Phân tích truyền thuyết Thánh Gióng

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Cần ngừi nui, 25 Tháng sáu 2025 lúc 10:40 PM.

  1. Cần ngừi nui

    Bài viết:
    218
    Đề bài: Phân tích truyền thuyết Thánh Gióng - một tác phẩm văn học dân gian Việt Nam cho thiếu nhi

    [​IMG]

    I. Từ ca dao đến truyền thuyết – Văn học dân gian đồng hành cùng trẻ thơ

    Nhà văn kiệt xuất của nền văn học nước Nga Maksim Gorki đã từng nói: "Hãy đi sâu vào sáng tác của nhân dân, nó trong lành như nước nguồn ngọt ngào, tươi mát, róc rách từ khe núi chảy ra." Quả thực như vậy. Với mỗi đứa trẻ, thế giới đa sắc của văn chương được thai nghén và hình thành từ những câu ca dao mẹ ầu ơ ru con ngủ, từ câu tục ngữ cha khuyên nhủ con vào đời, từ bài đồng dao con hát khi chơi với lũ bạn, đến những câu truyện cổ tích bà kể con nghe mỗi dịp về thăm.. Những đứa nhỏ non nớt như ngọn cỏ xanh, hồn nhiên trôi trên dòng nước ngọt lành của văn học dân gian trước khi ra biển lớn của văn học viết và của cuộc đời.

    Tuy mang hình thức đơn giản, văn học dân gian vẫn chứa đựng cả một kho tàng trí tuệ và tâm hồn của nhân dân. Bao kinh nghiệm sống quý giá, bao truyền thống tốt đẹp, quy luật cơ bản ở đời, bao cái nhìn sắc sảo, lại bao tư duy sáng tạo, gần gũi với thiên nhiên.. được đúc kết và lưu truyền qua hàng trăm thế hệ. Là loại hình nghệ thuật đến với trẻ sớm nhất, văn học dân gian có vai trò to lớn trong việc hình thành nhân cách, bồi dưỡng tâm hồn, phát triển tư duy và ngôn ngữ.

    Rẽ nhánh sang loại hình kể của văn học dân gian, ta có truyền thuyết - một loại truyện kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử, thường được thần thoại hóa, mang tính chất thiêng liêng - có khả năng giải thích các hiện tượng lịch sử, địa lý hoặc tôn vinh anh hùng dân tộc. Khi được tiếp cận, trẻ sẽ thêm hiểu biết về cuộc sống lao động vất vả để chinh phục thiên nhiên, mở mang bờ cõi của tổ tiên ta trước đây, sẽ sống lại với những chiến công hiển hách trong chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước; sẽ đắm chìm trong vẻ đẹp của phong tục tập quán, cảnh sắc quê hương. Chất sử thi lãng mạn của truyền thuyết sẽ thắp sáng trong lòng các em tình yêu nước thương nòi; khơi dậy niềm tự hào, tạo cho các em niềm tin vào sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của bản thân.

    Trong đó, Thánh Gióng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất, gắn với hình tượng người anh hùng "bé nhỏ – vĩ đại", mang nhiều giá trị giáo dục sâu sắc, nhân văn.

    [​IMG]

    II. Thánh Gióng – Biểu tượng anh hùng vươn mình từ lòng dân tộc

    Thánh Gióng thuộc nhóm truyền thuyết về các anh hùng chống giặc ngoại xâm. Chủ đề chống giặc xâm lược, bảo vệ đất nước non trẻ mới thành lập là một chủ đề nổi bật, tuy không thật phong phú về số lượng như ở mảng chủ đề đấu tranh chinh phục tự nhiên, xây dựng nền văn hóa buổi đầu nhưng lại là khúc ca hùng tráng, để lại tượng đài bất tử trong truyền thống lịch sử và văn hóa Việt Nam.

