Quy luật giá trị, lý luận và thực tiễn tại Việt Nam - ThhienNg

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi thuhienhlu, 12 Tháng chín 2021.

  1. thuhienhlu * ^^ *

    Bài viết:
    16
    Bài luận: Quy luật giá trị, lý luận và thực tiễn tại Việt Nam

    Tác giả: ThhienNg

    Mục lục

    Mở bài

    I. Lí luận về quy luật giá trị.. 2

    1. Một số khái niệm liên quan.. 2

    A. Kinh tế thị trường.. 2

    B. Cơ chế thị trường.. 2

    2. Nội dung của quy luật giá trị.. 3

    3. Tác dụng của quy luật giá trị.. 3

    A. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.. 3

    B. Kích thích và cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh.. 4

    C. Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa thành kẻ giàu người nghèo.. 4

    II. Thực tiễn về quy luật giá trị ở thực tiễn Việt Nam.. 5

    1. Việc vận dụng quy luật giá trị trong thực tiễn ở Việt Nam trong thời kì sau chiến tranh đến giai đoạn đổi mới.. 5

    2. Việc vận dụng quy luật giá trị sau thời kì đổi mới.. 5

    3. Một số giải pháp cho việc phát triển nền kinh tế của đất nước ta hiện nay.. 7


    Mở bài:

    Hiện nay, nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Nền kinh tế nước ta đang cạnh tranh mạnh mẽ đối với các quốc gia trên thế giới và đang có vị trí riêng của mình. Mặc dù còn nhiều khó khăn như nền kinh tế chậm phát triển, nhiều vấn nạn cần phải giải quyết, nghèo nàn và lạc hậu. Cơ sở hạ tầng thấp kém, trình độ quản lý lạc hậu, khoa học kỹ thuật vẫn còn chậm phát triển.. hơn nữa tham ô lạm phạt, ô nhiễm môi trường.. vẫn luôn là một trong những vấn đề bức xúc chưa hạn chế được. Tuy vậy ta cũng không thể một sớm một chiều mà có thể khắc phục được những yếu điểm đó mà ta phải dần dần khắc phục. Song hành với nó ta phải liên tục vận dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật và kinh tế để phát triển đất nước. Do vậy, để đất nước vượt qua những thử thách trong giai đoạn khó khan như vậy, thì cần phải có sự đánh giá thực tế khách quan, vận dụng các quy luật để đổi mới tư duy, năng động sáng tạo, thực hiện việc tính toán về vấn đề hiệu quả của kinh doanh như thế nào.. việc lưu thông hàng hóa trong và ngoài nước, phát triển kinh tế ở nước ta cũng cần phải vận dụng quy luật giá trị rất nhiều để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh thuận lợi, hạn chế rủi ro và hướng đến mang lại nhiều phần lợi ích cho con người. Vì vậy, việc tìm hiểu, học hỏi cũng như vận dụng quy luật giá trị là vô cùng quan trọng, nên em lựa chọn vấn đề "quy luật giá trị - lí luận và thực tiễn ở Việt Nam" để hiểu sâu sắc hơn về quy luật này và việc áp dụng quy luật này đối với thực tiễn ở nước ta.

    I. Lý luận về quy luật giá trị.

    Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị. 3 1. Một số khái niệm liên quan.

    a. Kinh tế thị trường.

    Kinh tế thị trường là sự phát triển cao hơn của kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi trên thị trường. Kinh tế thị trường là một nền kinh tế khách quan do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định, trong đó toàn bộ quá trình từ sản xuất tới trao đổi, phân phối và tiêu dùng đều thực hiện thông qua thị trường.

    b. Cơ chế thị trường.

    Cơ chế thị trường là cơ chế hoạt động của nền kinh tế hàng hóa, điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa theo yêu cầu khách quan của các quy luật vốn có của nó như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy lụat lưu thông tiền tệ. Có thể nói cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố kinh tế, cung cầu, giá cả, hàng tiền. Trong đó người sản xuất và người tiêu a tác động qua lại lẫn nhau thông qua thị trường để xác định ba vấn đề cơ bản là sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản xuất cho ai?

    2. Nội dung quy luật giá trị . Sản xuất và trao đổi hang hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị hàng hóa không được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hóa, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội nhận được.

    Trao đổi hàng hóa cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội càn thiết, có nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì giá trị là cơ sở của gí cả, nên trước hết là giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì thì giá cả nó sẽ cao vầ ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố: Cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của nhân tố này làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng. Cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp giá cả bằng giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị.

