Thất Nghiệp Là Gì? Nguyên Nhân Dẫn Đến Tình Trạng Thất Nghiệp Ở Việt Nam Hiện Nay

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Chiên Min's, 10 Tháng sáu 2022.

  1. Chiên Min's I purple you!

    Bài viết:
    553
    1. Một số khái niệm về thất nghiệp

    - Thái Lan, định nghĩa về thất nghiệp khẳng định: "Thất nghiệp là không có việc làm, muốn làm việc, có năng lực làm việc".

    - Trung Quốc định nghĩa về thất nghiệp như sau: "Thất nghiệp là người trong tuổi lao động (dân thành thị) có khả năng lao động, chưa có việc làm, đang đi tìm việc làm, đăng ký tại cơ quan giải quyết việc làm".

    - Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO), "Thất nghiệp là tình trạng tồn tại một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức lương thịnh hành".

    - Theo quan điểm của tác giả tổng hợp được: "Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, có nhu cầu việc làm, đang không có việc làm, đang đi tìm việc làm".


    [​IMG]

    2. Phân loại thất nghiệp

    Thất nghiệp xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên dù nguyên nhân nào thì đều sẽ gây bất lợi cho người lao động. Và đặc biệt là nền kinh tế bị giảm sút. Hiện nay dựa vào các đặc điểm của thất nghiệp ta có thể phân loại thành các loại thất nghiệp như sau:

    • Thứ nhất, theo lý do thất nghiệp

    Thất nghiệp được chia thành 4 loại:

    - Mất việc: Người lao động không có việc làm do các đơn vị sản xuất kinh doanh cho thôi việc vì 1 lý do nào đó.

    - Bỏ việc: Là những người tự ý xin thôi việc vì những lý do chủ quan của người lao động.

    - Nhập mới: Là những người lần đầu tiên bổ sung vào lực lượng lao động, nhưng chưa tìm được việc làm, đang tích cực tìm kiếm việc làm

    - Tái nhập: Là những người đã rời khỏi lực lượng lao động, nay muốn quay trở lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.


    • Thứ hai, theo đặc trưng của người thất nghiệp

    Thất nghiệp là một gánh nặng, nhưng gánh nặng đó rơi vào đâu, bộ phận dân cư nào, ngành nghề nào.. Để biết được điều đó cần hiểu được đặc điểm, tính chất, mức độ tác hại.. của thất nghiệp trong thực tế. Với mục đích đó có thể dùng những tiêu thức phân loại dưới đây:

    - Thất nghiệp chia theo giới tính.

    - Thất nghiệp theo lứa tuổi.

    - Thất nghiệp chia theo vùng, lãnh thổ.

    - Thất nghiệp chia theo ngành nghề.

    - Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc.


    • Thứ ba, theo cách phân loại hiện đại

    Trong khái niệm thất nghiệp, cần phân biệt rõ thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện. Nói khác đi là những người lao động tự nguyện xin thôi việc và những người lao động buộc phải thôi việc. Trong nền kinh tế thị trường năng động, lao động ở các nhóm, các ngành, các công ty được trả tiền công lao động khác nhau (mức lương không thống nhất trong các ngành nghề, cấp bậc). Việc đi làm hay nghỉ việc là quyền của mỗi người. Cho nên, người lao động có sự so sánh, chỗ nào lương cao thì làm, chỗ nào lương thấp (không phù hợp) thì nghỉ. Vì thế xảy ra hiện tượng:

    - Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở một mức tiền công nào đó người lao động không muốn làm việc hoặc vì lý do cá nhân nào đó (di chuyển, sinh con). Thất nghiệp loại này thường là tạm thời.

    - Thất nghiệp không tự nguyện: Là thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó người lao động chấp nhận nhưng vẫn không được làm việc do kinh tế suy thoái, cung lớn hơn cầu về lao động..

    - Thất nghiệp trá hình (còn gọi là hiện tượng khiếm dụng lao động) là hiện tượng xuất hiện khi người lao động được sử dụng dưới mức khả năng mà bình thường người lao động sẵn sàng làm việc. Hiện tượng này xảy ra khi năng suất lao động của một ngành nào đó thấp, thất nghiệp loại này thường gắn với việc sử dụng không hết thời gian lao động.