    Mở đầu truyện kể dân gian thường chú ý giới thiệu nguồn gốc, lai lịch của nhân vật chính. Nếu như trong truyện cổ tích, phần mở mang tính công thức với yếu tố chỉ dẫn thời gian đầy sự phiếm chỉ như "Ngày xửa ngày xưa.." hay "Đã lâu lắm rồi.." thì ở truyền thuyết, yếu tố này rõ ràng, xác định hơn vì truyền thuyết còn cần vẽ ra một cái nhìn khái quát về lịch sử.

    Truyền thuyết Thánh Gióng mở đầu bằng thời gian, không gian tương đối xác định như vậy. "Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con". Giới thiệu về nhân vật cha mẹ của Gióng, truyện không quên nói đến phẩm chất tốt đẹp của họ như bao truyện dân gian khác để thể hiện tư tưởng nhân sinh truyền thống "ở hiền gặp lành". Là người phúc hậu, mong ước của họ sẽ được toại nguyện. Có một số bản kể khác chỉ nói về người đàn bà nghèo khổ, cô đơn là mẹ Gióng chứ không nhắc đến cha. Các bản kể truyện dân gian có một số chi tiết khác nhau, hệ quả của tính dị bản, truyền miệng cũng là điều bình thường.

    Truyền thuyết thời kỳ dựng nước chứa đựng đậm đặc yếu tố tưởng tượng thần kỳ, tạo nên vẻ đẹp lung linh, khác thường trong từng chi tiết. Ta gặp trong truyền thuyết Thánh Gióng khá nhiều mô típ tiêu biểu của truyện kể dân gian. Mở đầu câu chuyện là mô típ sinh nở thần kỳ rất hay xuất hiện khi nói về nguồn gốc xuất thân của nhân vật chính. "Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân to quá, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh một thằng bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm". Đó là sự cảm ứng, giao hòa giữa thần và người, có nguồn gốc từ tín ngưỡng tôn thờ thần linh của người xưa, thể hiện sự tiếp nối quan niệm "vạn vật hữu linh" từ thần thoại đến truyền thuyết, cổ tích sau này. Yếu tố kỳ ảo tiếp tục xuất hiện, giúp câu chuyện trở nên thú vị, kích thích trí tưởng tượng của người đọc: Những người phụ nữ khác mang thai chín tháng mười ngày thì mẹ Gióng mang thai mười hai tháng. Điều kỳ lạ nữa là "Ðứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy".

    Sau khi giới thiệu về nguồn gốc xuất thân, truyền thuyết kể về những sự kiện liên quan đến hành động, chiến công của nhân vật chính. "Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ. Bèn truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Ðứa bé nghe tin, bỗng dưng cất tiếng nói:" Mẹ ra mời sứ giả vào đây ". Sứ giả vào, đứa bé bảo:" Ông về tâu vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này ". Đến đây chúng ta có thể thấy rằng, chi tiết Gióng được sinh ra một cách thần kỳ, chi tiết Gióng đã ba tuổi mà không biết nói, cười, đi, đứng chứa đựng cả một dụng ý nghệ thuật sâu sắc của tác giả dân gian: Tiếng nói đầu tiên của Gióng không phải là tiếng bi bô gọi ba gọi mẹ của một đứa trẻ lên ba bình thường, mà là tiếng nói xin đi đánh giặc cứu nước khi đất nước bị xâm lăng." Lời thưa mẹ, dạ cần vương/Lấy trung làm hiếu một đường phân minh ", điều đó không chỉ khiến hình tượng Gióng trở nên đặc biệt mà còn thể hiện một tư tưởng lớn lao của dân gian: Đối với người anh hùng, lòng yêu nước, trách nhiệm với Tổ quốc là bản năng đầu tiên, là tiếng nói khởi phát của trái tim và lẽ sống. Tác giả dân gian đã hình tượng hóa tinh thần chống giặc ngoại xâm thấm sâu vào máu thịt của dân tộc Việt Nam. Trên mảnh đất hình chữ S" sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa ", từ trong khát vọng hòa bình của một dân tộc trải qua biết bao cuộc trường chinh" ngăn bước quân thù phía Nam, phía Bắc "(Đất nước – Phạm Minh Tuấn), đã bao bậc anh hào làm rạng danh non sông Việt Nam ra đời, như Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Nguyễn Trung Trực, Tôn Thất Thuyết, Võ Nguyên Giáp, bao trang nữ kiệt hiếm có xuất hiện như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân và cả những người phụ nữ Việt Nam của thế kỷ XX, trong kháng chiến chống Mỹ với tuyên bố" còn cái lai quần cũng đánh "(Lời của nhân vật Út Tịch trong tác phẩm Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi).

