So sánh hình ảnh người phụ nữ trong Thương Vợ và Tự Tình II

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Huongthu2401, 19 Tháng mười hai 2021.

  1. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    [​IMG]

    "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" (một con trai xem như có, mười con gái cũng như không) Mới nghe qua hẳn ai trong chúng ta cũng không khỏi phê phán tư tưởng lỗi thời, lạc hậu chứa đựng trong câu nói trên, bởi một lí do đơn giản, chúng ta đang sống trong một xã hội công bằng bình đẳng. Trong những năm từ thế kỉ mười bảy đến cuối thế kỉ mười chín, dưới sự suy tàn mục nát của chế độ phong kiến, số phận người phụ nữ bị gần như bị vùi dập trong vũng bùn đau khổ bởi lễ giáo phong kiến "trọng nam khinh nữ" hà khắc. Họ phải chịu chói buộc trong chế độ xã hội nam quyền độc đoán, đa thê.. cùng với sự áp đặt của lễ giáo phong kiến: "Tam tòng, tứ đức" (tam tòng là: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử; tứ đức là: Công, dung, ngôn, hạnh). Họ hầu như không có quyền quyết định cuộc đời mình mà phải an phận, phục tùng và cam chịu. Vì thế, họ gặp rất nhiều đau khổ trong cuộc sống, tình duyên thì lận đận, phải chịu cuộc đời làm lẻ, làm thiếp cho người ta.. Đã sinh ra làm kiếp con người, ai mà không phải trải qua những thăng trầm, sóng gió, ai mà không nếm qua những cay đắng trong cuộc sống để rồi mới đạt được tới chân của hạnh phúc. Nhưng xưa kia, khi hạnh phúc đối với người đàn ông bao la rộng lớn bao nhiêu thì với người phụ nữ, người vợ - những người đã hết mình cống hiến cho gia đình, xã hội lại hạn hẹp và thu gọn bấy nhiêu. Những nỗi thống khổ ấy đã có rất nhiều thi sĩ thấu hiểu. Họ gửi lòng cảm thông, trân trọng, tiếc thương sâu sắc của mình qua nhiều tác phẩm và cũng đã rất khéo léo khi xây dựng lên một hình ảnh người phụ nữa Việt Nam đảm đang, không những đẹp về hình thức mà còn rất đẹp về tâm hồn, nhưng phải chịu cuộc đời long đong, lận đận, vất vả, thân phận trôi nổi, bèo bọt với bao oan khiên trước sự vùi dập của xã hội phong kiến. Một trong những tác phẩm ấy hẳn phải kể tới "Tự tình (II) của nữ sĩ Hồ Xuân Hương và" Thương vợ "của nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương.

    " Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

    * * *

    Mảnh tình san sẻ tí con con "

    (Tự tình II - Hồ Xuân Hương )

    " Quanh năm buôn bán ở mom sông

    * * *

    Có chồng hờ hững cũng như không "

    (Thương Vợ - Tú Xương )

    Trong xã hội phong kiến thối nát và hoang tàn, những người phụ nữ bé nhỏ không được coi trọng, cuộc đời thì long đong lận đận, duyên tình trái ngang, có tài mà không được coi trọng (Hồ Xuân Hương), hay cũng như việc làm của người vợ" bà Tú "ít được cảm thông dù cho quanh năm vất vả. Họ như những con thiêu thân, những con thoi mải miết dệt hoa cho đời không ngừng nghỉ để đổi lấy gì? Chả là gì cả? Họ chỉ đổi được nhiều thọt thòi, nhìu đau khổ

    Bế tắc cho chính mình. Họ cống hiến hết cho cuộc đời mà khồn hề đòi hỏi quyền lợi ngoài tấm lòng cảm thông, chia sẻ và chút hạnh phúc riêng của mình.

    Hai tác phẩm trên là lời khẳng định về nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ xưa. Họ đều là những con người đa tài, đa sắc như Hồ Xuân Hương đã gọi" hồng nhan "hay là tảo tần, thủy chung, và giàu đức hi sinh như Tú Xương lên tiếng.