    Kết cục của những người thất nghiệp không phải là vĩnh viễn. Có những người (bỏ việc, mất việc) sau một thời gian nào đó sẽ được trở lại làm việc. Nhưng cũng có một số người không có khả năng đó và họ phải ra khỏi lực lượng lao động do không có điều kiện bản thân phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động hoặc do mất khả năng hứng thú làm việc (hay còn có thể có những nguyên nhân khác).
    Như vậy, con số thất nghiệp là con số mang tính thời điểm. Nó luôn biến động theo thời gian. Thất nghiệp xuất phát từ nhu cầu cần việc làm, có việc rồi lại mất việc, từ không thất nghiệp trở lên thất nghiệp rồi ra khỏi trạng thái đó. Vì thế việc nghiên cứu dòng lưu chuyển thất nghiệp là rất có ý nghĩa.

    • Thứ tư, phân theo nguồn gốc thất nghiệp

    Có thể chia thành 4 loại:

    - Thất nghiệp tạm thời: Là loại thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển không ngừng của người lao động giữa các vùng, các loại công việc hoặc giữa các giai đoạn khác nhau của cuộc sống. Thậm chí trong một nền kinh tế có đủ việc làm vẫn luôn có sự chuyển động nào đó như một số người tìm việc làm sau khi tốt nghiệp hoặc di chuyển chỗ ở từ nơi này sang nơi khác; phụ nữ có thể quay lại lực lượng lao động sau khi sinh con..

    - Thất nghiệp có tính cơ cấu: Xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung- cầu lao động (giữa các ngành nghề, khu vực). Loại này gắn liền với sự biến động cơ cấu kinh tế và gây ra do sự suy thoái của một ngành nào đó hoặc là sự thay đổi công nghệ dẫn đến đòi hỏi lao động có chất lượng cao hơn, ai không đáp ứng được sẽ bị sa thải.

    Chính vì vậy, thất nghiệp loại này còn gọi là thất nghiệp công nghệ. Trong nền kinh tế hiện đại, thất nghiệp loại này thường xuyên xảy ra. Khi sự biến động này là mạnh và kéo dài, nạn thất nghiệp trở nên trầm trọng và chuyển sang thất nghiệp dài hạn. Nếu tiền lương rất linh hoạt thì sự mất cân đối trong thị trường lao động sẽ mất đi khi tiền lương trong những khu vực có nguồn cung lao động hạ xuống, và ở trong khu vực có mức cầu lao động cao tăng lên.

    - Thất nghiệp do thiếu cầu: Loại thất nghiệp này xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm xuống. Nguồn gốc chính là sự suy giảm tổng cầu. Loại này còn được gọi là thất nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường nó gắn liền với thời kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của loại này là tình trạng thất nghiệp xảy ra tràn lan ở khắp mọi nơi, mọi ngành nghề.

    - Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: Loại thất nghiệp này còn được gọi theo lý thuyết cổ điển. Nó xảy ra khi tiền lương được ấn định không bởi các lực lượng thị trường và cao hơn mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao động. Vì tiền lương không chỉ quan hệ đến sự phân phối thu nhập gắn với kết quả lao động mà còn quan hệ đến mức sống tối thiểu nên nhiều nhiều quốc gia (Chính phủ hoặc công đoàn) có quy định cứng nhắc về mức lương tối thiểu, sự không linh hoạt của tiền lương (ngược với sự năng động của thị trường lao động), dẫn đến một bộ phận mất việc làm hoặc khó tìm việc làm.

    3. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam

    Trong ba năm vừa qua, những con số thống kê về tình hình lao động việc làm ở Việt Nam đã phản ảnh những khó khăn và biến động của nền kinh tế nói chung và trên thị trường lao động nói riêng do ảnh hưởng của đại dịch Covid 19. Những đợt bùng phát dịch diễn ra khiến cho càng nhiều người lao động buộc phải rời khỏi thị trường, dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm đạt mức cao nhất trong 10 năm trở lại đây. Tình trạng dịch bệnh kéo dài đã làm cho biết bao nhiêu người lao động mất việc làm, thậm chí nhiều doanh nghiệp, công ty phải phá sản vì không thể cầm cự được. Bên cạnh những diễn biến phức tạp và khó lường của dịch bệnh thì còn nhiều những nguyên nhân khác gây nên tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay.


    [​IMG]

    Những nguyên nhân chủ yếu có thể chia làm hai hướng: Nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.