    3. Tác dụng của quy luật giá trị.

    a. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.


    Điều tiết sản xuất tức là điều hòa, phân bố các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị trông qua sự biến động của giá cả hàng hóa trên thị trường dưới tác động của quy lụat cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung vượt quá cầu, giá cả hàng hóa giảm xuống, hàng hóa bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hóa cao. 5 Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả trên thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng hóa từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hóa thông suốt. Như vậy, sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hóa.

    b. Kích thích và cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh.

    Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng hóa là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động có biệt khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hóa ở thế có lợi. Sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất có hao phí lao động ca biệt cao hơn hao phí lao động xã hội cần thiết thì ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng với hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kĩ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mạng tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đầy phát triển mạnh mẽ.

    c. Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa thành kẻ giàu người nghèo.

    Khí lao động cá biệt thấp hơn lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất, kinh 6 doanh. Ngược lại, những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ, dẫn đến phá sản, trở thành nghèo khó. Tác dụng của quy luật giá trị có ý nghĩa: Một mặt, quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hóa xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội. Tóm lại quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn, đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất. ; vừa có cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực. Các tác động đó diễn ra một cách khách quan trên thị trường nên cần có sự điều tiết của nhà nước để hạn chế tiêu cực, thúc đẩy tác động tích cực.

    II. Thực tiễn quy luật giá trị ở thực tiễn Việt Nam.

    Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là "nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường" như quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị; thực hiện tự do hóa thương mại.. Các nguyên tắc, thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được tuân thủ và vận dụng một cách hợp lý, linh hoạt. Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; thực hiện sự điều tiết ở tầm vĩ mô, "định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch" bảo đảm cho thị trường phát triển lành mạnh, tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường.

    1. Việc vận dụng quy luật giá trị trong thực tiễn ở Việt Nam trong thời kì sau chiến tranh đến giai đoạn đổi mới. 7 Ngay sau khi kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước, nước ta gặp nhiều khó khăn trong hầu hết các lĩnh vực từ chính trị, an ninh, quốc phòng.. và kinh tế cũng là một trong những vấn đề nan giải khi nước ta bị Mĩ cô lập sau khi thắng lợi trước quân đội và nhà nước Mĩ. Trước tình khó khăn bao trùm như vậy, để vượt qua khó khăn và giúp cho đất nước đi lên đòi hỏi nhà nước cần phải lựa chọn con đường phát triển đúng đắn cho nền kinh tế. Là một người "em" của Liên Xô, sau khi nhận thấy Liên Xô thực hiện thành công cơ chế bao cấp tại đất nước mình để đưa đất nước đi lên, thì năm 1986 nhà nước ta cũng quyết định đưa nền kinh tế vận hành theo kiểu kế hoạch hóa tập trung, cơ chế bao cấp trên cả nước. Tuy nhiên, phương pháp này không mang lại hiệu quả do những yếu tố khách quan cũng như chủ quan. Nền kinh tế nước ta trong tình hình đó không những không đạt được tiến bộ như mong muốn, mà sau một thời gian cơ chế này bộc lộ bất cập, tác động tiêu cực đến sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và cả đời sống xã hội. Mặt khác, nó còn đem lại một số hệ lụy khá nghiêm trọng và điều này cho thấy việc thực hiện chế độ bao cấp là không phù hợp đối với nước ta. Để một lần nữa đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khó khăn, hướng tới phát triển hơn thì trước hết cần thay đổi hướng phát triển kinh tế. Như vậy, trong thời kỳ này chúng ta đã có cách hiểu không đúng về việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội. Do đó, việc vận dụng quy luật giá trị đã có những thiếu sót, sai lệch. Hậu quả là đã làm triệt tiêu những nhân tố tích cực, năng động của xã hội. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển.

    2. Việc vận dụng quy luật giá trị sau thời kì đổi mới. Xuất phát từ việc cần phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

