì?

    Triệu Hùng thầm kinh ngạc, đứa trẻ này sao lại biết đến bọn Thiên Đạo giáo ở hải ngoại? Hơn nữa khi chàng ở bờ sông đã quan sát rất kỹ, lúc đấy xung quanh làm gì có một ai, sao nó lại biết muốn mình dùng mồi lửa để bắt cá? Liền hỏi nó:

    - Này cậu bé, đệ đã nấp ở đâu, sao bọn ta không nhìn thấy?

    Thằng nhỏ cười, nói:

    - Đệ đâu có nấp hai vị ca ca làm chi, đệ ở ngay trước mặt hai vị, la do hai vị không để ý đấy thôi!

    Văn Tôn và Triệu Hùng cùng đưa mắt nhìn nhau, thầm cho là thằng nhỏ này nói dối. Văn Tôn nhớ lúc chàng đi lòng vòng kiếm củi, xung quanh đâu có nhìn thấy ai, lý nào đứa nhỏ này lại biết thuật thông thiên độn thổ? Chàng cau mày nói với nó:

    - Này bé con, đệ không được nói dối, nói dối là xấu lắm, sẽ bị ông ba bị ăn thịt có biết không?

    Thằng nhỏ thấy chàng làm bộ dữ tợn, lí nhí nói:

    - Đệ đâu có nói dối hai vị ca ca làm chi, đệ lặn xuống dưới sông bắt cá từ trước khi hai vị ca ca đến đây nữa cơ. Mấy con cá bị đệ dọa nên hoảng sợ chạy hết, đâu có con nào dám ngoi lên để cho vị ca ca này bắt đâu!

    Vừa nói vừa chỉ vào Triệu Hùng. Hai người "Ồ" lên kinh ngạc. Từ lúc họ tới đây cũng đã bằng thời gian cháy tàn một cây nhang, ngay đến một con cá cũng không thấy trồi lên, đứa trẻ kia nếu không phải nói dối nghĩa là nó đã lặn ở dưới nước rất lâu, điều đó quả thực phi thường. Nước sông lúc trong lúc đục, lại có nhiều rong rêu lởn vởn, thành thử dẫu có năm bảy người lặn dưới đáy cũng khó mà phát hiện, nói chi là một thằng bé nhỏ thó, đen nhẻm như thế này. Da dẻ nó cũng bắt đầu trở nên tái nhợt, xem ra đúng là đã ngâm mình dưới nước rất lâu, Triệu Hùng hỏi:

    - Tại sao giờ này đệ lại một mình ở đây bắt cá? Còn cha mẹ của đệ đâu, sao lại để đệ đi lang thang thế này?

    Thằng nhỏ bỗng nhiên sầm mặt, buồn bã nói:

    - Đệ đâu có đi lang thang, là đệ đang làm việc đấy thôi. Mẹ đệ không may mất sớm, chỉ còn lại hai cha con ngày ngày chài lưới sống với nhau. Tháng trước cha đệ bỗng dưng lại bệnh nặng, không ra sông đánh cá được nữa, đệ hàng ngày đều tới chỗ này chỗ nọ mò cua bắt ốc, đem ra chợ đổi lấy gạo, lấy thuốc về nấu cho cha. Mùa này nước sông nước suối đều vơi đi, cá tôm cũng chẳng còn nhiều, đệ từ làng Hạ Bì, huyện Gia Lộc xuống tận đây mới kiếm được một ít, nhưng bây giờ đã trễ chợ chiều, không biết phải bán số cá này cho ai, may sao gặp được hai vị ca ca đây, hai vị mua giúp cho đệ nhé!

    Triệu Hùng thấy nó tuy ít tuổi song điệu bộ cử chỉ lại hệt như người lớn, nghèo khổ cơ cực mà không mất đi cái nhân phẩm cao quý, kiếm tiền bằng chính công sức của bản thân, ngay đến chàng năm xưa chịu cảnh mồ côi cũng chỉ biết trộm cắp sống qua ngày, trong lòng vừa khâm phục vừa thương cảm, nói:

    - Được, ca ca sẽ mua hết cho đệ, để đệ về lo cho gia gia, có chịu không?

    Thằng nhỏ vỗ tay vui mừng, nói:

    - Đa tạ hai vị ca ca! Đa tạ hai vị ca ca!

    Triệu Hùng đưa cho nó hai mươi quan tiền, lấy cái giỏ mây trút ra, quả nhiên bên trong có ba con cá chép to hơn hai bàn tay gộp lại, ngoài ra còn có khá nhiều tôm tép. Thằng nhỏ nhận được số tiền lớn, sung sướng ra mặt, hớn hở cúi chào hai người mấy lần rồi mới quay đầu chạy đi. Văn Tôn thấy đứa trẻ này tuổi còn nhỏ mà bơi lặn hơn người, lại lễ phép hiếu thuận, mai này ắt sẽ trở thành một nhân vật kiệt xuất, bản thân tự hổ thẹn không bằng, gọi với theo hỏi nó:

    - Này tiểu đệ, bọn ta còn chưa biết tên của đệ là gì?

    Thằng nhỏ đã chạy đi một đoạn xa, nghe Văn Tôn hỏi liền quay người lại, hai tay bắt làm loa trả lời:

    - Đệ tên Phạm Hữu Thế!

    Rồi lại quay đầu chạy tiếp, khuất hẳn vào những đám lau đằng xa.

    Hai người mổ bụng cá, đem nướng cùng với mớ tôm tép thế là được một bữa no nê, ăn xong lại nằm lăn ra ngủ.

    Sáng sớm hôm sau tiếp tục lên đường. Mùa này ruộng lúa đều bỏ hoang, không ai canh tác, Triệu Hùng muốn hỏi thăm hành tung của bọn cướp nhưng chẳng bắt gặp người nào, đành cứ theo hướng nam mà đi thẳng. Hai con ngựa đêm qua gặm cỏ đến căng bụng, cước lực vốn đã nhanh giờ lại còn nhanh hơn, chưa đầy hai canh giờ đã đến bến Hàm Tử. Sông Hồng bắt nguồn từ bên nước Đại Lý, chảy qua Đại Việt rồi đổ ra biển Đông, là nguồn tưới tiêu chính cho cả vùng Khoái Châu, mực nước lúc bấy giờ cũng cao hơn nhiều so với mấy con sông nhỏ quanh đây. Ngay bến thuyền có một quán nước nhỏ, song không thấy ai buôn bán, bàn ghế cái thì ngả, cái thì nghiêng, giống như đã bỏ phế từ lâu. Thấy có dăm bảy chiếc ghe neo gần bờ, trên ghe nào cũng đầy ắp nào chài nào lưới, dụng cụ đánh cá, nhưng bốn bề không thấy một bóng người, Triệu Hùng nghĩ thầm: "Ngư dân ở đây không ra sông đánh cá, ruộng lúa cũng bỏ hoang, lý nào không cần làm mà cũng có của ăn của để?" Bỗng thấy giữa dòng có một chiếc thuyền lớn từ bờ bên kia bơi qua, Triệu Hùng liền giơ tay báo cho họ biết muốn đi nhờ sang sông. Trên thuyền cũng có một người bước ra từ trong khoang giơ tay đáp lại. Một lát sau thì chiếc thuyền lớn từ từ cập bến, trên thuyền có một người đàn ông trung niên đã đứng sẵn ở mạn nói với sang:

    - Phải chăng hai vị công tử muốn đi sang bên kia?

    Triệu Hùng nói:

    - Cảm phiền đại thúc đưa chúng tôi cùng hai con ngựa qua sông!

    Người kia tỏ vẻ không hài lòng, quay sang nhìn hai con ngựa rồi quay lại nhìn hai người Văn, Triệu nói:

    - Thủy thủ không nhiều, chỉ nhận người, không nhận ngựa!

    Triệu Hùng lấy một nén bạc đưa ra trước mặt, nói:

    - Phiền đại thúc giúp cho!

    Đoạn ném nén bạc lên thuyền, người kia nhanh tay chụp lấy rồi cất luôn vào túi. Từ trong khoang thuyền có một người thanh niên vác một tấm ván to đi ra, bắt ngang giữa chiếc thuyền và bờ sông, Văn Tôn, Triệu Hùng vừa dắt ngựa lên thuyền thì y lại lập tức vác tấm ván trở vào. Miếng gỗ đó thật lớn, áng chừng phải nặng hơn trăm cân, vậy mà y nâng lên hạ xuống chỉ dùng có một tay, mặt mày thản nhiên cứ như nhấc cành cây khúc củi không bằng. Người thuyền phu trung niên dẫn họ dắt hai con ngựa xuống hầm, xong ba người lại quay trở lên. Triệu Hùng thấy sóng êm gió lặng, bước tới chỗ mũi thuyền thưởng cảnh, thấy xa xa có một đàn cá lớn trồi lên, đen ngòm cả mặt nước, quay lại hỏi người thuyền phu trung niên:

    - Khúc sông này thật rộng, tôm cá lại nhiều, cớ sao chẳng có lấy một ngư dân ra sông đánh bắt, chẳng hay đại thúc có thể cho biết được chăng?

    Thuyền phu trung niên diện mạo đoan nghiêm, song tính tình cổ quái, dương như lấy làm khó chịu, lắc đầu không đáp.

    Triệu Hùng thấy y hờ hững lạnh nhạt thì cũng không hỏi thêm, dõi mắt nhìn sông nước mênh mông. Văn Tôn lớn lên ở vùng biển Hải Đông, ngồi thuyền vượt sóng đã quen, ngắm đông ngắm tây một hồi chán chê mới đến chỗ Triệu Hùng, chỉ sang bờ bên kia, nói:

    - Đại ca, huynh xem, đám lau sậy bên đó có mấy người cứ thập thập thò thò, phải chăng cũng tập trận cờ lau giống như Đinh Bộ Lĩnh năm xưa?

    Triệu Hùng nhìn theo hướng tay Văn Tôn, quả nhiên có mấy người đang ẩn nấp sau bãi sậy, chưa biết ý đồ là gì, song thiết nghĩ phải cẩn thận đề phòng vẫn hơn. Chàng quay sang người thuyền phu trung niên, thấy y mặt mày thản nhiên, xem chừng chưa nhận ra có người mai phục, còn thuyền viên trẻ tuổi kia thì từ đầu vẫn ở trong khoang thuyền, không ló mặt ra ngoài. Ngoảnh đầu lại bỗng thấy đám người kia đang tiến đến bờ sông ngày một nhanh, trong khoảnh khắc có mấy ánh quang lóe lên, chàng biết bọn người kia có mang theo binh khí, không chừng sẽ đánh cướp cũng nên, liền ghé tai Văn Tôn nói nhỏ:

    - Đệ đi xuống dưới hầm coi chừng hai con ngựa, chốt cửa thật chặt, bao giờ nghe ta gọi thì hẵng mở!

    Văn Tôn chẳng biết cớ sự ra làm sao, song cũng không dám hỏi, đi thật nhanh xuống hầm, tìm mấy cọng dây cột cửa lại thật chặt.

    Lúc này chiếc thuyền còn cách bờ hơn chục trượng, Triệu Hùng còn chưa biết bọn lạ mặt kia có mục đích gì, võ công cao thấp ra sao, định bụng khi thuyền đến gần cỡ một trượng sẽ nhảy sang bên kia động thủ trước, tránh liên lụy đến Văn Tôn cũng như hai thuyền phu. Chàng đặt tay lên cán đao, chỉ chờ đến khoảng cách thích hợp là phi thân như lên bờ như đã tính. Bỗng đám người đang ẩn nấp trong bãi lau đồng loạt đứng phắt dậy, thấy có ba tên tay cầm binh khí, miệng hò hét lao về phía trước. Chiếc thuyền vẫn còn cách bờ gần mười trượng, người bình thường không cách gì có thể nhảy sang được, thế nhưng bọn người kia chân không dừng bước, dường như muốn lội sông lao lên thuyền thật. Chàng đồ rằng chúng sẽ bơi tới gần thuyền rồi tìm cách leo lên, liền nhảy lên thành thuyền đứng đợi sẵn, chỉ cần tên nào trèo lên sẽ lập tức đá rớt xuống sông. Đúng như suy đoán, ba người kia đã nhảy tõm xuống sông, tuy nhiên họ không bơi mà chạy bộ trên mặt nước, chàng lòng thầm kinh hãi: "Trên đời lại có người khinh công tuyệt đỉnh như vậy ư?"

    Ba người đó xêm xêm nhau, áng chừng trên dưới ba mươi tuổi, trong chớp mắt đã lướt đến bên cạnh chiếc thuyền, chia ra ba hướng cùng nhảy lên. Một người cầm đơn đao, một người sử song chùy, người còn lại thì dùng trường kiếm, ngay tức khắc chĩa về phía Triệu Hùng. Mọi chuyện xảy ra quá ư bất ngờ, Triệu Hùng không sao lường trước được, nhưng rõ ràng chúng đến đây là muốn lấy mạng chàng, chỉ còn nước quyết đấu một trận mà thôi. Chàng quay sang người thuyền phu trung niên, nói:

    - Hai vị mau nhảy xuống sông bơi vào bờ, mọi chuyện ở đây cứ để ta lo!

    Thuyền phu trung niên vẫn dửng dưng như không, nói:

    - Ngũ đệ, đệ còn ở trong đó làm gì, mau ra đây nghênh địch!

    Thuyền phu trẻ tuổi từ trong khoang thuyền bước ra, Triệu Hùng thấy y chỉ có hai tay không nhưng thần lực hơn người, cũng không dám coi thường, còn thuyền phu trung niên kia tuy vóc dáng cao lớn, nhưng chưa biết võ công như thế nào, liền nói:

    - Đại thúc nếu không chê, có thể sử dụng đoản đao của ta!

    Thuyền phu trung niên chẳng nói chẳng rằng, đi đến chỗ mạn thuyền bên trái, rút ra một thanh trường kiếm đã dấu sẵn từ trước, đột nhiên chĩa thẳng vào Triệu Hùng, quát:

    - Tiền hay mạng, bọn mày chỉ có thể chọn một!

    Bấy giờ chàng mới vỡ lẽ, bọn chúng hóa ra cùng một giuộc với nhau, tên thiếu niên cường tráng kia là ngũ đệ, bốn tên còn lại chắc hẳn là từ đại ca đến tứ ca. May mà vừa rồi chàng đã bảo Văn Tôn trốn đi, mới có thể toàn tâm toàn ý đối phó với bọn đầu trộm đuôi cướp này.

    Tên cầm đơn đao là người hung hăng nhất trong đám, nhảy xổ tới chỉ mặt Triệu Hùng, quát:

    - Tiểu tử, nạp tiền hay nạp mạng?

    Triệu Hùng dương đao ra phía trước, nói:

    - Trên người tại hạ chẳng có gì quý giá, duy chỉ có thanh đoản đao này là vật bất ly thân, các hạ có muốn lấy hay chăng?

    Tên cầm đơn đao mắt như trợn ngược, nói:

    - Ối chà, thằng này láo, để hôm nay bổn đại gia xem thằng oắt con này có bao nhiêu bản sự!

    Đơn đao liền nhằm ngay đầu Triệu Hùng chém xuống. Triệu Hùng chân trái lùi một bước, vai hơi chếch, lưỡi đao chém sượt qua trước ngực. Tên cầm song chùy lập tức sấn lên, song chùy bổ chéo tới trước ngực Triệu Hùng. Người này thân hình nhỏ thó, cao chưa tới năm thước, song lực đạo lại cương mãnh phi thường, hai thanh thiết chùy lao đến như chẻ tre, đến con trâu mộng trúng phải cũng chưa chắc chịu nổi, Triệu Hùng không dám đưa đao lên đỡ, vội nhảy lùi ra sau hai bước. Y đánh vào không trung, cả người lảo đảo bổ nhào tới trước, may có tên cầm trường kiếm nhảy lên kéo lại, mới tránh khỏi ê mặt. Người này thân thủ cực nhanh, có bộ râu dài, y đi qua đi lại trước mặt Triệu Hùng một hồi rồi quay lại nói với hai người cầm trường kiếm và song chùy vừa tấn công Triệu Hùng:

    - Thằng oắt con này coi bộ cũng khá quá chứ. Nhị ca, tam ca, cứ để đệ thử nó vài chiêu.