    [​IMG]

    "..

    Càng lạ hơn nữa, sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, thành thử phải chạy nhờ bà con, hàng xóm. Bà con đều vui lòng gom góp gạo thóc nuôi chú bé, vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước..

    .. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. "

    Lại một lần nữa, yếu tố kỳ ảo xuất hiện trong mô típ lớn dậy thần kỳ. Trí tưởng tượng phong phú cùng ước vọng có được người hiền tài giúp dân đánh giặc cứu nước đã nhào nặn nên hình tượng Gióng, một người thường mà mang vóc dáng siêu nhiên, có tầm kích vũ trụ như thể bước ra từ thần thoại, nhưng lại mang đậm lý tưởng vì nước vì dân của các tráng sĩ thời loạn trong truyền thuyết cổ đại. Cử chỉ" vươn vai "của Gióng chính là nội lực, là khát khao cháy bỏng mong được lớn nhanh, đốt cháy thời gian để trưởng thành, để gánh vác non sông. Lúc bấy giờ, " giặc đã đánh vào chân núi Trâu ", thế nước nguy nan, nếu cứ đợi mười năm, mười lăm năm nữa mới lên đường thì than ôi, quê hương, Tổ quốc còn đâu! Do đó, phải ăn nhanh, ăn khỏe để mau lớn và phải" vươn vai "biến hóa tất cả vật lực, tinh thần, ý chí của tuổi trẻ, của toàn dân thành ngọn lửa quyết chiến, quyết thắng. Cái" vươn vai "của chàng trai làng Phù Đổng chính là thái độ, là tuyên ngôn mạnh mẽ của tuổi trẻ Việt Nam khi Tổ quốc gọi tên. Lịch sử kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta đã ghi dấu biết bao tấm gương tuổi trẻ mang khát vọng" vươn vai "của Thánh Gióng. Trần Quốc Toản bóp nát quả cam, hận vì mình chưa đến tuổi tòng quân, về nhà tập hợp gia binh, gia tướng, phất cờ đào đánh giặc. Những thanh niên thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ giấu sắt, giấu gạch trong người, nhét dây xích vào túi, buộc vào chân để đủ cân, khai tăng thêm tuổi để đủ tuổi ghi tên nhập ngũ. Trong truyện Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, hai chị em Chiến và Việt mới chớm tuổi mười tám cũng tranh nhau gia nhập quân Giải phóng để đền nợ nước, trả thù nhà.

    " Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

    (Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)

    Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc? "

    (Thanh Thảo - Khúc bảy )​

    Truyền thống của dân tộc ta là vậy! Tuổi trẻ Việt Nam là vậy!

    " Ôi Việt Nam! Từ trong biển máu

    Người vươn lên, như một thiên thần! "