    Nếu như Bà chúa thơ nôm với cái tài và cái ngông của mình dám thách thức với cả trời đất, thiên nhiên để nói lên cái đẹp cái tài hoa của người phụ nữ trong xã hội bấy giờ:

    " Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

    Trơ cái hồng nhan với nước non "

    (Tự tình II)

    Thì đến với Tú Xương lại thể hiện tâm thế và vị thế của một người mẹ hiền một người vợ đảm. Vì chồng, thương con mà bà cam chịu với cuộc sống khó khăn, vất vả:

    " Lặn lội than cò khi quãng vắng

    Eo sèo mặt nước buổi đò đông "

    (Thương vợ)

    Nhưng dân gian ta đã có câu:" Hồng nhan bạc phận ". Hồ Xuân Hương càng thể hiện cái tài, cái hồng nhan bao nhiêu thì lại càng làm nổi lên tâm trạng buồn đau, oán hận, cô độc trong đêm khuya vắng. Sự bẽ bàng, tủi hổ của Hồ Xuân Hương nói riêng cũng chính là của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại ấy nói chung. Những con người hạnh phúc ít ỏi, duyên nợ hẩm hiu:" Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn ".

    Giữa đêm thanh vắng, tiếng trống canh vang lên, xa dần, xa dần, xa dần.. để lại một người phụ nữ ngồi quạnh hiu, đơn lẻ, khung cảnh ấy mới chua xót làm sao! Nửa đêm là thời gian sum họp vợ chồng, là thời điểm của hạnh phúc lứa đôi. Vậy mà lại có 1 người phụ nữ tỉnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm người phụ nữ ấy đã không ngủ được. Vì thiếu vắng 1 điều gì đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi niềm? Tiếng trống canh âm vang từ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau, gọi đến 1 điều vô cùng đáng sợ đối với 1 người đàn bà vẫn còn thân đơn gối chiếc: Tuổi già - Tuổi già càng đến gần nghĩa là hi vọng càng tuột xa, mọi mong mỏi, khát khao càng trở nên vô vọng. Tiếng trống dồn dập cứ xoáy vào tâm can tác giả, nó âm vang, trong tâm tưởng, âm vang trong suy nghĩ, không tài nào dứt ra được. Dồn dập, hối hả, tiếng trống không chỉ bao trùm lên không gian mà còn lên cả thời gian nữa, và ta tự hỏi, đây có thật là tiếng trống hiện hữu trong đời sống thực tại hay phải chăng đó là tiếng trống cất lên từ tấm lòng thổn thức của tác giả, tiếng trống ám ảnh về một bi kịch đang ngày đến gần hơn với bà. Tuổi xuân thì qua đi mà hạnh phúc vẫn không trọn vẹn như vầng trăng đến lúc xế bong mà vẫn chưa tròn. Mang than phận của một người vợ lẻ, tình yêu thì bị chia năm sẻ bảy chỉ còn lại tí con con:" Mảnh tình san sẻ tí con con ". Hồ Xuân Hương đã nói lên nỗi lòng của mình trước cái bất công của xã hội phong kiến.

    Những khát khao, vùng vẫy, nổi loạn cuối cùng cũng đã bị dập tắt trong sự chán chường, bất lực. Hồ Xuân Hương đã không thể vượt khỏi thân phận mình, vị thế nhỏ nhoi cô độc của mình trong xã hội. Kết thúc bài thơ là một sự cam chịu được. Thốt lên trong một tiếng thở dài ngao ngán. Bà đã phát ngán, đã chán lắm rồi cái vòng xoáy luẩn quẩn của số phận. Càng cố bao nhiêu thì càng thất bại bấy nhiêu." Mảnh tình ", một cụm từ mang nặng nỗi trớ trêu của số phận. Tình yêu vốn là một điều gì đó thật cao cả thiên nhiên, nhưng tình yêu của Hồ Xuân Hương lại như một mảnh vỡ nhỏ bé được sẻ ra từ hạnh phúc của người khác. Tình yêu của bà rẻ mạt như một sự bố thí, như một thứ đồ vật đã qua sử dụng người ta vứt lại cho bà. Đau xót biết mấy, khi" mảnh tình "lại là một thứ được chia năm sẻ bảy mà bà chỉ được nhận duy nhất một mảnh" tí con con ". Hạnh phúc ấy chẳng những không trọn vẹn mà còn nhỏ bé, ít ỏi đến