    Thì ra năm tên này là năm anh em ruột mang họ Lý. Người cầm đơn đao là nhị ca, tên Lý Mộc; người cầm song chùy là tam ca, tên Lý Thủy; người thanh niên trên thuyền có sức khỏe phi thường là ngũ đệ, tên Lý Thổ; thuyền phu trung niên chính là đại ca của bọn chúng, tên Lý Kim.

    Tên có bộ râu dài đứng trước mặt Triệu Hùng là tứ ca, tên Lý Hỏa, trường kiếm xoẹt một cái đã đâm tới. Đường kiếm nhẹ nhàng tường chừng như vô hại, nhằm thẳng vào vai trái của Triệu Hùng. Chàng đưa đoản đao định gạt ra, chỉ thấy lưỡi kiếm hơi rung, kiếm hoa lóe lên chói cả mắt, trường kiếm đang từ bên trái bỗng vòng qua đâm vào đầu vai bên phải. Xảo chiêu này của y biến hóa quá nhanh, chàng không cách gì hóa giải, bèn hếch vai một cái, lưỡi kiếm đã cắt phăng một mảnh áo. Hai tên Lý Mộc, Lý Thủy tuy hung hăng ngang tàn, nhưng ngoài thể phách cường tráng ra thì không có gì ghê gớm, còn người này văn nhã gầy gò, nhìn giống như một người mắc bệnh lâu năm, võ công hóa ra lại cao hơn hẳn. Y một kiếm đã khiến đối phương mất đi một mảng áo, trong bụng đắc ý, sử liền ba chiêu Thiên Địa Khốn Cùng, Phong Hoa Truy Kích, Nam Bắc Đồng Tận, chiêu nào cũng là đòn sát thủ, hòng áp chế thắng địch.

    Một đạo kiếm hoa loang loáng bao quanh Triệu Hùng. Chàng biết kiếm pháp của đối phương xảo diệu, trong chiêu tất sẽ có biến hóa, khó bề chống đỡ, liền nhảy lên thật cao, lộn vòng ra sau lưng Lý Hỏa, trong khoảnh khắc đã điểm lên hai huyệt Khúc Trì và Kiên Ngung trên cánh tay phải của y. Lý Hỏa tưởng chừng đã áp chế được đối phương, dè đâu cánh tay phải tê chồn, trường kiếm trong tay không cách gì giữ được, thả luôn xuống đất. Lúc này y quá bất ngờ, không còn phòng bị gì nữa, Triệu Hùng nếu một chưởng từ sau lưng đánh tới, y lập tức sẽ văng ra khỏi thuyền. Bỗng từ bên trái có một luồn kình phong ào đến, Lý Thổ đã bẻ luôn cột buồm phụ quật ngang. Triệu Hùng không dám lơ là, vội nhảy sang một bên tránh đi. Hai tên Lý Mộc và Lý Thủy nhân đó vội chạy đế kéo Lý Hỏa sang một bên. Lý Hỏa từ thắng chuyển sang bại, tâm thần bất định, chẳng lý gì tới xung quanh, đứng trơ ra như tượng. Lý Thổ trời ban thần lực, ôm cột buồm xoay tít, đánh đông đánh tây một hồi vẫn không sao chạm được vào Triệu Hùng, ném luôn cái cột buồm hơn trăm cân về phía chàng.

    Triệu Hùng nhanh như chớp giật, đá nhẹ vào đầu khúc gỗ, cột buồm cứ thế bay luôn xuống sông, nước văng lên tung tóe. Lý Kim thấy bốn người em trai dở hết mọi món đòn vẫn không làm gì được đối phương, tay phải hơi động, trường kiếm đâm xếch về phía Triệu Hùng. Họ Lý năm người, mỗi người một vẻ, võ công lại chẳng ai giống ai. Kiếm chiêu của Lý Kim không nhẹ nhàng lả lướt như Lý Hỏa, ngược lại cương mãnh khinh linh, uy lực vô tả. Nếu như chiêu thức của tứ đệ biến hóa ảo diệu, trong chiêu sinh chiêu thì chiêu thức của người đại ca lại là một đạo dứt khoát, hiểm tử toàn sinh, đánh ra là muốn đoạt mạng đối phương. Mũi kiếm đâm liền ba nhát vào mắt, mũi và yết hầu Triệu Hùng. Chàng không hề hoảng loạn, dùng đoản đao gạt đi ba nhát đâm chí mạng. Đối phương xuất chiêu cực nhanh, ba nhát đâm tới như chớp giật, song đoản đao trong tay Triệu Hùng còn nhanh hơn, gạt đi một cách dễ dàng. Lý Kim thầm thán phục đối phương, trường kiếm lại từ bên dưới chém ngược lên, nhằm ngay bên cổ Triệu Hùng. Người này trầm tính kiệm lời, nhưng chiêu nào đánh ra cũng là đòn sát thủ, Triệu Hùng thầm kinh dị, liền sử chiêu Di Hình Hoán Vị, trong chớp mắt đã lẻn ra sau lưng y, một chưởng đánh thẳng ra. Lý Kim nhất thời không nhìn thấy địch thủ, bỗng sau lưng có một luồng kình lực ôn nhu ập vào, lồng ngực nhói lên như lửa đốt, tim gan như bị người ta bóp nát, miệng hộc máu tươi, khuỵu xuống sàn thuyền.

    Bốn người kia thấy thắng bại đã rõ, đối phương võ công cao hơn mình mấy bậc, nếu ngay từ đầu cùng liên thủ đối địch, may ra nắm được mấy phần thắng. Bấy giờ đại ca đã bị thương, bốn người có lao vào quần ẩu e là chỉ chuốc thêm cái khổ, cả bọn đưa mắt nhìn nhau, ngấm ngầm trao đổi. Bỗng Lý Thổ chạy tới ôm chặt lấy cột buồm, quát: "Gãy này!" Cây cột rung lắc dữ dội, sau cùng thì gãy rụp. Y như kẻ mất trí, ôm khúc gỗ quơ quào tứ phía, chiếc thuyền lớn chao đảo, sóng nước bắn tung tóe. Triệu Hùng thấy y như hóa điên hóa rồ, liền lùi lại mấy thước, tránh khỏi tầm công kích của khúc gỗ trong tay y. Ba người Mộc, Thủy, Hỏa liền chạy tới bế thốc Lý Kim lên; Mộc, Thủy hai người dìu y đi tới mũi thuyền, Lý Hỏa vừa đi lùi vừa giơ trường kiếm ra cảnh giới. Lúc này Lý Thổ cũng quẳng luôn cột buồm gãy về phía Triệu Hùng, chạy đến chỗ mấy người kia, cả bọn cùng nhảy ào xuống sông. Triệu Hùng chạy tới đầu thuyền, thấy bốn tên dìu Lý Kim băng băng trên mặt nước, theo lối cũ chạy về hướng bãi lau, sau cùng lẩn mất biệt. Chàng võ công tuy cao, nhưng khinh công đi lại trên mặt nước phiêu dật như thế kia thì tự biết mình không bằng, đành tụ thủ bàng quan, mặc cho chúng chạy thoát.

    Cả hai cột buồm đều đã bị Lý Thổ đánh gãy, nếu cứ đà này chẳng mấy chốc con thuyền sẽ xuôi theo dòng về hạ lưu. Triệu Hùng tháo mấy tấm ván lớn từ mạn thuyền buộc lại với nhau, tạo thành một chiếc bè vừa đủ để chở hai người và hai con ngựa qua sông, rồi xuống hầm gọi Văn Tôn trở lên. Chàng gọi mãi nhưng không thấy y trả lời, bèn đạp cửa xông vào, hóa ra y đã ngủ say từ đời nào, phải gọi mãi mới chịu tỉnh dậy.

    Hai người dắt ngựa lên trên. Văn Tôn thấy chiếc thuyền tan hoang, giống như vừa trải qua một trận cuồng phong vũ bão, cột buồm đã biến đi đâu mất, vết đao dấu kiếm khắp mọi nơi, trong bụng biết bao nhiêu khúc mắc. Đến khi cả người lẫn ngựa đều chuyển sang bè nhỏ, chàng liền hỏi cho ra đầu ra đũa. Triệu Hùng bèn đem tình hình lúc nãy kể sơ qua, y nghe xong tặc lưỡi nói:

    - Thế sự quả thực khó lường, có ai mà ngờ hai thuyền phu trầm mặc ít nói như thế lại là hạng mặt lạnh lòng lang, đầu trộm đuôi cướp!

    Chiếc bè nhỏ bấp bênh giữa dòng, tưởng như bất cứ lúc nào cũng có thể bị sóng đánh chìm. Khúc sông này nông sâu ra sao, bên dưới lại có hung thần thủy quái gì, nào có ai biết được, nhỡ may rơi xuống, là sinh hay là tử âu cũng do ông trời. Giống như giữa thiên hạ rộng lớn, họa phước vô thường, lòng người đa đoan, làm sao mới phân được thiện ác? Hai người thầm ngẫm lại những chuyện vừa trải qua, trong lòng khắc khoải, lặng lẽ chèo vào bờ.
     
    Phan Kim Tiên, Chiên Min'sHương JY thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 14 Tháng hai 2020
  8. TrieuNguyen

    Bài viết:
    51
    Chương VII: Cường Đạo Báo Thù

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Chiếc bè nhỏ ngang dòng tấp vào bờ, hai người hai ngựa lại tiếp tục xuôi về hướng nam. Phía trước có một cái thôn nhỏ, nhà cửa thưa thớt, là một làng chài ven sông, không khí vắng lặng đến lạ thường. Đi thêm một đoạn bỗng thấy ở căn nhà bên phải có hai bà cháu đang ngồi trước sân, Triệu, Văn hai người bèn bước vào xin nước uống. Đại nương lớn tuổi đang ẵm đứa bé khoảng chừng vài tháng tuổi, miệng nó khóc ré lên không ngừng, trông thấy hai thiếu niên lạ mặt chợt đứng phắt dậy, bế đứa nhỏ chạy vào trong nhà. Triệu Hùng thấy bà ta hành vi kỳ quặc, trong lòng hiếu kỳ song không dám nói năng thô lỗ, đứng từ bên ngoài hỏi vọng vào:

    - Thưa đại nương, huynh đệ chúng cháu đang trên đường ngao du, ngang qua đây chỉ muốn xin người ngụm nước uống mà thôi, không biết có được chăng?

    Đại nương kia thập thò nhìn ra, ngó hai người một lượt từ trên xuống dưới như dò xét rồi nói:

    - Sau nhà có lu nước, hai vị cứ tự nhiên!

    Triệu Hùng, Văn Tôn nhìn nhau, trong lòng thầm kỳ lạ, vội vã đi ra sau nhà tìm nước uống. Người Khoái Châu lâu nay vẫn nổi tiếng hiếu khách, dù là quan binh hay con buôn ngang qua cũng niềm nở đón tiếp, không hiểu vì lý gì mà vị đại nương kia lại rụt rè e sợ, chỉ đứng từ trong nhà nói vọng ra, lễ nghi tiếp khách như thế quả thật xưa nay chưa từng thấy. Hai người uống nước xong lại quay ra trước, đa tạ vị đại nương kia rồi tiếp tục lên đường. Đứa trẻ trong nhà chẳng hiểu cớ gì khóc càng lúc càng lớn, Triệu Hùng tính tình hào sảng, lại hỏi vọng vào trong:

    - Đứa nhỏ kia chẳng hay bị bệnh gì? Vãn bối từ lúc vào đây đã nghe nó khóc suốt. Vãn bối cũng biết sơ qua một chút việc xem mạch chẩn bệnh, nếu đại nương không chê vãn bối lắm điều, có thể bế nó ra đây cho vãn bối thăm mạch được chăng?

    Đại nương kia vẫn không thấy trả lời, Văn Tôn kéo tay Triệu Hùng đi ra ngoài. Chàng thấy bà ta tính tình cổ quái, sợ ở đây lâu lại xảy ra cớ sự xui xẻo gì nữa cũng không chừng. Hai người đang định nhảy lên ngựa, bỗng người đà bà kia ôm đứa nhỏ từ trong nhà chạy ra, khóc lóc nói:

    - Hai vị thiếu hiệp xin dừng chân, thằng nhỏ này chẳng hiểu mắc bệnh gì, từ sáng đến giờ cứ khóc mãi không thôi, xin hai vị xem qua!

    Đoạn đưa đứa nhỏ sát lại chỗ Triệu Hùng. Chàng cầm tay đứa bé, thấy kinh mạch bình thường, mặt mũi trắng hồng, khá khỉnh đáng yêu, hoàn toàn không có bệnh tật gì cả, nói:

    - Không biết sáng giờ đại nương đã cho nó ăn uống gì chưa?

    Đại nương kia mặt mày sầu khổ, nói:

    - Cha mẹ nó sáng sớm đã lên núi đốn củi, lão chẳng biết kiếm đâu ra đồ ăn cho nó, phải đến tối mẹ nó về thì mới có cái mà bú!

    Triệu Hùng ngạc nhiên, hỏi:

    - Nơi này rõ ràng là làng chài, sao lại không ra sông đánh cá mà phải lên núi đốn củi? Hơn nữa từ lúc vãn bối đến đây, ngoài sông không thấy ai chài lưới, trong làng cũng không có bóng người, vãn bối ngu muội, thật không biết ở đây đã xảy ra biến sự gì?

    Đại nương kia nhìn hai người một hồi, nói:

    - Hai vị chắc là từ nơi khác đến?

    Triệu Hùng chắp tay đáp:

    - Vãn bối họ Triệu, tên Hùng. Người này là nghĩa đệ của vãn bối, Văn Tôn.

    Văn Tôn cũng bước lên, chắp tay nói:

    - Huynh đệ tiểu sinh vừa mới tới vùng này đã bị bọn ác tặc đánh cướp, may thay bình an vô sự, hoàn toàn không có ý đồ xấu, đại nương không cần phải lo lắng.

    Bà ta thấy hai người lạ mặt nên đem bụng đề phòng, bấy giờ như đã tháo được mối hiềm nghi trong lòng, liền đem tình hình thế sự ở Hàm Tử thuật lại cho Triệu, Văn hai người. Nguyên bà ta họ Lý, gia đình cả ba đời đều sinh sống ở đây từ thời Lý Huệ Tông. Dân chúng trong vùng từ trăm năm nay vẫn mưu sinh nhờ vào tôm cá dưới sông Hồng. Hơn nửa năm trước, bỗng từ đâu kéo đến mười mấy tên côn đồ, tự xưng là Hồng Giang Ngũ Hiệp, hễ ai muốn ra sông đánh bắt đều phải nạp cho chúng năm mươi quan tiền mỗi tháng. Ngư dân trong vùng ai cũng căm phẫn bất tuân, song năm bảy lượt chống đối đều bị chúng đánh cho bán sống bán chết, cuối cùng đành phải bấm bụng cống nộp cho bọn chúng.