    Chủ trương đó nhanh 8 chóng được các nhà đầu tư trong, ngoài nước và đông đảo người sản xuất, tiêu dùng hưởng ứng. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước và có vốn nước ngoài xuất hiện ngày càng nhiều, hộ nông dân chuyển sang kinh doanh hàng hóa, hộ tư thương phát triển mạnh, thị trường hàng hóa và dịch vụ phát triển với quy mô ngày càng lớn, chủng loại phong phú hơn. Thị trường tài chính, nhất là thị trường tín dụng và chứng khoán phát triển khá nhanh. Thị trường bất động sản, thị trường lao động và khoa học - công nghệ, dù còn chưa phát triển một cách chuẩn tắc, nhưng cũng đã hình thành. Xuất khẩu, nhập khẩu phát triển mạnh, đưa nước ta trở thành nước có nền kinh tế mở ở mức độ cao trong khu vực. Bộ mặt kinh tế nước ta thay đổi rõ rệt, năng lực cạnh tanh dịch vụ nâng cao chủ yếu là nông sản, khoáng sản chưa qua chế biến. Tuy nhiên, các yếu tố xã hội chủ nghĩa xuất hiện nhưng không có hiệu quả hoặc chưa rõ nét. Cụ thể là, thành phần kinh tế nhà nước tuy chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế nhưng hiệu quả thấp. Thậm chí một số tập đoàn kinh tế nhà nước lớn lâm vào tình trạng mất vốn, phá sản, nợ nần (nợ của doanh nghiệp nhà nước đến năm 2013 đạt con số hơn 1 triệu tỷ đồng). Hợp tác xã còn yếu kém hơn, đặc biệt là không hấp dẫn nông dân. Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu theo chính sách ngắn hạn, hiệu lực và hiệu quả thấp, các vấn đề về lũng đoạn thị trường, gian lận, hàng giả.. diễn ra phổ biến. Nhà nước làm mất dần niềm tin ở nhân dân do quản lý nền kinh tế chưa thực sự hiệu quả và công bằng, do "lợi ích nhóm" chi phối nên nhiều chính sách kinh tế chưa thực sự xuất phát từ lợi ích chung của quảng đại nhân dân lao động. Sự phân hóa giàu - nghèo ngày càng gia tăng, tệ quan liêu, lãng phí và tham nhũng chưa được ngăn ngừa hiệu quả. Số đông người dân làm nông nghiệp có thu nhập thấp, hầu như rất khó thoát nghèo. Kinh tế vĩ mô tuy cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế phục hồi còn chậm, việc thực hiện tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng gặp nhiều khó khăn và chưa đáp ứng được yêu cầu. Những kết quả bước đầu của việc thực hiện ba đột phá 9 chiến lược chưa đủ để tạo ra sự chuyển biến về chất trong đổi mới mô hình tăng trưởng. Chất lượng tăng trưởng chưa thật sự được nâng cao và duy trì một cách bền vững. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém. Công tác quản lý tài nguyên, môi trường còn nhiều bất cập. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu, mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi. An ninh chính trị vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định; bảo vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều thách thức; trật tự, an toàn xã hội vẫn còn nhiều bức xúc. Qua đây có thể thấy, không một nền kinh tế nào có thể coi là hoàn thiện, là phát triển tốt tuyệt đối cho dù đó có là nền kinh tế của một quốc gia phát triển nhất thế giới đi nữa. Lúc nào nó cũng chứa những mặt trái, những mặt còn chưa tốt, những hạn chế cần được tiếp tục khắc phục. Việc áp dụng các quy luật kinh tế vào việc vận hành và quản lý nền kinh tế của một quốc gia luôn luôn tiềm ẩn những nguy cơ đổ vỡ nền kinh tế do vận dụng không đúng cách, không đúng yêu cầu thực tế. Đó vẫn là một trong những vấn đề nan giải của rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có cả nước Việt Nam của chúng ta. Vậy hiện nay, chúng ta cần phải làm gì và làm như thế nào để phát triển nền kinh tế yếu kém, lạc hậu đi lên một nền kinh tế mới phát triển hơn, hoàn chỉnh hơn.

    3. Một số giải pháp cho việc phát triển nền kinh tế của đất nước ta hiện nay .

    Thứ nhất, không ngừng nâng cao nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chỉ có phát triển KTTT ở trình độ cao, mới có thể hoàn thành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với một cơ cấu kinh tế chuyên môn hóa sâu dựa trên lợi thế cạnh tranh. Sự nỗ lực đó chính là nhằm tăng năng suất lao động và chuyên môn hóa sản xuất là con đường tất yếu khách quan. Vấn đề là phải tìm được các ngành có lợi thế cạnh tranh. 10

    Thứ hai, không ngừng tạo ra các quy chế đảm bảo tính tổ chức và văn minh của các giao dịch trên thị trường, nhất là về phương diện giảm thiểu chi phí và rủi ro cho các chủ thể kinh tế, trong đó chú ý tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, cung cấp thông tin về sản phẩm, kỷ luật hợp đồng và thanh toán không dùng tiền mặt.. Từng bước phát triển các phương thức giao dịch phái sinh và hỗ trợ (giao dịch tương tác, bảo hiểm).