    Mức tội nghiệp. Tình duyên như thế thì có để làm gì, chỉ càng thêm tủi nhục đắng cay? Ấy thế mà, dù bị lãng quên, người phụ nữ không bao giờ tuyệt vọng, đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời mình. Họ vẫn vẫn khao khát sống mạnh mẽ, ước ao hạnh phúc tròn đầy. Ý niệm ấy thật đáng trân trọng và cao đẹp làm sao! Trải qua tác phẩm Tự tình II thấm đượm nỗi chua xót, đắng cay trong cuộc đời ngườiphụ nữ của Hồ Xuân Hương, có lẽ bài thơ:" Thương vợ "của Trần Tế Xương được coi là chân dung hoàn chỉnh nhất về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến, cam chịu số phận, vượt qua đắng cay để lo toan, gánh vác việc gia đình. Tú Xương, ông đứng trên phương diện từ người đàn ông, người chồng, người con để thể hiện sự cảm thông, thương xót cho số phận của người phụ nữ:

    " Quanh năm buôn bán ở mom sông

    Nuôi đủ năm con với một chồng "

    Ngày xưa, theo nho giáo, người phụ nữ có bổn phận thờ chồng, nuôi con. Nhưng thờ chồng với bà bao hàm cả việc nuôi chồng, mặc dù đúng ra, người đàn ông là người trụ cột trong gia đình về mọi mặt. Thương bà tú biết bao nhiêu khi bà xuất thân từ một gia đình gia giáo, khá giả, khi ở với cha mẹ, bà không phải chịu cảnh một nắng hai sương, vất vả sớm hôm. Làm vợ ông Tú lận đận đường khoa thi cử, không nghề nghiệp nên bà đành chấp nhận cảnh sống long đong, cơ cực, nuôi chồng, nuôi con.

    " Quanh năm "là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù mưa hay nắng, quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến rã rời, mệt mỏi chứ đâu phải là 1 năm. Địa điểm bà tú buôn bán là mom sông, như bối cảnh hiện lên hình ảnh bà tú tần tảo, tất bật ngược xuôi, không kể tới gian nan, nguy hiểm đang rình rập để nuôi đủ năm con với một chồng". Từ đó có thể thấy: Cuộc sống vất vả, gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ mà bà Tú là một ví dụ điển hình. Bà thực là người phụ nữ đảm đang, tháo vát khi nuôi đủ cả con, cả chồng, đảm bảo đến mức:

    "Cơm hai nửa" : Cá kho, rau muống

    Quà một chiều: Khoai lang, lúc ngô "

    (Thầy đồ dạy học)

    " Một duyên, hai nợ âu đành phận

    Năm nắng, mười mưa dám quản công "

    Câu thơ vừa nói lên đức hy sinh cao quý của người phụ nữ mà cụ thể hơn ở đây là bà Tú, lại vừa thể hiện sự cam chịu trước số phận của mình. Nếu như đứng ở góc độ đạo lý, ta thấy rằng sự cam chịu của bà Tú chính là việc bà đang tuân thủ theo bổn phận làm vợ, làm mẹ của mình. Thế nhưng, theo góc độ tình cảm, ta thấy, việc bà Tú cam chịu, hi sinh tất cả vì chồng vì con thì ở bà lại hiện lên vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đó chính là sự đảm đang, chịu thương chịu khó, đức hi sinh âm thầm vì chồng vì con.