    Cái nghề ngư phủ có khá khẩm là bao, thủy sản đánh bắt được đem ra chợ đổi lấy gạo thịt cũng chỉ đủ nuôi sống mấy miệng ăn trong nhà, bây giờ mỗi tháng phải chi ra năm mươi quan tiền, thử hỏi còn có ai muốn ra sông mà chài lưới? Tôm cá tuy nhiều song có bắt ngày bắt đêm cũng không cách gì kiếm hơn năm mươi quan tiền mỗi tháng, mọi người đều chán nản bỏ sông lên núi chặt cây đốn củi, săn bắn sống qua ngày. Ấy thế mà nào có được yên, bọn ác nhân kia thấy không ai ra sông đánh cá nữa, liền kéo vào trong làng trấn lột. Nhà nào không có tiền thì chúng lấy gạo, không có gạo thì chúng đánh đập. Tội nghiệp nhất là mấy cô thiếu nữ bị chúng hãm hiếp đến có mang, nhục nhã phải treo cổ tự vẩn. Ai nấy đều phẫn uất hãi hùng, chỉ còn nước bỏ đi xứ khác mà sống, đến giờ trong làng già trẻ lớn bé chưa tới một trăm người.

    Triệu Hùng nghe chuyện bất bình, nộ khí nổi lên, nói:

    - Những chuyện thương dân hại nước sờ sờ như vậy, lẽ nào quan phủ không ngó ngàng gì tới?

    Lý đại nương thở dài nói:

    - Chúng tôi ai ai cũng phẫn uất, nhiều lần chống đối bị bọn chúng vũ nhục, sau cùng chỉ còn biết cầu cứu quan phủ. Khổ nỗi trời thì cao, hoàng đế lại ở xa, mỗi khi quan binh đến thì chúng lại trốn mất tăm, có làm gì được chúng đâu, quan binh đi rồi thì chúng lại ra tay tác quái. Mấy lần đều như thế, sau cùng quan phủ cũng đành phải bó chiếu xem như chẳng biết chuyện gì, dân chúng ở đây khổ vẫn hoàn khổ, đành cắn rơm cắn cỏ sống được ngày nào thì hay ngày đó.

    Quốc pháp tuy nghiêm, song cũng không thể đóng quân túc trực ở đây mãi chỉ vì mười mấy tên trộm cướp, Triệu Hùng thầm kêu khổ, nói với Lý đại nương:

    - Mọi người ở đây đều bỏ đi xứ khác mà sống, cả nhà đại nương tội tình gì phải ở lại đây chịu khổ?

    Lý đại nương lắc đầu, nói;

    - Ở đây là nơi chôn nhau cắt rốn, rồi mồ mả tổ tiên mấy đời không ai coi ngó, sao có thể bỏ đi nơi khác không màng đến? Huống hồ những người khác phần vì căm ghét bọn ác nhân, phần vì trong nhà còn có nữ nhi yếu đuối, mới cam lòng bỏ xứ ly tán, nào có sung sướng gì. Họ tuy thoát khỏi bọn ác tặc ở đây, song tay không tấc đất, biết sống bằng cách nào, chỉ còn nước bán thân làm nô tì nô bộc cả đời, khác nào từ hang sói lại nhảy sang miệng cọp? Cả nhà lão thà chết khổ ở quê hương, còn hơn phải ly tán rồi bỏ thây xứ người!

    Triệu Hùng từ nhỏ lưu lạc, cô khổ trăm điều, chàng nhớ có một hôm cũng thấy người ta treo biển mua gia nhân nên đã định bán thân. Lúc đó chàng còn nhỏ, chỉ nghĩ rằng làm nô bộc cho một gia đình phú hộ giàu chí ít cũng được cái ăn chỗ ở, dẫu sao cũng hơn cái cảnh rày đây mai đó, trộm cắp sống qua ngày. Chàng đâu biết địa vị của những người nô bộc lúc bấy giờ là thấp kém nhất, một khi bán thân thì số phận xem như đã nằm trong tay người khác, sống chết đều không tự mình quyết được nữa. Có những gia đình sau khi mua tôi tớ về sẽ khắc lên người họ những ký hiệu riêng, xem như vật sở hữu của mình, có những gia đình quý tộc khi chết còn đem tất cả gia nhân chôn cùng, cảnh tượng chôn sống thảm khốc rùng rợn đến thê lương, chẳng mấy ai muốn nhớ tới. May thay khi ấy tên gia nhân già thấy chàng nhỏ tuổi ốm yếu, vừa thương hại vừa tức giận, đuổi chàng đi chỗ khác, bây giờ nghĩ lại thật phải cảm ơn y mới đúng.

    Lại nghe Lý đại nương nói tiếp:

    - Ông trời xem ra cũng chưa phải mù hẳn, nửa tháng nay có một tiểu tiên cô ghé ngang nơi này, thấy mọi người trong làng khổ sở, hàng ngày đều mang lương khô với sữa dê đến ban phát. Bọn trẻ trong làng cũng nhờ đó mà thoát khỏi cảnh đói khát, khóc la om sòm.

    Văn Tôn vừa nghe ba tiếng "tiểu tiên cô" đã hiếu kỳ không sao nhịn được, Lý đại nương vừa dứt lời chàng liền hỏi:

    - Dám hỏi Lý đại nương tiểu tiên cô ấy là thần tiên phương nào, sao lại có tấm lòng từ bi hỷ xả đến thế?

    Lý đại nương bỗng bật cười, nói:

    - Tiểu thư ấy vừa xinh đẹp tuyệt trần, lại có tấm lòng nghĩa hiệp, bọn ta có hỏi đến danh tính nhưng tiểu thư không chịu trả lời, đành gọi nàng là tiểu tiên cô. Công tử nghĩ trên đời này vẫn còn tồn tại thần tiên hay sao?

    Văn Tôn gãi đầu gãi tai nói:

    - Dẫu cô ta là một người có tấm lòng bồ tát đi chăng nữa, cũng đâu thể gọi là thần tiên hay quỷ tiên, đại nương nói như thế tiểu sinh những tưởng cô ta còn có phép thuật gì cao siêu hơn người chứ?

    Lý đại nương thấy chàng tính khí trẻ con, không thèm chấp nê, cười nói:

    - Tiểu thư đó thật là không có phép thần thông, nhưng bản sự thì hơn hẳn người thường, dẫu có gọi là thân tiên cái thế cũng không có gì quá đáng!

    Văn Tôn vồ vập hỏi:

    - Có phải nàng ta biết nay, hay nàng ta có thuật kì môn độn thổ, hay nàng ta..

    Triệu Hùng liền đưa tay bịt miệng chàng lại, nghiêm mặt nói:

    - Văn đệ không được vô lễ, Lý đại nương sẽ mắng cho đấy!

    Lý đại nương xua tay cười, nói:

    - Vị công tử này tính tình bộc trực, nghĩ gì nói đó, thật khiến cho người ta yêu thích!

    Đoạn điềm tĩnh nói tiếp:

    - Hôm đó bọn ác nhân kia lại kéo vào thôn trấn lột, thanh niên trai tráng trong lang đều lên núi hết cả, trong nhà chỉ còn mấy bà già và trẻ con. Chúng không chiếm được lợi ích gì, liền xoay qua đánh đập mọi người. May thay lúc ấy tiểu thư trẻ tuổi kia đi ngang qua, nếu không bây giờ không chỉ lão đã chẳng còn mạng ngồi đây trò chuyện với hai vị, mà e rằng tiểu hài nhi tội nghiệp kia cũng..

    Tới đây bỗng nghẹn ngào. Văn Tôn nhìn thằng bé trên tay bà ta, thấy nó trắng trẻo đáng yêu, miệng oe oe khóc, quay sang Triệu Hùng nói:

    - Đại ca, bọn ác nhân này tác ác bất lương, thua cả cầm thú, khiến cho mấy đứa trẻ phải chịu đói chịu khát, khổ sở biết bao nhiêu, huynh nhất định phải trừng trị bọn chúng một phen cho thỏa cơn giận!

    Triệu Hùng gật đầu nói:

    - Đệ an tâm, người làm việc ác tất sẽ gặp báo ứng, huynh đẫu không bắt được bọn chúng ắt có ngời bắt được bọn chúng. Trời cũng sắp tối rồi, hai ta hãy đi kiếm một khách điếm nào đó nghỉ lại, sáng mai sẽ đi dò la hành tung của bọn này.

    Lý đai nương nghe vậy liền nói:

    - Hai công tử đây quả là người lương thiện hiếm thấy, lão đây có đôi điều muốn khuyên can hai vị, không biết hai vị có muốn nghe hay không?

    - Triệu Hùng khẩn khoản nói:

    - Vãn bối mong được Lý đại nương chỉ giáo?

    Lý đại nương nói:

    - Chỉ giáo thì không dám. Thứ nhất, trong làng này cũng như các làng lân cận, từ lâu đã không có ai lui tới, các quán trọ khách điếm đều đóng cửa dẹp tiệm, chủ cả thì bỏ đi nơi khác, cho nên các vị không nên tìm làm gì cho mất công. Thứ hai, bọn người kia người đông thế mạnh, võ nghệ lại cao cường, huynh đệ hai vị tốt nhất ngày mai hãy mau chóng rời khỏi cái nơi thị phi đói rách này, không nên tự chuốc khổ vào thân!

    Văn Tôn nghe xong liền nói:

    - Lý đại nương, đại nương không biết đấy thôi, nghĩa huynh của tiểu sinh võ công trác tuyệt, xưa nay hành thiện trừ bạo khắp mọi nơi, người đời còn gọi huynh ấy là đại..

    Triệu Hùng liền hắng giọng mấy tiếng, liếc mắt nhìn Văn Tôn, nói:

    - Văn đệ, không được khua môi múa mép, Lý đại nương sẽ chê cười cho đấy!

    Văn Tôn ngượng nghịu cúi đầu không nói nữa. Lý đại nương mỉm cười hiền hậu, dỗ dành đứa bé trong tay, nói:

    - Điệt nhi, sao con không mời hai vị ca ca tốt bụng này ở lại nhà ta một đêm, cha mẹ con chắc hẳn sẽ vui lắm cho mà coi!

    Triệu Hùng biết ý tốt của bà ta, song thấy gia cảnh họ khó khăn, nhà cửa chật chội, ở lại thì bất tiện, từ chối thì không đặng, đành chắp tay nói:

    - Lý đại nương quả thật hiếu khách, huynh đệ vãn bối trước giờ đã quen với màn trời chiếu đất, chỉ xin tá túc một đêm ở cái chuồng ngựa bỏ hoang kia, được như thế thì mang ơn chẳng để đâu cho hết!

    Lý đại nương biết họ ái ngại, cũng không miễn cưỡng thêm, nói:

    - Vậy hai vị phải chịu khổ một đêm rồi. Lão phải vào trong dỗ thằng nhỏ này đã, hai vị cứ tự nhiên!

    Hai người gom mấy ôm rơm mục trải trong chuồng ngựa làm đệm, nhóm một đóng lửa nhỏ ngồi nghỉ ngơi dưỡng sức.

    Bên ngoài trời tối đen như mực, một lúc sau thì mặt trăng chiếu sáng khắp nơi. Từ xa xa nghe có tiếng hát lánh lót của một người đàn bà, một bài đồng dao vừa da diết vừa vui tươi:


    Ác nhân kia hỡi sống được bao?

    Hại người khốn khổ cớ làm sao?

    Nhân tình chẳng có, mi nào biết

    Tình chàng nghĩa thiếp đến nhường nào?

    Hai ta vui sống chẳng lìa xa

    Sớm hôm ân ái vẫn mặn mà

    Dẫu có tan xương tình nào úa

    Kiếp này kiếp nữa chẳng phôi pha.

    Tiếng hát dường như mỗi lúc một gần rồi mất hẳn. Bỗng như có tiếng người trò chuyện ngay đầu ngõ, Triệu Hùng tới bên cửa chuồng ngựa nhìn ra, thấy hai người một nam một nữ, tuổi chừng hăm chín ba mươi, vừa cười vừa nói đi vào trong sân. Người đàn ông trung niên ăn mặc như nông phu, trên vai gánh hai lọn củi, cất tiếng gọi:

    - Mẫu thân, chúng con về rồi đây!

    Hóa ra người này chính là con trai của Lý đại nương. Người đàn bà kia một tay xách mấy bó rau, tay còn lại cầm một xâu thịt nhỏ, chắc hẳn họ là hai vợ chồng. Triệu Hùng thấy hai người dáng vẻ cơ khổ, song trên mặt người nào cũng tươi tắn, chốc chốc lại liếc mắt nhìn nhau đầy âu yếm.

    Lý đại nương từ trong nhà đi ra, ba người gặp nhau thì niềm niềm nở nở hết mực, cứ như đã xa cách lâu ngày, đến hôm nay mới có dịp tương hội. Họ chia nhau mang mọi thứ vào trong, người nhặt củi nhóm bếp, người múc nước thổi cơm, chẳng mấy chốc mà khói đã bốc lên nghi ngút, rồi mùi thức ăn tỏa ra thơm đến nứt mũi.

    Lát sau thì bữa tối dọn ra ngay trước cửa, thức ăn đều được bày lên trên một cái nia lớn. Mọi người đều quây quần, Lý đại nương liền đia chuồng ngựa mời Triệu Hùng và Văn Tôn vào ăn tối cùng. Hai người một mực từ chối, song Lý đại nương cứ nằng nặc mời mọc, họ đành miễn cưỡng theo bà ấy đi vào.

    Lý đại nương ngồi xuống một cái đòn bằng tre, hai người con thì ngồi bệt xuống đất, bà chỉ vào hai cái đòn bên cạnh, nói:

    - Hàn xá đơn sơ, xin hai vị công tử đừng ngại!

    Nhà họ chỉ vỏn vẹn có ba cái đòn tre, ngày thường vẫn mỗi người một cái, hôm nay có khách nên nhường phần tốt cho khách, hai người con phải ngồi hẳn xuống đất. Người con trai cười hì hì, nói:

    - Tại hạ họ Ngô, năm xưa sinh ra ở chỗ đầm lầy nên phụ thân mới đặt cho cái tên là Trạch. Ta đã nghe mẫu thân kể về hai vị, hai vị huynh đệ tuổi còn trẻ mà phẩm chất đã hơn người, thật là anh tài xuất thiếu niên.

    Đoạn quay sang chỉ người đàn bà ngồi bên cạnh, nói:

    - Còn đây là hiền thê của ta, thị tên là Mạc Hoàng Phương!

    Đôi bên chào hỏi nhau, nói mấy câu khách sáo rồi cùng ăn uống vui vẻ. Ngô Trạch tính tình thật sảng khoái, luôn miệng nói hết chuyện này đến chuyện nọ, thao thao bất tuyệt suốt cả bữa ăn, làm cho ai nấy cũng hết sức hoan hỷ, ăn sạch cả một nồi cơm lớn.

    Ăn tối xong Lý đại nương lại vào trong trông chừng thằng bé đang ngủ say, Ngô Trạch cùng thê tử dọn dẹp chén bát, huynh đệ Triệu Hùng nói muốn giúp một tay nhưng y cứ khăng khăng từ chối, họ đành trở ra chuồng ngựa nằm ngủ.

    Đến đầu giờ tý, mấy con chó trong làng bỗng nhao nhao sủa nhặng cả lên. Triệu Hùng liền tỉnh giấc, chàng nghe từ hướng bờ sông có hàng loạt những tiếng lộc cộc đang tiến đến ngày một gần, nghĩ thầm: "Nửa đêm nửa hôm, quan binh dẫu có tuần hành cũng đâu cần đông người đến thế?" Liền nhảy vọt lên mái chuồng ngựa quan sát. Trong đêm vắng, thấy có một đoàn nhân mã hơn mười người đang rùng rục kéo vào làng. Đoàn người ngựa này nối nhau thành một hàng dài, lẫn trong đám người có những ánh bạch quang lóe lên lấp lánh, Triệu Hùng biết những người này có trang bị vũ khí, đêm hôm lũ lượt kéo đến đây ắt chẳng phải hạng tốt lành gì, bèn ngồi yên trên mái chờ coi động tĩnh.