      • Nguyên nhân chủ quan

    1. Thiếu định hướng nghề nghiệp.

    Dân số Việt Nam hiện nay có cơ cấu dân số vàng, nên lực lượng tham gia lao động phần nhiều là những người trẻ từ 15 tuổi trẻ lên, những học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông và sinh viên tốt nghiệp đại học. Vậy nên, việc định hướng giá trị cho sinh viên là một vấn đề đáng quan tâm trong giáo dục hiện nay. Việc định hướng nghề nghiệp giúp cho những người trẻ ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã xác định được hướng đi đúng đắn, hiểu rõ bản chất của việc học để thành nghề, có lòng phấn đấu vì đam mê của bản thân.

    Tiến sĩ Trịnh Văn Tùng và Thạc sĩ Phạm Huy Cường của trường ĐH KHXH&NV - ĐHQGHN đã có nghiên cứu điều tra sự gắn bó giữa ngành đào tạo và nghề kì vọng nhìn từ góc độ hướng nghiệp và tư vấn hướng nghiệp cho sinh viên trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Kết quả cho thấy, sau quá trình đào tạo tại trường sinh viên vẫn thiếu một định hướng đầy đủ và cụ thể về nghề nghiệp của mình.

    Người trẻ hiện nay thường có tâm lý sống an nhàn, thoải mái, lại trọn ngành theo xu hướng "hot" của thị trường. Bên cạnh đó phụ huynh lại có tâm lý thương con, coi trọng danh dự gia đình nên thường định hướng cho con cái những nghề có tiếng như: Kỹ sư, giáo sư, bác sĩ.. Hậu quả là các bạn trẻ không thật sự yêu thích, đam mê với ngành học và không đúng với khả năng của mình, dẫn đến tình trạng lười học khiến chất lượng đầu ra trở nên hạn chế, trình độ thấp và không thể đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng dẫn đến tình trạng thất nghiệp tiếp tục gia tăng.

    2. Trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp.

    Điểm điển hình trong thị trường lao động Việt Nam là mặc dù có nguồn lao động vô cùng dồi dào nhưng chất lượng lao động vẫn chưa cao. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, công cuộc cách mạng 4.0 thì trình độ khoa học công nghệ phát triển trong khi trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động Việt Nam vẫn chưa đạt yêu cầu, người lao động không đáp ứng được.

    Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam đạt mức 3, 75 điểm trong thang điểm mười, xếp hạng thứ 11 trong 12 quốc gia được khảo sát tại châu Á. Nguồn nhân lực của nước ta tuy mạnh về số lượng nhưng lại yếu về chất lượng, bên cạnh đó còn thiếu đi sự năng động và sáng tạo, tác phong lao động công nghiệp.. Theo báo cáo khảo sát về số lượng lao động Việt Nam thì chỉ có khoảng 49% đã qua đào tạo, trong đó qua đào tạo nghề từ 3 tháng trở lên chỉ chiếm khoảng 19%. Nhìn chung lao động Việt Nam còn yếu cả về ngoại ngữ, thiếu hiểu biết về pháp luật.

    3. Nếp suy nghĩ của lao động trẻ hiện nay.

    Thói quen học để "làm thầy" chứ không muốn "làm thợ" đã phần nào ăn sâu vào suy nghĩ của một bộ phận lao động trẻ. Với lý do này thì nhu cầu xã hội không thể đáp ứng được hết yêu cầu của người lao động. Nó vốn là điều thiếu thực tế bởi không dựa vào khả năng của bản thân người lao động và nhu cầu của xã hội.

    Bên cạnh đó, một bộ phận lao động trẻ lại muốn tìm đúng công việc mà mình yêu thích dù các công việc khác tốt hơn, dẫn đến tình trạng những ngành cần lao động thì lại thiếu lao động, trong khi đó lại có những ngành dư thừa lao động.

    4. Sự bị động trong quá trình tìm việc

    Xét đến lực lượng lao động trẻ là sinh viên mới ra trường vẫn còn thụ động trong công tác tìm việc cho bản thân. Họ chỉ gửi hồ sơ đến các công ty trên nền tảng mạng xã hội và chờ đợi nhà tuyển dụng gọi phỏng vấn. Ngoài ra, còn có một số người ngồi ở nhà không làm gì mà có xu hướng trông chờ vào bố mẹ và sự giúp đỡ của người thân. Chính điều đó đã làm cho những người lao động trẻ mất đi tính cạnh tranh và bỏ lỡ nhiều cơ hội.


