Phân tích Tràng An là ở Ninh Bình chứ không phải ở Hà Nội

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Yet Nhu, 10 Tháng sáu 2021.

  1. Yet Nhu

    Bài viết:
    9
    Hiện nay khá phổ biến câu thơ:

    Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

    Dẫu không thanh lịch cũng người Trường An.

    Theo lý giải của bài viết này thì Tràng An là ở Ninh Bình chứ không phải ở Hà Nội.



    [​IMG]

    Kinh đô Hoa Lư xưa là một trung tâm văn hóa lớn, là nơi sản sinh nghệ thuật sân khấu chèo, là loại hình văn hóa dân gian đặc sắc kết tinh trong đời sống sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Hoa Lư có một vai trò lịch sử vô cùng đặc biệt khi gắn với tên tuổi và sự nghiệp 3 vị vua khai sáng 3 triều đại với những chuyển biến trọng đại của dân tộc Việt Nam: Thống nhất đất nước, chống giặc ngoại xâm và hình thành thủ đô mới Thăng Long – Hà Nội. Người Ninh Bình luôn tự hào được sinh ra trên mảnh đất cố đô văn hiến. Nét đẹp tinh hoa văn hóa Hoa Lư cũng được kế thừa và phát triển rực rỡ tới Thăng Long. Dù không còn là kinh đô, nơi hội tụ những tinh hoa của dân tộc nữa nhưng những giá trị văn hóa phi vật thể của cố đô vẫn còn đó, người ta vẫn tự hào và nhắc nhở nhau bằng những câu thơ tuy mang tính hoài niệm nhưng đầy tự hào dân tộc:

    Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

    Dẫu không thanh lịch, cũng người Trường An!

    Ngược dòng lịch sử trở về thế kỷ X, năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 xứ quân, thống nhất giang sơn, lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều đại nhà Đinh. Vua Đinh Tiên Hoàng đặt tên nước là Đại Cồ Việt, lấy Hoa Lư quê hương là kinh đô. Đinh Bộ Lĩnh mở nước, lập đô, lấy niên hiệu với tư cách của một vương triều bề thế, không chấp nhận xưng Vương và quốc hiệu đô hộ phương Bắc. Đinh Tiên Hoàng cũng truyền cho đúc tiền đồng, là tiền tệ xưa nhất ở Việt Nam, gọi là tiền đồng Thái Bình. Nhà Đinh chính là triều đại đầu tiên được đặt nền móng cho nền tài chính – tiền tệ của Việt Nam. Tư năm Thái Bình 976, thuyền buôn của các nước ngoài đến Hoa Lư dâng sản vật của nước họ. Kết mối giao thương. Từ đó, tinh hoa văn hóa đô thành của Hoa Lư được hình thành và phát huy văn hiến. Nhưng ai đó sẽ hỏi rằng, vậy danh xưng "Người Tràng An" xuất hiện khi nào? Thực chất người Tràng An "xịn" lại không phải để chỉ người Việt Nam. Tràng An (còn được gọi là Trường An hay Trường Yên vì đều có ý nghĩa là "tiền thủ đô" hay là người "cố đô" . Có thể giải nghĩa câu nói trên chính là danh xưng của người cố đô trong văn hóa giao tiếp với người thủ đô, khi họ gợi đến những giá trị đằm sâu trong cội nguồn lịch sử dân tộc.

    Trong đền vua Đinh, trên bức đại tự có ghi hàng chữ: "Chinh thống thủy" với ý nghĩa ca ngợi Đinh Bộ Lĩnh là người mở đền chính thống. Hai bên cột giữa có treo câu đối: "Cồ Việt Quốc đương Tống khai bảo – Hoa Lư đô thị Hán Tràng An". Đây là câu đối do người đời sau thể hiện lại nhưng tác giả của nó thì lại là một võ tướng thời Đinh là Nguyễn Bặc sáng tác. Ông cũng là một trong 7 vị quan trung thần của Vua Đinh, đã cùng gắn bó từ thuở hàn vi cho tới khi băng hà và là thủy tổ của dòng họ Nguyễn ở Việt Nam. Ở Việt Nam, Vua Đinh Tiên Hoàng chỉ xưng kinh đô Hoa Lư là ngang ngửa với Tràng An. Khi đất nước đã bình ổn, phát triển trên vì thế mới. Lý Thái Tổ không xưng ngang như vậy nữa mà đặt hẳn Hoa Lư là Tràng An, đổi kinh đô mới Đại La thành Thăng Long, đổi quê hương Cổ Pháp thành Thiên Đức. (theo Đại Việt sử ký toàn thư). Như vậy địa danh Tràng An thứ trên thế giới chính là Hoa Lư. Thành Tràng An của Việt Nam cũng mênh mông trùng núi nhưng xét về địa lý thì 2 kinh thành này không hoàn toàn giống nhau. Tràng An phương Bắc có thế đứng ở kinh thành phóng tầm mắt bốn phương còn Tràng An đất Việt lại có thể núi trong sông, sông trong núi, có thể nhanh chóng rút ra ngoài bằng đường thủy. (Hiện nay, các công trình kiến trúc của 2 địa danh Tràng An này đều có những nét khá tương đồng. Tràng An của Việt Nam có những di tích khá cổ kính: Phủ Đột là nơi thờ 2 giám quan nhà Đinh đã canh gách tại khu vực này; Đền Trần: Là nơi thờ trung vương tướng Trần Quý Minh, viên tướng trấn ải Sơn Nam; Phủ Khống: Là nơi thờ 7 vị quan trung thần triều Đinh, gắn với các truyền thuyết khi vua Đinh Tiên Hoàng băng hà. Tại đây còn cây thị nghìn năm tuổi mà quả có 2 loại: 1 tròn và 1 dẹt).