    (Tố Hữu - Việt Nam máu và hoa )​

    Nhưng rõ ràng, để có được cái" vươn vai "thần kỳ ấy, Gióng không thể lớn lên một mình. Gióng đã được nuôi dưỡng bằng tình yêu, bằng niềm tin và khát vọng của cả quê hương. Chi tiết" bà con góp gạo nuôi chú bé "mang giá trị nhân văn sâu sắc: Người anh hùng có thể là chân mệnh thiên tử, cũng có thể là người con của vùng quê nghèo, được nuôi lớn bằng những gì bình dị nhất – bát cơm, củ cà – những sản vật thấm đẫm mồ hôi của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Quả thật, với mọi dân tộc, những người anh hùng đều sinh ra từ nhân dân. Ta lại nhớ đến những năm tháng trường kỳ kháng chiến, người dân khắp miền quê Việt Nam lặng lẽ giấu gạo trong vại, giấu bộ đội trong hầm, cõng từng quả bầu quả bí, từng hạt muối củ khoai gửi ra chiến trường. Những bà mẹ miền Trung gùi đạn, những cụ già miền Bắc dắt cháu ra đầu làng tiễn con. Trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu," Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân "- danh hiệu vinh dự cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam - không chỉ là niềm tự hào của nhân dân dành cho những người cầm súng, mà còn là sự ghi nhận công lao lớn lao của nhân dân – hậu phương vững chắc, máu thịt của cách mạng. Chính trong vòng tay bao bọc ấy, những Gióng của thời đại mới đã lớn lên, ra trận và làm nên những chiến công phi thường.

    [​IMG]

    Trong truyền thuyết, chân dung người anh hùng chiến trận ngoài việc được khắc họa bởi sức mạnh hình thể, sự ưu việt của lý tưởng, còn một khía cạnh không thể thiếu là vũ khí, hành trang. Việc Gióng yêu cầu ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt vừa mang yếu tố phản ánh hiện thực lịch sử vừa chứa đựng yếu tố hư cấu, sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của nhân dân ta. Chi tiết " Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn "," Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt. Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến " đã phản ánh bước phát triển vượt bậc kỹ nghệ rèn sắt, chế tác đồ sắt của nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc. Việc sử dụng có hiệu quả cao công cụ bằng sắt trong sản xuất được đánh giá là một trong những đặc điểm nổi bật của thời kỳ dựng nước. Chính bước tiến bộ vĩ đại này mà con người thời cổ đại có niềm tin lớn lao vào sức mạnh của chính mình, không còn bị ám ảnh nặng nề bởi quan niệm lệ thuộc vào thánh thần như thời nguyên thủy nữa. Yếu tố hiện thực kết hợp hài hòa với yếu tố hư cấu kì ảo tạo nên hình tượng nghệ thuật đẹp đẽ nhất, hùng tráng nhất trong tác phẩm: " Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi nhảy lên mình ngựa. "

    Có lý tưởng cao đẹp, có thể lực sung mãn, có vũ khí thần kỳ, có sức mạnh đoàn kết hỗ trợ của toàn thể cộng đồng, sự chiến thắng của Gióng là tất yếu. Người dân vùng trung châu kể rằng theo Gióng ra trận là cả đội quân hùng hậu. Người nông dân đang cầm vồ đập đất cũng vác vồ theo Gióng, người đang ngồi câu cá cũng vác cần câu đi, cả loài mãnh thú như ông hổ oai linh cũng có mặt trong đoàn quân của Gióng. Vì thế sau này trong lễ hội tưởng niệm Gióng có tục rước đội quân này..

    Lối kể trong truyện kể dân gian thường ngắn gọn, chú ý nhiều đến miêu tả hành động nhân vật và nêu kết quả. Lời kể về cuộc chiến đấu và chiến công của Gióng giản dị, ngắn gọn nhưng chứa đựng sắc thái vô cùng hào hứng: " Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Ðám tàn quân giẫm đạp nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn). Ðến đấy, một người một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.. ". Cốt truyện đơn tuyến, mạch lạc, dễ nhớ. Chi tiếttráng sĩ nhổ tre đánh giặc là một chi tiết được chọn lọc tinh tế. Trong chiến tranh bảo vệ đất nước, những cây cỏ bình dị, thân thuộc như cây tre lúc cần cũng trở thành vũ khí đánh giặc vô cùng hiệu quả. Cuộc chiến đấu đã huy động tổng lực những gì vốn có của quê hương. Nguyễn Khoa Điềm sau này cũng cất lên " Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc ".