    Đoàn người tới cách ngõ nhà Lý đại nương khoảng chừng mười trượng bỗng nhất loạt gò cương đứng lại, mấy con ngựa hí lên mấy tiếng rồi im hẳn, tất cả đều nhảy xuống ngựa đi bộ. Cả bọn lom khom, rồng rắn nối đuôi nhau đi vào nhà của Lý đại nương. Triệu Hùng từ bên trên nhìn xuống, thấy cả thảy có mười lăm người, kẻ thấp kẻ cao, tên gầy tên béo, song người nào cũng ăn vận theo lối nông phu, trên tay lăm lăm giới đao trường kiếm sáng chói.

    Tên đi đầu cầm trường kiếm dài hơn hai thước, dáng người bình bình, bước chân nặng nề, giống như người đang bị trọng thương. Y đi đến trước cửa chuồng ngựa thì đột nhiên đứng lại, cả đám người phía sau thất thần va vào nhau đồm độp, nháo nhào cả lên, mấy tên còn té lăn cù ra đất, bị đất đá đâm vào người la lên oai oái. Tên đi đầu đưa tay lên ra hiệu, cả bọn liền lập tức im phăng phắc. Một tên cao lớn đứng phía sau lên tiếng:

    - Đại ca, tên đao khách kia không có ở đây, chi bèn chúng ta cứ lấy mạng thằng oắt con này trước rồi tính sau!

    Tên đi đầu cầm trường kiếm nói:

    - Giết hổ phải giết con đầu đàn trước, ta giết chết tên này e là thằng đao khách kia sẽ quay lại tính sổ, lúc đấy nhục lại càng thêm nhục. Bây giờ cứ bắt thằng lõi này làm con tin, thằng đao khách kia thể nào chẳng sợ ném chuột vỡ bình quý, khi đó không đánh cũng tự thắng, chả phải tốt lắm sao!

    Tên cao lớn đứng phía sau gật gù khen phải. Cả bọn đều ồ lên tán dương, nhưng không tên nào dám lớn tiếng. Tên đi đầu hất hàm một cái, từ phía sau có một người vừa cao vừa gầy như cây nêu, tay cầm một thanh trường kiếm hăm hăm bước vào trong. Người này có bộ râu dài quá ngực, dáng vẻ như một nho sĩ, y quá cao nên khi bước qua cửa phải cúi xuống thật thấp. Trong lúc y đang khom người xuống, tưởng như đã vào được bên trong, bỗng nghe bình một tiếng, rơm rạ từ trên mái rơi xuống lả tả như mưa giông, một luồng kình phong ào ạt ập đến ngay đỉnh đầu. Y hoảng hốt vội nhảy lùi về sau ba bước, sau ót va vào cái khung cửa bên trên đau đến thấu xương, đầu u lên một cục. Y thoát khỏi kình chưởng của đối phường, đứng bên ngoài vừa xoa đầu vừa lớn tiếng chửi:

    - Tổ cha thằng giặc nào đánh lén ông, ra đây nạp mạng thì may ra ông tha cho cái tội chết!

    Từ bên trong có một nam tử phong thái tiêu sái bước ra, tay cầm một thanh đoản đao màu vàng, chính là Triệu Hùng. Chàng phục trên mái nhà, nghe được toàn bộ âm mưu của bọn chúng, ngay khi tên râu dài vừa bước vào liền vung đao chém mái rơm làm đôi, từ trên nhảy thẳng xuống, một chưởng nhằm ngay đỉnh đầu y đánh tới. May sao y nhanh trí phát giác, nếu không chưởng đó đụng vào đầu lập tức vỡ sọ nát óc, không cách gì cứu được.

    Triệu Hùng thấy mấy tên đứng trước đều quen mặt, thì ra bọn chúng chính là năm tên tự xưng Hồng Giang Ngũ Hiệp nhà họ Lý mà chàng đã giao chiến trên sông Hồng. Chàng đưa mắt nhìn cả bọn một lượt, nói:

    - Các người đang đêm đang hôm lẻn vào đây, lén lén lút lút, sao lại còn dám trách ta ra tay đánh lén? Huống hồ là ta đứng trước mặt ngươi đánh tới, tại ngươi có hành vi mờ ám, trong lòng lo sợ bị người ta phát giác nên mới không chú ý quan sát, chẳng thể trách ai!

    Cả đám thuộc hạ phía sau thấy chàng khẩu khí ngạo mạn, không coi năm vị thủ lĩnh của mình ra gì thì nhao nhao cả lên, đòi chém đòi giết. Tên đi đầu cầm trường kiếm chính là Lý Kim nói:

    - Ban trưa là do bọn ta tuân theo quy củ giang hồ, lấy một chọi một nên mới thua cho ngươi vài chiêu. Bây giờ huynh đệ bọn ta ai cũng bị trọng thương, dẫu có lấy năm địch một cũng không sợ đồng đạo võ lâm chê cười, mà ngươi cũng chiếm được không ít tiện nghi!

    Y biết nếu đơn đả độc đấu thì cả năm huynh đệ đều không phải đối thủ của Triệu Hùng, liền nhanh trí nói mấy lời rào trước để lấy uy với đám thuộc hạ, rằng bọn họ năm người đều đã bị thương nặng, dẫu có liên thủ đối địch cũng không phải là mình cậy đông hiếp cô, vẫn quang minh lỗi lạc. Triệu Hùng biết lần này chúng sẽ hợp kích tấn công, không dám manh động, siết chặt đoản đao trong tay, phòng bị nghiêm mật.

    Bỗng nghe vù vù như cuồng phong ập đến, một người thân hình như hộ pháp từ đằng sau nhảy lên, tay cầm một cây thiết trượng xoay tít. Cây gậy sắt này ít nhất cũng phải hai trăm cân, vậy mà y múa nó như múa một cành tre, nhẹ nhàng thanh thoát thật đẹp mắt. Người này chính là Lý Thổ, y thấy ngay cả cột buồm lớn cũng không làm gì được Triệu Hùng, bèn nhờ thợ rèn cấp tốc làm một cây thiết trượng thật to, thật dài. Cây thiết trượng này tuy nặng nề nhưng so vói cột buồm thì nhỏ gọn hơn nhiều, với thần lực của y cộng với nó chẳng khác nào hổ dữ mọc thêm cánh, uy mãnh vô cùng.

    Thiết trượng trong tay Lý Thổ vừa xoay được hai vòng đã giáng xuống đầu Triệu Hùng. Chàng biết người này thần lực kinh thiên, không tài gì đỡ nổi, vội nhảy ra sau hai bước né đi. Cây thiết trượng đập hụt, đâm luôn xuống đất, tạo thành một cái lỗ sâu hơn năm tấc, khỏi nói cũng biết uy lực tới cỡ nào. Triệu Hùng vừa thoát khỏi cú bổ như trời giáng của Lý Thổ, Lý Mộc và Lý Thủy đã từ hai bên tả hữu đánh tới. Đơn đao và song chùy của hai người này tuy chiêu thức không ảo diệu, nhưng lực đạo lại cương mãnh phi thường. Triệu Hùng chưa vội trả đòn, liền nhảy lên cao, đơn đao song chùy chém vào nhau, lóe lên mấy tia lửa, chàng đạp nhẹ vào đầu thanh chùy của Lý Thủy, lộn về sau thêm hai thước.

    Không đợi hai chân Triệu Hùng chạm đất, Lý Hỏa đã múa trường kiếm xông tới. Y một lần nữa sử ba chiêu sát thủ là Thiên Địa Khốn Cùng, Phong Hoa Truy Kích, Nam Bắc Đồng Tận. Ba chiêu này đều nhằm vào những chỗ yếu hiểm của đối phương như yết hầu, thái dương, ngực trái. Triệu Hùng đang lơ lửng trên không, không có chỗ mượn lực để nhảy tránh đi nữa, bèn đưa đao ra gạt đường kiếm của đối phương. Hai kiếm đâm vào yết hầu và thái dương đều bị gạt phăng đi, còn chiêu Phong Hoa Truy Kích đâm thẳng vào ngực trái, chàng tuy gạt ra được song vẫn bị mũi kiếm đâm toạt tay áo bên trái.

    Kiếm pháp của Lý Hỏa tuy có cao nhưng không bao hàm nhiều chiêu thức, chủ yếu dựa vào sự biến hóa của mỗi chiêu mà dồn đối phương vào hiểm tử. Cả hai lần giao chiến hôm nay y đều sử dụng ba sát chiêu hung hiểm nhất nhưng chỉ làm rách được hai cánh tay áo của Triệu Hùng, bấy giờ biết là tài không bằng người, thấy Triệu Hùng lại nhảy về sau thêm hai thước, đã đứng ngay cửa chuồng ngựa, liền ra ám hiệu cho bốn người còn lại cùng xông lên. Ngay tức khắc Kim, Mộc, Thủy, Thổ bốn người cùng cầm binh khí nhảy bổ tới, từ năm hướng hợp kích vây đánh Triệu Hùng.

    Đơn đao, song chùy, thiết trượng cùng hai thanh trường kiếm đâm, chọc, chém, phạt nhằm vào người Triệu Hùng, chiêu nào cũng là thập tử nhất sinh, vừa có kình lực, vừa đầy biến ảo. Chàng biết nếu cứ tiếp tục lùi vào trong sẽ nguy hại đến Văn Tôn, bèn sử chiêu Long Đao Loạn Trảm đáp trả. Chân phải lùi về sau nửa bước, gối trái hơi khuỵu, chỉ thấy lưỡi đao đưa thẳng lên rồi vẽ nên một hình bán nguyệt trong không trung, một đạo hoàng quang lóe sáng cả góc sân, cả bọn Hồng Giang Ngũ Hiệp đã ngã sóng soài ra đất.

    Nguyên Long Đao Loạn Trảm vốn là một trong những kiếm chiêu của phái Vô Kiếm. Chàng từ nhỏ đã thích sử dụng đoản đao làm binh khí, lại là một kỳ tài luyện võ, ngộ tính nhạy bén, bèn đem kiếm chiêu cải biên thành đao thức, rồi từ đó sáng tạo ra một bộ đao pháp của riêng mình. Từ khi đặt chân vào giang hồ, chưa khi nào chàng phải sử đến bộ đao pháp này cả, mãi đến hôm nay lâm vào khốn thế mới đem ra thi triển, quả nhiên uy lực vô cùng. Nên biết kiếm pháp của phái Vô Kiếm lấy nội lực căn bản, chiêu số chỉ là cách thức để thi triển nội công của bản thân ra bên ngoài, cho nên chỉ cần công lực đạt tới mức lô hỏa thuần thanh, long thủy giao hội, dù là cành cây ngọn cỏ cũng có thể trở thành binh khí đả thương người khác. Triệu Hùng suốt mười mấy năm thiên trùy bách luyện, võ công đã xếp vào hàng cao thủ đương thời, đao vừa rồi chém ra kình lực như bài sơn đảo hải, bọn Hồng Giang Ngũ Hiệp chỉ thấy trước mắt một ánh vàng thấp thoáng, chưa biết đương cự bằng cách nào, bỗng thấy lồng ngực tức tối như muốn vỡ tung ra, toàn thân chấn động, không đứng vững được nữa.

    Lúc này cả năm tên đứng đầu đều trọng thương nằm dưới dất, miệng nhổ ra năm ngụm máu tươi, nhất thời chưa thể đứng dậy được. Bọn lâu la đứng phía sau thấy thế thì hồn bay phách tán, không tên nào dám bước lên đỡ chúng đứng dậy. Lý Kim lúc trên thuyền đã thụ thương không nhẹ, vừa rồi lại bị trúng thêm một chiêu của Triệu Hùng, xem ra không còn chống chịu được nữa, bò tới ôm hặt hai chân chàng, gào lên:

    - Các huynh đệ mau chạy đi, để ta cầm chân thằng giặc con này cho!

    Hơi thở của y chỉ còn thoi thóp, bám víu vào Triệu Hùng có khác gì một đứa trẻ yếu ớt ôm chặt lấy chân cha, chàng chỉ cần hất cẳng một cái cũng có thẻ đá văng y ra khỏi sân, nói gì đến việc cầm chân chàng cho bè lũ tấu tán? Thế nhưng chàng thấy người này bản tính vốn trung nghĩa khẳng khái, công phu không tệ, chỉ tiếc lại lầm đường lạc lối, sa vào tà đạo, trong lòng cảm khái bèn cúi xuống gỡ tay y ra, nói:

    - Tôn giá tên họ là chi? Chỉ cần biết gò cương trước vực, từ nay đừng làm chuyện bất lương, tại hạ cũng không muốn làm khó làm dễ gì các vị, xin giao cho quan phủ định đoạt!

    Lý Kim biết mình tội lỗi tày trời, lọt vào tay quan phủ khác nào gieo mình vào chỗ chết, cười nhạt nói:

    - Cái gì mà quay đầu là bờ, buông đao thành phật? Hứ, một tên oắt con miệng còn hôi sữa, chim chửa ra ràng mà cũng học đòi giáo huấn người khác! Lý mỗ đi không đổi tên, ngồi không đổi họ, tên chỉ duy nhất một chữ Kim!

    Hai chữ "Lý Kim" như một mũi dao xoáy sâu vào trong tai Triệu Hùng. Chàng vẫn nhớ như in cái tên viết trên bảng cáo thị ở kinh thành, kèm theo đó là bao nhiêu chuyện thương thiên hại lý, cùng hung cực ác mà bọn người đó gây ra, tên cầm đầu chính là Lý Kim. Đến giờ mọi chuyện đã rõ như ban ngày, bọn tự xưng Hồng Giang Ngũ Hiệp này chính là đám người được bêu trên cáo thị mà chàng đã hao công tốn sức truy tìm suốt mấy tháng nay. Lửa giận bừng bừng, liền thuận chân đá luôn vào cằm của Lý Kim, y la lên oai oái, văng ra giữa sân chết tức tửi.

    Cả đám thuộc hạ la hét ỏm tỏi, đứng từ xa chửi mắng Triệu Hùng. Lúc này Văn Tôn cũng tỉnh giấc, liền chạy ra đứng sau lưng Triệu Hùng, ba người trong nhà không biết dã dậy từ bao giờ, cũng đứng sau mép cửa quan sát tình hình. Thấy trong sân kẻ thì cầm đao, người thì giơ kiếm, có mấy người nằm rạp dưới đất rên rỉ đau đớn, ba người đều hoảng sợ không biết để đâu cho hết, tay chân run lên bần bật, tim như muốn nhảy ra khỏi ngực. Văn Tôn nhìn sơ qua thương trường, hỏi nhỏ và tai Triệu Hùng:

    - Đại ca, bọn người này là ai? Sao đêm hôm khuya khoắt lại đến đây sinh sự?

    Triệu Hùng đáp:

    - Chúng chính là cái lũ tự xưng Hồng Giang Ngũ Hiệp mà bao lâu nay vẫn tác oai tác quái, khiến dân chúng ở Hàm Tử phải khổ sở trăm điều. Lúc chiều chạm mặt chúng ta trên sông Hông, bị ta đả thương cho nên đêm nay mới tìm đến báo thù!

    Văn Tôn ồ lên kinh ngạc, nói:

    - Lũ người này vô ác bất tác, huynh tuyệt đối không được nương tay, nếu không những người vì chúng mà vong mạng biết yên nghỉ làm sao?

    Triệu Hùng lo lắng nói:

    - Ta chỉ lo trong lúc quần ẩu, bọn chúng chó cùng dứt dậu, tổn hại đến đệ và cả nhà Lý đại nương nên vẫn đang tìm cách vẹn toàn, bắt chúng giao nộp cho quan phủ.

    Văn Tôn ngẫm nghĩ giây lát rồi nói:

    - Hay là cứ như lúc ở trên thuyền, đệ cùng mọi người vào trong nhà đóng cửa cố thủ, đợi huynh tóm gọn hết cả bọn rồi mới ra?

