Thông qua kiểm tra gen của bọt biển và so sánh gen với các động vật khác (ruồi, cá, ếch và người), các nhà khoa học tin rằng tổ tiên sớm nhất của động vật là bọt biển và chúng đã tồn tại trên trái đất ít nhất khoảng 640 triệu năm trước, hóa thạch bọt biển niên đại lâu hơn nhiều so với kỷ Ϲambri, giai đoạn hầu hết các nhóm động vật xuất hiện (540 triệu năm trước) Nhìn từ bên ngoài, bọt biển trông rất giống thực vật nên trong một thời gian dài, thậm chí một số nhà sinh vật học đã coi chúng là thực vật sống dưới nước. Năm 1765, nhà sinh vật học Eilers lần đầu tiên gán bọt biển là động vật. Một số bọt biển sống ở nước ngọt và hầu hết sống ở độ sâu của đại dương. Chúng mọc trên đá và rạn san hô ở các vùng biển khác nhau, thậm chí gần miệng hố tàu ngầm. Miếng bọt biển có nhiều hình dạng khác nhau, chẳng hạn như hình chai, hình ống và hình cây. Màu sắc cũng sặc sỡ. Về mặt phân loại sinh học, bọt biển thuộc loại động vật không xương sống nguyên thủy nhất trong giới động vật, so với các động vật không xương sống khác, cấu tạo của chúng đơn giản hơn, không có các cơ quan như tim, não, đầu, miệng mà chỉ được cấu tạo từ nhiều tế bào khác nhau tập hợp lại với nhau. Các nhà khoa học ước tính có khoảng 15.000 loài bọt biển phân bố ở nhiều vùng biển khác nhau trên thế giới và gần 1/3 sống ở vùng biển gần Australia. Mặc dù hơn 1.000 loài bọt biển mới đã được phát hiện kể từ năm 1994, nhưng vẫn còn nhiều loài mới chưa được phát hiện. Miếng bọt biển nhỏ nhất được tìm thấy cho đến nay dài không quá 3 cm, trong khi miếng bọt biển lớn nhất có thể có đường kính lên tới 2 mét. Các nhà khoa học quan tâm đến việc nghiên cứu bọt biển không chỉ vì chúng là tổ tiên nguyên thủy nhất của động vật, mà còn hy vọng nghiên cứu hệ sinh thái của toàn bộ đại dương thông qua chúng. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng phát hiện ra rằng các chất độc trong bọt biển có thể được sử dụng để điều chế thuốc và điều trị các bệnh như khối u, hệ tim mạch và hô hấp.