    Theo thông tin sưu tầm và công bố trong công trình nghiên cứu nổi tiếng của nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Cao Huy Đỉnh, nhân dân các vùng miền, các địa phương nơi Gióng đi qua đều theo Gióng ra trận rất đông đảo. Nhưng truyền thuyết lại chỉ tập trung khắc họa sức mạnh và chiến công của riêng Gióng. Đây là điều thú vị khi ta đặt hình tượng người anh hùng làng Phù Đổng trong loại hình những anh hùng thời cổ đại như tráng sĩ thành Troy Hector, chiến binh vĩ đại Achilles, Odysseus Mưu Mẹo trong sử thi Hy Lạp, hay Đăm Săn, Xinh Nhã trong sử thi Ê-đê.. Những người anh hùng ấy, dù mang hình hài cá nhân, nhưng lại mang ý nghĩa biểu trưng lớn lao cho lý tưởng, ý chí, sức mạnh của cộng đồng bộ tộc, như M. Gorki từng nhận xét: " Người anh hùng cổ đại không phải hình tượng người anh hùng cá nhân trong các thời kỳ sau này, họ mang sức mạnh lý tưởng của tập thể chúng ta và tập thể chúng nó ".

    [​IMG]

    Sau phần kể về chiến công người anh hùng, kết thúc các truyện dân gian thường có mô típ hóa thân thần kỳ để nói về sự vinh phong của nhân dân, của các vương triều phong kiến đối với công trạng của họ. Ở một vài dị bản, người ta lưu truyền rằng diệt giặc xong, tráng sĩ trọng thương, ẩn sâu vào rừng, lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng. Nguyễn Đình Thi trong bài viết Sức sống người Việt Nam qua ca dao, cổ tích cũng từng nhận định:" Lịch sử thường sẵn những trang đau thương, mà hiếm những trang vui vẻ: Bậc anh hùng hay gặp bước gian nguy, kẻ trung nghĩa thường lâm cảnh khốn đốn. Những khi ấy, trí tưởng tượng dân chúng tìm cách chữa lại sự thật, để khỏi phải công nhận những tình thế đáng ưu uất.

    Ta thử lấy truyện Hai Bà Trưng mà xét. Tuy trong lịch sử có chép rõ ràng Hai Bà phải tự vẫn sau khi đã thất trận, nhưng ngay ở làng Đồng Nhân nơi thờ Hai Bà vẫn chép rằng Hai Bà đều hóa đi, chứ không phải tử trận. Đối với các nữ tướng của Hai Bà cũng vậy, ta chỉ thấy các vị anh hùng đó hóa lên trời.

    Nghe truyện Phù Đổng Thiên Vương, tôi thường tưởng tượng đến một trang nam nhi, sức vóc khác người, với tâm hồn chất phác và giản dị, như tâm hồn người thuở xưa. Tráng sĩ ấy gặp lúc nước nhà lâm nguy đã xông pha ra trận, đem sức khỏe mà đánh tan giặc, nhưng bị thương nặng. Tuy thế người trai làng Phù Đổng vẫn còn ăn một bữa cơm (chỗ ấy nay lập đền thờ ở làng Xuân Tảo) rồi nhảy xuống Hồ Tây tắm, xong mới ôm vết thương lên ngựa đi tìm một rừng cây âm u nào, ngồi dựa một gốc cây to, giấu kín nỗi đau đớn của mình mà chết. "

    Truyền thuyết phản ánh lịch sử nhưng là lịch sử được nhào nặn, được hiểu lại theo cách đánh giá, thể hiện thái độ, tình cảm của nhân dân. Đây là cách kết thúc của hầu hết các truyền thuyết dân gian thời dựng nước và thời Bắc thuộc như truyền thuyết về An Dương Vương, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Triệu Quang Phục.. Trong truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy, An Dương Vương không nhảy xuống biển tự tử như có tài liệu lịch sử đã nêu mà được Rùa Vàng trao sừng tê bảy tấc, rẽ nước xuống biển Đông đi vào cõi bất tử. Còn trong truyện Hai Bà Trưng, Hai Bà không bị chết nơi chiến trận mà nhuốm bệnh, nửa đêm có đôi hạc trắng đưa Hai Bà về trời làm phúc thần ban mưa thuận gió hòa cho dân, mà dẫu có chết như chi tiết trong một bản kể khác thì Hai Bà cũng thác vào gỗ trầm hương, phát sáng trôi trên sông Hồng, dân làng Đồng Nhân, Hà Nội vớt lên dựng đền thờ hương khói quanh năm..