    Triệu Hùng cũng chưa nghĩ được cách gì hay hơn, liền gật đầu. Văn Tôn nhanh nhẹn như một con thỏ rừng, cắm đầu cắm cổ chạy về hướng ngôi nhà, xưa nay việc chàng giỏi nhất là chạy trốn, mấy lần bị Ô Đình Thiên dọa cho vỡ gan vỡ mật, bây giờ hễ gặp nguy hiểm chàng đều nghĩ ngay tới việc chạy. Ba người trong nhà dường như hiểu ý, thấy chàng chạy về hướng mình cũng vội mở hé cửa ra, chỉ cần Văn Tôn vừa vào trong sẽ lập tức đóng chặt cửa lại. Nào ngờ chàng vừa chạm chân đến thềm nhà, bỗng vấp phải một thứ gì đó như khúc cây, ngã đập mặt xuống đất, máu mũi tuông ra xối xả.

    Thì ra Lý Kim chưa chết, y vẫn nằm thoi thóp nhưng không còn sức lực để cựa quậy, đành nhắm mắt dưỡng thần. Bỗng nghe có tiếng chân người chạy đến như quân lính thua trận, liền hé mắt nhìn thử. Thấy Văn Tôn hớt ha hớt hãi lao vù vù về phía ngôi nhà, y đợi chàng đến thật gần mới đưa chân ra ngáng, quả nhiên Văn Tôn không để ý bên dưới, té sấp ngay xuống sân. Lý Kim dưỡng sức một hồi, bây giờ đã có thể ngồi dậy, Văn Tôn vừa ngã xuống y liền ngồi luôn lên người chàng, ngón tay dí vào huyệt Á Môn sau gáy, quay lại nhìn Triệu Hùng quát lên:

    - Huynh đệ của ta nếu không thể vô sự rời khỏi đây thì thằng nhãi này cũng phải theo ta xuống cửu tuyền để bầu bạn!

    Y biết mình trọng thương khó chữa, liền khống chế Văn Tôn cho đồng đảng chạy thoát, thật là một con người nghĩa khí, song cái nghĩa khí đó lại đem dùng vào việc bất lương, âu cũng là bông sen trong vũng sình, không ai muốn ngó tới. Triệu Hùng thấy y đến lúc chết vẫn ngoan cố bất hối, gây thêm tội ác, trong lòng rúng động, thực chỉ muốn lao đến một đao chém chết y mà thôi. Thế nhưng tính mạng Văn Tôn đang nằm trong tay hắn, chàng muốn ném chuột lại sợ vỡ bình quý, nhất thời không dám manh động, đành bình tâm trở lại nói:

    - Làm ác ắt sẽ gặp ác báo, các ngươi đi đi!

    Mấy tên thuộc hạ thấy thủ lĩnh còn sống, không chửi bới nữa, vội chạy đến đỡ bốn người Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ đứng dậy, lên ngựa chạy thật nhanh. Đến khi tiếng vó ngựa nhỏ dần rồi im hẳn, Lý Kim nói:

    - Lý mỗ xưa nay làm ăn không bao giờ chịu thiệt, hôm nay một mạng đổi một mạng, ha ha, ông trời xem ra đãi ta cũng không bạc!

    Y thấy huynh đệ thủ hạ đều an toàn chạy thoát, nghĩ hôm nay đồng quy ư tận, dù có chết cũng phải kéo theo Văn Tôn chết theo, liền ấn luôn vào huyệt Á Môn trên gáy chàng. Triệu Hùng biết huyệt Á Môn vốn là tử huyệt của con người, điểm nhẹ có thể làm bất tỉnh, mạnh tay sẽ dẫn đến đột tử, nhưng lúc này chàng cách y đến mấy trượng, dẫu có dùng đoản đao phóng đến thì cũng đã muộn mất rồi. Bỗng nghe Lý Kim kêu lên hai tiếng "Ối chao!" rồi lăn đùng ra đất, may thay y vẫn còn chưa kịp gia hại Văn Tôn thì đã bất tỉnh.

    Thì ra có một người đàn ông trong lúc y đang đắc ý cười ngạo mạn, đã lẻn đến sau lưng dùng khúc gỗ đập ngay vào đầu, khiến y lăn đùng ra đất, người này chính là Ngô Trạch. Ngô Trạch thấy Lý kim không còn cựa quậy, vội đỡ Văn Tôn dậy, Văn Tôn rối rít nói:

    - Ngô huynh quả thực gan dạ, cũng may vừa rồi có huynh, nếu không e là tính mạng của tiểu đệ cũng chẳng còn!

    Ngô Trạch cười hì hì, nói:

    - Văn huynh đệ không cần nói những lời khách khí như vậy, trừ gian diệt bạo vốn là bổn phận của nam nhi Đại Việt như chúng ta, huống hồ bọn người này gieo rắc biết bao đau thương cho dân chúng ở đây, ta đánh hắn một gậy xem như cũng trừ đi cái họa của chính mình, của hương thân phụ lão ở Hàm Tử!

    Hai người còn đang nói mấy lời khách sáo với nhau, bỗng nghe Triệu Hùng nói:

    - Hai người đừng vui mừng quá sớm, bọn thuộc hạ của y chưa chắc chịu bỏ qua đâu, nhất định chúng sẽ tìm cách quay lại trả thù, nên cẩn thận đề phòng vẫn hơn!

    Ngô Trạch đột nhiên sầm mặt, rầu rỉ nói:

    - Triệu huynh đệ nói cũng phải, bọn chúng trong tối, chúng ta ngoài sáng, chẳng biết rồi tai họa gì sẽ lại xảy ra đây!

    Triệu Hùng nói:

    - Bây giờ hai người hãy trói hắn vào mộ chỗ nào đó, đợi sáng ngày mai giao cho quan phủ. Còn ta sẽ đuổi theo mấy tên kia, hy vọng chúng chưa chạy quá xa, nếu không hậu họa không biết đâu mà lường!

    Nói rồi liền lên ngựa chạy đi. Văn Tôn chạy theo ra ngoài cổng, nói với theo:

    - Đại ca nhớ cẩn thận, đệ và mọi người chờ tin tốt của huynh!

    Ngô Trạch vào trong tìm một sợi dây thừng để trói Lý Kim, Văn Tôn, Lý đại nương và Ngô phu nhân đều đứng bên cạnh trông chừng, sợ y bất tình lình tỉnh dậy lại dở quẻ bỏ chạy. Hổ dữ dẫu mất nanh thì vẫn là con hổ, không thể không đề phòng, ba người tìm ba khúc gỗ lớn cầm trên tay, hễ y mà tỉnh dậy sẽ lập tức phang một gậy vào đầu.

    Lát sau Ngô Trạch tìm được một đoạn dây thừng cũ đi ra, cả bọn liền trói chặt Lý Kim vào cây cột lớn trước nhà, Văn Tôn bảo họ vào trong nghỉ ngơi, còn phần mình sẽ ngồi đây trông chừng, đợi Triệu Hùng quay về. Ba người kia đều nói là để mình đảm nhận việc trông coi Lý Kim, khuyên chàng đi đường xa nên chợp mắt một chút cho lại sức, song Văn Tôn vẫn nhất quyết không chịu, họ đành vào trong nhà nằm ngủ.

    Qua nửa canh giờ sau, Văn Tôn bắt đầu ngủ gà ngủ gật, cuối cùng nằm rạp xuống đất ngáy như kéo bể. Ngô phu nhân từ trong nhà bước ra, tay cầm một tấm chăn cũ đắp cho chàng. Y thị nghe tiếng ngáy của Văn Tôn, biết chàng đi đường mệt mỏi, dẫu thanh niên trai tráng đến mấy cũng sức đâu chịu nỗi, bèn đi ra thay chàng canh chừng Lý Kim. Giữa hôm khuya khoắt, sương rơi lả tả, thị tiện tay đem theo tấm chăn cũ cho Văn Tôn chống rét. Bỗng nghe Lý Kim rên lên mất tiếng thảm thiết, nhìn qua thấy y hai mắt vẫn nhắm nghiền thì định ra ngoài ngõ xem có thấy bóng dáng của Triệu Hùng hay không, bỗng nghe y thều thào:

    - Phu nhân đại từ đại bi, làm ơn giúp cho ta, ta khó chịu quá!

    Mạc Hoàng Phương tức giận nói:

    - Đại từ đại bi? Hứ, vậy lúc ngươi ra tay hãm hại mọi người trong làng, họ lạy lục van xin, ngươi có chịu đại từ đại bi tha cho họ hay không?

    Lý Kim rầu rỉ nói:

    - Lý mỗ nào dám xin phu nhân tha cho, chỉ là sợi dây này trói chặt quá, ta không thở được, xin phu nhân rộng lòng nói lỏng cho một chút!

    Mạc Hoàng Phương vốn lòng dạ nhân từ, nghe y nói thế chợt mủi lòng, song cũng sợ y gian hiểm xảo trá lại bày trò dở quẻ, nói:

    - Đã gần một canh giờ mà ngươi có bị làm sao đâu, thôi thì đợi tới khi quan binh đến sẽ cởi trói cho ngươi luôn thể!

    Lý Kim bỗng ho lên sặc sụa, thở hơi ra như người sắp chết, ú ớ chẳng nói được câu nào. Mạc Hoàng Phương hoảng hốt nghĩ thầm: "Y bị thương đã nặng, chắc cũng không giở trò được, nhỡ may y chết ngạt chẳng phải mình mang tội sát nhân hay sao?" vội cúi xuống nới lỏng dây trói ra. Lý Kim dường như đã ngất xỉu, thị đưa tay lên thăm dò hơi thở, biết vẫn còn sống mới an tâm đến bậu cửa ngồi canh chừng.

    Lý Kim bỗng dưng đứng phắt dậy, đoạn dây thừng đang trói y cũng tuột luôn xuống đất, Mạc Hoàng Phương hãi quá, la toáng lên:

    - Tướng công, tướng công..

    Ngô Trạch đang ngủ say, nghe thê tử gọi thất thanh vội bật dậy chạy ra ngoài, thấy nàng đã bị Lý Kim khống chế, một tay siết cổ, tay còn lại đưa lên nắm hờ yết hầu, chỉ cần ai dám manh động, y sẽ bóp chết thị ngay. Văn Tôn và Lý đại nương cũng đã thức dậy, tình thế trước mắt khiến ai nấy cũng thầm kêu khổ, không biết phải làm sao. Lý Kim cười một tràng gian trá, sang sảng nói:

    - Bây giờ bổn đại gia sẽ mang vị phu nhân xinh đẹp này ra cổng, các ngươi cứ ngoan ngoãn đứng yên ở đó, bổn đại gia ra khỏi ngõ sẽ thả phu nhân ra ngay, còn giả như kẻ nào dám bước theo nửa bước, thì hãy chuẩn bị hậu sự cho ả ta đi là vừa!

    Thì ra y bị thương rất nặng, cho nên đoạn dây thừng kia dẫu đã cũ song không cách gì bứt đứt được, bèn dùng khổ nhục kế lừa Ngô phu nhân nới lỏng dây cho mình, rồi nhân lúc thị không để ý liền vặn vẹo cơ thể cho sợi dây tuột xuống. Nếu là ngày thường, với võ công của y thì ba người Văn Tôn có hợp sức lại cũng có làm gì được? Thế nhưng lúc này y chỉ còn lại chút hơi tàn, bèn chộp ngay Mạc Hoàng Phương làm con tin rồi tìm cách tẩu thoát. Bọn Văn Tôn đều lo cho an nguy của Mạc Hoàng Phương, đâu có ai dám làm trái, đành trơ mắt đứng nhìn y đi lùi ra tới cổng.

    Văn Tôn sợ y sau khi thoát khỏi hiểm cảnh sẽ nuốt lời, bắt luôn Ngô phu nhân đi mất, vội đi theo ra ngoài ngõ, nhưng chỉ dám ở cách xa hơn hai trượng. Lý đại nương và Ngô Trạch cũng rụt rè theo sau, hai người mặt mày tái mét, tưởng như muốn òa lên khóc vì lo sợ.

    Lý Kim ra khỏi sân, thấy ba người kia không dám tiến đến gần, liền đẩy Ngô phu nhân ngã về phía ba người toan bỏ chạy. Thế nhưng mấy năm qua cướp bóc khắp nơi, chỉ có y đánh chém người khác, nào có bị ai đánh cho đến nỗi thân tàn ma dại, phải xài tới khổ nhục kế để giữ mạng bao giờ, nỗi nhục này biết rửa sao cho hết? Hàng rào trước nhà toàn những cây gỗ nhọn, y thuận tay nhổ luôn một cây, nhằm thẳng người Văn Tôn phóng tới. Nghĩ Văn Tôn không biết võ công, thân pháp chậm chạp, trong đêm tối dẫu muốn nhìn thấy hướng cây cọc bay đi cũng là điều rất khó, nói gì đến việc né tránh, liền quay người chạy một mạch về hướng bờ sông. Quả nhiên bọn Văn Tôn không ai nhìn thấy cây gỗ nhọn bay đến, chỉ nghe vù một tiếng, bỗng thấy Lý đại nương đau đớn ngã ra đất, miệng chỉ kịp kêu lên "Ối chao" rồi tắt thở.

    Lý Kim tưởng rằng một ném vừa rồi chắc chắn sẽ trúng ngay Văn Tôn, ngờ đâu y bị thương quá nặng, kình lực đã mất tám chín phần, làm sao cây cọc có thể bình ổn bay theo ý muốn, thành ra lệch hẳn sang bên trái mấy tấc, đâm vào ngay giữa ngực Lý đại nương. Vết thương trúng vào chỗ yếu huyệt, thành ra bà ta còn chưa kịp trăn trối đã hồn lìa khỏi xác. Ngô Trạch và Mạc Hoàng Phương ôm lấy thi thể mẫu thân khóc sướt mướt, máu loang ra ướt đẫm cả quân áo của hai người, chảy xuống đỏ thẫm cả mặt đất.

    Thảm cảnh đó diễn ra quá nhanh, không ai tưởng tượng nổi, Văn Tôn bàng hoàng cực độ. Lần trước chàng thấy gã họ Nhạc chết đi, tuy kinh hãi nhưng cũng chỉ là bèo nước vô tình, y lại là một con người bạc bẽo, nào có đau xót gì. Nhưng Lý đại nương hiền lương nhân hậu, tuy mới gặp một ngày song đối đãi với mình hết mực niềm nở, bỗng dưng chết oan có khác gì mất đi một người bằng hữu, lòng chàng đau như dao cắt, chỉ ước được ăn tươi nuốt sống tên Lý Kim kia cho thỏa nỗi căm hận trong lòng. Nghĩ như hôm nay chàng và Triệu Hùng không ở nhờ nhà họ thì đâu có xảy ra cớ sự như thế này? Bao nhiêu đau thương, tội lỗi cứ lẩn quẩn trong đầu, Văn Tôn như người điên mất trí, lao ra ngoài, hùng hục đuổi theo Lý Kim.

    Chàng vừa chạy vừa gào lên:

    - Ác tặc khốn kiếp, mau đứng lại cho ta!

    Lý Kim bỏ chạy một hồi lâu, không thấy ai theo sau thì ra chiều đắc ý, đinh ninh rằng Văn Tôn đã chết nên bọn người kia thể nào chả hồn bay phách tán, làm sao dám đuổi theo. Toàn thân y đều rệu rã không còn sức lực, bèn ngồi xuống một tảng đá bên đường thở dốc. Bỗng nghe phía sau có tiếng người chửi bới, người đó chạy nhanh như một con thỏ, càng lúc càng đến gần chỗ mình, y liền nhặt một cục đá dấu sau lưng.

    Văn Tôn thấy Lý Kim ngồi trên một tảng đá, liền chỉ mặt y mà chửi:

    - Cẩu tặc, bọn ta đã để cho mi đi như đã hứa, lý gì còn giết chết Lý đại nương?