    Nhưng nếu tính người vận dụng 2 câu thơ: "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài – Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An" đầu tiên ở Việt Nam thì có lẽ đó là Nguyễn Công Trứ - người có công lớn chiêu dân khai hoang lập ấp vùng đất mới Kim Sơn (Ninh Bình). Nguyễn Công Trứ đã mở đầu bài hát nói (ca trù) bằng hai câu thơ đó. Nhưng Nguyễn Công Trứ lại không phải người Ninh Bình hay Hà Nội mà là người Hà Tĩnh trong bài hát có cụm từ cố đô. Có thể tác giả muốn nói nên một nỗi hoài niệm của người dân Hà Nội khi "quê hương" mình không còn là thủ đô nữa chăng? Nhưng đó là bối cảnh khi mà Huế là thủ đô, còn khi Hà Nội đã trở lại vị thế thủ đô thì câu thơ đó không còn ý nghĩa nữa, hiện nay, trên các diễn đàn, người "Hà Nội" đang muốn "trả" danh xưng đó về cho cố đô Tràng An – Hoa Lư. Bởi đất cố đô bao giờ cũng phát triển đi sau thủ đô, duy chỉ có 1 thứ đi trước đó là bề dày văn hiến. Điều độc đáo là 2 câu thơ không chỉ nói lên niềm tự hào hoài cổ của cố đô mà nó còn đề cao nét tinh hoa văn hóa của thủ đô – những vùng đất từng là nơi sinh sống của các bậc quân vương. Trong bối cảnh hiện tại, nếu người Hà Nội cứ xưng là "người Tràng An" thì không còn phù hợp. Đương nhiên trong 4 kinh đô Việt Nam thì hai kinh đô Hoa Lư và Thăng Long mới được hiểu là Tràng An – cố đô vĩ đại nhất Trung Hoa. Hiểu được gốc gác 2 câu thơ ấy mới thấy được nét tinh hoa trong vận dụng câu từ trong thơ ca dân gian Việt Nam. Tuy nhiên, câu thơ đó ngoài vẻ tự tôn còn có chút "hớ" ở trong đó. Tại sao phải tự nhận mình là "chẳng thơm""không thanh lịch?" Và tại sao cứ phải nhận mình là người cố đô bên Tàu? Nên chăng đổi hai câu thơ đó thành:


    Vừa thơm lại thoảng hương nhài

    Vừa mang thanh lịch, lại người Tràng An!

    Có ý kiến cho rằng việc Vua Lý Thái Tổ đổi Hoa Lư thành Trường Yên là có ý ca ngợi tiền nhân Đinh Tiên Hoàng, vị hoàng đế đầu tiên của Việt Nam độc lập xứng đáng là một Trần Thủy Hoàng nữa của Thế giới. Theo lý giải của các sử gia, 2 vị hoàng đế này có khá nhiều nét tương đồng: Tên là Tiên Hoàng hay Thủy Hoàng đều có ý nghĩa là hoàng đế đầu tiên . Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế mở nền chính thống đầu tiên của Việt Nam, Trần Thủy Hoàng là hoàng đế đầu tiên thống nhất Trung Hoa. Thời gian ở ngôi hoàng đế đều là 12 năm: Đinh Tiên Hoàng (968 – 979), Trần Thủy Hoàng (221 – 210 TCN). Cả hai đều có vương hiệu: Thủy Hoàng là Trần Vương, Tiên Hoàng là Vạn Thắng Vương. Đinh Tiên Hoàng xây dựng thành Hoa Lư bằng cách nối lại các dãy núi đá trong tự nhiên bằng tường thành nhân tạo, Trần Thủy Hoàng xây dựng Vạn Lý Trường Thành cũng bằng cách nối lại các đoạn thành sẵn có của nước chư hầu. Cả hai đều lập đô ở những vùng núi non Tràng An hiểm trở, cùng trở thành hoàng đế sau khi tiêu diệt các thế lực cát cứ phân tán (thống nhất giang sơn) để lập nên một đất nước thống nhất, chuyển đổi chế độ phong kiến phân quyền sang chế độ phong kiến tập quyền. Tuy nhiên cả 2 đều bạc mệnh – khi mất đều đương quyền hoàng đế, người kế tục sự nghiệp đều là con thứ và sớm để quyền bính rơi vào tay quyền thần.

