Ngôn ngữ: Chữ Hán Thể thơ: Thất ngôn bát cú Thời kỳ: Nguyễn 霜 天 落 月 茫茫 水 上 樓, 曉 霜 如 雨 滿 汀 洲. 半 崖 綠 樹 添 黃 葉, 一 夜 青 山 盡 白 頭. 雲 暗 不 來 衡 麓 雁, 天 寒 獨 倚 楚 江 舟. 嶺 梅 欲 問 花 開 未, 极 目 風 煙 攪 客 愁. Sương thiên Lạc nguyệt mang mang thuỷ thượng lâu, Hiểu sương như vũ mãn đinh châu. Bán nhai lục thụ thiêm hoàng diệp, Nhất dạ thanh sơn tận bạch đầu. Vân ám bất lai Hành lộc nhạn, Thiên hàn độc ỷ Sở giang châu. Lĩnh mai dục vấn hoa khai vị? Cực mục phong yên giảo khách sầu. Dịch nghĩa Vầng trăng lặn mờ mờ soi ngôi lầu trên mặt nước, Sương sớm như mưa, đầy cả bãi sông. Cây biếc ở lưng núi điểm thêm lá vàng, Núi xanh qua một đêm đều thành đầu bạc. Mây mịt mờ, không thấy bóng nhạn bay về dãy Hành Dương, Trời lạnh, một mình nương chiếc thuyền trên sông Sở. Muốn hỏi cây mai trên Dũ Lĩnh đã nở hoa chưa? Mòn mắt ngắm cảnh gió mây, rộn nỗi buồn đất khách! Dịch thơ Trăng xế, mở soi mái thuỷ lầu, Sương mai như dội bãi sông sâu. Lưng đèo thêm biếc cây vàng lá, Một tối non xanh bạc hết đầu. Hành Lộc mây mờ nghe nhạn vắng, Sở Giang trời lạnh cắm thuyền lâu. Ngàn mai Ngũ Lĩnh đơm hoa chửa? Mỏi mắt trời mây khách rộn sầu. Nguồn: 1. Vân Lâm Nguyễn tộc - Lý triều hậu duệ, Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản - Cuộc đời và thơ văn, Kỷ yếu hội thảo khoa học kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội và 110 năm ngày mất Hoàng Giáp Nguyễn Tư Giản, Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2001. 2. Phạm Thiều - Đào Phương Bình (chủ biên), Thơ đi sứ, Viện nghiên cứu Hán Nôm, NXB KHXH, Hà Nội, 1993.