    Lý Kim thấy người chạy đến là Văn Tôn nên hiểu ra ngay, cười ha hả, nói:

    - Bổn đại gia xưa nay muốn giết ai thì giết, cần gì phải lý do lý trấu!

    Câu đó nói ra như một mồi lửa châm vào kho dầu, lửa giận bừng bừng, nhiệt huyết tràn lên ngực, Văn Tôn quát lên:

    - Phường cầm thú sát nhân, hôm nay ta sẽ thí mạng với ngươi!

    Lời vừa dứt đã lao tới đối phương như một mũi tên bắn. Chàng vừa đau lòng, vừa căm phẫn, chẳng còn lý gì đến sống chết, lúc này chẳng kể là một tên Lý Kim đã trọng thương yếu đuối, dẫu có là cao thủ hạng nhất thì chàng cũng chẳng màng mà lao vào thí mạng.

    Lý Kim làm như chẳng hề quan tâm, vẫn bình thản ngồi trên tảng đá. Văn Tôn lập tức một quyền đánh tới, nhằm ngay đầu đối phương, dĩ nhiên chỉ là đòn tấn công chợ búa, vô chiêu bất thức. Lý Kim hơi nghiêng mình sang trái, chàng đánh vào khoảng không, toàn thân lảo đảo ngã chúi về phía trước. Lý Kim biết mình sức đã tàn, lực đã kiệt, không thể dây dưa, hòn đá trong tay liền vung lên, nhắm ngay ót đối phương đánh xuống. Nào ngờ Văn Tôn tuy không biết võ công nhưng tay chân nhanh nhẹn lạ thường, vừa té xuống đã chống tay toan đứng dậy, hòn đá đáng lý đã trúng đầu dè đâu lại đập thẳng vào lưng, tuy đau đớn nhưng không tới nỗi mất mạng. Chàng "Ối" lên một tiếng, song lực đạo không quá mạnh thành ra chưa ngã xuống, liền quay lại vồ luôn người Lý Kim.

    Hai người ngã lăn cù, song Văn Tôn vẫn siết chặt hông đối phương không buông. Lý Kim vừa mệt vừa bực, hòn đá trong tay cứ thế đập túi bụi vào người Văn Tôn. Thế nhưng bị chàng ôm chặt cả hai tay, y muốn đập một cái vào đầu cho Văn Tôn chết ngay mà không được. Văn Tôn biết không đánh lại y, nhưng sợ buông ra thì y sẽ chạy mất, lúc đó biết ăn nói làm sao với linh hồn Lý đại nương? Thành thử dù cho bị cục đá đập vào lưng, vào sườn, vào cánh tay, dẫu có đau đớn đến mức nào chàng vẫn cố chịu đựng. Hai người hết lăn qua bên trái rồi lại lộn qua bên phải, một người bị đánh luôn miệng la oai oái như heo bị chọc tiết, một người hết hơi thở hồng hộc như trâu đang kéo cày, song cả hai vẫn dính chặt với nhau, dưới ánh trăng lờ mờ trông như hai con rắn đang đùa giỡn, cảnh tượng hết sức hoạt kê.

    Bỗng Văn Tôn hét lên một tiếng thật to rồi nằm im như khúc gỗ, hai tay buông khỏi người Lý Kim. Thì ra quá nửa số xương sườn bên trái đều đã bị đánh gãy, chàng đau đớn không sao chịu được nữa đã ngất đi. Lý Kim lúc này cũng hết hơi cạn sức, nằm sang một bên thở phì phò.

    Mãi một lúc lâu sau y mới lộm cộm chống tay đứng dậy, phủi phủi bụi đất dính trên người, lẩm bẩm chửi

    - Thằng oắt con chết dẫm, còn dai hơn đĩa đói, hôm nay nếu không lấy cái mạng chó của mi thì làm sao hả được cơn giận này!

    Liền cúi xuống nhặt lại hòn đá, đập thật mạnh vào giữa trán Văn Tôn. Nào ngờ chỉ vừa giơ lên, bỗng thấy cánh tay tê chồn, không cách gì đánh xuống được. Huyệt Nội Quan trên bàn tay phải đau nhói, y thả luôn hòn đá, nằm phủ phục xuống đất, chửi:

    - Tiên sư đứa nào đánh lén ông, có giỏi thì ra mặt mới đáng làm đại trượng phu!

    Bỗng nghe có một giọng nói trong trẻo đáp lại:

    - Ta đây chẳng phải nam tử hay trượng phu, nhưng cũng không đê hèn như ngươi, ở đó hà hiếp một thư sinh trói gà không chặt.

    Từ hướng nam, cách đó khoảng bảy, tám trượng, có một người thân hình mảnh mai, bạch y thanh thoát đang đi tới. Người này hai chân dường như không chạm đất, thoắt cái đã đứng bên cạnh Lý Kim. Y bị điểm huyệt ở bàn tay, nằm dưới đất nhìn lên, bỗng nhiên mặt mũi trắng bệch, miệng lải nhải từng chữ một:

    - Cô.. Cô là người.. người.. hay ma?

    Người kia đáp:

    - Ta dĩ nhiên là người, còn ngươi mới là ma!

    Y vẫn chưa thôi kinh dị, hỏi:

    - Tại sao cô là người, còn ta lại là ma?

    Bạch y nữ nhân nói:

    - Bây giờ tuy ngươi là người, nhưng lại mang tâm ma, còn lát nữa đây ngươi chắc chắc sẽ thành ma!

    Lý Kim kinh hãi kêu lên:

    - Cô.. Ối..

    Tới đó thì đã chết rồi.
     
    Phan Kim Tiên, Chiên Min'sHương JY thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 14 Tháng hai 2020
  9. TrieuNguyen

    Bài viết:
    51
    Chương VIII: Thập Nhị Chân Kinh

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đình Thiên thấy mấy gã thất phu bất tài vô tướng, võ công thấp kém, lại háo sắc hết phần thiên hạ thì cười khẩy một cái, giọng điệu đầy mỉa mai, nói:

    - Một lũ thất phu ở đây ăn hiếp một bà lão và một đứa bé, thật không biết xấu hổ!

    Tên đầu lĩnh nghe đến hai chữ "Thất phu" thì đùng đùng nổi giận, phùng mang trợn mắt, mày mi dựng ngược, xuất kiếm tấn công nàng. Chiêu thức có phần kỳ lạ khiến Đình Thiên không nhận ra được là của môn phái nào, nhưng nàng vẫn thừa sức hóa giải. Cứ thế, hơn hai mươi chiêu tung ra đều bị nàng dùng Huyết Tích Liên Chưởng khắc chế, chỉ thủ không công. Hắn thấy nàng liên tục phòng thủ, không chiếm thế thượng phong thì lấy làm lạ, nghĩ võ công của nàng lấy nhu làm trọng, khắc chế cương kình, chỉ cần liên tục công kích ắt sẽ lộ ra sơ hở. Hắn đâu biết rằng nàng còn do dự vì sự an nguy của hai lão điệt bên cạnh, chưa tiện xuất thủ đả bại.

    Đang trong thế công kích, hắn liền đâm thẳng trường kiếm tới trước mặt nàng, đường kiếm mãnh lực cường kình, chiêu thức tung ra chớp nhoáng, sau đó lại gia tăng cước bộ, lướt tới như vũ bão, nhằm một chiêu đoạt mạng. Nào ngờ Đình Thiên chỉ chờ có thế, liền đưa hai ngón trỏ và giữa của bàn tay phải lên kẹp chặt lấy lưỡi kiếm, rồi ngoặc mạnh hai ngón tay làm trường kiếm gãy làm đôi. Đó là chiêu Song Chỉ Di Sơn, nàng đã luyện đến mức thuần thục tinh diệu, công lực dồn vào khiến hai ngón tay trở nên cứng rắn như sắt, kình lực như thép, dù là đao thương sắc bén hay đá tảng chai lì cũng bị công phá cho tan tành. Hắn còn đang trố mắt kinh ngạc, chưa kịp hoàn hồn thì nàng lại tung một cước vào đầu, dậm chân bật nhảy lộn vòng ra phía sau, đỡ lấy hai lão điệt đang co ro hoảng sợ.

    Cả bọn chứng kiến cô nương trẻ tuổi tay không bẻ kiếm thì cả kinh, nhất tề xông lên vây lấy ba người trong góc sân, đao quang kiếm ảnh lóe lên chói lóa.

    Đình Thiên lấy ra dải lụa hồng từ ống tay áo, sử chiêu Phong Vờn Vũ Cợt quấn lấy người đại nương và đứa bé, đưa họ lên mái nhà. Thấy hai người đã an toàn, lúc này nàng mới toàn tâm đối phó với bọn cường đạo.

    Tên đầu lĩnh trường kiếm đã gãy, liền nhảy lùi ra sau ba bước, lệnh cho đám thuộc hạ xông vào. Tứ phương tám hướng đều là địch, Đình Thiên sử chiêu Lôi Động Thiên Kinh trong Huyết Tích Liên Chưởng. Chân phải nàng co lên, trọng tâm dồn vào chân trái, mũi chân hơi nhón, hai bàn tay búp măng dang ra, múa đều mười đầu ngón tay như sóng gợn nhấp nhô, uốn lượn mềm mại. Đoạn nàng nhún chân trái thật mạnh, bay người lên không trung, hai bàn tay thu về trước ngực, ngầm vận nội công. Nàng xoay người hai vòng, bộ bạch y dập dìu trong gió, lả lướt mê hoặc, thân hình uyển chuyển như tiên nữ vờn mây, cả đám cường đạo mãi mê nhìn theo chuyển động của nàng, tên nào tên nấy ngẩn ngơ. Bỗng song chưởng cùng đẩy ra, bụi đất trong sân bay lên như một đám sương mù, chẳng nhìn thấy diễn biến ra sao, chỉ nghe những tiếng lịch bịch vang lên như có hàng tá bao gạo rơi xuống đất. Lẫn trong lớp bụi mù mịt đó, đám cường đạo té ngã nháo nhào, tên đau đớn ôm ngực, tên rên rỉ kêu la, quả nhiên đều bị chiêu Lôi Động Thiên Kinh đả thương. Tên đầu lĩnh lom khom bò ra khỏi sân, cắm đầu cắm cổ mà chạy, mặt cắt không còn hạt máu, đám thuộc hạ cũng lê lết theo sau.

    Đình Thiên đưa hai lão điệt xuống đất, hỏi rõ sự tình, mới biết bọn ác nhân kia hoành hành ở Nam Giang đã lâu. Thế sự Nam Giang lúc bấy giờ khiến nàng nhớ đến cố hương, hạn hán kéo dài, người người đói khát, cảnh tượng thương tâm chẳng kém. Nhìn mấy đứa trẻ nheo nhóc trong thôn, bữa no bữa đói, nàng lại hồi tưởng về tuổi thơ cơ cực của mình, trong lòng thương cảm.

    Từ hôm đó, Đình Thiên dựng một gian nhà lá nho nhỏ dưới chân núi cuối thôn, ngày ngày mua sữa dê mang đến cho bọn trẻ, tối đến lại trở về nghỉ ngơi, bọn cường đạo thấy nàng đi đi lại lại trong thôn cũng không dám bén mảng trở lại.

    Đêm hôm nay, trong lúc đang ngồi thổi tiêu trước cửa, nàng nghe thấy tiếng vó ngựa kéo nhau chạy vào thôn. Cả thôn gia súc đều bị đói chết hoặc làm thịt, chẳng còn con trâu con ngựa, nàng đoán chắc là bọn cường đạo quay trở lại cướp bóc, liền vội vã cưỡi ngựa bám theo. Nào ngờ đã đến chậm một bước, đại nương kia đã bị tên đầu lĩnh giết chết, còn Văn Tôn cũng bị hắn đánh trọng thương. Nàng đưa cho phu thê nhà ấy mười nén bạc, dặn họ lo hậu sự cho mẫu thân thật tươm tất, rồi dìu Văn Tôn nằm ngang trên lưng ngựa, dắt ngựa đi thật nhanh về hướng ngọn núi cuối thôn.

    Văn Tôn ngất đi hồi lâu, mở mắt ra thì đã thấy mình đang nằm trên giường, người đắp tấm chăn bông, bên trong một căn nhà lá lụp sụp. Trên chiếc bàn gỗ bên cạnh có một ấm trà, vài cái chung sứ, vách lá bên trái treo một cây ngọc tiêu, mọi thứ trong nhà đều gọn ghẻ, tinh tươm.

    Mặt trời cũng vừa ló dạng, bên ngoài chim hót ríu rít, thánh thót du dương, hương thơm dịu nhẹ của thảo mộc xộc vào mũi, bồn chồn khoan khoái. Y nhổm người dậy, định đi ra ngoài nhìn thử thì bỗng nhiên hông trái đau nhói, toàn thân rệu rã, không dám cử động, bèn nằm xuống trở lại.

    Lúc này Đình Thiên từ ngoài cửa bước vào, thấy y cố gắng ngồi dậy, nheo mắt nói:

    - Ba cái xương sườn bên trái đều bị người ta đánh gãy, ngươi đừng cố gắng ngồi dậy làm gì!

    Văn Tôn nghiêng đầu nhìn ra cửa, y nhận ra Đình Thiên, nhưng đêm qua lúc nàng tới thì y đã bất tỉnh, chẳng hề hay biết. Giờ thấy cô nương ấy ở đây, trong lòng dĩ nhiên thắc mắc, hỏi:

    - Sao ta lại ở đây? Sao cô nương lại tới Nam Giang?

    Rồi mấy cái xương sườn bị gãy rung lên, cọ vào da thịt khiến y đau điếng, nằm thở hổn hển. Đình Thiên bước tới, đứng bên cạnh giường, nói:

    - Ngươi tò mò làm gì, chẳng qua ta tình cờ đi ngang qua đây, thấy tên ăn mày chết giẫm nằm ngủ trên lộ, chướng tai gai mắt nên tiện tay mang về hành hạ, nào ngờ lại là ngươi!

    Văn Tôn nghe thế cũng bất giác giật mình. Nhưng nhớ lại thì cô nương ấy đã nhiều phen tương trợ, hẳn không phải có ý xấu, chỉ là khẩu xà tâm phật nên cũng an tâm. Chợt nhớ tới Triệu Hùng, liền hỏi:

    - Chẳng hay Đình Thiên cô nương có nhìn thấy đại ca của ta không? Huynh ấy tên là Triệu Hùng, người mặc áo bào màu vàng, cưỡi một con bạch mã.

    Đình Thiên vốn đã biết tướng mạo của Triệu Hùng lúc ở miếu Thành Nhân, nhưng đêm qua khi nàng tới thì Triệu Hùng đã đi khỏi nên cũng không rõ tung tích. Nàng không trả lời, chỉ lắc đầu nhè nhẹ, một lát sau mới nói:

    - Ngươi lo cho thân ngươi trước đi, nếu không nối mấy cái xương đã gãy, sau này không muốn làm phế nhân cũng khó!

    Nghe nàng nhắc đến mấy cái xương thì Văn Tôn lại rên lên ư ử. Y trước giờ chưa từng bị ai đánh đập, đến trầy trụa chân tay còn không biết xử lý, huống hồ xương đã gãy rồi thì làm sao mà nối. Y nhìn Đình Thiên, ánh mắt khẩn cầu, nói:

    - Đình Thiên cô nương có thể nào tìm giúp ta một vị lang y chăng?

    Nàng thầm cười. Cả Nam Giang nạn đói hoành hành, người chết, người bỏ xứ đi nơi khác, chỉ còn lại nông phu, lão ấu, tìm mỏi mắt cũng không có lấy một lang y, huống chi là cái thôn nhỏ bé này thì biết tìm đâu ra. Nàng nói:

    - Không cầm tìm, ta đây chính là lang y!