    [​IMG]

    Chiến tranh khốc liệt máu chảy đầu rơi, chuyện lặng lẽ ra đi cũng có thể là một hiện thực lịch sử đau xót về nhiều người anh hùng vô danh hay nức tiếng. Nhưng trong hầu hết các bản thể, truyền thuyết về Gióng luôn khép lại bằng hình ảnh " một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời. Vua nhớ công ơn, không biết lấy gì đền đáp, phong là Phù Ðổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà ". Chi tiết nghệ thuật người ngựa bay lên trời này thể hiện trí tưởng tượng và lòng biết ơn, ngưỡng mộ sâu sắc của nhân dân với người anh hùng có công với dân tộc. Gióng đã trở thành một trong bốn vị thánh linh thiêng nhất -" Tứ bất tử "đối với tín ngưỡng dân gian Việt Nam, được các thế hệ thờ phụng, suy tôn, sánh vai bên cạnh Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh), Thánh Chử (Chử Đồng Tử) và Thánh Mẫu Liễu Hạnh. " Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Ðổng, tục gọi là làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư làng mở hội to lắm. " Đến đây, ta lại mượn lời của nhà văn Gorki," Rất cần nêu lên rằng, trong văn học dân gian hoàn toàn không có bóng dáng của chủ nghĩa bi quan mặc dầu những người sáng tác văn học dân gian sống trong nhọc nhằn, cực khổ. Tập thể dường như vẫn có ý thức về tính bất diệt của mình và tin rằng mình sẽ chiến thắng tất cả những lực lượng thù địch ".

    Truyền thuyết Thánh Gióng vì vậy đã trở thành nguồn đề tài, nguồn cảm hứng không hề vơi cạn cho các tác giả văn học sau này. Chế Lan Viên trong bài thơTổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng đã có câu thơ rất hay và đẹp:

    " Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt

    Mỗi dòng sông đều muốn hóa Bạch Đằng "

    Còn Nguyễn Khoa Điềm trong Mặt đường khát vọng đã gợi lại đầy xúc động về huyền thoại Gióng còn được lưu truyền trên mỗi gò bãi quê hương:

    " Gót ngựa Thánh Gióng đi qua trăm ao đầm để lại

    Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương " .

    Câu kết truyện cũng làm tròn một chức năng nữa của truyền thuyết - lý giải các hiện tượng tự nhiên như tre ngà, ao hồ liên tiếp và tên địa danh: " Người ta kể rằng những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy ". Qua đó, nhân dân không chỉ gắn kết không gian địa lý với quá khứ oai hùng, mà còn trao truyền niềm tự hào và lòng biết ơn với người anh hùng Thánh Gióng.

    [​IMG]

    III. Truyền thuyết Thánh Gióng và việc giáo dục trẻ thơ

    Ngoài chức năng nhận thức, thẩm mỹ, truyền thuyết còn có chức năng giáo dục và thực hành. Chính vì vậy, dù ra đời từ thời kỳ công xã nguyên thủy, khi chưa có chữ viết, văn học dân gian vẫn tồn tại và phát triển bền vững qua các thời kỳ lịch sử, kể cả khi xã hội đã có phân hóa giai cấp và có hệ thống chữ viết riêng.