      • Nguyên nhân khách quan

    1. Thiên tai

    Thiên tai có thể ảnh hưởng đến một bộ phận lớn trong lực lượng lao động tại những vùng bị thiệt hai, khiến cho họ bị mất việc trong một thời gian dài. Ví dụ như lũ lụt có thể khiến cho người dân không thể tiếp tục công việc, thậm chí mất nhà cửa; hạn hán ảnh hưởng đến những người lao động trong các lĩnh vực về nông nghiệp..

    2. Máy móc thiết bị hiện đại thay thế con người

    Trong cuộc cách mạng 4.0, thời đại của khoa học, công nghệ - kỹ thuật lên ngôi thì có không ít người lao động bị thay thế bởi những máy móc hiện đại. Khi áp dụng và sử dụng máy móc, các doanh nghiệp sẽ không phải quản lý chặt chẽ như khi sử dụng người lao động. Việc sử dụng công nghệ máy móc mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp như: Tăng năng suất và hiệu quả lao động, giảm thiểu các chính sách lương thưởng, bảo hiểm, trợ cấp.. Chính vì vậy, khi có công đoạn nào có thể thay thế bằng máy móc thì doanh nghiệp sẽ chủ động đổi mới, thay đổi lao động, việc này làm cho một số bộ phận người lao động không có trình độ chuyện môn đáp ứng nhu cầu sẽ bị loại bỏ, người lao động rơi vào tình trạng thất nghiệp

    3. Lực lượng lao động phân bố không đồng đều.

    Giữa các vùng kinh tế của Việt Nam có sự phân công lao động không đồng đều. Lao động tập chung chủ yếu ở các vùng đồng bằng, ven biển trong khi các trung du và miền núi lại thưa thớt. Cụ thể như ở đồng bằng sông Hồng lực lượng lao động chiếm 15, 2%; đồng bằng sông Cửu Long chiếm 19, 1% trong khi đó các vùng đất rộng như trung du miền núi phía Bắc lại có tỷ trọng lao động thấp chỉ chiếm 13, 7%. Việc không thể phát huy được lợi thế của vùng cũng như tạo điều kiện, việc làm cho người lao động cũng là một trong những tác nhân gây nên tình trạng thất nghiệp.

    4. Công tác quản lý của Nhà nước về lao động - việc làm còn hạn chế

    Ở Việt Nam các chính sách, pháp luật đang từng bước được hoàn thiện nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế; hệ thống thông tin thị trường lao động còn sơ khai thiếu đồng bộ. Nhà nước triển khai các chính sách bảo hiểm thất nghiệp hết sức tiến bộ, không chỉ hỗ trợ cuộc sống người lao động khi mất việc mà còn đào tạo nghề, tư vấn, hỗ trợ để giúp họ quay lại thị trường lao động. Tuy nhiên những chính sách này vẫn chưa đạt được mục tiêu như mong muốn.

    5. Suy giảm kinh tế toàn cầu.

    Suy giảm kinh tế toàn cầu khiến cho nhiều xí nghiệp nhà máy phải thu hẹp sản xuất, thậm chí phải đóng cửa do sản phẩm làm ra không tiêu thụ được. Chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu còn thấp không sánh kịp với các sản phẩm chất lượng cao của các quốc gia có trình độ phát triển cao. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp phải cắt giảm nguồn lao động dẫn đến lao động mất việc làm. Đây là nguyên nhân chủ yếu, kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào đầu tư và xuất khẩu nên khi kinh tế toàn cầu bị suy giảm thì nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng rất lớn và hậu quả là nạn thất nghiệp sẽ tăng cao.

    6. Mức lương không đáp ứng nhu cầu người lao động

    Nhu cầu của con người ngày càng lớn nên yêu cầu về mức lương thưởng cũng ngày một tăng cao, không chỉ đối với người lao động có trình độ chuyên môn mà với cả những người lao động ở trình độ thấp và không có trình độ. Người lao động mong muốn tìm kiếm việc làm nhưng mức lương chưa thật sự hấp dẫn thì sẽ dẫn đến tình trạng loay hoay, khó xác định trong quá trình tìm việc. Thậm chí, mức lương ở chỗ làm hiện tại nếu không thỏa mãn người lao động thì họ có khả năng sẽ xin nghỉ việc để tìm kiếm một công việc xứng đáng với trình độ của mình hơn.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...