    Văn Tôn trố mắt lên nhìn nàng, bán tín bán nghi, nhưng ngẫm nghĩ biết đâu nàng ta lại nói thật, nàng vốn túc trí đa mưu, am hiểu y thuật cũng không phải là chuyện lạ. Nghĩ ngợi một hồi, nói:

    - Vậy đành nhờ cô nương ra sức!

    Đình Thiên giọng đùa cợt, nói:

    - Trước đây ở núi Thiên Trúc, chó gà trên núi bị thương đều do một tay bổn cô nương chữa trị đấy!

    Biết là nàng ta đang mỉa mai, nói mình là chó, là gà nhưng Văn Tôn cũng chẳng buồn phản bác, bởi mấy cái xương gãy không cho phép y làm điều đó, chỉ biết nhăn mặt khổ sở. Đình Thiên thấy y đau đớn thì cũng không chọc ghẹo nữa. Nàng ngồi xuống bên cạnh, vẻ bẽn lẽn ngượng ngùng, ấp a ấp úng, nói:

    - Ngươi.. Cởi áo ra đi, ta tiếp xương cho..

    Lời nàng nói ra quá đường đột, lại có phần bạo dạn, bởi xưa nay nam nữ thọ thọ bất tương thân, câu ấy nói ra vốn không hợp với lễ giáo lúc bấy giờ. Văn Tôn thầm nghĩ: "Như vậy quả thật không nên cho lắm, sao có thể để nàng trông thấy thân thể của mình, chẳng phải quá ư thô lỗ hay sao?" Nhưng đau quá không chịu được nữa, đành cởi áo ra.

    Đình Thiên tuy đã biết trước, bảo chàng cởi áo, nhưng chàng lại răm rắp làm theo, bất thình lình cởi áo phơi ngực ra trước mắt thì không tránh khỏi xấu hổ. Nàng cúi gầm mặt xuống, gắt gỏng, nói:

    - Ngươi xoay lưng lại, xương bị gãy ở phía sau cơ mà!

    Văn Tôn cuống cuồng quay lưng lại, làm cho mấy cái xương gãy lại cấn vào da thịt, miệng kêu "ối" một tiếng rồi gắng ngồi ngay ngắn trước mặt nàng. Chỗ thụ chưởng của tên cường đạo đã sưng tấy, in hằn năm dấu tay, đỏ hoe như máu, cả tấm lưng lổm chổm vết tím tái, tả tơi trông như trái lê bị dập. Đình Thiên nhìn thân thể gầy gò của chàng mà chua xót, lại chi chít thương tích càng khiến nàng đau lòng, nước mắt rưng rưng. Nàng đưa tay lên, sờ vào tấm lưng trần của y, bất chợt cảm thấy xấu hổ, mặt đỏ bừng bừng. Lần đầu đụng chạm vào cơ thể của một nam nhân, trong người cứ thấy khác lạ, vừa thinh thích, vừa hồi hộp. Bỗng Văn Tôn la lên oai oái, thì ra mấy ngón tay của nàng đang chạm vào chỗ cái xương bị gãy, làm y đau điếng. Nàng giật bén mình, vội rút tay lại, giả vờ như đang thăm khám vết thương, nói:

    - Chỉ có chút thương tích cỏn con mà đã la toáng lên, ngươi có phải đại trượng phu không đấy?

    Ngoài miệng lạnh nhạt, nhưng trong lòng nóng như lửa đốt, không muốn chàng phải chịu đau đớn dày vò, nàng nói tiếp:

    - Giờ ta sẽ tiếp xương cho ngươi, cố mà chịu đau đấy!

    Văn Tôn không lên tiếng, môi mím lại, răng cắn chặt, hai mắt nhắm nghiền, chuẩn bị tinh thần để nàng nối xương. Trước đây, Đình Thiên đã học qua y thuật của Nguyệt Lão Cô, mấy chuyện sơ cứu ngoại thương, điều trị nội thương nàng đều am hiểu, tinh tường. Nàng nhẹ nhàng dùng tay nắn ba cái xương sườn của Văn Tôn, y khẽ rùng mình, nàng biết y đang cố chịu nên gắng làm cho thật nhanh, thật khéo léo. Chỉ nghe "cạch cạch" ba tiếng, rồi nàng đắp mớ thảo mộc đã xay nhuyễn lên, dùng nẹp tre cố định lại, quấn băng vải mỏng mấy vòng quanh người. Văn Tôn thấy đã bớt đau nhức, dễ chịu hơn hẳn, quay lại nhìn nàng, chắp tay, nói:

    - Đa tạ Đình Thiên cô nương nhiều lần cứu giúp, ân nghĩa thật chẳng biết lấy gì đền đáp!

    Đình Thiên thầm nghĩ: "Ta giúp chàng há để chàng báo đáp?" nhưng chẳng biết bày tỏ tình ý với chàng như thế nào, bèn nói:

    - Lúc trước ta chữa cho mấy con gà, con chó, cũng không cần báo đáp, ngươi hà tất phải để trong lòng!

    Nói đoạn khẽ lườm y một cái, cơ thể của chàng thanh niên lồ lộ trước mặt khiến nàng e thẹn, mắt cứ liếc ngang liếc dọc, không dám nhìn thẳng. Khuôn mặt thanh tú, làn da trắng tuyết, để lộ lên hai gò má ửng hồng vì xấu hổ, thật thêm phần kiêu sa, diễm lệ, nàng cố gằng giọng, nói:

    - Ngươi còn không mau mặc áo vào, định để ta trông thấy bộ dạng gớm ghiếc đó đến bao giờ?

    Văn Tôn biết mình vô lễ, vội lấy áo khoác vào, vô tình đánh rơi mảnh khăn tay trong túi ra ngoài, rớt xuống giường. Nhìn thấy chiếc khăn tay của nữ nhi, trên viết đầy chữ đỏ, Đình Thiên thầm nghĩ: "Thì ra chàng ta đã có ý trung nhân, lại còn trao khăn định tình", nàng vừa thấy buồn, vừa thấy giận, mặt bỗng sầm lại, thở dài chán nản. Hai hàng mày phượng xệch xuống, mi mắt rung rung, nàng nhặt chiếc khăn lên đưa cho Văn Tôn, lạnh lùng nói:

    - Kỷ vật định tình mà ngươi lại để rơi lung tung, thật khổ thân cho cô nương ấy!

    Văn Tôn ngơ ngác chẳng hiểu nàng nói gì, hỏi:

    - Kỷ vật? Định tình? Đình Thiên cô nương nói gì, tại hạ thật không hiểu?

    Tên thiếu niên ngốc nghếch chẳng hiểu được tâm sự của mình, làm nàng càng thêm tức giận, mắt trân trân nhìn y, rưng rưng như chực òa lên khóc. Bỗng thấy bốn chữ "Thập Nhị Chân Kinh" ở góc của chiếc khăn, nàng tiện tay đưa lên đọc, đọc tới đọc lui một hồi thì mặt hơi biến sắc, hỏi:

    - Từ đâu mà ngươi có được thứ này?

    Văn Tôn không hiểu tại sao nàng lại quan tâm tới chiếc khăn tay cũ kỹ, nhưng cũng đem việc tìm thấy nó ở miếu Thành Nhân kể lại tường tận, chẳng hề giấu diếm. Đoạn lại hỏi:

    - Chẳng lẽ Đình Thiên cô nương cũng am tường kinh thư phật pháp?

    Đình Thiên bĩu môi, nói:

    - Ta chẳng phải người xuất gia, tìm hiểu phật pháp để làm gì?

    Rồi nàng tặc lưỡi, nói tiếp:

    - Ngươi không phải người luyện võ, ít khi đi lại trên giang hồ, không biết cũng chẳng trách! Thập Nhị Chân Kinh là môn võ công đã thất truyền từ nhiều năm trước, ta nghe nghĩa mẫu từng nói vì nó mà giang hồ ra tay tranh đoạt, tàn sát lẫn nhau, khiến võ lâm dậy sóng suốt nhiều năm. Ngươi giữ thứ này bên mình, sớm muộn cũng khó tránh khỏi tai kiếp.

    Nguyên Thập Nhị Chân Kinh là tuyệt học võ công đã xuất hiện trên giang hồ hơn bốn mươi năm trước. Lúc đó, có một vị tiền bối tên Lã Xuân Thương, xuất thân là một thương nhân tơ lụa, việc làm ăn thua lỗ nên lâm cảnh tán gia bại sản, cả nhà lớn nhỏ hơn hai mươi người đều bị chủ nợ giết chết, chẳng còn ai sống sót. Lã Xuân Thương một mình trốn lên núi Bạch Vân, theo một cao nhân học võ, nuôi chí báo thù.

    Với tư chất nhạy bén của một thương gia đã bán buôn nhiều năm, lại được ân sư chỉ điểm, Lã Xuân Thương võ công không ngừng tiến bộ, trong vòng năm năm đã lĩnh hội được không ít cao chiêu diệu số.

    Hơn nửa năm sau thì sư phụ quy tiên, võ công của Lã Xuân Thương lúc này cũng đã cao thâm tinh diệu, đạt tới cảnh giới xuất quỷ nhập thần, liền xuống núi tìm địch nhân năm xưa trả thù rửa hận. Nào ngờ cả nhà địch nhân đều bị người ta giết hại, gia quyến chỉ còn lại hai nữ hài nhi khoảng chừng năm, sáu tuổi. Mất sáu năm để học được võ công thượng thừa, thâm thù đại hận chưa kịp báo mà kẻ thù đã hóa thành tro bụi, chẳng thể tận tay tiêu diệt, lão chỉ biết thét lên kêu trời. Lão không cam tâm, bèn bắt lấy hai đứa trẻ mang về núi Bạch Vân, lấy máu của chúng để hiến tế linh cữu gia quyến. Trong lúc giơ tay lên, định một chưởng đánh chết cả hai thì nữ hài nhi lớn tuổi hơn nói:

    - Đại thúc! Xin đại thúc đừng giết tiểu điệt, tiểu điệt còn phải báo thù cho cha mẹ!

    Nữ hài nhi nhỏ tuổi cũng lí nhí nói:

    - Đúng vậy! Đúng vậy! Xin đại thúc đừng giết!

    Hai nữ hài nhi tuổi còn rất nhỏ, giữa lúc tính mạng nguy ngập lại chẳng mảy may run sợ, khẩu khí cứng rắn, mục quang sáng ngời, tấm lòng muốn trả thù cho phụ mẫu quả là can đảm hơn người. Lã Xuân Thương thầm nghĩ: "Cha mẹ chúng giết chết cả nhà ta, hơn hai mươi mạng người lớn nhỏ, giờ ta giết chúng để trả thù, vậy mai này ai sẽ lại tìm ta báo thù đây?"

    Nghĩ đoạn lại bật lên cười ha ha, hai nữ hài nhi ngơ ngác, đưa mắt nhìn nhau. Lão chợt ngộ ra đạo lý: Oan oan tương báo bao giờ dứt? Nhìn hai nữ hài nhi ngây thơ vô tội, mi mục thanh tú, khả ái tinh anh chẳng kém gì hài nữ của mình năm xưa, trong lòng xúc động, nước mắt lưng tròng, ôm hai đứa trẻ vào lòng.
     
    Phan Kim TiênChiên Min's thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 21 Tháng một 2020
  10. TrieuNguyen

    Bài viết:
    51
    Chương IX: Ý Loạn Tình Mê

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Lã Xuân Thương xoa đầu hai đứa trẻ, mỉm cười, dịu giọng hỏi:

    - Hai điệt nhi quả thật can đảm trung hiếu, vậy hai điệt nhi có muốn theo ta học võ nghệ, mai này báo thù cho cha mẹ?

    Hai nữ hài nhi gật đầu lia lịa. Lã Xuân Thương từ hôm đó thu nhận hai nữ đệ tử, truyền thụ y bát, dạy cách làm người, hy vọng chúng sớm ngày quên đi thù hận, không lầm đường lạc lối.

    Tư tưởng quán thông, thâm thù huyết hận giờ đây chỉ như áng mây trôi, trong lòng bình yên thanh thản, tựa mặt hồ mênh mông phẳng lặng, Lã Xuân Thương ngày đêm tu luyện võ công. Bình sinh sở học kỳ tài, tu vi cực cao, chưa đầy một năm nội công đã không ngừng tăng tiến, rồi sáng tạo ra mười hai lộ chưởng pháp biến hóa ảo diệu, lợi hại tinh thâm, đặt tên là Thập Nhị Chân Kinh. Sợ hai đồ đệ vẫn ôm mộng báo thù, lão chỉ dạy chúng công phu bản môn, không truyền thụ Thập Nhị Chân Kinh.

    Chín năm sau, Lã Xuân Thương lúc bấy giờ đã ngoài lục tuần, đột nhiên lại lâm bạo bệnh. Hơn hai tháng ròng, lão nằm trên giường, miệng nhổ ra từng ngụm máu tươi, hai nữ đệ tử hết lòng thuốc thang chữa trị, nhưng cố nhiên bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Một hôm, lão biết mình tinh lực đã cạn, khó lòng qua khỏi, mới gọi hai đồ đệ đến bên cạnh, nói:

    - Hai đồ nhi đều thông minh lanh lợi, nhưng ta sợ vì đó mà sinh ra hại người hại mình, sa vào tà đạo, trước giờ chỉ dạy cho hai con công phu thô thiển. Nay đã gần đất xa trời, tâm huyết cả đời không thể vì thế mà mai một, ta sẽ truyền lại cho hai con bộ chưởng pháp do ta dày công nghiên cứu, uy lực lợi hại thật chẳng môn võ công nào sánh bằng. Hai con cứ căn theo yếu quyết ta để lại, chuyên tâm luyện tập, mai này ắt thành tài. Nhớ kỹ, võ công càng cao, bổn phận càng nặng, phải hết lòng hành thiện trừ ác, cứu khốn phò nguy, tuyệt đối không được đi vào con đường bất lương gian ác, nếu không ở dưới cửu tuyền ta khó bề yên nghỉ.

    Nói đoạn liền giật lấy khăn tay của nữ đồ đệ bên cạnh, dùng ngón tay chấm vào máu đỏ đang ứa ra trên miệng, viết lên khẩu quyết tâm pháp của Thập Nhị Chân Kinh, rồi nhắm mắt quy tiên.

    Sau khi Lã Xuân Thương qua đời, hai đệ tử cũng bắt đầu luyện Thập Nhị Chân Kinh, nhưng tin tức về bộ chưởng pháp vô địch thiên hạ chẳng hiểu nguyên do lại lọt ra bên ngoài, hai người bị giang hồ đồng đạo kéo lên núi truy sát, hòng chiếm đoạt bí kíp võ công thượng thừa. Tỷ muội ấy khi đó vừa tròn mười lăm, mười sáu tuổi, võ công tuy là chính tông do Lã Xuân Thương truyền thụ, nhưng Thập Nhị Chân Kinh chỉ vừa mới luyện, chưa có thành tựu, khó lòng đối phó với trăm ngàn nhân sĩ võ lâm tìm đến, đành rời khỏi núi Bạch Vân, lẩn trốn khắp nơi.

    Một hôm, đi đến trấn Hoàng Lân thì bị một toán cao thủ đuổi giết, hai người trốn chạy hơn nửa ngày, sau cùng lạc đến miếu Thành Nhân. Để tránh chân truyền của tiên sư rơi vào tay bọn ác tặc, họ bàn nhau học thuộc khẩu quyết tâm pháp của Thập Nhị Chân Kinh rồi đốt chiếc khăn đi, nhưng tâm huyết một đời của ân sư làm sao có thể hủy đi trong chốc lát như thế? Tỷ muội nhìn nhau, trong lòng không nỡ, bèn đi loanh quanh trong miếu, tìm chỗ giấu nó đi. Đang lúc chính Ngọ, nắng chiếu gay gắt, thấy trên mái có một viên ngói bị vỡ, ánh sáng chiếu xuyên qua tạo thành một chấm sáng bằng đầu đũa trên thân cây cột hướng đông nam, họ liền khoét một cái lỗ ngay đó, nhét chiếc khăn vào, xong đậy lại như cũ. Đoạn cả hai dắt tay nhau, vội vã bỏ đi, định bụng một khi luyện thành võ công tuyệt kỹ sẽ quay về lấy lại chân truyền của sư phụ, nhưng từ đó cũng biệt vô âm tín, tuyệt nhiên không nghe giang hồ nhắc đến nữa. Mãi đến vài chục năm sau, chàng thiếu niên Văn Tôn tình cờ đi đến miếu Thành Nhân, dưới ánh trăng lập loè, vô tình tìm thấy bí kíp thượng thừa của tiền nhân.