    Tuy nhiên, một tác phẩm văn học dân gian sẽ khó giữ được sức sống mãnh liệt nếu bị tách khỏi môi trường sinh hoạt. Bởi văn học dân gian là một loại hình nghệ thuật mang tính nguyên hợp, hay nói khác đi, đến truyền thuyết cũng không chỉ đơn thuần là nghệ thuật ngôn từ nữa, mà còn chứa đựng nghệ thuật biểu diễn bao gồm âm nhạc, vũ đạo, trò chơi, điệu bộ, diễn xướng, nghi lễ, lễ hội.. Chính nhờ đặc trưng này, Thánh Gióng có thể được kể lại bằng ngôn ngữ đơn giản, kèm theo các hoạt động hỗ trợ phù hợp để trở thành một truyện truyền thuyết có tính giáo dục cao, phù hợp với trẻ em, kể cả trẻ mầm non từ 3 đến 5 tuổi.

    Với mọi đối tượng người đọc, đặc biệt là thiếu nhi, truyện Thánh Gióng không chỉ gieo nền tảng tinh thần yêu nước, lòng biết ơn người có công, mà còn khơi dậy cảm hứng vượt qua giới hạn bản thân, tinh thần dũng cảm, ý thức trách nhiệm với cộng đồng. Bên cạnh đó, truyện cũng góp phần phát triển khả năng tưởng tượng, cảm thụ văn học, ngôn ngữ và cảm xúc ở trẻ.

    Dưới đây là một số gợi dẫn nhằm giúp trẻ tiếp cận và tiếp nhận tác phẩm một cách hiệu quả, gần gũi và sinh động nhất.

    [​IMG]

    Với trẻ trong độ tuổi cấp 1, cấp 2, các em đã có khả năng suy nghĩ trừu tượng, phân tích và cảm thụ sâu hơn, nên có thể tiếp cận tác phẩm qua các hoạt động như: Đọc – cảm nhận văn bản, thảo luận nhóm, kể lại truyện sáng tạo, viết đoạn văn nêu suy nghĩ, cảm nhận về nhân vật Gióng. Giáo viên có thể tổ chức hoạt động kể chuyện theo tranh, đóng vai nhân vật để giúp học sinh hóa thân vào Gióng, bà mẹ hay người dân trong làng. Các tiết học tích hợp có thể cho học sinh vẽ tranh minh họa, hoặc liên hệ với những tấm gương anh hùng trong thời đại ngày nay như chiến sĩ phòng cháy chữa cháy, bác sĩ nơi tuyến đầu chống dịch.. Hơn nữa, nếu có điều kiện đi lại, lớp có thể tổ chức buổi tham quan đến đền Phù Đổng ở Sóc Sơn, chiêm ngưỡng tượng đài Phù Đổng Thiên Vương được đúc bằng đồng nguyên khối hay tham gia lễ hội đền Gióng, đền Sóc để hòa mình vào không gian tâm linh, bồi dưỡng lòng biết ơn. Ngoài ra, nhà trường cũng có thể tổ chức chuyên đề" Em kể chuyện Gióng ", thi viết lại cái kết cho các nhân vật, hoặc thi sáng tạo kịch ngắn dân gian, giúp học sinh không chỉ ghi nhớ nội dung mà còn phát triển kỹ năng ngôn ngữ, tư duy phản biện, năng lực hợp tác và lòng tự hào dân tộc.

    Nếu với học sinh tiểu học và trung học cơ sở, truyện Thánh Gióng có thể được khai thác ở nhiều chiều sâu khác nhau, thì với trẻ mầm non, việc tiếp cận tác phẩm cần chú trọng đến đặc điểm nhận thức và cảm xúc trực quan của lứa tuổi. Truyền thuyết tác động vào trẻ bằng con đường riêng - tạo những cảm xúc nghệ thuật chân thực, từ đó để có những nhận thức lí tính. Bản thân cốt truyện Thánh Gióng đã có một nội dung rõ ràng, nhân vật chính ban đầu là một em bé, điều này giúp trẻ mầm non dễ nhận diện, dễ liên hệ do thấy thân quen. Truyện có các yếu tố thần kỳ cũng hấp dẫn trẻ nhỏ, như ngựa sắt, roi sắt, bay lên trời.. Giáo viên lúc này cần hướng trẻ đến với những vẻ đẹp về thể chất, tâm hồn của nhân vật chính; làm cho trẻ rung động với hành động, ý chí của nhân vật.