    Tràng An hay Trường An vốn là tên kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất Trung Quốc: Triều đại Tiền Hán từ năm 206 trước Công nguyên đến năm thứ 8 sau Công nguyên và triều đại nhà Đường từ năm 618 đến năm 907 đều thuộc vùng Tây An. Cụm từ trên vừa có nghĩa chỉ một vùng đất cố đô xưa của Trung Quốc, vừa có nghĩa chỉ tính chất muôn đời bình yên của các triều đại ấy. Từ "Tràng" ở đây chỉ là cách nói chệch và viết chệch của từ "Trường" . Tương tự như vậy, từ "An" cũng là cách nói chệch và viết chệch của từ "Yên" mà thôi. Trong trường hợp này, sự nói chệch và viết chệch của hai từ trên đều vẫn giữ nguyên ý nghĩa. Với nghĩa danh từ, thì Tràng An là một cụm từ ghép cố định, chỉ một địa danh. Còn với nghĩa tính từ thì Tràng An là cụm từ ghép không cố định, gồm hai tính từ độc lập: "tràng" có nghĩa là dài, lâu bền, còn "an" có nghĩa là bình yên, an lành. Ghép hai tính từ ấy lại cho ta một cụm từ có nghĩa kép là sự bình yên lâu dài.

    Khi đất nước bình yên và phát triển trên vị thế mới, Lý Thái Tổ đã đặt tên cố đô Hoa Lư là Tràng An và đổi kinh đô Đại La là Thăng Long. Như vậy địa danh Tràng An thứ 2 trên thế giới chính là Hoa Lư. Sau này có người cho rằng việc Vua Lý Thái Tổ đổi Hoa Lư thành Tràng An là có ý ca ngợi tiền nhân Đinh Tiên Hoàng, vị hoàng đế đầu tiên của nước Việt Nam được thành lập.

    Trong suốt thời gian trị vì, nơi đây dưới 2 triều đại Đinh và Tiền Lê, kinh đô Hoa Lư đương nhiên trở thành trung tâm văn hóa, kinh tế và chính trị của cả nước. Thời đó, luật pháp chưa phát triển, kẻ nào ăn cắp thì bị chặt tay, tên nào giết người thì ném cho hổ báo xơi. Suốt gần nửa thế kỷ phồn hoa đô thị, muôn dân trăm họ đã không còn nạn 12 xứ quân hoành hành, không còn nạn ngoại bang phương Bắc xâm lược, mọi người đều được sống trong bình yên và no đủ. Thời ấy kinh đô Hoa Lư thật đẹp, người ta yêu thương, đùm bọc lấy nhau, cư xử lễ nghĩa, không có trộm cắp, cướp bóc, đến mức không nhà nào cần phải khóa cửa cả ban ngày lẫn ban đêm. Cuộc sống diễn ra trong cảnh thanh bình, nên người ta thường ví kinh đô Hoa Lư như kinh thành Trường An hay Tràng An ở phương Bắc. Từ thời ấy, người dân Hoa Lư đã thuộc lòng câu ca: "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An".

    Trong câu
    " Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An" nhiều người cho rằng, người Tràng An là người Hà Nội. Nhưng trong lịch sử nước ta, có bao giờ thấy Hà Nội có tên Tràng An đâu? (Phạm Thị Xoan – Đông Anh, Hà Nội).

    Đúng Hà Nội chưa bao giờ có tên là Tràng An. Tràng An là kinh đô từ đời nhà Hán ở Trung Quốc. Trong câu này người ta hiểu rằng Tràng An là kinh đô. Tuy nhiên câu này cũng chẳng hay gì. Người kinh đô mà không thanh lịch thì có gì đáng tự hào (GS Nguyễn Lân Dũng).
     
    Yet Tinh thích bài này.
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...