    Lúc này, nghe Đình Thiên nhắc đến Thập Nhị Chân Kinh, Văn Tôn giật mình kinh ngạc, hóa ra lâu nay luôn mang trong người thứ mà bao kẻ thèm muốn nhưng chẳng hề hay biết, quả thực nguy hiểm khôn cùng. Nghĩ mình thân không chút nghệ, giữ thứ tâm pháp võ công này chẳng những vô dụng mà còn rước họa vào thân, liền nói:

    - Nếu đây đã là tuyệt kỹ võ công của tiền nhân để lại, tại hạ dù vô ý tìm thấy, cũng không nên chiếm đoạt. Đình Thiên cô nương bản sự hơn người, chi bằng nhận lấy, mai này luyện thành ắt có thể cứu rỗi nhân sinh, lại không hoài phí tâm huyết của cổ nhân.

    Đình Thiên vốn chẳng thiết tha gì với võ công tuyệt đỉnh, lại càng không tham tranh vô địch thiên hạ, cần thứ chưởng pháp lợi hại đó làm gì? Xưa nay vẫn quen ngao du sơn thủy, sớm tối bên cạnh nghĩa mẫu, chẳng cầu danh lợi, sở dĩ tới Nam Giang chỉ vì lo cho an nguy của chàng, liền đáp:

    - Võ công của ta tuy không phải thiên hạ vô song, nhưng muốn giúp người cô thế, tự vệ lưu thân cũng không hẳn là chuyện khó. Ngươi cứ giữ lấy, biết đâu mai này sẽ có ích!

    Văn Tôn đã xem qua những chữ trên chiếc khăn, đọc mà không hiểu, như người mù coi báu vật, nghĩ tới nghĩ lui, sau cùng thấy đó cũng chỉ là những chữ viết vô nghĩa đối với mình thì nói:

    - Tại hạ bẩm sinh ngu muội, không tường võ học, hà tất giữ nó để nguy hại tới tính mạng? Cô nương nhận lấy, âu cũng là giúp ta trút đi gánh nặng!

    Đình Thiên nghe chàng nói vậy, đắn đo nghĩ ngợi, vốn lo cho an nguy của chàng, đành nhận lấy chiếc khăn, cất vào túi áo.

    Văn Tôn trao lại vật quý đúng người, thở phào nhẹ nhõm. Y cáo từ Đình Thiên, định quay lại thôn Thuận Gia tìm Triệu Hùng, vừa nhổm dậy thì vết thương nhói lên, mặt mày xây xẩm, vội chống tay ngồi xuống giường. Đình Thiên biết vết thương của chàng chưa lành, xương vừa mới nối, làm sao có thể nhanh chóng đi lại như vậy? Trong lòng lo lắng, nói:

    - Ngươi cần phải nghỉ ngơi, hạn chế cử động, kẻo sau này để lại di chứng. Ta biết ngươi nóng lòng muốn tìm nghĩa huynh nhưng cũng đừng cố sức, chi bằng để ta trở lại trong thôn nghe ngóng, có gì sẽ về báo tin cho ngươi, ngươi thấy như vậy được chăng?

    Nàng với Văn Tôn chẳng thân chẳng thích, chỉ là bèo nước gặp nhau, song lại năm lần bảy lượt ra tay tương trợ, quan hoài chiếu cố, ân tình quá ư sâu nặng, thử hỏi nữ nhi trong thiên hạ được mấy người đối tốt với y đến thế? Trong lòng cảm kích, lạ trở thành quen, sợ chuyển sang thích, lời nàng nói ra thấu tình đạt lý, nhất dạ chân thành, há có thể không đáp ứng? Đành gật đầu, nằm xuống giường nghỉ ngơi.

    Đình Thiên trở lại căn nhà của vị đại nương quá cố, trước sau thủy chung không một bóng người, yên ắng tĩnh lặng, không có dấu vết nào cho thấy bọn cường đạo hay Triệu Hùng đã quay trở lại. Nàng nghĩ bụng phu thê nhà họ đã mang di hài của mẫu thân đi an táng, bèn dạo một vòng quanh thôn dò la tung tích của Triệu Hùng. Hầu hết nam nữ phụ lão ở Thuận Gia thôn đều lên núi đốn củi, chỉ còn vài đứa trẻ chạy nhảy trên lộ, nàng loanh quanh hết mấy canh giờ cũng không tra thêm được gì. Biết Văn Tôn nóng lòng muốn tìm nghĩa huynh, nàng lại chẳng thể giúp y, đâm ra thất vọng, trong lòng rầu rỉ, mặt mày rũ rượi, chán nản quay trở lại căn nhà dưới núi.

    Nàng loay hoay trước cửa, đi tới đi lui, ngập ngừng nửa muốn vào, nửa muốn không, bởi còn chưa biết phải nói thế nào để không làm chàng buồn, để chàng khỏi thất vọng, lại sợ chàng vì đó mà ghét bỏ. Do dự hồi lâu, sau cùng đành đẩy cửa bước vào, thấy Văn Tôn đã ngủ say thì thở dài như trút đi nỗi bứt rứt trong lòng, nàng quay trở ra, múc đầy một chậu nước, đem vào trong.

    Lúc còn là nha hoàn, những việc hầu hạ, chăm sóc người khác vốn đã quen, nàng nhúng chiếc khăn, lau gương mặt nhem nhuốc của y, bỗng nhiên cười thầm "Hóa ra chàng cũng khôi ngô, anh tuấn, đâu kém gì nam nhân trong thiên hạ!" Ngây người đi trong chốc lát, trống ngực đập liên hồi, trong lòng xốn xang khó tả. Rồi chậm rãi vén hai ống tay áo của y lên, đôi tay gầy gò, bàn tay trơn nhẵn, chẳng có lấy một vết chai sần, đột nhiên nắm chặt lấy tay nàng, miệng hét toáng lên:

    - Ác tặc! Mau đền mạng!

    Nói rồi lại im bặt. Nàng khẽ giật mình, rồi nhận ra y chỉ nói mớ, mắt vẫn còn nhắm nghiền, hai tay đang siết chặt bàn tay nhỏ bé của mình. Đôi tay ấm áp của ý trung nhân khiến nàng bồi hồi vui sướng, rồi toàn thân như tê dại, đôi môi thắm mím chặt lại, hai má ửng hồng, ngẩn ngơ ra đó một hồi lâu.

    Trời đã xế chiều, bụng đói cồn cào, Văn Tôn mở mắt ra, thấy Đình Thiên đã gục đầu trên ngực chàng, thiếp đi. Cơ thể nóng ấm của nàng đè lên người, hương thơm thiếu nữ ngây ngất làm y xao xuyến. Chàng thiếu niên từ khi sinh ra chưa lần nào gần gũi với nữ nhi như lúc này, huống hồ trước mắt còn là một tuyệt sắc giai nhân, ân tình dành cho y chẳng nhỏ, khó mà không động lòng. Ái tình dâng lên, tim đập dồn dập, cơ hồ muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, trong giây phút ý loạn tình mê, liền choàng tay ôm lấy cơ thể ngọc ngà của thiếu nữ hương sắc như họa vào lòng, cả người lâng lâng sung sướng, hoan hỷ lạ thường.

    Từ hôm chia tay ở núi Thiên Trúc, hình bóng Đình Thiên vẫn luôn hiện hữu trong đầu, Văn Tôn thầm thương trộm nhớ, ngày ngóng đêm trông, mong đến ngày gặp lại, nhưng rồi nghĩ mình xuất thân hàn vi, bất trí vô năng, nào dám tơ tưởng đến giai nhân, đành ôm mối tương tư trong lòng. Giờ đây, trong lúc ý tình bộc phát, thắm thiết liên miên, liền ôm lấy người trong mộng, song vừa thấy vui lại vừa thấy buồn, sợ nàng tỉnh giấc sẽ cự tuyệt mình. Y đâu biết rằng nàng ấy cũng một dạ tình ý, nhất kiến tương tư, thương yêu y đến nhường nào. Chàng thì thấy nàng tú lệ tuyệt mỹ, cơ trí hơn người, là hạng nữ lưu kiệt xuất trên thế gian, nàng thì nghĩ chàng nhân hậu khẳng khái, nghĩa đảm trung can, là bậc quân tử hiếm có trong thiên hạ; đôi bên hết mực luyến ái nhau, chỉ có điều tình trong như đã, mặt ngoài còn e, chưa ai dám thổ lộ.

    Đình Thiên mơ mơ màng màng, chợt cảm giác toàn thân nóng ấm, he hé mắt nhìn. Thấy Văn Tôn ôm chặt lấy mình thì râm ran vui sướng, vừa mừng vừa sợ, lỡ như chỉ là giấc mộng sẽ thật đáng tiếc biết bao? Nàng cứ nằm im trên người chàng như thế, hai mắt lim dim, vờ như đang ngủ say.

    Từ tối qua đến giờ vẫn chưa có gì bỏ bụng, nhưng thấy Đình Thiên còn đang ngủ say, mặc kệ cái bụng đói cứ réo lên òng ọc, Văn Tôn chẳng dám nhúc nhích. Đình Thiên biết ý, liền nhổm dậy, gỡ tay của y ra, dụi dụi mắt như vừa thức giấc, bẽn lẽn quay mặt sang chỗ khác, giấu đi đôi gò má đỏ ửng, nũng nịu nói:

    - Ta mệt quá nên thiếp đi lúc nào không hay, để ta ra ngoài kiếm gì đó cho ngươi ăn!

    Nói đoạn vội đứng dậy, chạy thật nhanh ra ngoài, điệu bộ e ấp ngại ngùng, Văn Tôn trông thấy thì bất giác bật cười, nghĩ thầm: "Nàng ấy đang xấu hổ sao? Trông lại càng khả ái bội phần, ta nên thổ lộ tâm tư cho nàng biết chăng? Hay là nàng ấy đang tức giận? Nàng trách ta vô lễ hay sao? Lẽ ra ta không nên ôm lấy nàng như vậy!" Rồi lắc đầu buồn bã, khuôn mặt đang rạng rỡ bỗng nhiên sầm lại, nghĩ mình không xứng với nàng thì trong lòng sầu não, chỉ biết thở dài.

    Chỉ một lúc sau, mùi thịt nướng thơm lừng từ ngoài bay vào, tràn ngập cả gian nhà nhỏ. Nghe giọng của Đình Thiên gọi từ bên ngoài:

    - Ngươi mau ra đây ăn đi! Đi lại một lúc cho vết thương mau lành!

    Văn Tôn nhổm dậy, bước ra, mấy cái xương bị gãy chỉ hơi hơi ê buốt, không còn đau nhức như trước, trong lòng thầm thán phục y thuật của nàng.

    Đình Thiên đang nướng thịt thỏ dưới gốc một cây liễu lớn, khói bốc lên nghi ngút. Trước nhà có mấy bụi Hoàng Lan tỏa hương ngao ngát, mặt đất cỏ mọc xanh um, cây cối tốt tươi, ríu tít tiếng chim hót trên mấy ngọn cổ liễu, nơi hoang sơn dã lĩnh này hóa ra lại đẹp tựa chốn bồng lai tiên cảnh, ngỡ như đã bước sang một thế giới khác. Văn Tôn nhắm mắt lại, hít một hơi dài, thấy tinh thần thoải mái hẳn ra, bao nhiêu phiền muộn trong chốc lát tựa hồ tan biến, chợt giật mình bởi giọng nói ngọt ngào của Đình Thiên:

    - Mau lại đây ăn đi! Đứng mơ màng ra đó làm gì?

    Văn Tôn đến ngồi bên đống lửa, nàng xẻo lấy cái đùi to tướng đưa cho y, vừa thơm vừa mọng, y ngoàm một miếng rõ to. Đình Thiên chỉ ngồi đó nhìn chàng, hai tay chống cằm, miệng cười tủm tỉm, chẳng ăn uống cũng chẳng nói năng gì. Văn Tôn xé một miếng thịt đưa cho nàng, nàng đẩy ra, lắc đầu, y cứ thế ăn cho thỏa cơn đói.

    Ăn được một lúc, đột nhiên sững người, như nhớ ra được điều gì, y nuốt miếng thịt đang nhai dở trong miệng, hỏi:

    - Lúc sáng Đình Thiên cô nương đi dò la, chẳng hay có chút tin tức nào về nghĩa huynh của tại hạ không?

    Nghe chàng nhắc đến nỗi thẹn trong lòng, Đình Thiên chỉ nhè nhẹ lắc đầu, không đáp. Nàng đã đi hết những chỗ có thể đi, tìm khắp mọi nơi có thể tìm, nhưng tuyệt nhiên không thể lần ra dấu vết của Triệu Hùng, chẳng biết nói sao với chàng, đành cúi đầu lặng lẽ.

    Văn Tôn biết nàng đã tận tâm tận lực, chỉ là Thuận Gia thôn nói lớn không lớn, nói nhỏ chẳng nhỏ, nhà thưa người ít, muốn tìm được Triệu Hùng cũng không phải chuyện dễ, chẳng những không trách mà còn thêm phần cảm kích, mến mộ nàng. Nhưng Đình Thiên đâu biết tâm ý của chàng, cảm thấy bản thân không giúp được chàng, trong lòng bứt rứt, chẳng nói chẳng rằng, làm cho không gian bỗng trở nên yên ắng, lạnh lẽo.

    Mặt trời đã khuất sau núi, Văn Tôn nghĩ đến Triệu Hùng, thấp thỏm lo âu. Ở đây chỉ có một căn nhà nhỏ, giường đơn gối chiếc, nam nữ ở chung e rằng bất tiện, lại sợ Triệu Hùng quay về không thấy mình, khó tránh lo lắng, chi bằng cứ đến Thuận Gia thôn chờ đợi, thế là chẳng nghĩ ngợi gì thêm, liền nói với Đình Thiên:

    - Cảm tạ Đình Thiên cô nương hai hôm nay đã hết lòng lo lắng cho tại hạ, hiện giờ thương thế cũng đã đỡ, vậy xin cáo biết tại đây! Hẹn ngày sau tái ngộ!

    Đình Thiên thấy chàng ý đã muốn đi thì buồn bã vô cùng, nhưng biết chẳng thể giữ chân chàng ở đây mãi được, bèn nói:

    - Trời đã tối rồi, hay để ta đưa ngươi trở lại Thuận Gia thôn?

    Nghĩ nàng võ công tuy cao, nhưng dẫu gì cũng là phận nữ nhi, hoài công chiếu cố cho mình suốt hai ngày trọng thương, biết bao vất vã, giờ chân tay lành lặn, lại còn để nàng vì mình mà lao tâm lao lực, há không đau lòng? Văn Tôn lắc đầu, nói:

    - Ơn nghĩa của Đình Thiên cô nương, tại hạ xin khắc ghi trong lòng. Đường về Thuận Gia thôn cũng không xa mấy, xin cô nương cứ vào trong nghỉ ngơi.

    Nói rồi quay lưng, đi về hướng Thuận Gia thôn. Đình Thiên đứng trước cửa, dõi mắt nhìn theo, hai hàng lệ rung rinh.
     
    Phan Kim TiênChiên Min's thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 21 Tháng một 2020
Trả lời qua Facebook
Đang tải...