    Thứ ba, giảm thiểu can thiệp của Nhà nước vào giá cả để tăng cường điều tiết thông qua các công cụ thị trường như doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác; Nhà nước sử dụng chính sách tài chính, tiền tệ, thương mại quốc tế để điều tiết phân bổ nguồn lực và phân phối của cải xã hội..

    Thứ tư, tìm kiếm các mô hình kinh tế tập thể hấp dẫn hộ gia đình. Trong khi chưa thể có kết luận rõ ràng về chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất thì các doanh nghiệp nhà nước hiện tại cần thực hiện theo ba hướng:

    1) Nếu là doanh nghiệp nhà nước sản xuất hàng hóa công cộng thì hoặc quản lý nó như một đơn vị sự nghiệp, hoặc cho đấu thầu đơn hàng sản xuất theo gói hỗ trợ của Nhà nước.

    2) Các doanh nghiệp còn lại phải định hướng theo tiêu chí hiệu quả kinh tế cá biệt trong so sánh và cạnh tranh bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác cùng ngành. Có thể cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phù hợp; hoặc có thể cho giải thể, phá sản doanh nghiệp quá yếu kém đi đôi với xem xét trách nhiệm của cá nhân cán bộ quản lý.

    3) Thiết lập cơ chế kiểm soát tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp theo một cách chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn.

    Thứ năm, cải cách hành chính để có các cơ quan quản lý nhà nước trong sạch, thủ tục quản lý đơn giản, dễ tiếp cận, công khai, đề cao trách nhiệm phục vụ và giải trình của công chức.

    Thứ sáu, tăng cường vị thế của đất nước trên thị trường thế giới bằng chính sách đối ngoại mềm dẻo, bảo vệ hiệu quả lợi ích quốc gia, dân tộc. 11 Những vấn đề còn lại, như xây dựng kết cấu hạ tầng; đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nghề; nâng cao nhận thức lý luận của Đảng; nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng; kiện toàn luật pháp và bộ máy quản lý nhà nước; hoàn thiện hệ thống chính sách.. là những vấn đề lâu dài, cần thiết kế những bước đi ngắn hạn tích cực, nhưng biết lựa chọn mục tiêu đầu tư để đạt hiệu quả dài hạn lớn nhất. Không thể nóng vội làm một lần là xong. Thực tiễn đã kiểm nghiệm rằng, xây dựng nền KTTT định hướng XHCN, một cách chuẩn tắc ở Việt Nam là một nhiệm vụ khó khăn, nặng nề, lâu dài xét ở góc độ điểm xuất phát từ một nước kém phát triển. Vì thế, cần và có thể xây dựng các kế hoạch đổi mới đất nước và kiên định thực hiện nó để nâng dần trình độ phát triển của KTTT nước ta. Tuy nhiên, cũng không thể coi nhẹ việc cải cách để cho các quan hệ trao đổi hàng - tiền có điều kiện thuận lợi phát triển. Niềm tin của người dân vào tiền, với tư cách phương tiện lưu thông và việc dùng tiền để đo lường giá cả của các hàng hóa đem ra trao đổi là một thành quả của phát triển các quan hệ xã hội của con người. Nhờ trao đổi hàng hóa mà hình thành thị trường. Đến lượt mình, thị trường, thông qua giá cả, cung - cầu có thể điều tiết hành vi của hàng tỷ con người mà không cần một bộ máy đồ sộ với chi phí không nhỏ của ủy ban kế hoạch nhà nước. Hơn nữa, dưới sự điều tiết của cơ chế thị trường, mỗi người cảm nhận được quyền tự do lựa chọn của họ và tự nguyện nhận trách nhiệm về các hành vi của mình thông qua thưởng phạt của các quan hệ thị trường. Nhà nước phải đặt ra và đảm bảo sự tuân thủ các quy chế phòng ngừa gian lận, nhất là gian lận trên thị trường tài chính, để duy trì cạnh tranh công bằng, để bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi trường sống chung, bảo vệ lợi ích quốc gia.. Ở đây, tính hiệu quả và công tâm của Nhà nước có vai trò quan trọng. Chúng ta thấy, bản chất XHCN của Nhà nước là bắt buộc trong nền KTTT định hướng XHCN. Bản chất ấy, trước hết phụ thuộc vào bản chất XHCN của Đảng Cộng sản cầm quyền - Đảng đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động lãnh đạo Nhà nước. 12 Một đảng mang bản chất XHCN trong điều kiện quá độ ở Việt Nam không những phải ủng hộ các chính sách có lợi cho người lao động, mà cao hơn, phải đủ sức đào tạo, giáo dục và dẫn đắt người lao động đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì thế, Đảng đó phải có lý luận dẫn đường, có đường lối phát triển kinh tế - xã hội hiệu quả, có uy tín và khả năng thuyết phục dân chúng tin tưởng thực hiện đường lối đó, có được sự ủng hộ của người lao động hậu thuẫn cho Đảng trong cuộc đấu tranh với các hệ tư tưởng - đảng phái khác (cả ở trong và ngoài nước). Đảng mang bản chất xã hội chủ nghĩa cũng phải tập hợp được giới quản lý ưu tú của dân tộc trong bộ máy nhà nước để lãnh đạo thành công công cuộc phát triển triểnđất nước. Nếu lòng tin của người lao động với Đảng bị phai mờ, nếu công chức là đảng viên không vì sự nghiệp của người lao động mà vì lợi ích có tính bè phái, nếu Đảng không thu phục được những người giỏi nhất, thì sự lãnh đạo của Đảng đứng trước nhiều thách thức, và đương nhiên hiệu quả sẽ không cao. Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng không có nghĩa Đảng làm thay Nhà nước. Nhà nước là một thiết chế, một sản phẩm của nhân loại, có lẽ còn có lịch sử phát triển lâu đời hơn kinh tế thị trường và Đảng Cộng sản. Đặc biệt, trong chế độ dân chủ cộng hòa, Nhà nước có những nguyên tắc và cơ chế vận hành của nó mà chúng ta phải tuân thủ. Nhưng nguyên tắc tối cao là nhân dân phải kiểm soát được quyền lực của Nhà nước. Các cơ quan của Nhà nước phải kiểm soát lẫn nhau. Trên hết, Nhà nước phải hoạt động có hiệu lực và hiệu quả vì lợi ích quốc gia, vì lợi ích của nhân dân lao động.