    Cảm thông trước sự vất vả của người vợ, Tú Xương đã lên tiếng oán trách thói đời, trách xã hội bất công:

    " Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

    Có chồng hờ hững cũng như không ".

    Nói là trách đời nhưng thực ra qua hai câu sau ta thấy rằng ông đang trách mình. Mình đã không làm đúng vai trò của một người chồng. Câu thơ nói lên tiếng lòng của Trần Tế Xương đối với người phụ nữ. Vừa là lời cảm thông, vừa là sự bênh vực. Còn với Hồ Xuân Hương, ta lại thấy có lời oán trách táo bạo, giận cuộc sống đã đưa người phụ nữ vào chỗ lẻ loi, cô đơn, hiu hắt:" Oán giận trông ra khắp mọi chòm "(Tự Tình I). Hay phê phán cái xã hội thối nát, người đời bạc bẽo vô tâm:" Sau giận vì duyên để mỏi mòn "(Tự tình I).

    Đằng sau sự oán trách đó, là sự khát vọng và vươn lên, không để bị số phận làm khuất phục:

    " Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

    Đâm toạc chân mây đá mấy hòn "

    (Tự tình II)

    Bằng những động từ mạnh như" xiên "," đâm ", kết hợp với bút pháp tu từ đảo ngữ càng nhấn mạnh sức phản kháng mãnh liệt và khát vọng bung tỏa bản lĩnh cá nhân. Và điều này cũng là nét đặc sắc của thơ Hồ Xuân Hương.

    Tuy đứng ở hai khía cạnh, hai góc nhìn khác nhau về người phụ nữ, nhưng cả hai tác phẩm" Tự tình "và" Thương vợ "đều là những bài ca ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nếu như Hồ Xuân Hương đem đến cho người đọc về hình ảnh người phụ nữ tài sắc, thủy chung, nhưng lại chịu nhiều bất hạnh về cuộc sống và duyên phận thì Tú Xương mang đến cho chúng ta hình ảnh về đức hi sinh, sự can đảm chịu thương chịu khó của người phụ nữ. Hơn nữa, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ càng đậm nét hơn khi chính họ là những con người bất hạnh nhưng luôn ngời sáng lên những ước mơ. Hai tác phẩm đều phản ánh khát vọng vươn lên làm chủ của người phụ nữ, bênh vực quyền sống, khát vọng hạnh phúc, thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Phẩm chất truyền thống đẹp đẽ đó đã trở thành nét đẹp đương đại với phụ nữ Việt nam ngày nay: " Giỏi việc nước – đảm việc nhà".

    Ta thấy, 2 bài thơ trên thật là những vần thơ đáng quý của Văn Học Việt Nam trung đại. Qua những vần thơ ấy, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa kia hiện lên thật rõ nét, thật đẹp đẽ, cao quí nhưng chứa đựng đầy chua xót, đắng cay. Tất cả đều nói chung về thân phận bé nhỏ, số phận chìm nổi, bèo bọt, bị lệ thuộc vào xã hội của người phụ nữ xưa kia. Phải nói, Hồ Xuân Hương va Trần Tế Xương đã đóng góp không nhỏ vào tiếng nói, tiếng khóc chung để đòi quyền sống, quyền tự do, hạnh phúc cho một nửa nhân loại, những con người gánh vác trọng trách duy sự sống loài người trên trái đất. Từ đó, ta có thể khẳng định rằng: Vai trò, vị thế của nguời phụ nữ xã hội ngày càng nâng cao và có đóng góp ngày một lớn cho sự phát triển chung trên mọi lĩnh vực. Song, không phải đến bây giờ, giá trị người phụ nữ mới được bộc lộ và tỏa sáng. Nếu nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc, ngay cả trong những thời kì đen tối của chế độ phong kiến trọng nam khinh nữ, người phụ nữ cả 1 đời bị ràng buộc bởi biết bao lễ giáo và định kiến khắc nghiệt, họ vẫn là những viên ngọc sáng lấp lánh trong con mắt dân gian.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...