    [​IMG]

    Trước hết, nên kể chuyện bằng ngôn ngữ gần gũi, đơn giản, dùng từ ngữ dễ hiểu, ngắn gọn, ví dụ" Ngày xưa, có một em bé kỳ lạ. Bé không biết nói, không biết cười. Nhưng khi đất nước gặp giặc, bé bỗng nói được! Bé ăn khỏe, lớn nhanh vùn vụt để đi đánh giặc, cứu dân.. ". Cảm xúc trong trẻ được nuôi dưỡng từ những điều giản dị nhất – như hình ảnh một chú ngựa sắt phun ra lửa, hay lời kể đầy biểu cảm của cô giáo. Trong quá trình kể chuyện, giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh, rối tay, hoặc xây dựng hoạt cảnh hóa thân, sân khấu hóa đơn giản để trẻ dễ hình dung và theo dõi. Tiếp đó, giáo viên cho bé làm ngựa giấy, mũ giấy, vẽ áo giáp, cầm roi giả, rồi chơi trò chơi nhập vai, đóng vai Gióng, cha mẹ Gióng, ngựa sắt, hoặc hoạt động giả làm Gióng ra trận, chạy tiếp sức, hay vẽ tranh con ngựa, vẽ bụi tre ngà, tô màu tranh Gióng đánh giặc, làm tranh xé dán, nặn đất sét, sắp xếp hình ảnh theo diễn biến truyện.. Trong lúc chơi, giáo viên có thể đặt câu hỏi gợi mở nhẹ nhàng, ví dụ như" Con thấy bạn Gióng có dũng cảm không? "," Nếu con thấy người khác gặp khó khăn, con sẽ làm gì? "," Con muốn giúp đỡ mọi người như Gióng không? ", hoặc hỏi bé các câu hỏi để bé tự kể lại các diễn biến chính của truyện, như" Khi nghe tiếng sứ giả Gióng đã làm gì? "," Vì sao vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi? "," Gióng đánh giặc bằng gì? "," Đánh giặc xong Gióng đã làm gì? "," Để nhớ ơn Gióng, nhân dân đã làm gì? "," Tại sao bụi tre lại có màu vàng? ".. Với trẻ mầm non, mục tiêu không phải là phân tích hay giải thích tinh thần yêu nước, mà là gieo những hạt giống tình cảm tích cực: Biết yêu người tốt, ghét cái ác, yêu quê hương và những phẩm chất cơ bản: Dũng cảm, trách nhiệm, lòng tự hào dân tộc, bằng trải nghiệm và hành động cụ thể.

    IV. Kết luận

    Nguyễn Đình Thi đã từng nói, " Văn học dân gian là nguồn nhựa sống để nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, chắp cánh tương lai cho những hoài bão lớn lao về cuộc sống thiên nhiên và con người". Truyện Thánh Gióng không chỉ là di sản văn hóa dân gian - nơi nhân dân ta ngay từ buổi đầu lịch sử đã gửi gắm quan niệm và ước mơ về người anh hùng cứu nước chống ngoại xâm: Khổng lồ về thể xác, phi thường về sức mạnh và vĩ đại về những chiến công - mà còn là tài liệu quý báu trong giáo dục mầm non, gieo mầm nhân cách, truyền cảm hứng yêu nước và hình thành những giá trị sống đẹp cho trẻ nhỏ. Việc khai thác giá trị giáo dục từ văn học dân gian, điển hình là truyền thuyết Thánh Gióng, chính là cách chúng ta nối dài mạch nguồn văn hóa dân tộc, đưa tinh thần dân gian thấm sâu vào hành trình trưởng thành của thế hệ trẻ hôm nay.

    [​IMG]
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...