    KẾT LUẬN

    Đất nước Việt Nam ta đang đứng trước những khó khăn lớn về mọi mặt nhất là trong phát triển kinh tế, tuy vậy ta cũng không thể một sớm một chiều mà có thể khắc phục được những yếu điểm của mình mà ta phải dần dần khắc phục. Song hành với nó ta phải liên tục vận dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật và 13 kinh tế để phát triển đất nước. Do đó chúng ta cần phải áp dụng những biện pháp phát triển kinh tế thật thận trọng, khẩn trương và làm sao để có hiệu quả nhất. Chính vì vậy việc áp dụng quy luật giá trị vào việc phát triển kinh tế là rất quan trọng, nó mang lại những suy nghĩ, tầm nhìn mới, cho ta nhận thức được những quy tắc, mang lại quan điểm, đánh giá khách quan cho những người đang thực hiện nhiệm vụ quản lý, doanh nhân, hay những con người bình thường khác, giúp chúng ta linh hoạt hơn trong từng vấn đề, từng lĩnh vực để góp phần vào sự phát triển kinh tế. Tóm lại, những điều trình bày trên đây nói lên trong kinh tế thị trường có sự cần thiết khách quan phải kết hợp kế hoạch với thị trường, lấy cái sau bổ sung cho cái trước. Quá trình kết hợp đó cũng là một quá trình phát huy tác dụng tích cực của quy luật giá trị, là một quá trình tự giác vận dụng quy luật giá trị và quan hệ thị trường như là một công cụ để xây dựng các mặt kinh tế, kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, làm cho giá trị hàng hóa ngày càng hạ, đảm bảo tốt hơn cho nhu cầu đời sống, đồng thời tăng thêm khối lượng tích luỹ.

    14 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Bộ Giáo Dục và Đào tạo, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, (dung cho các khối ngành không chuyên Kinh tế - Quản trị kinh doanh trong các trường đại học, cao đẳng), Nxb. CTQG, Hà Nội, từ 2002 đến nay. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, H, 2016, tr. 16 -17.3. V. I. Lênin: Toàn tập, t. 36, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 368; 4. Lê Quốc Lý (2015), Vận dụng, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay, Tạp chí Lý luận chính trị số 2/2015; 5. Vũ Văn Hà (2019), Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Sự sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tạp chí Cộng sản điện tử. 6. Tạp chí điện tử Tài chính.
     
    Last edited by a moderator: 12 Tháng chín 2021
Trả lời qua Facebook
Đang tải...